Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TOÀN QUÂN TIẾP TỤC QUÁN TRIỆT SÂU SẮC KẾT LUẬN 01 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: PHÊ DUYỆT KẾ HOẠCH BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUỐC PHÒNG AN NINH CHO ĐỐI TƯỢNG 1 NĂM 2025!
KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG VIỆT NAM!
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN QUÂN SỰ VIỆT NAM - ĐEM ĐẠI NGHĨA LẤY TRÍ NHÂN THẮNG HUNG TÀN, CƯỜNG BẠO!
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN QUÂN SỰ VIỆT NAM - ĐEM ĐẠI NGHĨA LẤY TRÍ NHÂN THẮNG HUNG TÀN, CƯỜNG BẠO
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ!
Việt Nam luôn nghiêm
túc tham gia vào các chu kỳ UPR trong suốt 18 năm qua
Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát của
Liên hợp quốc về quyền con người (UPR) là một trong những cơ chế quan trọng nhất
của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Vì vậy, Việt Nam luôn nghiêm túc tham
gia vào các chu kỳ UPR trong suốt 18 năm qua (2006-2024), kể từ khi cơ chế UPR
được thành lập và thực hiện đầy đủ các khuyến nghị mà Việt Nam chấp thuận.
Ngày 31/5, tại Phú Yên, Cục Đối
ngoại, Bộ Công an phối hợp Công an tỉnh Phú Yên tổ chức tọa đàm về Cơ chế UPR với
sự tham gia của hơn 100 đại biểu đến từ các đơn vị, địa phương trong Bộ Công
an, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Ngoại giao và các chuyên gia đầu
ngành trong lĩnh vực quyền con người.
Trong khuôn khổ tọa đàm, các đại
biểu cùng tham gia nghiên cứu, thảo luận, làm rõ một số chủ đề trọng tâm như:
giới thiệu khái quát về cơ chế UPR; tác động, ảnh hưởng của cơ chế đối với Việt
Nam; quá trình xây dựng và trình bày báo cáo tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp
quốc; cập nhật tình hình, kết quả Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt
Nam tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ngày 7/5/2024 vừa qua…
Cơ chế UPR là một trong những cơ
chế quan trọng nhất của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, với nhiệm vụ rà soát
tình hình nhân quyền tại tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc, qua đó thúc
đẩy các nước thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, cam kết về quyền con người với
nguyên tắc đối thoại, hợp tác, bình đẳng, khách quan, minh bạch.
Trên tinh thần đó, Việt Nam luôn
nghiêm túc tham gia vào các chu kỳ UPR trong suốt 18 năm qua (2006-2024) kể từ
khi cơ chế được thành lập và thực hiện đầy đủ các khuyến nghị mà Việt Nam chấp
thuận.
Ý thức được ý nghĩa của cơ chế
UPR, Bộ Công an cũng luôn coi trọng quá trình thực hiện các khuyến nghị, coi
đây không chỉ là việc thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của Bộ Công an trong công
tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực an ninh quốc gia và TTATXH; tăng cường hợp
tác quốc tế trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền mà còn là cơ hội để các cơ quan,
đơn vị trong Bộ Công an, Công an các địa phương xem xét một cách toàn diện về
chính sách, pháp luật cũng như quá trình thực tiễn bảo đảm các quyền con người
trong công tác Công an.
Từ đó, tọa đàm góp phần nâng cao
hiệu quả tham gia vào Cơ chế UPR của Bộ Công an nói riêng, Việt Nam nói chung
trong các chu kỳ UPR tới; đồng thời, tọa đàm là diễn đàn hỗ trợ các đơn vị
trong Bộ Công an khắc phục một số khó khăn, vướng mắc trong việc xây dựng kế hoạch
triển khai, thực hiện.
Thông qua các tham luận, ý kiến
trong tọa đàm, Ban tổ chức sẽ đúc rút những kinh nghiệm, phát hiện những điều
chưa hợp lý trong hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước, những bất cập
trong thực tiễn có thể ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền con người của công
dân; trên cơ sở đó kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quyền con người.
Từ lịch sử ngàn năm dựng
nước đến triết lý “ngoại giao cây tre”
Từ bao đời nay, cây tre luôn gắn
bó với cộng đồng dân tộc Việt Nam, mang trong mình cốt cách riêng của nền văn
hóa, con người Việt Nam: kiên cường mà mềm dẻo, bản lĩnh mà linh hoạt, dung dị mà
sáng tạo... Từ hình tượng và sự gần gũi của cây tre đã hình thành triết lý “Ngoại
giao cây tre Việt Nam”. Đó là nền ngoại giao độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa và hội nhập quốc tế, kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược,
thủy chung, chính nghĩa, vì hòa bình, hợp tác và tiến bộ của nhân loại.
Trong lịch sử và văn hóa Việt
Nam, cây tre là biểu trưng của bản lĩnh quật cường, ý chí bất khuất của con người
Việt Nam. Từ thuở hồng hoang, những ý niệm về quốc gia - dân tộc của Việt Nam
được hình thành từ sự cố kết cộng đồng trải qua hàng nghìn năm trường kỳ phòng,
chống thiên tai và địch họa. Cây tre tạo nên những lũy, thành, giúp cha ông ta
bảo vệ làng quê trước thử thách của thiên nhiên và bảo vệ đất nước khỏi giặc
ngoại xâm. Thấm đượm bản sắc và văn hóa Việt Nam, hình tượng cây tre và ngoại
giao Việt Nam rất gần gũi nhau. Ngoại giao là sự giao thoa của chính trị - an
ninh, kinh tế - xã hội và văn hóa, là sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, lịch
sử và tương lai, đất nước với thế giới. Ngoại giao lấy cái gốc là văn hóa dân tộc
và mang trong mình nội hàm văn hóa dân tộc. Điều đó đã được minh chứng trong lịch
sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc đã minh chứng ngoại giao là
một trong số những thế mạnh vượt trội của Việt Nam, góp phần quan trọng giúp
chúng ta giữ vững độc lập, chủ quyền, khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Kế thừa truyền thống văn hóa của
dân tộc, thực hiện phương châm sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ngay từ những ngày đầu giành độc lập, Việt Nam đã
và đang thực sự “là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước và là thành
viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Đó là khởi điểm của quá
trình hình thành, phát triển của nền ngoại giao Việt Nam từ khi Đảng lãnh đạo
cách mạng giải phóng dân tộc, lập nước, hình thành nên trường phái ngoại giao của
Việt Nam. Tới nay, “gốc tre” của ngoại giao Việt Nam nói riêng và đất nước nói
chung đã bén rễ, vươn cành vững chắc hơn với những thành quả thật đáng tự hào,
bất chấp giông tố của thời cuộc. Luôn luôn đề cao mục tiêu độc lập dân tộc,
tinh thần hòa hiếu, hữu nghị, dùng ngoại giao để đẩy lùi xung đột, đưa đất nước
tới hòa bình, phát triển.
Với sự đóng góp của ngành Ngoại
giao, chúng ta đã cho nhân dân thế giới thấy một Việt Nam với khát vọng hòa
bình, kiên cường, bất khuất đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
phá thế bao vây cấm vận, đưa đất nước phát triển.
Trước năm 1986, Việt Nam đã thiết
lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa; gia nhập
Liên hợp quốc và một số tổ chức kinh tế, xã hội khác. Tuy nhiên, giai đoạn này
an ninh, chính trị thế giới xảy ra nhiều biến động, các nước xã hội chủ nghĩa
rơi vào khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội. Trong nước, thiên tai liên tục
xảy ra, hai đầu biên giới xảy ra chiến tranh, lại bị các nước thù địch bao vây,
cấm vận. Trước tình hình này, tại Đại hội VI (tháng 12-1986), Đảng ta đã khởi
xướng và lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới. Trong đó, Đảng đã đánh
giá lại cục diện thế giới để xác định đường lối, chính sách đối ngoại trong
hoàn cảnh mới. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, nước ta đã có quan hệ
ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó Việt Nam có quan hệ Đối tác chiến lược
toàn diện với 7 quốc gia, đó là: Trung Quốc (2008), Liên bang Nga (năm 2012), Ấn
Độ (2016), Hàn Quốc (2022), Mỹ (2023), Nhật Bản (2023) và Australia (2024). 12
nước Đối tác chiến lược và 12 nước Đối tác toàn diện. Việt Nam là tâm điểm của
nhiều mạng lưới liên kết kinh tế năng động với hơn 230 đối tác thương mại, 60
hiệp định thương mại tự do sâu rộng với nhiều phương diện hợp tác. Qua đó sức mạnh
về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị
thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Vậy nên, khi Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng khái quát quyết tâm xây dựng và phát triển một nền đối
ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc là trường phái
ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã truyền đi thông điệp mạnh mẽ về một Việt Nam với
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Bám sát đường lối đối ngoại Đại hội
XIII của Đảng, các nghị quyết, kết luận, chỉ thị về đối ngoại của Trung ương Đảng,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và sự chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại cấp cao đã diễn ra sôi động, rộng khắp
các châu lục và tại nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng trong thời gian
qua, “ngoại giao cây tre Việt Nam” kiên định về nguyên tắc và mục tiêu song đã
uyển chuyển, chủ động và linh hoạt về phương pháp thực hiện. Mục tiêu của chúng
ta là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc, thực hiện đúng như lời dạy của
Bác Hồ, đó là “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm”. Nguyên tắc
của chúng ta là “hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”, mọi quốc gia, dù lớn
hay nhỏ đều bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, quyền và lợi ích chính đáng của
nhau, giải quyết bất đồng trên tinh thần hữu nghị, tuân thủ triệt để Hiến
chương Liên hợp quốc và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Chúng ta
cũng phản đối mọi hình vi bắt nạt, chính trị cường quyền, bao vây, cấm vận đơn
phương; phản đối việc sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Vị thế, uy tín và tiếng nói của
Việt Nam tiếp tục được khẳng định tại nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng
như ASEAN, Liên hợp quốc, Tiểu vùng Mê Công, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC), Hội đồng Liên Nghị viện ASEAN (AIPA), Liên minh Nghị viện
thế giới (IPU), Hội nghị của các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc
về biến đổi khí hậu (UNFCCC) lần thứ 28 (Hội nghị COP-28), Diễn đàn cấp cao
Vành đai và Con đường… Bên cạnh đó, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công nhiệm kỳ
Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 77, thực hiện tốt chức trách thành
viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025, Ủy ban Luật pháp
quốc tế; đồng thời, được cộng đồng quốc tế tín nhiệm bầu vào nhiều vị trí quan
trọng tại các tổ chức quốc tế; tổ chức thành công các hội nghị quốc tế lớn, như
Hội nghị Nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9, Hội nghị IPU về an ninh nguồn nước...
Chúng ta không chỉ gia nhập WTO mà đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song
phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; đàm phán, ký kết và thực
thi 19 FTA song phương và đa phương, với hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế
giới; trong đó, 16 FTA đã có hiệu lực với hơn 60 đối tác, phủ rộng khắp các
châu lục, với tổng GDP chiếm gần 90% GDP toàn cầu; đưa Việt Nam trở thành một
trong những nước dẫn đầu khu vực về tham gia các khuôn khổ hợp tác kinh tế song
phương và đa phương. Cũng chính nhờ thực thi hiệu quả các FTA thời gian qua đã
giúp mở rộng, đa dạng thị trường, chuỗi cung ứng và sản phẩm xuất khẩu, tạo điều
kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất, nhập khẩu tăng
trưởng mạnh và cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt theo hướng chuyển từ
thâm hụt sang thặng dư. Năm 2023 là năm thứ 8 liên tiếp Việt Nam xuất siêu với
mức thặng dư cao so với thời trước khi gia nhập WTO.
Trong quá trình thực hiện, “ngoại
giao cây tre Việt Nam” linh hoạt, chủ động và uyển chuyển. Chúng ta kiên trì và
kiên quyết bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông nhưng chúng ta không cực đoan để xảy
ra xung đột. Mục tiêu cao nhất là của chúng ta là bảo vệ và giữ vững chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng tránh đối đầu và xung đột vũ trang nếu đó không phải
là giải pháp cuối cùng buộc phải làm, đảm bảo môi trường hòa bình và ổn định để
phát triển. Trong quan hệ quốc tế luôn có sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước,
đó là điều không thể tránh khỏi và cũng là quy luật sinh tồn. Có thể nói không
quá rằng vị trí địa chiến lược của Việt Nam đã tự nó tạo cho Việt Nam luôn là một
phần trong câu chuyện về quan hệ quốc tế, hẹp thì ở phạm vi khu vực Đông Nam Á,
rộng hơn thì là châu Á-Thái Bình Dương hay Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Trong bối cảnh sự cạnh tranh và
xung đột và lợi ích của các nước lớn trên thế giới sự linh hoạt trong “Ngoại
giao cây tre Việt Nam” thời gian qua đã thực hiện diễn biến phức tạp bằng sự uyển
chuyển, khéo léo và mềm dẻo trong quan hệ với từng nước, đồng thời tranh thủ sự
ủng hộ và tiếng nói của tập thể để tạo thành sức mạnh chung. Hơn nữa, chúng ta
còn tạo ra được mạng lưới lợi ích đan xen, lồng ghép giữa lợi ích quốc gia với
lợi ích tổ chức khu vực và quốc tế, nhờ đó giúp chúng ta bảo vệ được lợi ích quốc
gia.
Trên tinh thần bình đẳng, hài hòa
lợi ích, chia sẻ khó khăn và tương trợ lẫn nhau, Việt Nam đã đề xuất nhiều sáng
kiến, giải pháp thúc đẩy hợp tác, đóng góp có trách nhiệm vào các vấn đề chung
của thế giới, như phòng, chống dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh
lương thực, an ninh nguồn nước, gìn giữ hòa bình ở châu Phi, cử lực lượng hỗ trợ
khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ... Có thể nói, chưa bao giờ vị thế,
uy tín và hình ảnh đất nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là
bạn bè thủy chung, chân thành, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế lại nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay.
Tựu chung lại, “ngoại giao cây tre Việt Nam đã làm tốt được nhiệm vụ bảo vệ lợi
ích quốc gia dân tộc là vì chúng ta đã thực hiện nhất quán “đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế” trên tinh thần chủ động và tích cực.
Nhìn vào lịch sử dân tộc, trong
suốt thời kỳ chiến tranh giành độc lập dân tộc, cũng như trong thời kỳ hoà
bình, hoạt động đối ngoại luôn là một mặt trận có vai trò vô cùng quan trọng,
góp phần tạo nên những thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; tạo
lối, mở đường, từng bước phá thế bao vây, cấm vận, khơi thông quan hệ với nhiều
đối tác, mở ra cục diện mới cho công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng và toàn diện. Để hoàn thành các mục tiêu lớn mà Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng đã đề ra, đòi hỏi chúng ta phải kiên định về nguyên tắc và linh
hoạt về sách lược trong thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, bảo đảm
cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm chủ quyền quốc gia; làm thất bại
những âm mưu, thủ đoạn, xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước; quyết tâm xây dựng và phát triển
một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc, góp
phần xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia hùng cường và thịnh vượng.
Tôn trọng niềm tin cá nhân
Bắt đầu từ năm 2017 đến 2024, ông Lê Anh Tú (trên mạng xã hội gọi là thầy, là sư Thích Minh Tuệ) tự tu, thực hành hạnh khất thực bằng hình thức đi bộ từ Nam ra Bắc và ngược lại, trong suốt quá trình đó, việc đi lại và thực hành hạnh nguyện của ông diễn ra thuận lợi.
Tuy nhiên, trong hành trình lần này một số người dùng mạng xã hội đã sử dụng hình ảnh đi bộ của ông Thích Minh Tuệ để tạo sự hiếu kỳ, thu hút nhiều người dân đi theo. Ông Thích Minh Tuệ đã khuyên mọi người về làm công việc của mình, không cần ai đi theo nữa, bởi vì, đi theo vừa mất trật tự giao thông và cũng không cần phải như thế.
Việc tụ tập đông người đã mang tới sự phức tạp về an ninh trật tự và an toàn giao thông. Đặc biệt, vào ngày 30/5/2024 xảy ra việc một người đàn ông trong đoàn bộ hành theo ông Minh Tuệ đã bị sốc nhiệt, suy đa tạng, xuất huyết tiêu hóa dẫn tới tử vong. Tiếp theo đó là ngày 2/6/2024 có 2 người phụ nữ khi đi theo ông cũng bị sốc nhiệt, đuối sức, nằm gục trên mặt đường. Các cơ quan chức năng đã kịp thời đưa đến bệnh viện để điều trị.
Tín ngưỡng, tôn giáo là thành tố quan trọng của một nền văn hóa; Đảng và Nhà nước tôn trọng các giá trị văn hóa tâm linh, tôn trọng tự do tín ngưỡng, chính sách tôn giáo ngày càng được đổi mới, mở rộng, thông thoáng, phù hợp với xu thế thời đại. Mỗi người có cách tu khác nhau, không ai giống ai, ai cũng có quyền để tu theo cách riêng của mình là tu theo kiểu đi bộ hành hay tu tại chùa nào đó... quyền tự do này được pháp luật Việt Nam tôn trọng và bảo vệ.
Hiếu kỳ cũng là một đặc tính con người. Hình ảnh một người tự tu đầu trần, chân đất đi bộ dọc chiều dài đất nước với đa số người dân đều cảm thấy xa lạ và hình ảnh đó đã kích hoạt sự hiếu kỳ từ một người lan sang người bên cạnh và thông qua các TikToker, Youtuber, Facebooker… lan truyền thành hội chứng đám đông. Hiếu kỳ có mặt tích cực, nếu biết khai thác tốt sẽ trở thành sự ham hiểu biết, tạo động lực cho cộng đồng, cho chúng ta thêm niềm cảm hứng mới. Đó là cảm hứng về tự do, cảm hứng về vượt qua cám dỗ vật chất, cảm hứng về tâm hồn vô tư trong sáng, cảm hứng về nghị lực...
Nhưng đặc tính này cũng dễ bị lợi dụng, có thể biến thái thành các hoạt động câu view, câu like, để trở nên nổi tiếng, để kiếm tiền, nguy hiểm hơn khi xuất hiện nhiều bình luận xuyên tạc đời sống tu hành của Tăng ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gieo rắc, thổi phồng mâu thuẫn và chia rẽ các tôn giáo; đánh tráo khái niệm, bịa đặt rằng Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương "phân biệt đối xử, đàn áp tôn giáo".
Ông Thích Minh Tuệ đã độc hành nhiều năm qua, không thuyết pháp, không thu đồ đệ, không nhận tiền và cũng không nhận mình là thầy. Tu sĩ này nhiều lần khẳng định, ông chỉ là một công dân Việt Nam đang "tập học" theo lời Phật dạy. Việc những đoàn người chờ đợi, đón tiếp ông bằng tấm lòng ngưỡng mộ, cử chỉ thành kính là một thực tế xuất phát từ cái tâm hướng thiện tiềm tàng trong lòng mỗi người, nhưng giờ đây mỗi ngày đều phải đi giữa dòng người đông nghịt, không còn một chỗ nghỉ ngơi, mọi hoạt động của ông đều bị quay lại, phát tán trên mạng và đã xảy ra những sự việc đáng tiếc khi có người bị đột quỵ, tử vong thì chắc chắn không phải là điều ông Thích Minh Tuệ mong muốn. Nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ của công dân, ông đã tự nguyện dừng việc đi bộ khất thực để ẩn tu.
Về bản chất, vì con người là một thực thể tồn tại trong xã hội, nên quá trình tu thân không chỉ bó hẹp trong sự phát triển luân lý đơn thuần của cá nhân, mà còn được hiểu như một quá trình xã hội hóa bản thân con người nhằm mục đích đạt đến sự toàn thiện của bản tính con người. Thông qua tiến trình tu thân không ngừng, cá nhân con người học được cách tạo dựng gia đình yên ấm, quốc gia ổn định và thiên hạ thái bình. Việc bày tỏ thái độ tôn kính với một người không có gì sai trái, nhưng cách bày tỏ như thế nào cũng là điều cần nhiều cân nhắc chứ đừng làm tổn thương đến người khác, ai cũng có lòng tự trọng, ai cũng có phương pháp tu tập theo cách của riêng mình, tốt hay không thì trời Phật đều biết, Phật trong tâm mỗi chúng ta.
Mỗi con người có đức tin riêng của mình, một xã hội lại càng cần có đức tin. Niềm tin, đức tin đưa con người đến những mục tiêu cao cả, đến thành công. Bởi vậy, mỗi người chúng ta hãy cùng nhau lựa chọn cho mình hướng đi tốt và đặt niềm tin đúng chỗ, biết gạn đục, khơi trong để góp phần gìn giữ và phát huy những truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc. Đó là một trong những động lực tạo nên sức mạnh mềm cho sự phát triển bền vững của đất nước.
"Tôi không lạc đề"!
Họp Đảng ủy xã đánh giá về công
tác phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đồng
chí Lê là Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ thôn Đoài phát biểu thẳng thắn:
- Tôi đề nghị các đồng chí cán bộ
chủ chốt của xã phải nêu gương trước Đảng bộ và nhân dân về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, nhất là trong việc hiếu, việc hỷ. Vừa qua có một số đồng chí
lãnh đạo xã tổ chức đám cưới cho con linh đình, làm vài trăm mâm cỗ, rồi đám giỗ
cũng mời khách rầm rộ khiến nhân dân xì xào, chê trách... Việc thứ hai là lãnh
đạo xã cần tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm những công chức, viên chức thiếu
tinh thần phục vụ nhân dân, giải quyết công việc chậm, thậm chí còn "gây
khó để có phong bì"...
Bí thư Chi bộ thôn Đoài còn chưa
phát biểu hết thì Phó bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch xã đã ngắt lời:
- Tôi thấy đồng chí Lê phát biểu không đúng chủ
đề cuộc họp rồi. Việc gia đình cán bộ xã làm cỗ nhiều và giải quyết công việc
chậm thì không liên quan tới công tác đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù
địch, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Mặt khác,
theo tôi, tổ chức hiếu, hỷ, cúng giỗ là việc riêng của gia đình...
- Báo cáo đồng chí chủ tọa, tôi xin phát biểu
tiếp và tôi khẳng định không phát biểu lạc đề. Chúng ta đấu tranh chống “diễn
biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không có nghĩa là chúng ta chỉ
phê phán, bác bỏ các quan điểm, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, mà
quan trọng hơn là chúng ta phải chủ động phòng ngừa, phải tự mình tốt lên,
không để xảy ra những sai lầm, khuyết điểm cho các thế lực thù địch lợi dụng để
suy diễn, quy chụp, thổi phồng nhằm chống phá Đảng, Nhà nước. Hai việc tôi vừa
đề nghị rút kinh nghiệm, nếu chúng ta không khắc phục được thì sẽ là cái cớ để
các đối tượng phản động, bất mãn lợi dụng chống phá ta, rồi ngay người dân
trong xã cũng sẽ bất bình, bức xúc, không phục cán bộ xã. Thực tế đã có ý kiến
xì xào rằng “các ông lãnh đạo xã nói một đằng, làm một nẻo”...
Thấy các ý kiến phát biểu khá “căng”, đồng chí
Trưởng ban Tuyên giáo, Ủy viên Thường vụ Huyện ủy là đại biểu cấp trên về dự hội
nghị, nhẹ nhàng nói:
- Chúng ta cần nghiêm túc tiếp thu ý kiến tâm
huyết của đồng chí Lê để được nhân dân tin tưởng, yêu mến. Xây dựng và giữ vững
“thế trận lòng dân” phải từ những việc nhỏ; làm cho nhân dân tâm phục, khẩu phục
thì chẳng có thế lực thù địch nào chống phá được, phải không các đồng chí?
Cả hội nghị lặng lẽ gật đầu, càng suy ngẫm thì
càng thấy đồng chí Bí thư Chi bộ thôn Đoài và Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy
nói đúng.
Thực tiễn sinh động
bác bỏ luận điệu sai trái về tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất
quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con
người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông
tin, tự do internet nói chung và mạng xã hội nói riêng bởi đây là một trong những
quyền cơ bản của con người.
Thế nhưng, các thế lực thù địch,
phản động đã cố tình bóp méo, xuyên tạc sự thật về việc thực hiện các quyền dân
sự, chính trị nói chung và quyền tự do báo chí, tiếp cận thông tin nói riêng ở
Việt Nam.
Những luận điệu xuyên tạc, vu khống
Việc các thế lực thù địch, phản động
lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí để chống
phá Việt Nam vốn là điệp khúc cũ mòn. Song những mưu mô, thủ đoạn và cách thức
tổ chức hoạt động luôn thay đổi, nhất là trong thời đại công nghệ 4.0 với sự
phát triển đa dạng của không gian mạng.
Chưa bao giờ người ta thấy có nhiều
cá nhân, hội nhóm, tổ chức tự xưng với danh nghĩa phóng viên, báo chí nhân danh
dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận như những năm gần đây, nào là "Nhóm
báo sạch", "Câu lạc bộ nhà báo tự do", "Mạng lưới blogger
Việt Nam", "Hội ái hữu tù nhân chính trị và tôn giáo", "Hội
nhà báo độc lập"… Đi liền với việc thành lập các hội nhóm, tổ chức trên là
số đối tượng chống đối được các thế lực thù địch khoác cho danh xưng "nhà báo tự do", "nhà báo
độc lập", "nhà báo công dân", “nhà báo chống tham nhũng”…
Dù mang danh báo chí nhưng các hội
nhóm hoạt động không tuân theo các quy tắc nào về báo chí mà chỉ viết bài, đăng
tin sai sự thật trên không gian mạng nhằm bôi nhọ, xuyên tạc đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phỉ báng chế độ, kích động chống phá.
Về thời điểm, nhân các ngày lễ lớn
của đất nước, sự kiện chính trị đối ngoại, đối nội quan trọng của Đảng, Nhà nước
ta thì hoạt động chống phá, kích động, chống đối của các thế lực thù địch, nhất
là những tổ chức, đối tượng nhân danh báo chí càng quyết liệt. Đặc biệt, họ đã
triệt để lợi dụng hoạt động phản biện xã hội dưới danh nghĩa “góp ý, thư ngỏ,
thư kiến nghị”… để phê phán đường lối của Đảng, Nhà nước và bôi nhọ lãnh đạo cấp
cao với những thông tin không đúng sự thật, thông tin thật giả lẫn lộn, thông
tin bị thổi phồng, qua đó hướng lái dư luận theo chiều tiêu cực.
Ở những mức độ khác nhau, các tổ
chức và đối tượng trên đã tuyên truyền, bóp méo nhằm kích động, tạo phản ứng
không đồng thuận trong nhân dân đối với cấp uỷ đảng, chính quyền. Mục đích của
các hoạt động trên nhằm bôi xấu, hạ uy tín Đảng, Nhà nước, hình ảnh đất nước Việt
Nam với bè bạn quốc tế. Các đối tượng cũng lấy cớ đả kích các cơ quan báo chí
chính thống tại Việt Nam, cho rằng báo chí Nhà nước bị “bịt miệng”, từ đó kích
động thành lập báo chí tư nhân, báo chí của các “hội nhóm độc lập”.
Những hoạt động chống phá có sự
tiếp tay chặt chẽ của các thế lực thù địch, phản động bên ngoài với những đối
tượng chống đối, thành phần cơ hội, bất mãn ở trong nước. Họ cổ xuý, tung hô những
đối tượng đội lốt “nhà báo tự do”, “nhà báo độc lập” như Phạm Đoan Trang, Phạm
Chí Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Lê Trọng Hùng, Nguyễn Chí Tuyến, Nguyễn Vũ Bình…
Ngay khi cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam bắt giữ, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử đối với các hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự thì các
thế lực thù địch bên ngoài đã gia tăng các bài viết làm sai lệch thông tin, bản
chất vụ án. Khi các đối tượng bị tuyên án, đang trong thời gian chấp hành án phạt
tù thì các tổ chức chống phá vẫn tiếp tục lợi dụng với chiêu bài vinh danh,
trao giải thưởng như tổ chức tự xưng “Văn bút Hoa Kỳ - PEN America” trao giải
thưởng về tự do viết lách năm 2024 cho Phạm Đoan Trang ngày 11/4/2024. Mục đích
của các hoạt động trên không đơn thuần là sự “vinh danh” mà lấy cớ kêu gọi quốc
tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Cần khẳng định rằng, dù được gắn
mác, danh xưng giải thưởng gì chăng nữa thì những đối tượng trên thực tế đều có
hành vi phạm pháp và bị xử lý theo pháp luật Việt Nam. Về nguyên tắc, pháp luật
Việt Nam không cho phép bất cứ ai làm phương hại đến lợi ích của nhân dân, đất
nước. Là công dân Việt Nam phải có nghĩa vụ, trách nhiệm với quê hương, đất nước.
Những kẻ vì mưu lợi cá nhân, câu
kết các thế lực thù địch, xâm phạm lợi ích của đất nước, nhân dân, đội lốt dưới
vỏ bọc “hoạt động báo chí” là thủ đoạn cần phải lật tẩy, đấu tranh. Một số đối
tượng còn để cho các tổ chức ở nước ngoài khoác lên những danh xưng mỹ miều
“nhà báo độc lập”, “nhà báo công dân”, “nhà báo chống tham nhũng”… nhằm phục vụ
âm mưu, thủ đoạn chống phá đất nước. Những danh xưng đó không thể che đậy bản
chất. Đó không phải là những nhà báo đúng nghĩa, lại càng không thể là “nhà hoạt
động nhân quyền”, “nhà hoạt động vì tự do ngôn luận”.
Xây dựng và phát triển nền báo
chí cách mạng Việt Nam
Cách đây 99 năm, ngày 21/6/1925,
tờ báo Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập xuất bản số đầu tiên, đánh dấu sự
ra đời của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Không giống nhiều nền báo chí khác,
báo chí Việt Nam ngay từ những bước đi đầu tiên đã được định danh là “báo chí
cách mạng”, với sứ mệnh phụng sự Tổ quốc, nhân dân. Hiếm có nền báo chí nào
trên thế giới mà sự ra đời, phát triển gắn chặt với tiến trình cách mạng giải
phóng dân tộc như Việt Nam. Hiếm có một nền báo chí nào mà sự ra đời, phát triển
được vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới trực tiếp
sáng lập, chăm chút, chỉ đường như thế. Đó thực sự là niềm tự hào của nền báo
chí cách mạng nước ta.
Từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, báo chí cách mạng Việt Nam luôn đồng hành cùng đất nước, vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, không ngừng trưởng thành, vững mạnh về mọi mặt, là lực lượng nòng
cốt, giữ vai trò tiên phong trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, đóng góp to lớn
vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Cùng với đó, sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước là hiện thực sinh động để báo chí Việt Nam phát
triển lớn mạnh cả về quy mô, tổ chức, lực lượng, phương tiện, công nghệ làm báo
và sức ảnh hưởng, lan tỏa trong xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Báo
chí vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể, vừa là diễn đàn
của nhân dân”; “xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và
hiện đại; thực hiện tốt quy hoạch, phát triển hệ thống báo chí, truyền thông”.
Điều 25, Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định”.
Theo tinh thần ấy, Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu về bảo đảm quyền được thông tin của người dân. Những thành
tựu ấy trước hết được thể hiện ở việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới nhiều văn bản
luật nhằm bảo đảm tốt hơn quyền được thông tin của người dân, trong đó có những
luật, nghị định như: Luật Báo chí 2016; Luật Tiếp cận thông tin 2016; Luật An
ninh mạng 2018; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
internet và thông tin trên mạng... Những văn bản luật đó đều tuân thủ nguyên tắc
pháp quyền XHCN, vừa bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, vừa nâng cao hiệu lực,
hiệu quả trong bảo vệ bí mật Nhà nước, chống việc lộ, lọt bí mật thông tin. Vì
vậy, quyền con người, quyền công dân của mọi cá nhân được Nhà nước Việt Nam đảm
bảo bằng Hiến pháp, pháp luật và thể hiện rõ trong thực tiễn, hoàn toàn phù hợp
với pháp luật và thông lệ quốc tế.
Theo thống kê của Bộ Thông tin và
Truyền thông, hiện cả nước có 6 cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện
(Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam - VTV, Đài Tiếng nói Việt Nam - VOV,
Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân). Có 15 cơ
quan báo chí (11 báo, 3 tạp chí và Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC) nằm trong
các cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện nói trên. Ngoài ra có 127 cơ
quan báo, 671 cơ quan tạp chí (319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ
thuật). Trong 72 đài phát thanh - truyền hình, có 3 đơn vị là VTV, Vnews và HTV
được cấp giấy phép biên tập kênh truyền hình nước ngoài.
Đến nay, hầu hết các cơ quan báo
chí Việt Nam đã có trên nền tảng mạng internet. Một số cơ quan báo chí đã tiên
phong và khá thành công trong việc ứng dụng các công nghệ số tiêu biểu như: Trí
tuệ nhân tạo (AI), IoT, Cloud, Big Data... Trước làn sóng “di dân” từ báo in
sang báo điện tử, hàng trăm cơ quan báo chí cũng xây dựng các kênh truyền thông
của mình trên các trang mạng xã hội như Facebook, Youtube, Tiktok… Nhân sự làm
việc trong lĩnh vực báo chí khoảng 41.000 người (khối phát thanh, truyền hình
khoảng 16.500 người). Trong đó, hơn 19.300 trường hợp được cấp Thẻ Nhà báo.
Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực báo chí được tăng cường. Hiện nay, nhiều hãng truyền thông quốc
tế lớn trên thế giới đều đã có mặt tại Việt Nam như CNN, Reuters, AP, AFP,
Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc), Hãng
thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)... Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN,
TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn
thế giới đều đến được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất
kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt
Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp. Nhiều nhà báo Việt Nam được Nhà nước
tạo điều kiện đi học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tác nghiệp báo chí tại
nhiều quốc gia trên thế giới.
Trải qua 99 năm xây dựng và trưởng
thành, báo chí cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo,
đã luôn đồng hành cùng những chặng đường đấu tranh của cách mạng, đóng góp quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần khẳng định và tôn vinh
vị thế, sức mạnh và uy tín Việt Nam. Đội ngũ những người làm báo càng nhận thức
sâu sắc sứ mệnh, trọng trách của mình trong thời kỳ phát triển mới của đất nước,
quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, trung thành tuyệt đối với mục tiêu
và lý tưởng của Đảng, tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Những minh chứng trên một lần nữa
khẳng định quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Thực tế
đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch
về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.
Thói đạo đức giả - kẻ
thù của nhân dân lao động
“Đạo đức giả”-dân gian hay gọi là
thói đạo đức giả, là những hành vi dùng vỏ bọc đạo đức bề ngoài; nói và làm những
điều tưởng như chuẩn mực, giống y như những người có đạo đức, để che đậy bản chất
cơ hội bên trong, đánh lừa cá nhân, tập thể, nhằm mưu lợi riêng, trục lợi cá
nhân, gây hại cho xã hội.
Những năm gần đây, thói đạo đức
giả trong xã hội, đặc biệt ở một số cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng nhanh.
Biểu hiện của thói đạo đức giả, cá nhân, vị kỷ trong không ít cán bộ, đảng viên
vô cùng phức tạp, tinh vi. Vậy nhưng, điều này chưa được các cơ quan chức năng
đánh giá đúng mức những nguy hại, hệ lụy mà nó gây ra để phòng tránh.
Cháy nhà... mới ra mặt chuột
Qua những câu chuyện từ nhiều
chuyến đi thực tế, chúng tôi nhận thấy, khi số ít cán bộ thoái hóa biến chất
còn chưa bị các cơ quan chức năng xử lý, họ là những người thực sự có quyền lực
ở các cơ quan, địa phương, thậm chí ở bộ, ngành, Trung ương; là những người
“nói có người nghe, đe có kẻ sợ”. Khi chưa bị phát hiện "nhúng chàm",
họ đã dùng bộ mặt đạo đức giả “qua mặt” được nhiều cơ quan chức năng, tổ chức đảng
các cấp; được tin tưởng giao giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Đến thời điểm có quyền lực, được
trao quyền, họ củng cố quyền lực bằng những phát biểu rao giảng đạo đức cách mạng,
sự gương mẫu cho cấp dưới, cho nhân dân. Thật buồn, chỉ đến khi “cháy nhà mới
ra mặt chuột”, bộ mặt đạo đức giả bị bóc trần.
Thói đạo đức giả với người dân đã
nguy hại, với những người có chức vụ, chủ doanh nghiệp có tầm ảnh hưởng lớn
càng nguy hại hơn. Địa vị càng lớn, thói giả dối càng được che đậy tinh vi; gây
ra những hành động phi đạo đức với hậu quả càng lớn cho nhân dân. Dùng thói đạo
đức giả không chỉ che đậy những âm mưu và hành động bất chính, đục khoét của
công, tham nhũng của Nhà nước, nhân dân; tư lợi cho bản thân, họ hàng, mà nó
còn làm bại hoại đạo đức ở đơn vị, địa phương, tổ chức. Những kẻ đạo đức giả ấy,
xét đến cùng là điển hình của chủ nghĩa cá nhân.
Hậu quả mà những cán bộ đeo mặt nạ
đạo đức giả gây ra là vô cùng to lớn về kinh tế, về tinh thần, làm rối loạn tổ
chức, gây mất niềm tin của nhân dân vào cán bộ. Theo thống kê của cơ quan chức
năng, con số hàng chục nghìn đảng viên, trong đó có những cán bộ diện Trung
ương quản lý bị xử lý kỷ luật liên quan đến tham nhũng, tham ô, nhận hối lộ mỗi
năm cho thấy tình trạng này đã đến mức báo động.
Vì thế, thói đạo đức giả cần được
chỉ mặt rõ ràng để dùng mọi biện pháp giáo dục nghiêm khắc bằng những hình thức
nghiêm minh của pháp luật; bằng những quy định chặt chẽ của Đảng và các tổ chức
chính trị, xã hội; bằng sự đồng lòng thông qua những hương ước của cộng đồng,
xã hội. Xử lý nghiêm những cán bộ này là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc cho những
cán bộ đang giấu giếm bộ mặt đạo đức giả, giấu giếm ý định thu lợi cá nhân, chủ
nghĩa cá nhân mà chưa bị phát hiện.
Những kẻ đạo đức giả là ai? Biểu
hiện thường thấy là gì?
Xin lấy một ví dụ điển hình nhất
về thói đạo đức giả của một số cán bộ, các chủ doanh nghiệp trong thời gian qua
là sự kiện hàng chục cán bộ các cấp, doanh nghiệp liên quan tới chuyến bay giải
cứu, thời gian diễn ra đại dịch Covid-19, đưa người dân ở nước ngoài về nước,
đã phải ra hầu tòa và chịu các mức án thích đáng.
Từ một chủ trương đúng đắn, nhân
văn của Đảng, Nhà nước chia sẻ khó khăn với nhân dân, đưa nhân dân ra khỏi những
vùng nguy hiểm của dịch bệnh, thế mà nhiều cán bộ cấp cao, doanh nghiệp đã lợi
dụng vị trí công tác để tìm mọi cách ăn chặn tiền của người dân.
Trong khi đó, họ vẫn lớn tiếng, mạnh
miệng, trắng trợn lừa dối các cơ quan báo chí, truyền thông về đạo đức, về
trách nhiệm, về tinh thần phục vụ, sự vất vả của họ cùng những cán bộ thuộc quyền
và doanh nghiệp. Nhiều người dân ban đầu không biết, đã nhẹ dạ tin theo, nộp tiền
để họ trục lợi... Chỉ đến khi thông tin bị phanh phui, người dân mới hiểu ra bộ
mặt đạo đức giả của nhóm cán bộ, doanh nghiệp này.
Thật xót xa, tiếc nuối khi gần
đây, các cơ quan chức năng liên tục công bố hàng loạt quyết định kỷ luật đối với
không ít cán bộ cấp bộ, cục; bí thư, chủ tịch các tỉnh, huyện, xã... và thậm
chí còn cả cán bộ cấp cao hơn. Không ít người cảm thán, mới hôm qua còn ngồi ghế
lãnh đạo, ra sức rao giảng đạo đức cho bao người, vậy mà, khi cơ quan chức năng
vào cuộc, cơ quan công an điều tra, họ lại hiện nguyên hình chính là những con
mọt chúa đục ruỗng mọi ngóc ngách, vươn cái vòi tham lam vơ vét. Những kẻ đạo đức
giả đã cấu kết với nhau để làm sai, ký sai, tham ô, tham nhũng, biển thủ... những
khoản tiền, những dự án nhiều tỷ đồng, là mồ hôi xương máu, là tiền thuế của
nhân dân, doanh nghiệp.
Bóc từng lớp phủ những khuôn mặt
đạo đức giả
Tại sao họ lại làm vậy, phải
chăng vì khó khăn trong cuộc sống? Không hề! Tất cả cán bộ bị xem xét kỷ luật
và bị cơ quan chức năng điều tra thời gian gần đây không hề nghèo, yếu, thiếu
trình độ. Họ ban đầu thậm chí còn là những “hạt giống”, người có trình độ, có
quá trình phấn đấu rất tốt, có gia đình trong sáng, là nền tảng vững chắc cho sự
phát triển, thăng tiến trong sự nghiệp.
Buồn thay, chỉ sau một thời gian
làm cán bộ, họ giàu, rất giàu! Điều này tỷ lệ thuận với sự biến chất của cán bộ.
Càng biến chất, bộ mặt đạo đức giả lại càng phải dày lên để che đậy những mưu đồ
bất chính ngày càng lớn hơn.
Cũng vì thế, phi vụ sau lại lớn
hơn phi vụ trước. Số lượng tiền bạc, nhà đất, xe cộ cũng vì thế mà càng nhiều
lên. Nhưng tiền, xe, đất, quyền lực... với họ mãi chẳng bao giờ đủ. Dục vọng cá
nhân luôn như chiếc thùng không đáy thì càng khiến bộ mặt đạo đức giả ngày càng
dày lên với biết bao lớp phủ, khiến bản thân họ cũng khó nhận ra mình của lúc
ban đầu, những câu từ sáo rỗng được họ phát ra trái ngược với hành động, khiến
nhân dân nghi ngờ, giảm sút niềm tin vào các cơ quan lãnh đạo. Chỉ khi bị kỷ luật,
bị điều tra, nhân dân mới nhận ra bộ mặt thật của họ.
Vẫn biết, khi tiến hành đổi mới,
kinh tế thị trường phát triển, cùng với cơ hội, những cơn gió lành, thì những
làn gió độc, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng khiến nhiều người dân,
doanh nghiệp và một bộ phận cán bộ không giữ được mình. Trong cuộc chiến giữa lối
sống chân thành và giả dối luôn vô cùng giằng co, phức tạp. Người cán bộ, đảng
viên luôn bị giằng xé giữa lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng
lao động chân chính, có tự trọng bản thân, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của
công, chăm lo lợi ích của tập thể, của Nhà nước thì nghèo, vất vả với lối sống
thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền thì sẽ giàu có, hưởng lạc.
Nhiều cán bộ đã không vượt qua được cái xấu, cái ích kỷ cá nhân, vì thế, họ chọn
bộ mặt đạo đức giả che đi tham vọng của mình, từ đó hành động một cách bất chấp
để vinh thân phì gia.
Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa
XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước
ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã
chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp. Biểu hiện cụ
thể chính là suy thoái về đạo đức, lối sống như cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ,
thực dụng, cơ hội, vụ lợi, thu lợi cá nhân, thói háo danh, phô trương, che giấu
khuyết điểm, vô cảm, tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với
doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi... được ví như những mọt chúa, mối
chúa đẻ ra hàng vạn, hàng triệu mối con, mọt con, từng ngày gặm nhấm, đục ruỗng
không ít cơ quan; thậm tệ hơn, chúng đục ruỗng tinh thần, ý chí của một bộ phận
cán bộ, đảng viên kém ý chí, kém rèn luyện.
Thận trọng khi tìm hiểu
lịch sử
Khoảng chục năm trở lại đây, khi
mạng xã hội đã và đang cho phép người dùng tạo ra cộng đồng chung mối quan tâm
thông qua những nhóm (group), trang (page), lịch sử là một đề tài thu hút rất
nhiều người mà trong số đó, người trẻ chiếm số đông.
Đã có nhiều nhóm chia sẻ kiến thức
lịch sử thu hút rất đông đảo lượng người đọc và qua các nhóm ấy, cũng bắt đầu
có một số cá nhân tạo được uy tín nhờ vào hiểu biết và đóng góp của mình cho dù
họ không phải là chuyên gia lịch sử. Đây thực sự là một tín hiệu đáng mừng.
Đáng mừng hơn nữa, từ những bài viết của các nhóm kể trên, đã có những xuất bản
phẩm bán chạy, những dự án phim tư liệu về lịch sử Việt Nam góp phần mở mang kiến
thức cho cộng đồng.
Tuy nhiên, không phải dự án nào
cũng thành công. Đã xuất hiện tình trạng có một số dự án được đón nhận bởi công
chúng nhưng bị phát hiện có những lỗi rất lớn và tạo ra những hiểu biết sai lệch
về lịch sử nước nhà.
Điển hình như cuốn "Việt sử
kiêu hùng" do nhóm cùng tên biên soạn mới được Nhà sách Tinh Hoa cho xuất
bản gần đây chẳng hạn. Ngay trong phần bản đồ lược sử, nhóm này đã tự ý đánh
giá thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong 3 nhân vật lịch sử tiêu biểu nhất của
Việt Nam ở thế kỷ 20 bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Đánh giá này bị cho là nặng cảm tính, thiếu cứ liệu lịch sử, thiếu thuyết phục.
Dù cho có yêu mến thiền sư Thích Nhất Hạnh đến mấy đi nữa thì nhiều độc giả
cũng phải thừa nhận nhân vật lịch sử đại diện tiêu biểu cho Việt Nam trong thế
kỷ 20 không thể là Thích Nhất Hạnh. Trước làn sóng phản ứng dữ dội của một lượng
độc giả, lược đồ này đã được thay thế nhưng uy tín của dự án cũng giảm hẳn khi
bị cộng đồng gán cho cái tên là "Diệt sử tiêu tùng".
Nhưng, không chỉ có các nhóm tự
phát kiểu như "Việt sử kiêu hùng" mới mắc các lỗi chủ quan, lỗi thông
tin, lỗi nhận định như trên mà ngay cả các NXB cũng từng dính các sai lầm trầm
trọng. Cụ thể như sai lầm của trang bìa cuốn "Thăng Long kinh kỳ kẻ chợ"
của Nguyễn Quốc Tín - Nguyễn Huy Thắng được xuất bản bởi NXB Kim Đồng. Nội dung
biên khảo về lịch sử Thăng Long nhưng bìa sách lại dùng bức tranh từ cuốn
"An Nam lai uy đồ sách" từ thế kỷ thứ 16 của Trung Quốc. Đáng nói hơn
cả, bức tranh được lấy làm bìa đó lại mô tả cảnh Mạc Đăng Dung phủ phục trước
quan lại nhà Minh và chính điều đó đã tạo ra sự phẫn nộ từ một số học giả lịch
sử. NXB đã phải thay đổi bìa sách mới cho phù hợp hơn, song đáng tiếc là các bản
in cũ không được thu hồi và vẫn trôi nổi trên thị trường sách.
Từ các hiện tượng như trên, chúng
ta có thể nhận thấy rằng đang có một khoảng trống lịch sử lớn trong giới biên tập
ấn bản phẩm. Đây là công việc đòi hỏi chuyên môn sâu nhưng thực tế, các đơn vị
xuất bản không cẩn trọng, thiếu đầu tư nên không mời các chuyên gia, học giả lịch
sử kiểm soát lại nội dung. Trong khi đó, giới viết sử tự phát từ cộng đồng thì
lại luôn chủ quan, dựa vào nguồn sử liệu chưa đủ đầy và quá tự tin vào số ít ỏi
sử liệu mình tham khảo. Không có so sánh, đối chiếu để chắt lọc từ nhiều nguồn
sử liệu khác nhau, từ đó các lỗi sai phát sinh càng nhiều. Rồi được thêm thắt bởi
các bình luận cảm tính của đội ngũ soạn thảo, những ấn bản đó vô tình trở thành
thứ "tham khảo sai lệch" đối với những người đọc trẻ và khiến họ tin
vào các dữ liệu lịch sử không chính xác.
Với mọi thứ, thận trọng là đòi hỏi
hàng đầu nhưng với lịch sử, thận trọng còn bị đòi hỏi khắt khe hơn nữa. Rất cần
các chuyên gia, học giả lịch sử tham gia rà soát các dự án sách, tư liệu, phim ảnh...
về lịch sử để từ đó mang lại cho cộng đồng những sản phẩm tốt, chân xác về dữ
kiện cũng như chuẩn mực về đánh giá những sự kiện mà chúng ta không trải qua
nhưng gắn liền với một phần hình thành và phát triển quốc gia, dân tộc.