Thứ Năm, 4 tháng 7, 2024

Phản bác những đánh giá sai lệch về Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”.

 Kể từ khi được công bố, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” cung cấp những thông tin chân thực về tôn giáo, chính sách tôn giáo, thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và những ưu tiên nhằm thúc đẩy việc thụ hưởng ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Với vai trò quan trọng đó, Sách trắng cũng trở thành tâm điểm công kích, phê phán thiếu thiện chí của các lực lượng cực đoan nhằm phủ nhận chính sách tôn giáo và những thành tựu quan trọng về bảo đảm quyền tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong suốt thời kỳ đổi mới. Do đó, việc nhận diện và phản bác những đánh giá sai lệch về Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là rất cần thiết, nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” được Ban Tôn giáo Chính phủ cho ra mắt bạn đọc vào tháng 12-2022, là cuốn cẩm nang hữu ích, cung cấp đầy đủ thông tin về việc thực thi và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Cuốn sách tập trung vào các nội dung: Giới thiệu chung về các tôn giáo ở Việt Nam; quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, những nguyên tắc hiến định và chính sách, pháp luật hiện hành về tín ngưỡng, tôn giáo; thành tựu, thách thức và hướng ưu tiên của Việt Nam trong việc bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp mặt thân mật Đoàn đại biểu chức sắc, chức việc, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo _Ảnh: TTXVN

Cuốn Sách trắng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ cung cấp đầy đủ những thông tin chân thực về tình hình tôn giáo mà còn làm rõ cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý vững chắc của việc bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, một số tổ chức phản động, thù địch và các lực lượng cực đoan đã cố tình bóp méo, xuyên tạc và bịa đặt trắng trợn nội dung, ý nghĩa của cuốn sách nhằm tạo luồng dư luận trái chiều, gây nhiễu loạn thông tin và kích động phản ứng tiêu cực từ một số tổ chức quốc tế và các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn trong nước. Những luận điệu sai trái, thù địch của các lực lượng chống phá được đăng tải trên các diễn đàn và trên các phương tiện truyền thông xã hội chủ yếu tập trung vào một số vấn đề sau:

Một là, trắng trợn vu cáo Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là “bức bình phong” che đậy “các vi phạm về tôn giáo, tín ngưỡng kéo dài tại Việt Nam”(?!) - nguyên nhân khiến Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào Danh sách theo dõi đặc biệt về tôn giáo (SWL) năm 2022 và khuyến nghị đưa trở lại Danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt (CPC) năm 2023.

Như đã trở thành thông lệ, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế (USCIRF) của Hoa Kỳ hằng năm đều tự cho mình cái quyền đưa các bản báo cáo nhân quyền, tự do tôn giáo để giám sát, can thiệp và áp dụng các biện pháp chế tài đối với các nước trên thế giới nếu “vi phạm hệ giá trị, chuẩn mực về nhân quyền, phẩm giá con người” mà Hoa Kỳ tự ý và chủ quan áp đặt. Theo Đạo luật tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, những nước gần chạm ngưỡng CPC phải được đưa vào SWL để theo dõi sát sao và nếu sau một thời gian vẫn không cải thiện thì đó là căn cứ để chính thức đưa vào CPC. Các nước bị chỉ định CPC phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt, nặng nhất là cấm vận.

Những nhận định thiếu khách quan của nhiều nước phương Tây về tự do tôn giáo ở Việt Nam trong các báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế không còn là vấn đề mới(1). Trong nhiều năm trở lại đây, USCIRF luôn vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo”,... Những cáo buộc này làm sai lệch thông tin về hoạt động tôn giáo và tự do tôn giáo ở Việt Nam. Phải khẳng định rằng, nguồn thông tin mà USCIRF của Hoa Kỳ thu thập trong các bản báo cáo chủ yếu là những thông tin phiến diện, không đáng tin cậy, có được do tiếp cận với các tổ chức phản động, cá nhân chống đối, có tư tưởng hẹp hòi dân tộc, thù hận, bất mãn với chế độ. Luận điệu của các tổ chức, cá nhân đó không thể đại diện cho bất kỳ tổ chức tôn giáo nào, không vì lợi ích cộng đồng, mà mang mưu đồ, lợi ích cá nhân, do đó không có giá trị tham khảo(2). USCIRF đã cố tình không trích dẫn những đánh giá của chức sắc, giáo sĩ... trong các tổ chức giáo hội đã được Nhà nước Việt Nam công nhận tư cách pháp nhân(3), có tiếng nói đại diện cho giáo hội, cho lợi ích của đại đa số chức sắc, tín đồ trong các tôn giáo ở Việt Nam.

Rõ ràng, việc USCIRF và các lực lượng cực đoan sử dụng những phát ngôn và nhận định thiếu cơ sở để cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền, vi phạm tự do tôn giáo trên các diễn đàn là thiếu khách quan; càng phi lý hơn khi lấy đó là lý do để phê phán Sách trắng của Việt Nam. Bởi, ở Việt Nam, không có cái gọi là  một sự “bưng bít” “những vi phạm kéo dài”, càng không thể có “bức bình phong” nào được tạo ra, vì Việt Nam luôn sẵn sàng công bố với quốc tế bức tranh chân thực về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo với những nội dung thông tin phản ánh trung thực, súc tích và đầy sức thuyết phục của Sách trắng.

Hai là, xuyên tạc rằng, Sách trắng nhưng chưa minh bạch và vẫn thiếu tự do tôn giáo vì “chủ nghĩa tam vô”(?!).

Phải khẳng định rằng: “Chủ nghĩa tam vô” (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo) là sự phỉ báng lịch sử, xuyên tạc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hạ thấp uy tín của Việt Nam, lấy đó làm sự xảo biện xuyên tạc nội dung của Sách trắng.

Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần yêu Tổ quốc kết hợp với tinh thần yêu thương nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Do đó, người cộng sản không những không “vô tổ quốc”, mà họ còn xứng đáng là những người yêu nước nhất. Những người cộng sản cũng luôn coi gia đình là tế bào của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt” (4).

Những người cộng sản cũng luôn thừa nhận và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, coi tôn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của nhân dân. Do đó, trong Cương lĩnh, chính sách và hành động thực tế, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như không tín ngưỡng, tôn giáo. Chỉ ra điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo và lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, đó là xây dựng một xã hội tốt đẹp, giải phóng con người và mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Ở Việt Nam, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao sự tương đồng về mục đích giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản(5)Theo đó, khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản không nhất thiết dẫn tới sự biệt lập nếu đôi bên hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau trong một khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng về cách mạng, đi theo cách mạng. Người cho rằng, đồng bào có đạo vẫn có thể đứng trong hàng ngũ của Đảng, chỉ cần họ tích cực hoạt động cách mạng, “trung thành và hăng hái làm nhiệm vụ” (6). Ngày nay, thực hiện lời căn dặn của Người, cũng như quán triệt chủ trương của Đảng về kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo, nhiều tín đồ, chức sắc của các tôn giáo đã được kết nạp vào Đảng, trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam(7).

Do đó, có thể khẳng định rằng, không có “chủ nghĩa tam vô” ở Việt Nam, đặc biệt là ở những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là minh chứng cho thấy, Sách trắng hoàn toàn minh bạch khi tuyên bố công khai về tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Ba là, xuyên tạc trắng trợn rằng, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” công bố tự do tôn giáo song nhiều “nhóm tôn giáo độc lập bị đàn áp, ngăn cấm hoạt động”(?!).

“Các nhóm tôn giáo độc lập bị đàn áp, ngăn cấm hoạt động” được các tổ chức thiếu thiện chí nhắc đến, trên thực tế, là những tổ chức bất hợp pháp, đội lốt tôn giáo để truyền bá tư tưởng cực đoan, kích động chống phá Nhà nước Việt Nam. Các hoạt động của các tổ chức này vi phạm pháp luật của Việt Nam.

Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Quyền tự do tôn giáo không thể đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xuyên tạc, kích động ly khai, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo; gây rối trật tự công cộng và xâm phạm đến an ninh quốc gia. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần và nội dung về quyền tự do tôn giáo đã nêu trong các văn kiện quốc tế, như Công ước quốc tế năm 1966 về các quyền chính trị và dân sự quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hay tín ngưỡng của một người chỉ có thể bị giới hạn theo quy định của pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác” (8). Nội luật hóa hệ thống luật pháp quốc tế, ở mỗi quốc gia cũng đều có những quy định riêng về hoạt động tôn giáo để bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia(9). Không một quốc gia nào cho phép hoạt động tôn giáo vượt ra ngoài sự quản lý của nhà nước. Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định nghiêm cấm lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập, đoàn kết dân tộc, chống phá Nhà nước hay ngăn cản tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân. Điều này được phản ánh rất rõ trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo: “Nghiêm cấm các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường” (10).

Vì vậy, việc ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các nhóm đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, làm trái pháp luật Việt Nam là điều cần thiết. Đó không phải là sự đàn áp hay ngăn cấm hoạt động của các nhóm tôn giáo, mà là sự bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật.

Bốn là, bóp méo rằng, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” phản ánh sự áp đặt trong định hướng chính trị của chủ thể Nhà nước chứ không phản ánh sự tôn trọng niềm tin tôn giáo và bảo đảm thực hành nghi lễ tôn giáo của người dân(?!).

Chính sách tôn giáo nhất quán của Việt Nam được khẳng định trong Sách trắng là sự lựa chọn phù hợp với thực tiễn lịch sử và đáp ứng nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân có tín ngưỡng. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa “ý Đảng” và “lòng dân”.

Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố và thực hiện chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Mọi công dân Việt Nam đều có quyền tự do tín ngưỡng”. Nhờ chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo, trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hàng triệu người dân Việt Nam, dù “lương” hay “giáo” đều có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập của nước nhà(11). Ngày 14-6-1955, trong Sắc lệnh số 234/SL, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân, không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy”. Các Hiến pháp sau này (1959, 1980, 1992, 2013) vẫn hiến định phương châm, chính sách về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam ngày càng phù hợp hơn với bối cảnh trong nước và quốc tế, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chính sách đó được thể hiện thông qua các văn kiện chính trị của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước.

Trẻ em vui chơi ở xứ Sở Kiện (thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) _Nguồn: vietnamheritage.com.vn

Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức rõ rằng, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn bị, bảo đảm tốt hơn nữa quyền tự do của con người, của công dân, trong đó có quyền tự do theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; thừa nhận, tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ, cũng như lợi ích của các tổ chức tôn giáo; không kỳ thị, phân biệt đối xử với các tín ngưỡng, tôn giáo và người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Mọi người đều có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay cả đối với người bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù cũng có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo(12). Đồng thời, Nhà nước cũng đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân theo tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; tôn trọng, bảo vệ trật tự xã hội và thể chế nhà nước cũng như quyền tự do của cá nhân và tổ chức khác. Các tôn giáo và người theo tôn giáo gắn bó, đồng hành với dân tộc, cùng chung tay xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu chung(13). Đặc biệt, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”(14).

Chính vì thế, cần khẳng định rõ, không có bất kỳ sự áp đặt nào trong định hướng chính trị của Nhà nước đối với chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Rõ ràng, phải dựa trên cơ sở tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau, mỗi bên nhận thức được ranh giới, nghĩa vụ, quyền hạn của chính mình thì mới có thể chung sống hòa hợp, cùng nhau thúc đẩy sự phát triển chung. Nếu không phải là một chính sách tôn giáo tiến bộ, hợp thời đại và hợp lòng dân, chắc chắn không thể có một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như ngày nay. Nội dung của Sách trắng hướng tới khẳng định, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Nhà nước ghi nhận, bảo hộ theo chiều hướng tiến bộ, tích cực(15). Nhà nước luôn coi trọng đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, bảo đảm các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường theo đúng quy định của pháp luật. Đây là sự thật không thể phủ nhận!

Việc xuất bản Sách trắng chính là nhằm công khai rộng rãi tới công chúng trong nước và bạn bè quốc tế về chính sách ưu tiên, chính sách bền vững của Việt Nam đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ quyết tâm thực hiện mục tiêu ngày càng bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo./.

------------

(1) Từ năm 2004 đến năm 2005, Việt Nam lần đầu tiên bị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa vào CPC, tới năm 2006 Việt Nam được đưa ra khỏi danh sách này. Tuy nhiên, liên tiếp từ năm 2012 đến nay, USCIRF - cơ quan tham vấn độc lập do Quốc hội Hoa Kỳ thành lập và là “cánh tay nối dài” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ - thường xuyên đề nghị đưa Việt Nam trở lại CPC, bất chấp những nỗ lực và thành tựu quan trọng của Việt Nam về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi
(2) Xem: “Nhận diện những đánh giá sai lệch về Sách trắng Tôn giáo ở Việt Nam”, Trang Thông tin điện tử Công an Quảng Ninh, ngày 27-3-2023,  https://congan.quangninh.gov.vn/tin-antt-va-canh-bao-toi-pham/nhan-dien-nhung-danh-gia-sai-lech-ve-sach-trang-ton-giao-o-viet-nam-25069.html
(3) Thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự, Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định: “Trong tất cả các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, không hề có sự khó khăn nào trong việc thực hành niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của mình”; Mục sư Charlie McKenzie, Cộng đồng Tin Lành quốc tế Hanoi International Fellowship nhận định: “Khi được biết các tổ chức cáo buộc Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, tôi muốn nói với họ rằng, hãy thử đến sống ở Việt Nam, cùng với người Việt Nam, đi hằng ngày trên các con đường ở Việt Nam và đặc biệt hãy đến nhà thờ vào ngày chủ nhật trước khi đưa ra phán xét. Tự do tôn giáo có ở Việt Nam không ư? Có nhiều là đằng khác!”, xem: “Luận điệu xuyên tạc về tự do tôn giáo tại Việt Nam”, phóng sự trên VTV4, ngày 12-6-2022, https://youtu.be/JgATs9LQE1E?si=EL93-dKpT7z2WkqN
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 300
(5) Người luôn chủ trương “cầu đồng tồn dị”, nghĩa là khuyến khích điểm tương đồng và chấp nhận sự dị biệt, không quá nhấn mạnh sự khác biệt về mặt tư tưởng - duy tâm hay duy vật, hễ là người dân Việt Nam dù theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều hướng đến mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nội dung tư tưởng nhân văn, sâu sắc này của Hồ Chí Minh được chuyển tải cô đọng trong đoạn văn nổi tiếng của Người: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng những có điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò của các vị ấy” (Xem: Viện Nghiên cứu Tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 13)
(6) Xem: Phạm Hữu Xuyên: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5, 2006
(7) Từ năm 2019 đến nay, cùng với việc triển khai Quy định số 06-QĐ/TW, ngày 28-8-2018, của Bộ Chính trị, về Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người theo tôn giáo và đảng viên là người theo tôn giáo tham gia sinh hoạt tôn giáo (thay thế Quy định số 123-QĐ/TW, ngày 28-9-2004, quy định về kết nạp Đảng của người có đạo), công tác kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo đạt được nhiều kết quả đáng khẳng định. Tính đến tháng 6-2021, theo số liệu thống kê từ cấp ủy các địa phương, toàn Đảng có 79.219 đảng viên theo tôn giáo (chiếm 1,5% tổng số đảng viên trong toàn Đảng), trong đó 60.946 đảng viên là tín đồ tôn giáo, 17.686 đảng viên là nhà tu hành tôn giáo, 486 đảng viên là chức việc tôn giáo, 101 đảng viên là chức sắc tôn giáo (Dẫn theo: Lê Tâm Đắc: “Công tác kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo ở Việt Nam hiện nay: Từ lý luận đến thực tiễn”, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 7, 2022, tr. 29)
(8) United Nations: International Convenant on Civil and Political rights, https://treaties.un.org/doc/treaties/1976/03/19760323%2006-17%20am/ch_iv_04.pdf, 1967
(9) Ở Hoa Kỳ, mặc dù không ban bố luật pháp riêng về tôn giáo nhưng các hoạt động tôn giáo đều được đặt dưới hệ thống pháp luật dân sự giống như bất kỳ tổ chức xã hội nào khác. Ở Pháp, “Luật phân ly” không thiếu các điều khoản nhằm tăng cường sự giám sát của chính quyền đối với các hiệp hội tôn giáo và ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo gây chia rẽ, ly khai dân tộc. Tháng 2-2016, Chính phủ Pháp còn ban hành Đạo luật ly khai, trong đó cấm các hoạt động tôn giáo tuyên truyền về ly khai. Ở Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản phải sửa đổi, bổ sung “Luật Pháp nhân tôn giáo” để hạn chế quyền của các nhóm tôn giáo, tránh làm tổn hại đến an ninh quốc gia
(10) Ban Tôn giáo Chính phủ: Tài liệu giới thiệu Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2017, tr. 9
(11) Lịch sử Việt Nam ghi nhận, trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, nhiều nhà sư phát nguyện cởi áo cà sa ra trận, trở thành những chiến sĩ vệ quốc đoàn kiên trung, nhiều cơ sở tôn giáo là căn cứ địa cách mạng nuôi giấu cán bộ kháng chiến, hàng vạn thanh niên trong vùng đồng bào có đạo hăng hái tham gia tòng quân, chi viện cho chiến trường
(12) Sách trắng nêu rõ, để bảo đảm quyền tự do tôn giáo đối với người chấp hành án phạt tù, hiện nay đã cung cấp 4.418 cuốn thuộc 17 đầu sách liên quan đến tôn giáo được đưa vào thư viện của 54 trại giam, tr. 92
(13) Xem: Vũ Hoàng Công: Chính sách tôn giáo trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt NamTlđd
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I,  tr. 171
(15) Xem: Ban Tôn giáo Chính phủ: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2022, tr. 73

Có phải quân đội tư sản trung lập về chính trị không?

 


Khẳng định: Không có quân đội phi giai cấp, trung lập về chính trị.

Theo quan điểm của Lênin: Bất kỳ một quân đội nào cũng đều mang bản chất của giai cấp, nhà nước sinh ra và nuôi dưỡng nó.

Claudơvit (1780 - 1831) - nhà lý luận quân sự tư sản khẳng định: “chiến tranh là sự kế tục của chính trị”; quân đội là một thành phần của nhà nước, được lập ra để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh, do đó về bản chất của quân đội phụ thuộc vào bản chất giai cấp của lực lượng cầm quyền.

Đối với quân đội tư bản, tuy được xây dựng trên nền tảng lý luận về nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của vũ khí trang bị (nói cách khác là thuyết “vũ khí luận”). Nhưng không vì thế mà họ không chú ý đến xây dựng chính trị cho quân đội.

Họ truyền bá vào quân đội hệ tư tưởng tư sản, là công tác tổ chức và lối sống, đạo đức theo quan điểm của giai cấp tư sản. Trước đây, quân nhân của họ được giáo dục “sứ mệnh chiến đấu” để “bảo vệ thế giới tự do”, “ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng sản lan ra toàn thế giới”. Hiện nay, quan điểm của họ là: Bảo vệ dân chủ, nhân quyền, giá trị văn hóa phương Tây… (Thực tiễn cho thấy trong chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ xây dựng QĐ Ngụy quyền SG có SQ tâm lý chiến và có Tổng cục Chiến tranh tâm lý)

          T1

Đấu tranh trên phương diện lý luận cần gắn chặt hơn nữa với đấu tranh trong hoạt động thực tiễn.

 


Điều cần thấy là, các thế lực thù địch và cơ hội luôn tìm mọi thủ đoạn tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Trên phương diện lý luận chúng hướng đến phủ định các nguyên lý triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó tập trung vào xuyên tạc, phủ định học thuyết hình thái kinh tế xã hội, về chuyên chính vô sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ định học thuyết giá trị thặng dư, phủ định lý luận về sự quá độ lên CNXH…Cùng với đó là phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, đặt tư tưởng Hồ Chí minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng không chỉ cố luận chứng trên phương diện lý luận mà còn thông qua các hoạt động thực tiễn minh chứng sự phát triển vượt trội của chủ nghĩa tư bản. Lấy sự đổ vỡ mô hình CNXH ở Liên xô cũ và các nước Đông Âu để luận giải tính không hợp lý của CNXH hội cũng như hướng vào phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin.

Ngay ở Việt Nam, không chỉ xuyên tạc, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh trên phương diện lý luận, chúng còn xuyên tạc rằng, việc Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam là gượng ép, sai lầm, và vì vậy đây chính là nguyên nhân đẩy đến các cuộc chiến tranh hao người tốn của, làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Trên thực tế, họ lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót, sai lầm trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên để làm minh chứng, từ đó xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là không phù hợp, là lỗi thời với xu thế phát triển chung của thế giới.

Chính thực tế đó đòi hỏi trong cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chúng ta phải gắn chặt hơn nữa đấu tranh trên phương diện lý luận với đấu tranh trong hoạt động thực tiễn. Thông qua các kết quả thực tiễn để minh chứng sự đúng đắn đường lối của Đảng, của lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời công khai những hạn chế, sai lầm do các nguyên nhân chủ quan và khách quan trong quá trình xây dựng xã hội mới. Muốn vậy phải có sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ hơn nữa của các lực lượng tham gia đấu tranh lý luận với công tác tuyên truyền kết quả phát triển kinh tế xã hội, với đấu tranh phòng chống sự suy thoái tư tưởng đạo đức, lối sống cũng như phòng chống tham nhũng.

          T1

Thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với Quân đội ta về chính trị là chống phá vấn đề gì?

 


Đó là:

Thứ nhất: phá hoại nền tảng tư tưởng của Quân đội.

Thứ hai: phủ định sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội.

Thứ ba: xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu, lý tưởng và bản chất, truyền thống của QĐ ta.

Thứ tư: phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa Quân đội với nhân dân.

Thứ năm: lôi kéo QĐ tham gia liên minh quân sự, phá hoại tình đoàn kết quốc tế và khống chế mối quan hệ hợp tác giữa QĐ ta với QĐ các nước.

Vì vậy, đấu tranh phòng, chống âm mưu “phi chính trị hóa” QĐ ta thực sự là một yêu cầu, một nội dung đặc biệt quan trọng và cấp thiết trong quá trình xây dựng QĐ vững mạnh về chính trị.

+ Phải xây dựng cho cán bộ, chiến sỹ có nhận thức đúng kẻ thù, không mơ hồ ảo tưởng, lẫn lộn bạn – thù, địch ta; đối tác - đối tượng.

Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các trào lưu tư tưởng tư sản, phản động, những quan điểm, hiện tượng sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tinh thần của xã hội, của Đảng, Nhà nước và QĐ.

T1

 

Phát huy tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên

 Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Ðảng ta đặc biệt đề cao vai trò tiên phong, gương mẫu của người đảng viên và coi đây là một trong những nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội giàu mạnh, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong bối cảnh mới với những yêu cầu mới đặt ra.

Nhằm cụ thể hóa các quan điểm của Ðảng trong các văn kiện về tăng cường tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trên mọi phương diện, ngày 7/6/2012, Ban Bí thư Trung ương Ðảng đã ban hành Quy định số 101-QÐ/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, trong đó chỉ rõ: cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong thực hiện, tuyên truyền và bảo vệ chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Ðảng, Nhà nước và của nhân dân.

Ðến ngày 25/10/2018, Ban Bí thư Trung ương Ðảng tiếp tục ban hành Quy định số 08-QÐi/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, trong đó có một số điểm bổ sung, cụ thể hóa hơn Quy định số 101-QÐ/TW nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện tính tiên phong, gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên với yêu cầu cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu nêu gương.

Mới đây, ngày 9/5/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 144-QÐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, quy định thể hiện quyết tâm của Ðảng ta trong quá trình xây dựng và chỉnh đốn Ðảng để Ðảng ta thật sự vững mạnh, vai trò nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên ngày càng được đề cao.

Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn của Ðảng, ý thức về việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của đội ngũ đảng viên ngày càng được nâng cao. Ða số cán bộ, đảng viên vẫn luôn giữ vững được tư cách của người đảng viên cộng sản trong bối cảnh mới, luôn tiên phong, gương mẫu đi đầu trong công tác cũng như trong đời sống, thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những quy định của tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương.

Xuất phát từ vị trí công tác gắn với những yêu cầu và những nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh,… đã có nhiều đảng viên trở thành tấm gương sáng, những điển hình tiên tiến trên mọi lĩnh vực, có sức lan tỏa lớn trong nhân dân. Tiêu biểu như trong phát triển kinh tế, đã xuất hiện nhiều tấm gương đảng viên tiên phong, đi đầu áp dụng các mô hình phát triển kinh tế mới, vận động người dân làm theo từ đó thúc đẩy kinh tế địa phương, giúp nhân dân thoát nghèo bền vững.

Như tại Thanh Hóa, đảng viên Lê Văn Dũng (thị trấn Vân Du, huyện Thạch Thành) đã tiên phong trong thực hiện mô hình trang trại tổng hợp trồng cây ăn quả kết hợp với chăn nuôi và đào ao thả cá phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của vùng trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học-kỹ thuật hiện đại, đem lại hiệu quả kinh tế cao, từ đó trở thành mô hình kinh tế của đảng viên có hiệu quả và tạo được sức lan tỏa lớn trong nhân dân.

Còn tại xã Ia Piar, một trong những xã đặc biệt khó khăn tại huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai với gần 2.000 hộ dân hầu hết đều là người đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ sản xuất thấp, cuộc sống vô cùng khó khăn. Nhận thức được tình hình thực tiễn của địa phương cũng như vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên trong phát triển kinh tế, giúp đỡ nhân dân, từ cuối năm 2016, Ðảng ủy xã Ia Piar đã triển khai phong trào “Một đảng viên giúp đỡ một hộ nghèo”.

Theo đó các đảng viên ưu tú có những cách làm hay, sáng tạo trong lao động sản xuất đã đạt được thành công sẽ giúp đỡ các hộ dân nghèo thoát nghèo. Từ hiệu quả của những trường hợp thí điểm, mô hình này đã được nhân rộng ở địa phương và đạt được những kết quả đáng khích lệ, kinh tế có nhiều khởi sắc, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, đời sống của người dân từng bước được cải thiện và nâng cao.

Hoặc trên lĩnh vực đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc; bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng của cán bộ, đảng viên luôn chủ động phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu với tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.

Nhiều đảng viên đã tích cực sử dụng các trang mạng xã hội vừa để nắm bắt thông tin dư luận xã hội, diễn biến tư tưởng của cộng đồng dân cư vừa để kịp thời tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Ðảng, Nhà nước cũng như góp phần định hướng cho người dân sử dụng mạng xã hội trong việc tiếp cận, nhận diện, xử lý và đấu tranh chống các thông tin xấu độc, sai trái, thù địch. Những cá nhân này đã trở thành tấm gương sáng về việc sử dụng mạng xã hội một cách linh hoạt, sáng tạo trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, bảo vệ Ðảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Có thể khẳng định, những thành tựu to lớn chúng ta đạt được sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng mà Văn kiện Ðại hội XIII đã chỉ rõ: “Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ đảng viên luôn phát huy tính tiên phong, gương mẫu đi đầu của mình trên mọi phương diện, mọi lĩnh vực, trong công tác cũng như trong cuộc sống, hết lòng, hết sức phấn đấu, rèn luyện để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, được nhân dân tin yêu và noi theo. Ðiều đó đã góp phần nhân rộng những tấm gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến trong xã hội và đời sống hằng ngày.

Thực tế sinh động này là minh chứng rõ ràng bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động cho rằng việc nêu gương, tiên phong, gương mẫu đi đầu của đảng viên chỉ là chiêu bài để Ðảng đánh bóng tên tuổi của mình, lòe bịp quần chúng chứ về thực chất thì Ðảng là tổ chức “làm quan phát tài”, là nơi chứa chấp các phần tử chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ mà xâm hại đến lợi ích của nhân dân. Hoặc lợi dụng hiện tượng một số đảng viên có những biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tham ô, tham nhũng, không thực hiện trách nhiệm nêu gương của những người cộng sản chân chính, các đối tượng chống phá cố tình phủ nhận tất cả những thành quả mà cách mạng Việt Nam đạt được. Những luận điệu này nhằm bác bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng, phủ nhận sự đóng góp của cán bộ, đảng viên trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, cố tình làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Trên tinh thần “tự soi, tự sửa” để hoàn thiện mình, chúng ta thẳng thắn nhìn nhận rằng hiện nay vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thể hiện và thực hiện đúng tính tiên phong, gương mẫu của người đảng viên, thậm chí vẫn còn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gây bức xúc trong dư luận xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Ðảng.

Tuy nhiên, cần nhận thức rõ: Ðây chỉ là những trường hợp cá biệt, là những “con sâu làm rầu nồi canh” do không nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình với Ðảng, với nhân dân, hoặc do thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng mà trượt dài sang chủ nghĩa cá nhân, cơ hội và xếp mình vào hàng ngũ của những kẻ phản bội lại lý tưởng chân chính của Ðảng, của người cán bộ, đảng viên.

Ðể khắc phục tình trạng trên, đồng thời phát huy tốt hơn nữa tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, nêu gương sáng cho quần chúng nhân dân, trong thời gian tới đòi hỏi cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Trước hết phải đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho mỗi đảng viên về thực hiện trách nhiệm nêu gương. Khi đã có nhận thức đúng và đủ, mỗi đảng viên sẽ chủ động tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ, phẩm chất về mọi mặt, tích cực tiên phong, gương mẫu đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những cách làm hay, sáng tạo, phù hợp với điều kiện mới, từ đó trở thành những tấm gương tiêu biểu để nhân dân noi theo.

Cùng với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Ðảng về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đặc biệt là tăng cường thực hiện thực chất, hiệu quả Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về tinh thần nêu gương; cách thức thực hiện và phong cách nêu gương với quan điểm nhất quán: Cán bộ, đảng viên phải làm gương mẫu cho nhân dân, cán bộ cấp trên phải làm gương mẫu cho cán bộ cấp dưới.

Ðồng thời, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm những đảng viên mắc sai phạm, khuyết điểm trong thực hiện trách nhiệm nêu gương; có cơ chế khen thưởng xứng đáng với những đảng viên phát huy tính tiên phong, gương mẫu đi đầu, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích của nhân dân, của đất nước, trở thành những điển hình tiên tiến, tạo sức lan tỏa lớn trong quần chúng nhân dân./.

LHQ-ST

NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 

“Nói đi đôi với làm” là một trong những nguyên tắc căn bản của đạo đức cách mạng, là biểu hiện sinh động, cụ thể của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa ý thức đạo đức và hành vi đạo đức mà mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc và thực hành thường xuyên, hằng ngày trong công việc và đời sống. Vì vậy, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về “Nói đi đôi với làm” là nhiệm vụ quan trọng và mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn phấn đấu, thực hiện.

“Nói đi đôi với làm” được diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau, mọi cách diễn đạt có thể khác nhau về mức độ, sắc thái, cả hình thức biểu đạt bằng ngôn từ, nhưng tất cả đều có một điểm chung, một điểm nhấn quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự thống nhất, tính nhất quán về mục đích hành động, động cơ tranh đấu, biện pháp thực hành trong lối sống, lẽ sống ở đời và làm người của người cách mạng.

“Nói đi đôi với làm” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, sự gắn liền giữa nhận thức với hành động; lời nói và việc làm phải tương xứng với nhau, phải phù hợp với nhau, không được mâu thuẫn, trái ngược. Để xảy ra tình huống mâu thuẫn, trái ngược này là mắc vào một lỗi lớn, không chỉ là lỗi về tư duy, mà còn là lỗi lớn hơn, nặng hơn về đạo đức; do đó, nói đi đôi với làm là tiêu chí về đức tính trung thực. Ngược lại, nói không đi đôi với làm là bằng chứng của sự giả dối, dối trá, trước hết là thói vô trách nhiệm và thiếu vắng lòng tự trọng. Mệnh đề “nói đi đôi với làm”, quen thuộc, ngắn gọn, giản dị như chân lý của đời sống, hiển nhiên ai cũng hiểu như một lẽ phải thông thường, vậy mà trên thực tế, lại có biết bao nhiêu tình huống phức tạp vẫn xảy ra.

Suy ngẫm và trải nghiệm từ các sự kiện, việc làm, ứng xử với người, với việc, ngay cả với chính mình, chúng ta ngày càng tự ý thức rằng, hóa ra nói đi đôi với làm là chỗ khó nhất ở đời, để thực hiện được không chỉ cần sự hiểu biết, có lý trí, nghị lực và quyết tâm, mà còn cần có tình cảm, đạo đức trong sáng, hướng thiện. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đời thường ta gọi đó là sự tử tế, lương thiện. Nói đi đôi với làm đòi hỏi mỗi người phải thường xuyên biết tự vấn lương tâm, biết tự trọng mình và tôn trọng người khác, cao nhất là trọng dân, vì dân.

Thống nhất giữa nói và làm sẽ làm cho con người trưởng thành về đạo đức, về nhân cách, làm cho người đó có đạo đức tốt hơn, để hoàn thiện nhân cách của mình. Đức là gốc, gốc của nhân cách, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh, nói đi đôi với làm không chỉ là yêu cầu nghiêm ngặt của đạo đức, mà nó còn phải trở thành văn hóa đạo đức, là thước đo văn hóa đạo đức, văn hóa nhân cách. Trên thực tế, không thiếu gì trường hợp, con người ta có thể có học vấn tốt, học thức cao, mà vẫn chưa đạt tới chuẩn mực “nói đi đôi với làm”. Những người đó, không chỉ tách rời giữa lời nói với việc làm, mà còn tệ hơn, xấu hơn khi “nói một đằng làm một nẻo”. Như thế, người tuy có học vấn, học thức, mà vẫn có thể giả dối về đạo đức và cơ hội về chính trị.

Trung thực và có bản lĩnh để giữ trọn vẹn lòng trung thực, tính trung thực, biến nó thành nhu cầu trong việc làm, trong lối sống và trong ứng xử, để “trí minh tâm sáng”; nhờ đó, nói đi đôi với làm trở thành đặc trưng trong lối sống, lẽ sống. Con người có đạo đức biết tự vấn lương tâm để hiểu điều phải và không phải, nên và không nên, tốt và xấu, đúng và sai,... cũng chưa đủ; mà phải hành động theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp (Chân - Thiện - Mỹ - những giá trị văn hóa) và tự vượt lên chính mình, đánh bại chủ nghĩa cá nhân, “giặc nội xâm” nguy hiểm nhất, vô hình, ẩn nấp ở ngay trong lòng mỗi người. Đó chính là biểu hiện của “nói đi đôi với làm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng ta rất tỉ mỉ, sâu sắc như thế; hơn nữa, Người còn suốt đời thực hành “nói đi đôi với làm”, nêu gương cho mọi người noi theo.

Để đạt được sự thống nhất giữa nói và làm, nói đi đôi với làm, nói thì phải làm, người cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập để nâng cao hiểu biết, gắn liền học với hành, “tri để hành”, lý luận gắn liền với thực tiễn; đồng thời, phải rèn luyện phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân, không vụ lợi, vị kỷ, để toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chống chủ nghĩa cá nhân, thì phải chống những thói hư tật xấu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là những chứng bệnh phải tẩy sạch trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, được Người viết năm 1947 với bút danh X.Y.Z. Ba căn bệnh mà Người chỉ rõ là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và bệnh ba hoa, phải tự phê bình và phê bình nghiêm khắc khi mắc vào những bệnh rất có hại ấy và phải quyết tâm sửa chữa trong tư tưởng và trong hành động, trong các mối quan hệ.

Tóm lại, để lời nói đi đôi với việc làm, thống nhất giữa nói và làm, nói thì phải làm, mỗi cá nhân phải có động cơ, mục đích sống đúng đắn, chân chính, có đức trung thực và khiêm tốn, đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc, của Đảng, của cách mạng lên trên hết, trước hết; có ý chí, nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách, có dũng khí, bản lĩnh đứng ngoài vòng danh lợi, tuyệt đối không màng danh lợi, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hành và nêu gương.

Giá trị và ý nghĩa sâu xa từ lời dạy của Người, thống nhất giữa nói và làm, nói thì phải làm, chính là bài học làm người, là thực hành đạo đức cách mạng, coi phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý cao nhất, làm đầy tớ, công bộc cho nhân dân, tận tụy và trung thành là lựa chọn lối sống, lẽ sống cao thượng nhất, như tấm gương đạo đức vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi sáng cho mọi người, cho muôn đời noi theo./.

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC BẢO VỆ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ

 

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ là một bộ phận trọng yếu trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tác động nhiều chiều tới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh ngày càng có vai trò, ý nghĩa cấp thiết Công tác bảo vệ chính trị nội bộ là một bộ phận trọng yếu trong công tác xây dựng Đảng; là những hoạt động nhằm bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự trong sạch, vững mạnh của tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong những năm tiếp theo, đất nước ta đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ nhưng cũng còn những khó khăn, thách thức, công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác bảo vệ chính trị nội bộ nói riêng đứng trước nhiều yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn, cần có những giải pháp trọng tâm để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của Đảng. Những năm gần đây, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường; hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước, nhưng cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội đẩy mạnh hoạt động chống phá, triệt để lợi dụng không gian mạng hòng thực hiện các hoạt động tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, tập hợp lực lượng chống phá Đảng, Nhà nước, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những thành tựu cách mạng, thành quả trong điều hành và phát triển đất nước, lan truyền thông tin sai sự thật, vô căn cứ, quy chụp về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề “dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo”... hòng gieo rắc sự hoài nghi, kích động, làm mất đoàn kết nội bộ, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đẩy mạnh móc nối, tuyển lựa cơ sở, mua chuộc, lôi kéo cán bộ, đảng viên không vững vàng về tư tưởng, lập trường, thoái hóa, biến chất, cơ hội chính trị, đồng thời tìm cách “tiêm nhiễm” tư tưởng cực đoan, nhằm gây mất ổn định chính trị, “tự chuyển hóa” từ bên trong...

Bên cạnh đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số bất cập, hạn chế: 1- Việc cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa kịp thời, chưa sát thực tế; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số chủ trương, nghị quyết có nơi, có lúc chưa quyết liệt, còn yếu kém, chậm trễ; 2- Việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên; công tác thông tin, tuyên truyền một số đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa kịp thời; trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi tính chiến đấu chưa cao, hoặc còn bị động, lúng túng; việc dự báo, nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và định hướng dư luận xã hội có lúc chưa kịp thời; kết quả thực hiện một số chủ trương của Đảng về quản lý báo chí, truyền thông, xuất bản, quản lý internet, mạng xã hội chưa đáp ứng yêu cầu; 3- Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp; công tác phát triển đảng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo, vùng nông thôn và trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước còn nhiều khó khăn; kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng; 4- Việc thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm, còn một số nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu; chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu về yêu cầu, nhiệm vụ công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc, toàn diện; hiện tượng lộ, lọt bí mật, phát ngôn không đúng quy định vẫn còn xảy ra, nhưng chưa được ngăn chặn, xử lý kịp thời; 5- Ở một số cấp ủy, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới, chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp; việc kiểm tra, giám sát thực hiện một số nghị quyết của Đảng chưa thường xuyên; công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; 6- Công tác phòng, chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chưa chuyển biến rõ rệt; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi; thể chế về quản lý kinh tế - xã hội góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn bất cập; cơ chế kiểm soát quyền lực đối với tổ chức và người có chức vụ, quyền hạn chưa đủ mạnh; việc kiểm soát tài sản, thu nhập chưa chặt chẽ, hiệu quả... Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy và người đứng đầu về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ.

Thứ hai, quán triệt, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, quy định, kết luận(4) của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là Chỉ thị số 39-CT/TW, Kết luận số 72-KL/TW...; tiếp tục nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; kịp thời phát hiện, khắc phục vướng mắc, hạn chế nảy sinh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Thứ ba, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh trên cơ sở quán triệt sâu sắc và kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu; nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đi đôi với đấu tranh tự phê bình và phê bình. Thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước về bố trí, quản lý cán bộ, đảng viên làm việc tại bộ phận trọng yếu, cơ mật, thường xuyên có quan hệ tiếp xúc với cá nhân, tổ chức nước ngoài. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIỮ VỮNG ĐOÀN KẾT DÂN TỘC


Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở, nền tảng quan trọng trong phát huy toàn diện sức mạnh trí tuệ, sự sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự tôn, tự hào dân tộc, là động lực lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Gìn giữ và phát huy giá trị truyền thống đại đoàn kết vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng là nhiệm vụ lớn lao và vinh quang của toàn thể cán bộ, nhân dân, của toàn hệ thống chính trị. đây là cơ sở để động viên nguồn lực con người, tài trí của tất cả các dân tộc; đảm bảo ổn định chính trị - xã hội cho sự phát triển. Mặt khác, trong bối cảnh chính trị-xã hội thế giới diễn biến rất phức tạp như hiện nay, các thế lực thù địch đang lợi dụng các đặc điểm trong quan hệ dân tộc - tộc người, nhất là lợi dụng tính nhạy cảm của tâm lý dân tộc, tâm lý tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm kích động chia rẽ đoàn kết các dân tộc, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Đại hội XII khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực, nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc”  “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc.

Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc diễn ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống gia tăng, ngày càng gay gắt, đặt ra yêu cầu cao và đứng trước cả cơ hội thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen. Tình hình đó, đòi hỏi cần tăng cường hơn nữa việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Xử lý đúng đắn, hài hòa việc ưu tiên đầu tư hỗ trợ theo vùng và theo từng dân tộc cụ thể phải thống nhất trong nhận thức, đảm bảo nguyên tắcbình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhaugiữa các dân tộc trên cơ sở nhất quán các nội dung sau:

Một là, bình đẳng dân tộc chỉ có thể được thực hiện khi dân tộc ta được độc lập, nhân dân ta được tự do, đất nước ta được thống nhất. Bình đẳng dân tộc luôn gắn bó mật thiết với sự nghiệp giải phóng và giữ vững nền độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc.

Hai là, đoàn kết các dân tộc phải trên cơ sở bình đẳng dân tộc gắn liền với sự nghiệp giải phóng con người để mọi người đều được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bình đẳng và đoàn kết dân tộc gắn liền với tôn trọng và tin cậy lẫn nhau, tương trợ giúp nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc.

Ba là, giải quyếtvấn đề dân tộc cầnphải có thời gian, lộ trình qua nhiều giai đoạn với những bước đi thích hợp để từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch trên từng vấn đề cụ thể giữa các dân tộc.

Thực hiện chính sách “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.Hệ thống chính trị các cấp ở các địa phương có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống phảixác định 3 mục tiêu chủ yếucơ bản sau:1) Xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống, sức khỏe của đồng bào các dân tộc thiểu số. 2) Xóa được mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. 3) Xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch vững mạnh.

 

 


MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ


Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản của Đảng "Tập trung dân chủ", là tự do trong thảo luận nhưng thống nhất trong hành động. Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là nguyên tắc mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kêu gọi thực thi mặc dù có thể có cách định nghĩa khác. Tập trung dân chủ đã trở thành nguyên tắc cơ bản phân biệt đảng cộng sản với các đảng chính trị khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam, coi nguyên tắc tập trung dân chủ (có lúc Người gọi là chế độ dân chủ tập trung) là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng. Người coi tập trung và dân chủ phải luôn luôn đi đôi với nhau; dân chủ phải đi đến tập trung và tập trung trên cơ sở dân chủ; tập thể lãnh đạo phải đi đôi với phân công cá nhân phụ trách. Tập trung dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố tập trung và dân chủ. Hai thành tố đó không mâu thuẫn với nhau mà luôn thống nhất, tác động bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ có sự lãnh đạo, được sự bảo đảm của tập trung. Có giữ vững tập trung mới có thể thực hiện và mở rộng dân chủ. Phát triển và mở rộng dân chủ luôn gắn liền với giữ vững và tăng cường tập trung, trên cơ sở đó dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc. Theo đó, mọi công việc trong Đảng đều phải được bàn bạc dân chủ. Mọi đảng viên có quyền được nêu ý kiến của mình, nhưng khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, toàn Đảng phải phục tùng BCH Trung ương và cao nhất là đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc rường cột để xây dựng Đảng thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức. Nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đạo toàn bộ, xuyên suốt quá trình xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc đó quy định cơ cấu, hình thức tổ chức của Đảng, phương thức, chế độ thiết lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng, xác lập các quy tắc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng và nguyên tắc này còn chi phối các nguyên tắc khác của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ đạo mọi hoạt động của tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nó làm cho Đảng được xây dựng thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, phát huy được tính chủ động, năng động và sáng tạo của đông đảo cán bộ, đảng viên. Nó bảo đảm cho Đảng luôn là một tổ chức lãnh đạo, một tổ chức chiến đấu, một tổ chức hành động mà không phải là một câu lạc bộ. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ vừa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cao của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, vừa tập trung được trí tuệ và sức mạnh vật chất của toàn Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Sức mạnh của Đảng là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, đạo đức chỉ có thể vững chắc và biến thành hiện thực khi được bảo đảm bằng sự thống nhất về mặt tổ chức thông qua thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung dân chủ là cơ sở của kỷ luật đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự là một chỉnh thể có tổ chức chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới cơ sở. Yêu cầu và giải pháp thực hiện, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ


          Toàn Đảng đang tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng nhằm phát huy trí tuệ, sức mạnh tập thể, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng, xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong quá trình đó cũng như trong tổ chức, sinh hoạt đảng và đại hội đảng bộ các cấp, yêu cầu ngày càng cao thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm. Đây là cơ sở quan trọng để đại hội thành công, đề ra được chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn và bầu được những người xứng đáng, có đủ tâm và tầm vào cấp ủy nhiệm kỳ mới. Bởi vậy, hơn lúc nào hết toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cần phải có nhận thức đúng và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đề cao kỷ luật đảng, tăng cường đoàn kết, thống nhất, đấu tranh có hiệu quả với mọi luận điệu sai trái, thù địch đòi từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ.


          Để thực hiện nghiêm và giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, trước tiên cần tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và xây dựng những điều kiện tiên quyết để nguyên tắc tập trung dân chủ được thực thi. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xây dựng các thiết chế, cơ chế cho phép phát huy dân chủ, bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là quyền được thông tin, thảo luận, chất vấn, phê bình, bảo lưu ý kiến. Thể chế hóa thành các quy chế, quy định cụ thể về tổ chức, phong cách làm việc, trách nhiệm của tập thể, cá nhân để vừa giữ vững chế độ lãnh đạo tập thể, vừa tăng cường mạnh mẽ trách nhiệm cá nhân. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị, nhất là trách nhiệm liên đới khi có cán bộ, đảng viên thuộc quyền vi phạm kỷ luật.


          Điều kiện tiên quyết để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tình hình hiện nay là các cấp ủy, tổ chức đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh. Số đảng viên hoàn thành xuất sắc và hoàn thành tốt nhiệm vụ phải chiếm số đông. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng phải thực sự có phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác tốt, nhất là phải nắm chắc, hiểu sâu, tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Mặt khác, có thực hiện tốt tập trung dân chủ, tổ chức đảng mới vững mạnh, trong sạch. V.I.Lê-nin đã chỉ rõ: tổ chức đảng phải trong sạch, vững mạnh; số đảng viên tốt phải chiếm đa số trong một tổ chức đảng, điều này bảo đảm cho sự lành mạnh khi thực hiện thiểu số phục tùng đa số.

          Thứ hai, mở rộng dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải thực hiện nhiệm vụ chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Không có biểu hiện nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác.    

          Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Xử lý nghiêm minh, kịp thời những đảng viên, tổ chức vi phạm nguyên tắc này. Kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ.