Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

 Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải tích cực, chủ động và xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sự kế thừa kinh nghiệm trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đó được hình thành và phát triển qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của đất nước, góp phần hoàn thành công cuộc giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Ngay sau khi miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho toàn dân tộc phải đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng; thực hiện nhiệm vụ và phương châm hành động: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng(1); đồng thời, Người căn dặn: “Phải động viên, giáo dục toàn Đảng, toàn dân đoàn kết chặt chẽ. Các cấp, các ngành và các cán bộ, đảng viên ta cần phải thực hiện đúng các chính sách của Đảng và Nhà nước để đoàn kết và động viên được mọi người phấn khởi và hăng hái tham gia chống Mỹ, cứu nước”(2). Những lời căn dặn của Người đã trở thành kim chỉ nam trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giúp cho nền quốc phòng của nước ta luôn vững mạnh, sức chiến đấu ngày càng nâng cao, luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Theo Người, xây dựng nền quốc phòng toàn dân là yêu cầu khách quan, nhằm nâng cao tiềm lực và sức mạnh quốc phòng để bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, tăng cường khả năng tự vệ giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho đường lối chiến lược, sách lược và phương thức chỉ đạo phong trào cách mạng nước ta cũng như xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Người chỉ rõ: ““Nền có vững nhà mới chắc; gốc có mạnh, cây mới tốt”. Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của toàn dân ta, cho nên chúng ta phải làm cho nó thật vững, thật mạnh”(3); ngày 19-9-1954, nói chuyện với các cán bộ đại diện cho Đại đoàn quân Tiên phong tại Đền Hùng, Người cũng ân cần căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước(4). Người không chỉ khái quát cao tính cấp thiết, tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực, chủ động của việc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, mà còn chỉ ra sự cần thiết xây dựng nền quốc phòng toàn dân từ sớm, từ xa vì mục tiêu tự vệ chính nghĩa, chính đáng, hòa bình, hội nhập và thúc đẩy sự phát triển đất nước.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cơ sở phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường xây dựng thế trận quốc phòng vững chắc

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự lực, tự cường là tiền đề của độc lập, tự do, là điều kiện tiên quyết để phát triển quan hệ, vị thế ngoại giao; phải được xây đắp bằng ý chí tự lực, tự cường, tự lực cánh sinh. Tự lực, tự cường, tự chủ là phẩm chất cao quý của dân tộc Việt Nam, với tinh thần đầy lòng tự trọng, ý chí, khát vọng vươn lên và chủ động chuẩn bị từ sớm, từ xa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Người đặc biệt chú trọng đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân là xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, được tổ chức với ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích); là xây dựng căn cứ địa cách mạng, khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Mỗi người dân: “Phải nắm vững tay cày tay súng, đẩy mạnh quốc phòng, trật tự trị an, củng cố tốt dân quântự vệ, luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu”(5)Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (ngày 19-12-1946) chỉ rõ: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(6). Người đã chỉ rõ, việc tham gia kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của mọi người dân, tất cả thành phần và lực lượng trong xã hội. Công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, bất kỳ ai là công dân Việt Nam yêu nước đều phải tham gia kháng chiến. “Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng chiến. Anh dân cày cày cuốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong nhà máy, chị bán hàng buôn bán ngược xuôi, ông già xách giỏ đi câu cũng là kháng chiến. Các công chức, các nhà văn, nhà báo mải miết trước bàn giấy, cạnh tủ sách cũng là kháng chiến. Các y sinh, khán hộ lăn lộn bên giường bệnh cũng là kháng chiến. Các nhà giàu có đem hết tài lực mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng đất cũng là kháng chiến. Đó là toàn dân kháng chiến”(7). Mỗi công dân đều phải có trách nhiệm tham gia kháng chiến, kể cả “Các em lớn chưa hẳn đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”(8).

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(9). Người khẳng định: Độc lập của Việt Nam luôn nhờ lực lượng của Việt Nam: “Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà(10); Người căn dặn: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(11). Người luôn coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người xác định phương châm: Tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là quý trọng, ta tuyệt đối không được dựa dẫm ỷ lại vào sự giúp đỡ của bạn bè. Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(12).

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, cũng chính nhờ tinh thần độc lập, tự lực, tự cường mà Đảng ta đã đề ra đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, lãnh đạo quân và dân ta ra sức xây dựng quốc phòng toàn dân vững mạnh, đẩy nhanh tiến công địch trên khắp chiến trường miền Nam. Đồng thời, tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất Tổ quốc, cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là do toàn dân, dựa vào dân để phát huy sức mạnh của nhân dân

Tiếp thu truyền thống lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Đó là, mỗi khi kẻ thù xâm lược thì “tận dân vi binh” trăm họ là binh, toàn dân là lính; Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào; lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo. Khi giặc tan thì khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc làm thượng sách để giữ nước, giữ nước từ khi nước chưa nguy.

Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(13); Người răn dạy: “Nước ta mới tranh lại quyền độc lập tự do, nhưng còn phải qua nhiều bước khó khăn, để củng cố quyền tự do độc lập đó. Vậy nên quốc dân ta, bất kỳ già trẻ, đều phải ra sức gánh một vai”(14). Đồng thời, Người khẳng định sức mạnh của dân tộc Việt Nam: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”(15).

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhắc nhở: “Để ngăn chặn âm mưu của kẻ địch, thì cán bộ, bộ đội và nhân dân ta cần phải luôn luôn nâng cao cảnh giác(16); “Phải củng cố lực lượng quốc phòng, giữ gìn trật tự trị an, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hoạt động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng”(17). Theo Người, nền quốc phòng của nước nhà là phải do toàn dân xây dựng và dựa vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ lao động trí óc. Đặc biệt, trong xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, chú trọng tại các địa bàn có vị trí chiến lược, như miền núi, hải đảo. Người nói: “Miền núi đối với quốc phòng rất quan trọng. Vì vậy phải chăm lo đến việc củng cố quốc phòng, duy trì trật tự trị an, để chủ động tiêu diệt nhanh chóng bọn biệt kích, đập tan âm mưu của bọn phản động. Cố nhiên đây là trách nhiệm chính của bộ đội, của công an biên phòng, của dân quân. Nhưng toàn Đảng, toàn dân đều có trách nhiệm giúp sức vào việc đó”(18). Đó là tư tưởng chủ đạo về xây dựng nền quốc phòng toàn dân - nền quốc phòng do toàn dân tham gia, toàn dân thực hiện quốc phòng.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cơ sở luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác đề phòng, quyết không chủ quan, khinh địch. Đặc biệt trong điều kiện đất nước hòa bình càng phải nêu cao tinh thần, ý thức cách mạng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân để đất nước sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược khi chúng liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự lực cánh sinh, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Địch bắn phá ở đâu, chúng không nói cho ta biết trước, cho nên bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào, chúng ta cũng phải tích cực chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại mọi âm mưu tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ”(19). Tăng cường đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, Người dạy rằng: “Càng đánh thắng, quân và dân ta càng phải nâng cao chí căm thù và tinh thần cảnh giác cách mạng, thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, quyết giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa”(20). Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Người thường xuyên nhắc nhở: “Nếu ta chuẩn bị tốt thì khi có việc xảy ra, sẽ tránh được thiệt hại, cán bộ và nhân dân không dao động, hoang mang. Việc chuẩn bị phải tích cực, nhưng phải có kế hoạch, có giải thích, đừng làm cho quần chúng hoảng hốt...”(21).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ xây dựng và phát triển của đất nước; có vị trí, vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam. Do đó, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân; đồng thời, nắm chắc nội hàm tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có như vậy, mới vận dụng tư tưởng của Người vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân; vào xây dựng chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam mới bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đạt mục tiêu, yêu cầu đặt ra.

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 9, tr. 226
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 14, tr. 693
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 10, tr. 144
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 9, tr. 59
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 493
(6), (7) Giải thích: y sinh - thầy thuốc, bác sỹ; khán hộ - y tá. Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 4, tr. 534, 96 - 97
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 35
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 7, tr. 445
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 14, tr. 27 - 28
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 7, tr. 445
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 2, tr. 320
(13), (14), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 4, tr. 3, 23, 89
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 12, tr. 389
(17), (18), (19), (20) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 14, tr. 285, 167, 693, 554

Nhận diện nguy cơ, thách thức của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Định hướng phát triển quốc gia kể từ Đại hội IX (năm 2001) cho đến Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng luôn nhất quán chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”. Trong đó, quá trình hội nhập về kinh tế mang lại nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với Việt Nam. Nhận diện đúng các thách thức sẽ góp phần giải quyết hợp lý các vấn đề gặp phải trong quá trình hội nhập quốc tế.

Ngày 7-11-2006 đánh dấu một trong những dấu mốc quan trọng nhất trên con đường hội nhập quốc tế của Việt Nam chính là sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007. Hội nhập quốc tế và gia nhập WTO đã góp phần đổi mới tư duy hoạch định chính sách, hoàn thiện các chuẩn mực quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp, định hình khung khổ pháp lý và các chuẩn mực phát triển thể chế kinh tế - thương mại, tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đưa Việt Nam từng bước mở cửa nền kinh tế, mở rộng quy mô thị trường hàng hóa và dịch vụ, cải thiên cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế theo các thỏa thuận đa phương và song phương đã cam kết. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam cũng phải đối đầu với những thách thức không nhỏ, tập trung vào bốn nhóm nguy cơ chính ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Nguy cơ rửa tiền, tài trợ khủng bố

Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có(1). Đây là hoạt động mà tội phạm dùng nhiều thủ đoạn để biến dòng “tiền bẩn” thành nguồn “tiền sạch” để lưu thông trong nền kinh tế và tài trợ cho các hoạt động khủng bố. Để thực hiện hành vi này, các đối tượng rửa tiền thường sử dụng hệ thống tài chính, đặc biệt là các tổ chức tài chính. Trên thực tế, các tổ chức tài chính là nơi cung cấp phương tiện cho các hoạt động chuyển tiền trong nước và quốc tế; đồng thời cũng cung cấp các phương tiện để chuyển đổi các đồng tiền. Ngân hàng thương mại thường là đối tượng được nhắm đến nhiều nhất. Ngoài ra, các tổ chức tài chính khác, như công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm cũng có thể nằm trong mục tiêu của quy trình này thông qua một số hoạt động, như gửi tiền đầu tư chứng khoán hay mua các hợp đồng bảo hiểm.

Hoạt động rửa tiền gây nhiều tác động tiêu cực cả trực tiếp và gián tiếp đến các tổ chức tài chính của một quốc gia, như làm mất uy tín của các tổ chức tài chính, làm giảm chất lượng đội ngũ nhân viên của các tổ chức tài chính. Không những thế, hành vi phạm pháp này còn ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác giữa các tổ chức tài chính trong nước với các tổ chức tài chính quốc tế, gây khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Hơn nữa, hoạt động rửa tiền cũng khiến các tổ chức tài chính “bình phong” xuất hiện và hoạt động rộng rãi, gây mất ổn định cho nền kinh tế và tác động xấu đến hoạt động của các tổ chức tài chính thực sự.

Ở Việt Nam, hệ thống tổ chức tài chính được quản lý bởi nhiều cơ quan và được điều chỉnh bởi những bộ phận pháp luật khác nhau. Trong đó, các giao dịch được tập trung thực hiện thông qua hệ thống của các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Do đó, việc phòng, chống hoạt động rửa tiền của các tổ chức tín dụng là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với Việt Nam. Hệ thống pháp luật Việt Nam cần đáp ứng được những yêu cầu, tiêu chuẩn quốc tế về phòng, chống tội phạm và các hoạt động rửa tiền, không chỉ để phù hợp với vai trò là thành viên của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), mà còn để ngăn ngừa và phòng, chống tội phạm rửa tiền một cách hiệu quả nhất.

Hiện nay, Việt Nam không nằm trong danh sách “đen” những quốc gia có rủi ro về rửa tiền và tài trợ cho khủng bố gây bất ổn cho hệ thống tài chính quốc tế mà FATF đưa ra. Tuy nhiên, cũng theo đánh giá của FATF, Việt Nam vẫn thuộc danh sách các quốc gia còn thiếu hụt các cơ chế chống rửa tiền, chống khủng bố. Vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp nhằm tránh những nguy cơ có thể tổn hại đến uy tín và hoạt động ngoại thương. Trong đó, có thể tập trung vào một số giải pháp trọng tâm như:

Thứ nhất, bảo đảm triển khai xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến phòng, chống rửa tiền theo đúng tiến độ đã giao theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 25-11-2014, về Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 - 2020.

Thứ hai, bổ sung các chỉ dẫn, hướng dẫn để nhận diện giao dịch đáng ngờ, kể cả đối với các giao dịch chưa được hoàn tất, nhưng đáng ngờ về bản chất.

Thứ ba, duy trì và tăng cường các biện pháp nhằm tạo ra khung khổ chính sách hướng tới nền kinh tế không sử dụng tiền mặt vào thực tiễn.

Thứ tư, tăng cường, nâng cao năng lực của Cục phòng, chống rửa tiền để trở thành một cơ quan đầu mối thu thập, chia sẻ và xử lý thông tin của các đối tượng, báo cáo theo Luật Phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh đó, có các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật để Cục phòng, chống rửa tiền hoạt động hiệu quả, thực chất.

Thứ năm, triển khai tổng thể các biện pháp nhằm đưa những nội dung của Hiệp ước Basel II vào thực hiện tại các ngân hàng thí điểm, từ đó mở rộng ra toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng. Đồng thời, nghiên cứu tính khả thi và xây dựng kế hoạch đưa Basel III và Basel IV vào triển khai trên thực tế tại Việt Nam, nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro của các tổ chức tín dụng Việt Nam tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế.

Nguy cơ tấn công mạng và an toàn dữ liệu cá nhân

Bảo vệ dữ liệu cá nhân trên không gian mạng ngày càng có vai trò quan trọng (Trong ảnh: Người dân làm thẻ căn cước công dân gắn chíp điện tử có đô tích hợp dữ liệu lớn và độ bảo mật cao về thông tin cá nhân)_Ảnh: TTXVN

Quá trình hội nhập sâu rộng cùng việc chuyển đổi sang nền kinh tế số cũng đặt ra những vấn đề mới về an toàn thông tin; nhiều công nghệ mới được áp dụng như trí tuệ nhân tạo (Al), Internet kết nối vạn vật (Iot), điện toán đám mây (Cloud computing), điện toán di động (Mobility)...; chuỗi cung ứng và dịch vụ của bên thứ ba được mở rộng. Vì vậy, phạm vi, không gian bị tấn công trên môi trường số ngày càng tăng lên; công nghệ mới cũng bị lợi dụng để phục vụ cho các mục đích xấu; khả năng kiểm soát và bảo đảm an toàn thông tin không theo kịp tốc độ chuyển đổi số.

Theo dữ liệu của Bộ Công an về tình hình an ninh mạng, dữ liệu cá nhân, hiện nay có hơn 2/3 dữ liệu cá nhân của người dân Việt Nam đang được lưu trữ, đăng tải, chia sẻ và thu thập trên không gian mạng với nhiều hình thức và mức độ chi tiết khác nhau. Tình trạng lộ dữ liệu cá nhân diễn ra phổ biến trên không gian mạng trong khi người sử dụng chưa có ý thức bảo vệ dữ liệu cá nhân. Những dữ liệu này bị lộ trong quá trình đăng tải công khai hoặc chuyển giao, lưu trữ, trao đổi các thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh hoặc do biện pháp bảo vệ không tương xứng dẫn tới dữ liệu cá nhân bị chiếm đoạt và đăng tải công khai.

Từ tháng 5-2019 đến nay, đã xuất hiện chiến dịch tấn công phishing nhằm vào các ngân hàng tại Việt Nam với mục đích thu thập thông tin cá nhân, thông tin giao dịch thanh toán của khách hàng... Chỉ riêng trong sáu tháng đầu năm 2022,  có hơn 1.000 lượt phản ánh của người dân về các sự vụ lừa đảo trên không gian mạng. Số liệu của Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) cho thấy, tại Việt Nam có tới 36% các cuộc tấn công phishing nhằm vào hệ thống ngân hàng, 16% các cuộc tấn công phishing nhằm vào lĩnh vực viễn thông. Các tổ chức, doanh nghiệp và người dân nước ta hiện đang là mục tiêu tấn công của 2.739 trang phishing lừa đảo, 2.717 trang web giả mạo.

Việc lộ, lọt dữ liệu cá nhân trên thế giới và ở nước ta đang trong tình trạng rất đáng báo động, do hành lang pháp lý chưa hoàn thiện cùng với ý thức của người dân về bảo vệ thông tin cá nhân chưa cao. Vì vậy, chúng ta cần lưu ý một số giải pháp:

Thứ nhất, xây dựng hành lang pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân, đề xuất ban hành Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân làm căn cứ pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân, đề xuất ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân căn cứ theo tiêu chuẩn của nhiều nước trên thế giới.

Thứ hai, tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ dữ liệu cá nhân gắn với đào tạo kỹ năng số cơ bản, có tài khoản giao dịch trực tuyến, chữ ký số, chữ ký điện tử cá nhân, sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Việc chuyển đổi từ môi trường thực sang môi trường số kéo theo những nguy cơ mới trong lĩnh vực thông tin mạng. Vấn đề quan trọng là làm gì để hạn chế đến mức thấp nhất những nguy cơ mất an toàn thông tin.

Thứ ba, ở một số lĩnh vực đặc thù như Chính phủ điện tử xuất hiện nhiều nguy cơ dẫn đến tình trạng mất an toàn thông tin, do đó cần kiểm tra, đánh giá lại mức độ bảo mật của các thiết bị số đang sử dụng phục vụ Chính phủ điện tử.

Thứ tư, tăng cường phát hiện và quyết liệt xử lý các trang mạng lừa đảo, giả mạo, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng; điều tra, xử lý kịp thời đối tượng rao bán, trục lợi từ dữ liệu cá nhân.

Thứ năm, tăng cường đôn đốc các bộ, ngành địa phương xây dựng kế hoạch và triển khai diễn tập, trực chiến; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về triển khai các hoạt động ứng cứu khẩn cấp sự cố an toàn thông tin mạng; tiến tới hoàn thành phân loại, xác định và phê duyệt đề xuất về cấp độ hệ thống thông tin.

Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động lợi dụng internet, mạng xã hội để phát tán các loại thông tin sai trái, thù địch nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tác động tiêu cực đến tư tưởng, nhằm làm suy giảm lòng tin của cán bộ, nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Các thế lực thù địch, phản động đã tăng cường chống phá thông qua một số hoạt động:

 Thứ nhất, tuyên truyền chống phá Đại hội của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội, với các luận điệu như, đưa ra những đồn đoán sai lệch về nhân sự cấp cao trong Đảng và Nhà nước; xuyên tạc nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Quốc hội; tung tin nói xấu, bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và một số cán bộ chủ chốt các cấp.

Thứ hai, lợi dụng một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện thoái hóa, biến chất, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các đối tượng phản động phát tán nhiều tài liệu, bài viết, “thư ngỏ” trên các trang mạng xã hội tuyên truyền, kêu gọi cán bộ, đảng viên “từ bỏ chế độ”, “từ bỏ Đảng”, “ủng hộ” cái gọi là phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, nhân quyền, tham gia “phong trào đấu tranh lật đổ chế độ”.

Thứ ba, lợi dụng các vấn đề nhạy cảm, dễ gây bức xúc trong đời sống xã hội liên quan đến lực lượng vũ trang, các đối tượng phát tán tài liệu trên không gian mạng để vu cáo, nói xấu nội bộ lãnh đạo, chỉ huy, xuyên tạc chức năng, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, gây hoài nghi, bức xúc trong dư luận xã hội, tác động xấu tới tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ.

Thứ tư, lợi dụng sự việc Bộ Chính trị xử lý kỷ luật một số cán bộ cấp cao, trong đó có lực lượng vũ trang; lợi dụng các thông tin, tài liệu, hình ảnh có liên quan đến lực lượng vũ trang do báo chí phản ánh để lồng ghép các hình ảnh, bài viết nói xấu, hạ bệ uy tín của tướng lĩnh, cán bộ và chiến sĩ, gây ảnh hưởng tới hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, “Chiến sĩ Công an Nhân dân”.

Vì vậy, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay, để tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, các tầng lớp nhân dân, các cán bộ, chiến sĩ về âm mưu, thủ đoạn, các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng. Các cấp ủy, chính quyền cần chỉ rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Mọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, nhận diện rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; đấu tranh mạnh mẽ sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Hai là, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm các quy định về bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, quy định về quan hệ, tiếp xúc với cá nhân, tổ chức nước ngoài của quân nhân, cán bộ chiến sĩ, như Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; Thông tư số 202/2016/TT-BQP, ngày 12-12-2016, của Bộ Quốc phòng, quy định về bảo đảm an toàn thông tin trong Quân đội nhân dân Việt Nam; Công văn số 630/BVAN-P9, ngày 22-2-2019, của Cục Bảo vệ an ninh Quân đội, về việc hướng dẫn thực hiện công tác Bảo vệ an ninh cá nhân, tổ chức nước ngoài của quân nhân... Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Ba là, thúc đẩy mạnh mẽ công tác thông tin tuyên truyền, lan tỏa những hình ảnh tốt đẹp, sự phát triển của đất nước và con người Việt Nam; của các đơn vị lực lượng vũ trang. Đẩy mạnh việc tuyên truyền và tích cực tham gia cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bốn là, thực hiện tốt công tác dân vận; công tác nêu gương; thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng; phát động quần chúng tích cực tham gia phong trào đấu tranh, bảo vệ Đảng, chế độ, đất nước.

Nguy cơ về an ninh lương thực và an ninh năng lượng

Thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng lương thực chưa từng có. Theo cảnh báo của Liên hợp quốc, nguy cơ xảy ra nạn đói ở nhiều nơi trong năm 2022 đang hiện hữu. Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu hiện nay nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Hiện nay, khả năng cung ứng lương thực toàn cầu đang trở nên “bấp bênh” khi khó tìm được nguồn cung thay thế bởi chuỗi cung ứng đang bị gián đoạn do ảnh hưởng của cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na; sự biến đổi khí hậu ở nhiều nơi trên thế giới cũng tác động không nhỏ tới nguồn cung cho thị trường thế giới.

Chính phủ của một số quốc gia đã phải nhanh chóng rút lại quyết định “giải cứu” thế giới bằng lương thực của mình, chỉ xuất khẩu một lượng lương thực rất hạn chế và dành hầu hết sản lượng phục vụ nhu cầu trong nước. Chương trình Lương thực thế giới (WFP) dự báo, dưới tác động căng thẳng của cuộc xung đột giữa Nga - U-crai-na - hai nước sản xuất nông nghiệp lớn của thế giới - số người phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực sẽ gia tăng thêm ít nhất 33 triệu người, hầu hết ở vùng phía Nam sa mạc Xa-ha-ra ở châu Phi. Các chuyên gia kinh tế của Ngân hàng thế giới cho rằng, các hạn chế xuất khẩu đang có nguy cơ làm trầm trọng hơn đà gia tăng giá lương thực toàn cầu, gây hiệu ứng đô-mi-nô lên các quốc gia khác, trong đó có các quốc gia xuất khẩu nông sản chủ yếu trong khu vực Đông Nam Á như Việt Nam.

Bên cạnh an ninh lương thực, việc bảo đảm an ninh năng lượng và phát triển bền vững cũng được xác định là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam. Trong đó, các vấn đề về giá cả và sự đa dạng về nguồn cung là những yếu tố có tính quyết định.

Thế giới đang chật vật đối phó với cuộc khủng hoảng giá dầu mỏ và khí đốt, thậm chí có xu hướng quay lại duy trì sử dụng nhiệt điện than để bảo đảm nguồn cung năng lượng. Kể từ khi cuộc xung đột Nga - U-crai-na xảy ra, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) đã tiến hành hàng loạt  biện pháp cấm vận Nga, dẫn đến giá dầu mỏ và giá khí đốt tăng vọt. Do giá nhiên liệu và giá điện tăng cao, hầu hết các quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng tăng trưởng chậm, lạm phát leo thang, đời sống người dân bị thắt chặt và bất ổn về chính trị. Điều này đã dẫn đến các chính sách giải quyết thiếu hụt năng lượng bằng việc thúc đẩy sản xuất nhiên liệu hóa thạch, dù biết đây là cách thức không thân thiện với môi trường. Đối với Việt Nam, vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng luôn được ưu tiên hàng đầu. Qua số liệu Dự thảo Quy hoạch Điện VIII của Bộ Công Thương, có thể thấy an ninh năng lượng trong nước ta đang đối mặt với một số vấn đề:

Thứ nhất, với đề xuất nguồn điện khí hóa lỏng (LNG) sẽ chiếm 16,4% công suất toàn hệ thống điện vào năm 2030 và 14,8% vào năm 2035 cho thấy, việc bảo đảm an ninh năng lượng sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại vì nguồn LNG này phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu, giá cả biến động khó lường, không thể kiểm soát.

Thứ hai, đối với điện gió trên bờ, dự kiến chiếm 11% công suất toàn hệ thống vào năm 2030 và 14,3% vào năm 2045; điện gió ngoài khơi chiếm 4,8% vào năm 2030 và đến 2045 là 17% và điện mặt trời dự kiến chiếm 19,4% vào năm 2045 là bước đột phá chuyển dịch năng lượng. Tuy nhiên, rất khó để có thể bảo đảm an ninh năng lượng nếu chỉ trông chờ vào điện gió, điện mặt trời vì hai nguồn năng lượng này không mang tính ổn định.

Điện gió ở tỉnh Bạc Liêu_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thứ ba, dự thảo Quy hoạch điện VIII chưa xem xét đến phát triển điện hạt nhân đến năm 2045, trong khi hiện nay, điện hạt nhân đang đóng góp trên 10% sản lượng điện toàn cầu và chiếm 1/3 trong số các loại nguồn điện được tạo ra bằng công nghệ phát thải các-bon thấp.

Do sự ảnh hưởng lẫn nhau của các quốc gia trong mạng lưới hội nhập sâu rộng, để ngăn chặn sự gia tăng của xu hướng mất an ninh lương thực nghiêm trọng trong những năm tới, các quốc gia cần ưu tiên mở rộng sản xuất lương thực bằng cách cung cấp nguồn lực đầu vào thiết yếu cho sản xuất nông nghiệp cũng như bảo vệ vật nuôi. Bên cạnh đó, các quốc gia cần nhanh chóng chuyển đổi hệ thống nông sản mang lại hiệu quả hơn, toàn diện hơn, linh hoạt hơn và bền vững hơn, đồng thời nỗ lực giảm thiểu tình trạng thất thoát, lãng phí lương thực, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, canh tác. Trên bình diện quốc tế, tăng cường hợp tác đa phương nhằm thúc đẩy an ninh lương thực, bảo đảm các chuỗi cung ứng, sản xuất, phân phối... luôn được duy trì. Cùng với đó, khu vực nhà nước và tư nhân cần tham gia vào các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị nông sản để hỗ trợ những nông dân sản xuất nhỏ và các hộ gia đình.

Đối với vấn đề an ninh năng lượng, việc bảo đảm an ninh và phát triển bền vững được xác định là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của nước ta. Hiện nay để đối phó với vấn đề thiếu hụt năng lượng, một số nước trên thế giới đã tiến hành bơm thêm dầu và hồi sinh nhiệt điện than. Tuy nhiên, giải pháp này dễ khiến các nước rơi vào thế mâu thuẫn với mục tiêu phát triển bền vững. Nhằm tránh rơi vào tình trạng như vậy, chúng ta cần có những tính toán, cân nhắc cụ thể về việc phát triển các nguồn điện thay thế, ít phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài và xây dựng hệ thống lưu trữ điện năng với mục tiêu cơ bản là bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển bền vững. Tính đến thời điểm này, Thủ tướng Chính phủ chưa phê duyệt Quy hoạch điện VIII, do vậy, vẫn còn cơ hội để bổ sung lĩnh vực phát triển điện hạt nhân vào giai đoạn 2030 - 2045 nhằm tạo thêm nguồn điện ổn định, phát thải thấp thay thế nhiệt điện than. Để thực hiện được mục tiêu này, cần có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút, khuyến khích các nhà đầu tư từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau bỏ vốn vào phát triển thị trường năng lượng, giúp cho công cuộc chuyển dịch năng lượng của Việt Nam thành công trong thời gian tới.

Việc nhận diện rõ các nguy cơ, thách thức đe dọa đến an ninh quốc gia trong thời kỳ hội nhập kinh tế của Việt Nam chính là tiền đề để chúng ta nghiên cứu, đưa ra những bước đi phù hợp, chủ động ứng phó với những thách thức, góp phần giữ vững môi trường an ninh ổn định, trật tự xã hội, đưa đất nước ngày một phát triển bền vững hơn./.

ST.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc” trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay

Đảng ta xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước. Trong cuộc chiến chống tham nhũng vô cùng khó khăn, phức tạp hiện nay, cần dựa vào “tai mắt”, sự giám sát của nhân dân theo tư tưởng “lấy dân là gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước khác”, là tất cả các dân tộc anh em sống trên đất nước Việt Nam và kiều bào ta ở nước ngoài. Đối với Người, “dân” là “đồng bào” với tất cả sự thân thương, tha thiết nhất của những người cùng dòng máu con Lạc cháu Hồng. Trong các buổi nói chuyện, những bài viết và trong các bức thư gửi nhân dân, Người luôn dùng từ “đồng bào” khi nói đến nhân dân, như một phương thức truyền tải tình yêu thương, tinh thần đoàn kết dân tộc.

Bác Hồ với nhân dân (Tác phẩm: Nghe lời Bác dạy của họa sĩ Vương Trình, được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)_Ảnh: Tư liệu

Nhân dân là lực lượng có sức mạnh to lớn, có vai trò quyết định trong mọi vấn đề chính trị, xã hội của đất nước, vì thế dân là gốc của mọi công việc. Với truyền thống yêu nước, anh dũng, cần cù, chăm chỉ, sáng tạo, nhân dân ta chính là nguồn vốn quý giá nhất làm nên thành công của sự nghiệp cách mạng. Hiểu dân, tin dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, dân rất tốt, rất thông minh, dân có thể “giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” và “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Nói về sức mạnh của nhân dân, Người chỉ rõ: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”; lòng dân là “vận nước” bởi vì “được lòng dân, thì việc gì cũng làm được/ Trái ý dân, thì chạy ngược chạy xuôi”. Với những quan niệm đúng đắn, toàn diện về nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “dân là gốc”. Người nói: “Nước lấy dân làm gốc… Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.

Nhân dân là chủ thể của xã hội, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân và mọi thành quả của cách mạng đều phải vì dân, phục vụ dân. Cả cuộc đời cống hiến, hy sinh vì dân, vì nước, vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm và giáo dục cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc rằng, “lấy dân làm gốc” nghĩa là nhân dân chính là chủ thể cách mạng, mục tiêu cách mạng là vì nhân dân và sự nghiệp cách mạng thực chất là sự nghiệp là của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gần dân, dựa vào dân, vì dân, trọng dân, yêu dân, học dân và trung thực với dân. Người chỉ rõ: “Dân là gốc”, là lực lượng cách mạng cơ bản và quan trọng nhất, cho nên cán bộ, đảng viên cần “phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, tức là phải gần dân, lắng nghe, đồng cảm, thấu hiểu dân, từ đó mới có quyết sách phù hợp với nhu cầu, mong mỏi của nhân dân. Người cán bộ, đảng viên phải đồng hành với dân, vì lợi ích của dân mà hành động, sẵn sàng hy sinh lợi ích bản thân vì nhân dân. Đây cũng là cách tốt nhất, hiệu quả nhất để dân tin, yêu và ủng hộ cán bộ, ủng hộ Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “lấy dân làm gốc” không chỉ là một nguyên tắc hành động mà còn là một mệnh lệnh tối thượng đối với cán bộ, đảng viên, bởi vì: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”. Người nêu rõ: “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà phải làm đày tớ cho quần chúng”. Theo Người, làm “đầy tớ” cho dân nghĩa là phục vụ dân, dốc lòng vì lợi ích của dân, làm cho dân được ấm no, hạnh phúc, làm cho dân hài lòng…

Tham nhũng là tệ nạn vô cùng nguy hiểm cho xã hội. Hồ Chí Minh từng chỉ rõ tác hại của tham nhũng: “Trộm cắp tiền bạc của nhân dân, tổn hại kinh tế của Chính phủ, cũng là mật thám, phản quốc, nếu không phải là tệ hơn nữa”. Đảng ta xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ, vì vậy, chống tham nhũng trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong cuộc chiến chống tham nhũng hiện nay, quan điểm “dân là gốc” của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự, thể hiện ở những điểm sau:

Một là, với tư cách là người chủ của xã hội, nhân dân tích cực tham gia công tác kiểm tra, giám sát, góp phần quan trọng trong việc phát hiện ra các vụ, việc tham nhũng, tiêu cực. Thực tế trong thời gian qua, nhiều vụ án tham nhũng lớn được phanh phui bắt đầu từ những thông tin do nhân dân cung cấp, tố cáo. Các cơ quan chức năng đều phải dựa vào “tai mắt” nhân dân, thu thập thông tin, chứng cứ để chứng minh các hành vi phạm tội của đối tượng vi phạm pháp luật. Nhân dân chính là lực lượng giám sát đông đảo, hiệu quả nhất đối với những hành vi sai trái của cán bộ, đảng viên.

Hai là, nhân dân tích cực tham gia phản biện xã hội về những vấn đề có liên quan đến công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đó là tham gia góp ý kiến với Đảng và Nhà nước về hoạch định chủ trương, xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng; góp ý kiến về nhân sự tham gia các vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp trong tổ chức đảng, đoàn thể, cơ quan nhà nước; giám sát, phản biện hoạt động của các cơ quan công quyền trong việc quản lý tài sản công, quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản... Đây vừa là hoạt động thể hiện quyền dân chủ của nhân dân, nhưng cũng chính là hoạt động thể hiện vai trò và trách nhiệm của người dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo đúng tinh thần “dân là gốc”.

Ba là, ý kiến của đông đảo nhân dân tạo thành dư luận xã hội lên án và đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Dư luận xã hội góp phần quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, khi cung cấp thông tin tham nhũng, tiêu cực cho các cơ quan pháp luật và báo chí vào cuộc; tạo áp lực xã hội làm cho những người có trách nhiệm và các cơ quan hữu quan phải chú ý, để tâm, chỉ đạo, tiến hành làm rõ vụ, việc để trả lời trước công luận. Dư luận xã hội tác động mạnh mẽ đến tâm lý con người, tạo khả năng răn đe, cảnh tỉnh, để những người “đang muốn tham” phải chùn tay “không dám tham”.

Khẳng định vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022, ngày 30-6-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Cuộc chiến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của chúng ta phải dựa vào dân, lắng nghe dân, lắng nghe dư luận để chọn lọc, tiếp thu cái đúng”(11).

Tuy nhiên, trong thực tế, vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả. Chưa có cơ chế hợp lý để nhân dân trực tiếp tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiệu quả; ở nhiều nơi, việc quản lý tài chính, tài sản công, đất đai, tài nguyên, khoáng sản… chưa thực sự công khai, minh bạch để nhân dân dễ dàng tiếp cận, giám sát, từ đó có thể phát hiện kịp thời những sai sót, vi phạm… Bên cạnh đó, việc thực hiện quy chế dân chủ ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu, thậm chí còn có tình trạng vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ, làm cho quyền lực không được kiểm soát, tạo cơ hội cho tham nhũng càng lộng hành, gây bất bình trong nhân dân. Một bộ phận nhân dân chưa nhận thức được trách nhiệm công dân trong công tác phát hiện và tố giác tham nhũng nên còn thờ ơ, bàng quan.

Để dựa vào nhân dân, lấy “dân là gốc” trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng để nhân dân hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình, có thái độ đấu tranh không khoan nhượng với “giặc nội xâm” này, từ đó tích cực tham gia giám sát, phát hiện, thông tin, phản ánh, tố giác hành vi tham nhũng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải phát động tư tưởng của quần chúng làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”.

Cung cấp thông tin, định hướng để hình thành dư luận xã hội mang tính tích cực, tạo cơ hội, diễn đàn cho người dân dễ dàng và chủ động tham gia bình luận, nhận xét, góp ý mang tính xây dựng, góp phần phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý cho hạt nhân tích cực trong quần chúng nhân dân (già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng…) để tăng cường tính tích cực của họ trong việc phát hiện, tố cáo tham nhũng.

Thứ hai, củng cố, hoàn thiện cơ chế, cơ sở pháp lý thực hành dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia quá trình phản biện xã hội thực chất, hiệu quả. Bảo đảm quyền dân chủ tức là người dân được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời (dân biết), người dân được trực tiếp theo dõi, giám sát các quá trình quản lý xã hội (dân kiểm tra) để kịp thời phát hiện những hành vi tiêu cực của cán bộ, đảng viên, giúp các cơ quan chức năng đưa ra ánh sáng những sai phạm, phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời hành vi tham nhũng. Đại hội XIII của Đảng khẳng định, phải thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Hiện nay, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Ở một số địa phương, cơ quan, công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước còn chưa kịp thời; việc công khai các nội dung liên quan theo quy định còn chưa đầy đủ, còn mang tính hình thức, đối phó, nên việc tiếp cận thông tin của người dân gặp nhiều khó khăn, làm cho việc thực hiện quyền giám sát, góp ý của nhân dân ở một số nơi còn hạn chế. Thực tế đó đòi hỏi phải khẩn trương tiếp tục củng cố và hoàn thiện các cơ chế thực hành dân chủ, tổ chức triển khai hiệu quả Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, tạo cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân thực chất, trong đó, thực hiện quyền và trách nhiệm của nhân dân trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực một cách hiệu quả.

Chiến sĩ công an nhân dân giúp dân thu hoạch lúa mùa_Nguồn: cand.com.vn 

Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện thể chế về công khai, minh bạch các quy trình quản lý nhà nước, quản lý tài chính, tài sản công. Trong công tác phòng, chống tham nhũng, việc bảo đảm công khai, minh bạch trong điều hành, quản lý nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc phát hiện, xử lý hành vi phạm tội. Công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước nghĩa là phải công bố rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhận biết các chức năng, nhiệm vụ, quy trình làm việc của cơ quan, đơn vị theo quy định của pháp luật một cách rộng rãi để người dân tiếp cận thông tin dễ dàng, thuận lợi nhất. Trong thực tế, tham nhũng chủ yếu xảy ra và lộng hành khi có tình trạng thiếu minh bạch, thiếu sự giám sát. Nếu bảo đảm việc công khai, minh bạch, khoa học hóa các nội dung và quy trình quản lý thì sẽ hạn chế những khoảng tối, kẽ hở về chính sách nhằm trục lợi, tham nhũng.

Mặc dù hiện nay, việc thực hiện cải cách hành chính ở các cấp chính quyền đã có nhiều tiến bộ, nhưng quy trình, thủ tục giải quyết có lúc, có nơi vẫn chưa thuận tiện, thậm chí còn tình trạng nhiêu khê, phiền hà. Nhiều trường hợp, mỗi cấp có một cách xử lý và quy định thủ tục khác nhau gây lúng túng cho người dân, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Do đó, việc đơn giản hóa, công khai hóa, minh bạch hóa các thủ tục và quy trình quản lý, minh định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước sẽ giúp người dân hiểu rõ và dễ dàng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình, đồng thời cũng sẽ ngăn chặn tình trạng người thực thi công vụ lợi dụng để vụ lợi, nhũng nhiễu. Đẩy mạnh việc xây dựng chính phủ điện tử và đồng bộ hóa dữ liệu, số hóa việc giải quyết thủ tục hành chính trên toàn quốc.

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng vô cùng phức tạp, khó khăn, phải tiến hành quyết liệt, bền bỉ, thường xuyên, không ngơi nghỉ, do đó cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả nhiều giải pháp, trong đó đặc biệt chú trọng việc phát huy sức mạnh của nhân dân, dựa vào nhân dân như một giải pháp cơ bản, hiệu quả, theo tinh thần “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

ST.

Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng về tư tưởng - nhìn từ các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc Việt Nam (1954 - 1975)

Trong thực tiễn lãnh đạo từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và xác định, đây là lĩnh vực trọng yếu nhằm xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng với tinh thần sáng tạo và đạt kết quả cao nhất. Những cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975 - giai đoạn có ý nghĩa lịch sử quan trọng - để lại những bài học kinh nghiệm quý về công tác xây dựng Đảng trong lĩnh vực tư tưởng giai đoạn hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các học viên dự lớp bồi dưỡng đảng viên mới của Đảng bộ Hà Nội, tháng 5-1966_Nguồn: hochiminh.vn

Các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc Việt Nam (1954 - 1975) - một số kinh nghiệm rút ra

Sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ, nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ lịch sử đặc biệt. Theo nội dung Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954), nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc, lấy vĩ tuyến 17 dọc sông Bến Hải, thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị là giới tuyến quân sự tạm thời. Ngay sau khi Hiệp định vừa ký kết, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp, chiếm đóng miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam. Thực tiễn lịch sử khắc nghiệt đó đặt ra cho Đảng và nhân dân ta phải đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với mục tiêu hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Hai chiến lược đó có quan hệ mật thiết, quyết định lẫn nhau dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng.

Để thực hiện đồng thời hai chiến lược này, yêu cầu nâng cao vai trò, hiệu quả lãnh đạo của Đảng được đặc biệt coi trọng. Trong nhiều giải pháp, Đảng nhấn mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với 5 cuộc vận động, chỉnh đốn Đảng lớn được thực hiện ở miền Bắc trong thời kỳ 1954 - 1975:

1- Cuộc vận động chỉnh đốn tổ chức gắn liền cải cách ruộng đất (tháng 12-1954 đến tháng 7-1956). Ngày 7-12-1954, Đảng ban hành Chỉ thị “Về việc chỉnh đốn chi bộ nông thôn trong cải cách ruộng đất”, nhằm mục tiêu xây dựng các chi bộ trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị ở nông thôn, bảo đảm đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh ở nông thôn.

2- Cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961. Ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW “Về cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân 1961”, là cuộc chỉnh huấn lớn nhất về tư tưởng từ khi hoà bình lập lại ở miền Bắc. Mục đích nhằm tích cực bồi dưỡng và xây dựng tư tưởng mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động, để trên cơ sở đó khắc phục những tư tưởng sai lầm đang cản trở sự nghiệp cách mạng.

3- Cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965. Ngày 2-1-1965, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 88-CT/TW tiến hành cuộc vận động, chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965. Cuộc vận động, chỉnh huấn được tiến hành trong toàn Đảng nhằm nâng cao ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức và kỷ luật, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

4- Cuộc vận động xây dựng chi bộ bốn tốt (1962 - 1968). Đầu tháng 6-1962, Ban Bí thư Trung ương Đảng mở cuộc vận động “Xây dựng chi bộ, đảng bộ bốn tốt”. Tiếp đó, ngày 6-7-1965, Ban Bí thư ra Nghị quyết số 122-NQ/TW “Về tăng cường lãnh đạo, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở bốn tốt” trong ba năm (1965 - 1968). Mục tiêu của hai cuộc vận động này nhằm làm cho chi bộ và tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân lãnh đạo vững chắc, đủ sức tổ chức và lãnh đạo quần chúng hoàn thành tốt những nhiệm vụ cơ bản đề ra cho từng loại cơ sở, thiết thực đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị của miền Bắc.

5- Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh (1970 - 1972). Ngày 6-3-1970, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 195-NQ/TW quyết định mở cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Mục đích chính của cuộc vận động là giáo dục, bồi dưỡng đảng viên, kết nạp đảng viên bảo đảm chất lượng, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng nhằm tăng cường sức chiến đấu, củng cố sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, làm cho Đảng luôn trong sạch và vững mạnh.

Từ việc Đảng lãnh đạo tiến hành các cuộc vận động, chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho công tác xây dựng Đảng về tư tưởng:

Một là, xây dựng Đảng về tư tưởng phải xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ chính trị.

Thời kỳ 1954 - 1975 là giai đoạn đầy khó khăn, thử thách trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, ở miền Bắc, các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng đều chú trọng đến việc xây dựng một hệ thống tố chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, vững mạnh, có tính kỷ luật cao; xây dựng các cấp ủy đảng đặc biệt chi bộ, đảng bộ cơ sở; tăng cường số lượng, chất lượng, tính chiến đấu cho đội ngũ đảng viên trở thành nòng cốt cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam… Cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961 diễn ra khi miền Bắc thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Lúc này, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên có nhiều diễn biến phức tạp, sự giác ngộ về chủ nghĩa xã hội còn yếu, tư tưởng tiểu tư sản còn nặng, còn có những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, tinh thần phấn đấu cách mạng bị giảm sút, ý thức tổ chức và quan điểm lao động chưa được đề cao tương xứng với tinh thần triệt để của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, Đảng xác định cần phải tiến hành cuộc chỉnh huấn lớn về công tác tư tưởng với mục đích làm cho tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng lao động phù hợp với yêu cầu phát triển của cách mạng và trở thành một lực lượng vật chất mạnh mẽ bảo đảm thi hành Nghị quyết Đại hội III của Đảng, hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước và thúc đẩy cách mạng phát triển lên những bước mới. Do đó, nội dung của cuộc chỉnh huấn tập trung vào xây dựng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động tinh thần làm chủ Nhà nước, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa; quan điểm phục vụ sản xuất; quan điểm cần, kiệm xây dựng Tổ quốc; quan điểm tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Từ năm 1965, tình hình ở Việt Nam có những thay đổi quan trọng, từ bối cảnh chiến tranh ở phạm vi một nửa quốc gia, đã lan rộng trên phạm vi cả nước. Nhiệm vụ chính trị của miền Bắc lúc này là tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại, tiếp tục thực hiện cao hơn nhiệm vụ là hậu phương lớn cho miền Nam. Nhưng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã xuất hiện tư tưởng ngại gian khổ, sợ hy sinh, thiếu cảnh giác cách mạng, tinh thần trách nhiệm và tính chủ động, sáng tạo trong công tác còn thấp. Trước tình hình đó, Đảng thực hiện cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965 gắn với “chuyển hướng tư tưởng” theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW của Trung ương Đảng. Sau chỉnh huấn, đại đa số các tổ chức của Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của miền Bắc vững vàng, kiên định về lập trường tư tưởng trong khói lửa của chiến tranh.

Như vậy, các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975 được thực hiện trên cơ sở bám sát các nhiệm vụ chính trị. Gắn với điều kiện thực tiễn và yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mà nội dung các cuộc chỉnh huấn luôn có sự linh hoạt, điều chỉnh. Điều này đã góp phần đưa miền Bắc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ miền Bắc và là hậu phương vững chắc để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hai là, xây dựng Đảng về tư tưởng phải gắn chặt với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tổ chức.

Xác định đúng mối quan hệ giữa xây dựng Đảng về tư tưởng với xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức, trong quá trình xây dựng Đảng về tư tưởng ở miền Bắc giai đoạn 1954 - 1975, Đảng luôn chú trọng sự gắn kết với xây dựng Đảng về tổ chức. Cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961 và mùa Xuân năm 1965 được triển khai sâu rộng với nội dung đẩy mạnh hoạt động bồi dưỡng lý luận Mác - Lê-nin và tư tưởng vô sản cho cán bộ, đảng viên. Quá trình này tác động tới công tác tổ chức, mà cụ thể là chất lượng các tổ chức đảng. Đơn cử, tại tỉnh Bắc Giang, sau cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961, chất lượng các chi bộ đều có sự chuyển biến, sau xếp loại, đã có có 26 chi bộ kém trở thành chi bộ trung bình, 4 chi bộ từ kém lên khá, 37 chi bộ từ trung bình lên khá. Tại Tổng cục Đường sắt, trong cuộc chỉnh huấn, đã tiến hành phân loại được 229 chi bộ, đạt tỷ lệ 60%; mặc dù tiêu chuẩn phân loại chi bộ quy định cao hơn trước nhưng số chi bộ khá và trung bình đều được tăng lên, số chi bộ kém qua mỗi kỳ phân loại thấp dần. Sau cuộc chỉnh huấn, số chi bộ khá chiếm 20%, chi bộ kém chỉ còn 4,3%. Sự vững mạnh của chi bộ đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở trong những năm sau này. 

Thực tiễn của cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở “bốn tốt” đã cho thấy sức gắn kết tự nhiên và cần thiết giữa nội dung, kết quả xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và xây dựng Đảng về tổ chức. Cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở “bốn tốt” đều nhằm vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và lấy đó là một tiêu chí quan trọng để đánh giá kết quả cuộc vận động. Quá trình chuyển biến của số đông chi bộ, đảng bộ cơ sở từ trung bình hoặc từ kém trở thành “bốn tốt” chính là quá trình tăng cường, chú trọng công tác tư tưởng, chính trị và kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, chính trị với công tác tổ chức. Năm 1965, kết quả xếp loại chi bộ ở khu vực nông thôn: Số chi bộ trung bình giảm từ 38,6% xuống còn 33,2%, số chi bộ kém giảm từ 9,8% xuống còn 8,5%; ở khu vực xí nghiệp, số chi bộ trung bình giảm từ 44,5% xuống còn 36,7%, số chi bộ kém giảm từ 3,1% xuống còn 2,2,%. Điều này cho thấy, việc làm tốt công tác tư tưởng, chính trị gắn với công tác tổ chức đã tạo nên nhiều chi bộ, đảng bộ cơ sở “bốn tốt”, nâng cao hơn tinh thần phấn đấu cách mạng, ý thức trách nhiệm, sự gương mẫu của người đảng viên, đồng thời góp phần củng cố, kiện toàn các chi bộ đảng.

Ba là, xây dựng Đảng về tư tưởng cần chú trọng đến nguyên tắc tự phê bình và phê bình.

Luôn coi trọng công tác tự phê bình và phê bình theo tinh thần “thật thà, tự nguyện, chân tình, xây dựng”, các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc Việt Nam (1954 - 1975) đã tạo ra không khí cởi mở, dân chủ, khách quan, phê bình đúng người, đúng việc để nhận xét, đánh giá, phân tích, đưa ra ưu điểm và khuyết điểm có lý, có tình. Mỗi cán bộ, đảng viên tiến hành kiểm thảo trên bốn mặt: Nhận thức nhiệm vụ cách mạng; quan điểm lập trường giai cấp; ý thức tư tưởng; tác phong công tác. Trong khi kiểm thảo, các cá nhân thực hiện tự phê bình và phê bình trên tinh thần khách quan, giúp đỡ, không có những hiện tượng phê phán sai trọng tâm hoặc phê phán chụp mũ. Tiến hành phê bình trên cơ sở công việc cụ thể của mỗi người, xác định ưu điểm, khuyết điểm chính và nguyên nhân, tránh lối nêu sự việc chung chung. Thái độ của người được phê bình khiêm tốn, dũng cảm nhận sai lầm và khuyết điểm để sửa chữa. Các cơ quan, đơn vị tiến hành tự phê bình và phê bình với tinh thần tự nguyện, tự giác, qua đó, những tư tưởng sai trái, tự mãn công thần, địa phương, cục bộ, tự do vô kỷ luật, quan liêu mệnh lệnh, ỷ lại, bảo thủ, thiếu trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên và quần chúng đã được phê phán sâu sắc. Trong cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961, các cán bộ, đảng viên đã nêu cao tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình, xem xét lại bản thân một cách nghiêm túc, thấy rõ những sai lầm để sửa chữa và ưu điểm để phát huy. Đơn cử, với tinh thần đó, các cơ quan, đơn vị tiến hành kiểm thảo đối với 114 đồng chí của Ban Dân tộc Trung ương. Kết quả: có 80 người tư tưởng suy bì đãi ngộ hưởng thụ, 66 người không yên tâm công tác, 68 người kém đấu tranh nội bộ, 54 người kém tinh thần trách nhiệm, 52 người hoài nghi thiếu tin tưởng ở cán bộ lãnh đạo, 47 người cầu an, ngại khó ngại khổ, 47 người tư tưởng rụt rè, 51 người quan liêu đại khái, 68 người phô trương hình thức, 32 người tư tưởng bảo thủ, 16 người tư tưởng dân tộc lớn, tư tưởng dân tộc địa phương…

Trong cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh (1970 - 1972), tại Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, với tinh thần tự phê bình và phê bình cao, chỉ ra những khuyết điểm và đưa ra cách thức sửa chữa cho mỗi đảng viên, nên sau một thời gian đã đưa tỷ lệ đảng viên tốt tăng từ 51% năm 1969 lên 68,6% năm 1972. Với việc thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình trong chỉnh huấn, tư tưởng của mọi người có nhiều biến chuyển, nhiệt tình cách mạng và ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân được nâng lên, đoàn kết nội bộ được củng cố, sức chiến đấu của tổ chức đảng được tăng cường. Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên càng nhận rõ trách nhiệm của mình trước tình hình, nhiệm vụ mới, thấy rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần tập thể, quyết tâm phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh vực công tác để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới của cách mạng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp có những chuyển biến tốt, nỗ lực phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững được vai trò, vị trí tiền phong gương mẫu, ngày càng nâng cao được năng lực, trình độ tổ chức lãnh đạo quần chúng thực hiện nhiệm vụ cách mạng.

Chi bộ Đại diện Văn phòng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức về nguồn và kết nạp đảng viên mới tại Di tích lịch sử chiến khu Rừng Sác Cần Giờ_Nguồn: baovephapluat.vn

Vận dụng vào công tác xây dựng Đảng về tư tưởng trong giai đoạn hiện nay

Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xem đây là nhiệm vụ then chốt, quyết định sức mạnh, uy tín của Đảng. Trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến tích cực. Bản chất, lập trường giai cấp công nhân của Đảng được giữ vững, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và người đứng đầu các cấp từng bước được nâng lên. Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và trong nước đang có những diễn biến phức tạp, nổi bật là những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tình trạng tham nhũng, tiêu cực diễn biến phức tạp… Do đó, nhìn từ những kinh nghiệm cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975, để góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng về tư tưởng trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp:

Thứ nhất, tiếp tục chú trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, bám sát nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng. Trong mọi thời kỳ, công tác tư tưởng của Đảng luôn bám sát nhiệm vụ chính trị. Với giai đoạn hiện nay, điều này lại càng cần thiết. Toàn Đảng, toàn quân và nhân dân đang thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, công tác tư tưởng phải gắn bó mật thiết và phục vụ hiệu quả mục tiêu trên. Xây dựng Đảng về tư tưởng cần được triển khai đồng bộ, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên luôn có tư tưởng cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến công. Đó là kiên định vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Xây dựng Đảng về tư tưởng còn là sự chủ động trong đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Để làm được điều đó, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đặt ra yêu cầu với mỗi cán bộ, đảng viên ý thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, luôn có tinh thần trau dồi, nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Thứ hai, xây dựng Đảng về tư tưởng luôn gắn liền với xây dựng Đảng về chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng với xây dựng Đảng về chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, gắn bó mật thiết. Bởi vậy, Đảng luôn chú trọng đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện trên tất cả các mặt. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng về tư tưởng sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Quá trình này cũng góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của tổ chức đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về mọi mặt trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Thứ ba, tiếp tục chú trọng nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Để làm tốt công tác tư tưởng, đẩy lùi những suy thoái về tư tưởng, tránh tình trạng mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, cần chú trọng nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Bởi lẽ, thông qua công tác tự phê bình và phê bình là để “thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động” trong Đảng. Tự phê bình và phê bình chính là một cuộc “đấu tranh” trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Việc tự phê bình và phê bình phải được tiến hành kiên quyết, triệt để, thường xuyên trên cơ sở của tình yêu thương đồng chí, để cho đồng chí mình tiến bộ hơn, tốt hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Trong giai đoạn hiện nay, cần đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tự phê bình và phê bình gắn với nhận diện sớm những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Từ đó, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ của một đảng duy nhất cầm quyền./.

ST.