Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

Tầm nhìn và chỉ đạo chiến lược trong chiến thắng Điện Biên Phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chiến thắng Điện Biên Phủ cho thấy dấu ấn sâu đậm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm nhìn dự báo và hoạch định đường lối chiến lược, về sử dụng nhân lực và binh lực, về phương pháp tác chiến, về sự khích lệ động viên bộ đội và đồng bào ta trong chiến tranh nhân dân, làm xoay chuyển cục diện chiến trường. Chiến thắng lịch sử ấy tạo đà cho thắng lợi trên bàn đàm phán Hiệp định Giơ-ne-vơ và là minh chứng cho giá trị hiện thời về chân lý độc lập, hòa bình, hạnh phúc và sức mạnh chính nghĩa trong thời đại Hồ Chí Minh.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị tổ chức cuộc họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nghe Tổng Quân ủy báo cáo và duyệt lần cuối kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, đồng thời quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ với quyết tâm tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm này_Ảnh: Tư liệu TTXVN

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của dân tộc, đã cống hiến cả cuộc đời mình và để lại những dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Một trong những cống hiến ấy là quá trình Người lãnh đạo, chỉ đạo chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi vẻ vang, khơi dậy và phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, gắn kết và quy tụ sự đồng lòng của hậu phương và tiền tuyến, của quân đội và nhân dân, của “ý Đảng và lòng dân” trong việc hoạch định đường lối chiến lược cho phù hợp với bối cảnh, cách thức tổ chức chiến thuật và phát triển lực lượng, động viên toàn dân và toàn quân vượt qua khó khăn, nhất tề quyết chiến, quyết thắng giành thắng lợi.

Dự báo và hoạch định đường lối chiến tranh

Thực dân Pháp chủ trương và tổ chức xây dựng khu tổ hợp công sự Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, nhằm giành thế đứng chân ở vùng Tây Bắc và Thượng Lào, thực hiện âm mưu kéo quân chủ lực của ta lên đây để tiêu diệt, tạo điều kiện cho việc bình định ở đồng bằng và trung du, hòng làm thay đổi cục diện chiến trường Đông Dương. Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ quyết định chọn tướng Na-va làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, vạch ra kế hoạch Na-va với âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh, hòng cứu vãn tình thế thất bại của chúng. Từ giữa tháng 11-1953, thực dân Pháp, với sự giúp sức của đế quốc Mỹ, đã từng bước xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương với tổng số quân hơn 16.000 tên, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 2 tiểu đoàn và 3 đại đội pháo lớn, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay, tổ chức thành 8 cụm với 49 cứ điểm. Việc Na-va quyết định giao chiến ở Điện Biên Phủ là do đánh giá chủ quan về quân ta không có khả năng đánh một tập đoàn cứ điểm, lại không thể đưa vũ khí hạng nặng và tiếp tế từ miền xuôi lên Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ đã trở thành trung tâm của kế hoạch Na-va và là điểm quyết chiến chiến lược trên chiến trường Đông Dương. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ định cơ quan lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch, trong đó, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng; lực lượng tham gia chiến dịch là Đại đoàn 308, Đại đoàn 312, Đại đoàn 316, Đại đoàn 351, Đại đoàn 304 (thiếu một trung đoàn)... Tại Khuổi Tát (Định Hóa, Thái Nguyên), Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến chào Người trước khi lên Tây Bắc, nêu ra những trở ngại khi tác chiến ở xa nên không thể thường xuyên xin ý kiến Người và Bộ Chính trị. Người nói: “Tổng tư lệnh ra mặt trận. “Tướng quân tại ngoại”. Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”. Lời căn dặn của Người đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành kim chỉ nam trong tư duy chiến thuật, quyết chiến chiến lược của quân đội ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Vấn đề đặc biệt quan trọng là đường lối chiến tranh, phương châm của chiến dịch có ý nghĩa quyết định đến tương lai cách mạng của dân tộc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự liệu và nhất quán phương châm chiến dịch, lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân quyết tâm đánh chắc, tiến chắc và động viên toàn dân dốc toàn lực lượng chi viện cho tiền tuyến đánh thắng hoàn toàn. Nhận định tình hình địch đã củng cố công sự phòng ngự rất nhanh chóng, mạnh mẽ, có sự yểm trợ của không quân; trong khi phía ta tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế về quân lực và khí tài, lại chưa kinh qua hợp đồng tác chiến lớn, cùng với những khó khăn về trang bị cho bộ đội và hậu cần chưa bảo đảm kịp thời, nên Đảng đã chỉ rõ: “Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn”.

Phương châm từ đánh nhanh, thắng nhanh được thay đổi sang đánh chắc, tiến chắc là đòi hỏi quyết tâm rất lớn, như đồng chí Võ Nguyên Giáp nói đó là “quyết định khó khăn nhất”. Đánh nhanh, giải quyết nhanh trong khi địch chưa kịp chuẩn bị củng cố trận địa phòng ngự, chủ yếu là những công sự dã chiến, một số cứ điểm lộ ra sơ hở, tiếp tế chủ yếu bằng máy bay; quân ta đã tập kết chung quanh Điện Biên Phủ, tinh thần công kiên rất cao, nhưng có bất lợi là chưa có kinh nghiệm tác chiến lớn với nhiều lực lượng tinh nhuệ và triển khai linh hoạt các biện pháp phòng ngự của quân Pháp. Đánh chắc, tiến chắc thì phải tiến hành trên quy mô lớn và diễn ra trong thời gian khá dài, trên mọi địa hình và trong công sự vững chắc kế tiếp nhau cho đến khi quân địch bị tiêu diệt và đầu hàng hoàn toàn. Đánh chắc, tiến chắc thì công tác chuẩn bị kéo dài; thời gian chiến đấu kéo dài sẽ phát sinh nhiều khó khăn mới, do địch có thời gian thúc đẩy chi viện tiếp tế và củng cố trận địa, đánh phá ngày càng ráo riết, ác liệt làm cho bộ đội ta sẽ gặp khó khăn, ảnh hưởng đến tư tưởng, còn công tác hậu cần tiếp tế sẽ phải diễn ra dài ngày và tăng lên.

Trong khi đó, phía địch đã đề ra kế hoạch phòng thủ gồm bốn bước: 1- Dùng không quân oanh tạc, nhằm làm chậm bước tiến của quân ta trên các tuyến giao thông chính từ Yên Bái và Thanh Hóa đi Tây Bắc; 2- Đánh phá và đánh chiếm hòng đánh bật quân ta ra khỏi Lai Châu; 3- Oanh tạc gây thiệt hại và chặn các cuộc tiến công của quân ta vào Điện Biên Phủ; 4- Khuếch trương lực lượng, mở rộng vùng chiếm đóng. Những khó khăn đó càng làm nổi bật tính sáng tạo và quyết tâm lớn lao của chúng ta. Lực lượng của ta tích cực hoàn thành công tác chuẩn bị làm đường mở đường kéo pháo, xây dựng trận địa, chuẩn bị lực lượng bộ đội về mọi mặt, hầm trú ẩn, hậu cần và theo dõi chặt chẽ tình hình địch.

Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn vào ngày 13-3-1954 và đã diễn biến làm ba đợt: 1- Đánh chiếm, tiêu diệt các vị trí Him Lam và phân khu bắc (phía bắc và đông bắc); 2- Bao vây, khống chế sân bay, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch ở khu vực phòng ngự then chốt của phân khu trung tâm, thu hẹp phạm vi chiếm đóng các ngọn đồi phía đông và vùng trời của địch; 3- Đánh chiếm các điểm cao cuối cùng ở phía đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm của quân địch. Sau 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ và anh dũng, ngày 7-5-1954, với 3 đợt tiến công, quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống hơn 16.000 tên địch, trong đó có tướng Đờ Cát-xtơ-ri và bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm, thu toàn bộ vũ khí, trang bị quân sự của địch. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh điểm là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân ta đã đập tan kế hoạch Na-va.

Nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ là chủ trương kiên quyết kháng chiến, xác định phương châm và cách đánh, thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo, đoàn kết trên dưới đồng lòng theo đường lối quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người lãnh đạo và động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung lực lượng, nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, phát huy thế mạnh của ta để giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược này. 

Tranh vẽ tái hiện Chiến dịch Điện Biên Phủ_Nguồn: toquoc.vn

Chiến lược đại đoàn kết toàn dân, huy động nhân lực và binh lực

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung và Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng đều mang chiến lược đại đoàn kết toàn dân và tính chất nhân dân sâu sắc, “là điển hình thành công của việc quán triệt và tổ chức thực hiện tư tưởng chiến tranh toàn dân, toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta”.

Xuất phát từ niềm tin vào tinh thần yêu nước, đoàn kết, sáng tạo của đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm động viên quân và dân ta trong quá trình chuẩn bị cho đến khi giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ. Người đã gửi nhiều thư động viên, cổ vũ, khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã nỗ lực vượt qua khó khăn để làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Tháng 12-1953, trong Thư gửi cán bộ và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ, Người khẳng định: “Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chỉ đạo rất quan trọng về chiến tranh toàn dân với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Đó là tư tưởng của Người về chiến tranh nhân dân ở cơ sở và chiến tranh nhân dân ở địa phương, động viên đồng bào bám trụ và làm chủ bản làng, quê hương, đường phố để đánh địch. Đáp lại lòng tin cậy của Người vào sức mạnh của đồng bào và bộ đội, nên trong quá trình chuẩn bị và tác chiến tại chiến trường Điện Biên Phủ đã có nhiều sự đùm bọc, chia sẻ, quyết tâm và sáng tạo, như việc chặt tre nứa luồn xuống dưới lớp cỏ rồi chống lên như giàn mướp tạo thành giàn ngụy trang cho con đường kéo pháo vào các điểm trận địa được an toàn; phong trào “săn Tây, đánh tỉa”, đánh tập kích quân địch và giữ vững trận địa. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phát huy nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt là cách đánh du kích, đánh điểm, diệt viện, chiến thuật “điệu hổ ly sơn”… Ngày 16-1-1954, trong bài viết Đẩy mạnh phong trào du kích dưới bút danh Nguyễn Thao Lược đăng Báo Nhân dân, Người khẳng định vai trò và nhiệm vụ to lớn của lực lượng du kích trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện; giới thiệu vài kinh nghiệm thiết thực trong việc đánh giặc, như biết địch, biết ta, đánh giặc, thương dân. Cuối bài viết, Người khẳng định: “Chúng ta phát triển lực lượng du kích mạnh mẽ rộng khắp, thành một “thiên la địa võng”, giặc đi đến đâu là bị tiêu diệt đến đó, thì giặc nhất định thua, ta nhất định thắng”. Đó chính là tư duy của Người về phát triển nghệ thuật chiến tranh nhân dân, tạo sức mạnh kháng chiến.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương đã đánh giá cao sự chuẩn bị của các bộ phận tham gia chiến dịch, hợp đồng tác chiến của các đơn vị và quyết tâm quyết chiến, hy sinh của quân dân ta.

Sức mạnh vĩ đại của toàn quân, toàn dân ta đã làm nên mọi thắng lợi trong lịch sử. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, phía địch đã không đánh giá đúng tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn dân, toàn quân, toàn Đảng ta. Tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường đó đã giúp toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, khắc phục những hạn chế về lực lượng, khí tài và làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc thi đua, khen thưởng kịp thời cho quân dân, tạo động lực trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc. Ngày 15-2-1954, Người đã ký Sắc lệnh số 201-SL, tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho đồng bào và cán bộ khu Tây Bắc; ông Bùi Hương Chất (truy tặng) - Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Khu Tả Ngạn. Ngày 15-3-1954, Người gửi điện thăm hỏi, khen thưởng toàn thể cán bộ và chiến sĩ đã giành thắng lợi trong hai trận đầu tiên ở mặt trận Điện Biên Phủ và bày tỏ quyết tâm: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng. Địch sẽ ra sức đối phó, ta phải cố gắng, chiến đấu dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan khinh địch, giành toàn thắng cho chiến dịch này”… Theo đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng gửi Lệnh động viên đến từng đơn vị: “Đây là chiến dịch công kiên quy mô lớn nhất trong lịch sử quân đội ta từ trước đến nay… Giờ ra trận đã đến! Tất cả các cán bộ và chiến sĩ, tất cả các đơn vị, tất cả các binh chủng hãy dũng cảm tiến lên, thi đua lập công, giật lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã động viên phát huy cao độ tinh thần yêu nước của đồng bào và chiến sĩ, để rồi 55 ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn, bao nhọc nhằn vất vả, hy sinh bao xương máu để chiến thắng. Ngày 19-5-1954, Người có cuộc gặp gỡ các chiến sĩ đã lập thành tích xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và gắn huy hiệu cho Hoàng Đăng Vinh, người đã bắt sống tướng Đờ Cát-xtơ-ri; tối cùng ngày, Người mở tiệc chiêu đãi các chiến sĩ đã lập công trong chiến thắng Điện Biên Phủ.

Sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ nhiều ngày hoặc thậm chí sau nhiều năm, Người vẫn gửi thư đến toàn thể cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ. Người thăm hỏi những gia đình có liệt sĩ, các thương binh, đặc biệt là Người có ý định thưởng huy hiệu cho tất cả là “Chiến sĩ Điện Biên”.

Diễu binh, diễu hành tại Lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 - 7-5-2024)_ Nguồn: chinhphu.vn

Cách thức phát triển tầm nhìn chiến lược và chiến thuật

Tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh về xác định mục tiêu, nhiệm vụ và “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong quá trình tiến hành cách mạng. Cuối tháng 9-1953, tại bản Tỉn Keo (thuộc thôn Lục Giã, nằm dưới chân núi Hồng, huyện Định Hóa, Thái Nguyên), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị bàn kế hoạch tác chiến Đông - Xuân. Sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình địch, Người nhấn mạnh: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn” - bàn tay Người mở ra, mỗi ngón tay chỉ về một hướng. Kết thúc cuộc họp, Người nói: “Phương hướng chiến lược không thay đổi”. Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hành động có thể thay đổi. Phép dùng binh là thiên biến vạn hóa...

Trên cơ sở phát triển thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc, Ban Chấp hành Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp phổ biến tinh thần cách mạng, xác định và hoàn thành các nhiệm vụ: “Tiêu diệt sinh lực địch”, “tranh thủ nhân dân”, “chúng ta phải sửa đường, khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, anh dũng chiến đấu, chịu đói, chịu rét, trèo đèo lội suối, đi xa vác nặng, tìm đến tận sào huyệt quân địch để tiêu diệt chúng, để giải phóng đồng bào ta”.

Ngày 21-3-1954, trong bài viết Kế hoạch AV-AN dưới bút danh C.B đăng trên Báo Nhân dân, Người đã nêu những thất bại của quân đội Pháp từ ngày 1-1 đến ngày 10-3-1954 trên chiến trường Việt Nam, đặc biệt là trên mặt trận đánh giao thông vận tải (Kế hoạch “đánh què giặc” của ta). Người dự báo trước rằng: “Kế hoạch Nava của địch đã thất bại một phần và nhất định sẽ thất bại hoàn toàn vì “ta đã đánh cho kế hoạch Nava què hóa ra kế hoạch AV-AN””.

Chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương pháp dự báo tình hình, tạo lực, lập thế và tranh thủ thời cơ. Người đã nhận định tình hình lợi thế và thực lực của địch, những bất lợi của thực dân và sử dụng những thông tin báo chí nhằm góp phần đẩy mạnh quyết tâm và khí thế cách mạng của quân dân ta. Người đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng cách mạng (lực lượng vật chất, lực lượng tinh thần, bố trí lực lượng, xây dựng trận địa, tình hình quân sự và địa hình, diễn biến tác chiến) cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trên Báo Cứu quốc số 2358, ra ngày 22-2-1954, trong bài viết Phản động Pháp mắng thực dân Pháp, Người viện dẫn những bình luận trên các báo của Pháp, như Báo Thời tiết (ngày 20-1-1954), Báo Lơ Phigarô (ngày 22-1-1954), Báo Dân chúng (ngày 4-2-1954) và khẳng định: “Bọn đế quốc khi tạm thắng thì huênh hoang, khi thất bại thì lục đục. Bởi vì giặc Pháp thất bại liên tiếp, cho nên báo chí phản động Pháp hoang mang và cằn nhằn”. Người chỉ dạy, người cách mạng khi tạm bại thì không nản, khi thắng lợi thì không kiêu và có niềm tin rằng “Ta nhất định thắng, địch nhất định thua”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết các bài như “Chiến tranh xâm lược Việt Nam làm cho người ở Pháp chết”,… nhằm lên án mạnh mẽ thực dân Pháp gây chiến tranh ở Việt Nam, không những giết người Việt Nam, mà còn giết cả người Pháp; bởi vì, để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã tập trung tiền của mua sắm vũ khí làm cho nhiều người Pháp không có cơm ăn, không có nhà ở, rơi vào đói khổ, bệnh tật mà chết.

Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương pháp kết hợp các hình thức đấu tranh, ghi nhận thành quả cách mạng được thể hiện sâu sắc qua Chiến dịch Điện Biên PhủNgười lãnh đạo, chỉ đạo phải chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo và tổng hợp mọi sức mạnh dân tộc để tạo đà tiến công thắng lợi trên mặt trận Điện Biên Phủ, kể cả việc kết hợp các hình thức đấu tranh và tranh thủ sức mạnh thời đại, của nhân dân tiến bộ ủng hộ nền hòa bình của Việt Nam. Vấn đề nổi bật trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo Chiến dịch Điện Biên Phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phương pháp so sánh tương quan lực lượng nhằm tạo ưu thế về binh lực và hỏa lực trong từng trận tác chiến, phân tích chính xác tình hình và quyết định tấn công chắc thắng qua từng trận đánh, phát triển chiến thuật và hiệp đồng binh chủng, xây dựng trận địa tiến công và bao vây địch; động viên toàn dân và toàn quân thấm nhuần đường lối quân sự, đoàn kết để quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do. Kinh nghiệm quan trọng của Người về đánh giá khách quan tình hình cách mạng có những chuyển biến tích cực, thuận lợi để có những bước chỉ đạo tiếp theo ở mặt trận Điện Biên Phủ. Do đó, ngày 24-4-1954, trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi hoàn toàn, Người đã ký ban hành Sắc lệnh số 205-SL thành lập Ủy ban kháng chiến hành chính khu Tây Bắc, gồm 5 đồng chí do đồng chí Bùi Quang Tạo làm Chủ tịch, nhằm nâng cao khả năng lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến, kiến quốc trong sự nghiệp cách mạng.

Ngày 7-5-1964, sau khi tròn 10 năm chiến thắng, Người ghi trong sổ lưu niệm của Nhà Bảo tàng Điện Biên Phủ, nhấn mạnh đây là chiến thắng “kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ, anh dũng của quân và dân nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại; cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”.

Và sau gần 12 năm thắng lợi Điện Biên Phủ, trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ năm (ngày 16-3-1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: “Ngoại giao ở Hội nghị Giơnevơ thắng lợi là vì Điện Biên Phủ đánh thắng lớn… Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng”. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của độc lập dân tộc đối với chủ nghĩa thực dân, đế quốc, không chỉ của Việt Nam, mà còn là thắng lợi của chính nghĩa, góp phần cổ vũ các dân tộc đứng lên đấu tranh giành độc lập, hòa bình trên thế giới.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Đông Dương; đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân, góp phần vào phong trào đấu tranh vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ của loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”./.

ST.


TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐỂ CÓ ĐƯỢC NGÀY HÔM NAY!

         Cả nước đã có 1.146.250 anh hùng, liệt sĩ hy sinh trong đó 191.605 Liệt sỹ hy sinh trong kháng chiến ch.ống Ph.áp; 849.018 Liệt sỹ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ;
105.627 Liệt sỹ hy sinh trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Hơn 200.000 hài cốt Liệt sỹ chưa được tìm thấy, thi thể các anh còn nằm lại trên các chiến trường Việt Nam, Lào, Campuchia, Biển Đông… Hơn 300.000 hài cốt Liệt sĩ đã được quy tập về các nghĩa trang nhưng chưa xác định được danh tính tên tuổi, quê quán, đơn vị. Ngoài ra, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, có khoảng hơn 4 triệu dân thường ở hai miền Bắc - Nam đã chết và bị thương tật suốt đời do bom đạn, do kẻ th.ù giết hại.
Đóng góp vào sự nghiệp cách mạng, cả nước có trên 9.000.000 người có công; 127.000 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng có chồng, con hi sinh trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; trên 13.000 Anh hùng LLVTND và Anh hùng Lao động; gần 800.000 Thương binh và người được hưởng chính sách như Thương binh; hơn 300.000 người hoạt động kháng chiến và con đẻ bị nhiễm chất độc da cam; gần 111.000 người hoạt động cách mạng, người tham gia kháng chiến bị địch bắt giam, tù đày, tra tấn trong các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La, Lao Bảo, Côn Đảo, Phú Quốc…
Chúng ta đời đời biết ơn các thế hệ cha anh đã hy sinh anh dũng để đất nước thống nhất, độc lập, tự do như ngày hôm nay!
Yêu nước ST.

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Qua gần 40 năm xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với việc xác định đúng đắn vai trò của các thành phần kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, ngày càng thể hiện vị trí quan trọng trên bản đồ kinh tế thế giới. Từ việc luận giải tính đúng đắn, hợp lý trong thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cần đánh giá, so sánh giữa mục tiêu, kỳ vọng và thực tế thu hút FDI tại Việt Nam để có giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút nguồn vốn này, bảo đảm thực hiện thành công những nhiệm vụ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. 

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với đại diện các tổ chức, danh nghiệp tham dự Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp mặt cộng đồng doanh nghiệp FDI và Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam thường niên với chủ đề “Doanh nghiệp FDI tiên phong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh”_Ảnh: TTXVN

Cơ sở lý luận của việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Xuất phát từ tình hình thực tiễn nước Nga sau khi giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lê-nin không chỉ chỉ ra những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà còn điểm lại những thành phần trong nền kinh tế nước Nga. Trong các thành phần kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội, V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh đến kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi đây vẫn là một bước tiến to lớn dù cho chúng ta phải trả một khoản lớn hơn hiện nay, vì trả “học phí” là một việc đáng giá, vì cái đó có ích cho công nhân... Để trả lời cho câu hỏi mời tư bản vào có nguy hiểm không, V.I. Lê-nin đã khẳng định:

Thứ nhất, thông qua chế độ tô nhượng, chính quyền nhà nước Xô-viết phát triển lực lượng sản xuất, học tập khoa học - kỹ thuật hiện đại, cách thức quản lý kinh tế hiệu quả của chủ nghĩa tư bản hay các chuyên gia tư sản. Tô nhượng, theo V.I. Lê-nin, là một loại hợp đồng giữa nhà nước và nhà tư bản, là một loại hợp đồng cho thuê mà ở đó nhà tư bản đi thuê tài sản của nhà nước (nhà tư bản ở đây được xác định ở cả hai đối tượng là nhà tư bản trong nước và nước ngoài). Trong liên minh giữa nhà nước vô sản và các nhà tư bản về kinh tế, nhà tư bản kinh doanh theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận, còn chính quyền Xô-viết không chỉ có năng suất lao động xã hội tăng lên, lực lượng sản xuất phát triển, mà còn thu được phần tô (thuế), mà chủ tư bản phải trả do thuê những tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Thông qua hình thức tô nhượng, nhà nước vô sản có thể nhìn thấy được những mặt hạn chế của hợp đồng liên kết này, song nhà nước vô sản sẽ có những điều kiện để phát triển kinh tế cũng như củng cố chính trị. Để có chủ nghĩa xã hội, không thể thiếu kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh, sáng chế mới nhất của khoa học hiện đại. Do đó, với nền kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì việc học tập các chuyên gia tư sản cách thức làm kinh tế, khoa học - kỹ thuật hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động là cần thiết. Cách học tập hiệu quả và thu được kết quả ngay lập tức là liên kết với các nhà tư bản, khuyến khích tư bản trong nước và mời tư bản nước ngoài đến đầu tư trên chính mảnh đất của nhà nước vô sản.

Thứ hai, chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự chuẩn bị những mảnh ghép cho một quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong luận điểm ở trên, V.I. Lê-nin đã chỉ ra sự cần thiết phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước với tư cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Còn về mặt quan hệ sản xuất, chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng không nguy hiểm đối với chính quyền nhà nước vô sản. Bởi chủ nghĩa tư bản nhà nước hay sự liên kết giữa nhà nước vô sản và nhà tư bản là một biện pháp, công cụ để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự liên kết này không làm ảnh hưởng đến chế độ chính trị, vì chính quyền nằm trong tay công nhân và nông dân, vì nhà tư bản không trở thành người sở hữu, quyền sở hữu vẫn là của nhà nước. Để bảo đảm chủ nghĩa tư bản nhà nước trở thành một bước đệm trong xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thì chính quyền vô sản không thể không thực hiện kiểm kê và kiểm soát toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm. Điều đó có nghĩa, sự kết hợp giữa nhà nước vô sản và chủ tư bản như trường hợp hợp đồng tô nhượng được đặt trong sự quản lý của nhà nước và giám sát của giai cấp công nhân, nông dân - những người sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Như vậy, quá trình phân phối cũng sẽ được kiểm soát theo đúng hợp đồng tô nhượng được ký kết. Hay quan hệ sản xuất của nền kinh tế được đi theo đúng hướng để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Vận dụng lý luận của V.I. Lê-nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước để xem xét những kỳ vọng và thực trạng khi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Những luận điểm về phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước của V.I. Lê-nin vẫn còn nguyên giá trị khoa học đến ngày nay. Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam - một nước bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều hạn chế, khó khăn khi ở một trình độ kinh tế chưa cao thì sự mời gọi, thu hút các chuyên gia tư sản, nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài càng có ý nghĩa quan trọng. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa trở thành một xu hướng, một tất yếu khách quan trong phát triển nền sản xuất hàng hóa tại mỗi quốc gia. Sau gần 40 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xu hướng thu hút FDI tại Việt Nam đã có những thay đổi, chuyển biến theo hướng tích cực, bảo đảm thu hút FDI gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, song không thu hút FDI bằng mọi giá. Cùng với lựa chọn, thu hút vốn FDI với khoa học - công nghệ hiện đại, Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị, “Về định hướng, hoàn thiện thể chế, chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030” chỉ rõ, chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 1-10-2021, “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”, nhằm định hướng thu hút “FDI xanh” tại Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, khi thu hút nguồn vốn FDI, Việt Nam kỳ vọng không chỉ phát triển lực lượng sản xuất, mà còn bảo đảm quan hệ sản xuất phù hợp trình độ của lực lượng sản xuất, tích lũy những tiền đề cần thiết để tiến lên chủ nghĩa xã hội.         

Mục tiêu, kỳ vọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Thứ nhất, phát triển lực lượng sản xuất. Kỳ vọng thu hút FDI để thúc đẩy quá trình hiện đại hóa lực lượng sản xuất thể hiện ở việc bảo đảm các nguồn thu từ thuế của doanh nghiệp FDI; học tập, tiếp thu được các giá trị tri thức; giải quyết vấn đề lao động, việc làm; phát triển hàng hóa. Cụ thể:

Về thuế, V.I.Lê-nin nhấn mạnh, tô nhượng như một loại hợp đồng ký kết, ở đó, nhà tư bản thuê lại các tài sản của nhà nước và trả tiền cho việc thuê lại các tài sản đó. Doanh nghiệp FDI tại một quốc gia sẽ đóng góp vào ngân sách quốc gia đó các khoản thuê tư liệu sản xuất, như đất đai, tiền thuế theo quy định pháp luật thuế. Với vị trí là mắt xích ngày càng quan trọng hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, khu vực và độ mở thương mại lớn, Việt Nam có lợi thế trong thu hút nguồn vốn FDI.

Về lao động, việc làm, cùng với thuế, thu hút FDI cũng là mục tiêu để giúp Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung giải quyết vấn đề lao động, việc làm. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp được các nhà tư bản nước ngoài mang đến nước khác thường phụ thuộc vào nước nhận tư bản ở hai yếu tố: đất đai và lao động. Doanh nghiệp FDI càng phát triển, quy mô lớn thì càng tạo ra nhiều việc làm tại nước mà họ đầu tư.

Về các giá trị tri thức, không chỉ đóng góp cho ngân sách quốc gia tiền thuế, thuê đất và các nghĩa vụ tài chính khác, mà doanh nghiệp FDI còn được kỳ vọng sẽ mang đến khoa học - công nghệ hiện đại. Với nền đại công nghiệp đã phát triển và dần bước sang thời kỳ hậu công nghiệp, chuyên gia tư sản nước ngoài thường trả lời cho câu hỏi “sản xuất như thế nào” bằng khoa học -  công nghệ hiện đại. Do đó, với việc cho thuê tư liệu sản xuất, “quan sát” những chuyên gia tư sản nước ngoài này tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý trên chính quốc gia mình, những nước thu hút FDI như Việt Nam kỳ vọng không chỉ tiếp cận, mà còn dần làm chủ khoa học -  công nghệ, quay lại cải tiến năng suất lao động của chính mình, gia tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế, tiến đến giảm thiểu phụ thuộc vào sự hiện diện của doanh nghiệp FDI.

Về hàng hóa, thu hút FDI trong giai đoạn hiện nay được kỳ vọng sẽ góp phần xây dựng một thị trường với nhiều hàng hóa đa dạng, phong phú hơn và cao hơn nữa là nền sản xuất trong nước sẽ phát triển khi trở thành nơi cung cấp những sản phẩm hỗ trợ cho ngành công nghiệp mà doanh nghiệp FDI mang tới.

Thứ hai, xây dựng quan hệ sản xuất. V.I. Lê-nin nhiều lần đề cập đến những đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó chủ nghĩa tư bản là mảnh ghép không thể tránh khỏi, là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi. Do đó, những quan hệ sản xuất chủ nghĩa tư bản mặc dù không giữ địa vị thống trị, nhưng cũng không thể ngay lập tức mất đi, trái lại, nó còn là kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất ở mức thấp, trung bình.

Chúng ta kỳ vọng học hỏi từ chuyên gia nước ngoài cách thức tổ chức, quản lý, phân phối kết quả lao động phù hợp để khơi dậy sự sáng tạo và động lực làm việc của người lao động. Thông qua cách họ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ phát minh, sáng chế, thu hút người lao động sản xuất hàng hóa với giá trị cá biệt thấp hơn nhiều so với giá trị chung của toàn xã hội, những nhà quản lý nhà nước, chủ thể kinh tế tại các nước đang phát triển có thể học tập những cách thức sáng tạo ấy trên nền tảng mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, tôn trọng sở hữu tư nhân (trong khi sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về sở hữu nhà nước) là một bước tạm thời và cần thiết để các nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam tận dụng được sức mạnh của thời đại, tham gia hội nhập quốc tế sâu rộng, tích lũy tiền đề vật chất cho xã hội xã hội chủ nghĩa.

Kiểm tra thấu kính thành phẩm tại Công ty TNHH Nghiên cứu Kỹ thuật R Việt Nam (vốn đầu tư của Nhật Bản), tỉnh Hòa Bình_Ảnh: TTXVN

Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay

Những kỳ vọng khi đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư FDI vào nước ta không chỉ xuất phát từ cơ sở lý luận giàu giá trị khoa học của V.I. Lê-nin, mà còn từ thực tiễn gần 40 năm đổi mới của Việt Nam. Bên cạnh kết quả đạt được, giữa kỳ vọng và thực tế thu hút FDI của nước ta cũng còn những khoảng cách và vấn đề đặt ra.

Thứ nhất, tình trạng chuyển giá, trốn thuế từ doanh nghiệp FDI là vấn đề lớn của các nước đang phát triển, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Giai đoạn 2012 - 2022, tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ tương đối cao, thời điểm trước đại dịch COVID-19, tỷ lệ doanh nghiệp báo lỗ cao nhất là năm 2017 với 37,91%, năm 2021 là 47,09%, năm 2022 là 56%. Doanh nghiệp FDI báo lỗ làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước, doanh nghiệp FDI “lỗ giả lãi thật” làm thất thu thuế, thất thu ngân sách nhà nước. Bằng các hoạt động mua nguyên liệu, công nghệ, thương hiệu từ công ty mẹ (đối với công ty đa quốc gia) với giá cao, chi phí sản xuất hằng năm của doanh nghiệp FDI tại nước ta bị đẩy lên cao khiến các doanh nghiệp này luôn trong tình trạng thua lỗ. Hoặc thông qua hoạt động mở thêm cơ sở, chi nhánh ở nhiều địa phương để hưởng nguồn lợi từ thuế (trước khi Luật Quản lý Thuế năm 2019 có hiệu lực) cũng là hình thức né tránh nghĩa vụ thuế của một số doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Như vậy, việc thu tô nhượng, thu thuế từ các nhà tư bản để phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn nền kinh tế ở trình độ chưa cao của Việt Nam dường như chưa đạt được như kỳ vọng.

Thứ hai, việc doanh nghiệp FDI sử dụng chủ yếu là người lao động có trình độ thấp đặt ra nhiều vấn đề kinh tế, xã hội cho Việt Nam trong tương lai gần. Với quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, trình độ khoa học - công nghệ lạc hậu,  chi phí sản xuất của nền kinh tế Việt Nam cao, tuy nhiên lại có sức hút nguồn vốn FDI lớn so với các nước trong khu vực do có nguồn lao động trình độ thấp, giá rẻ. Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở nước ta (từ đào tạo nghề trở lên) chỉ đạt 26,1%. Trong cơ cấu phân bố doanh nghiệp FDI, những ngành chiếm tỷ trọng lớn là các ngành may mặc, giày da, chế biến nhựa, cao-su... đều thâm dụng lao động, đặc biệt là người lao động có trình độ thấp. Những người lao động này khó có thể sử dụng được chuyên môn, kỹ thuật nếu không tiếp tục lao động tại doanh nghiệp do tính chất chuyên môn hóa và đặc thù trong mỗi dây chuyền sản xuất. Như vậy, trình độ của người lao động trong các khu vực FDI cơ bản không có sự thay đổi, hay được nâng cao. Bên cạnh đó, mặc dù khu vực FDI góp phần không nhỏ trong nâng cao thu nhập cho người lao động. Song do năng suất lao động Việt Nam tương đối thấp, nên mức tiền lương được doanh nghiệp FDI trả cho người lao động Việt Nam cũng không cao.

Mặt khác, với áp lực, cường độ lao động lớn, người lao động tại khu chế xuất, khu công nghiệp ở độ tuổi từ 35 đến 40 tuổi chưa qua đào tạo, không có hoặc có ít tư liệu sản xuất sẽ trở thành vấn đề kinh tế, xã hội của Việt Nam khi không còn đáp ứng được yêu cầu về sức khỏe lao động của doanh nghiệp FDI. Giải quyết việc làm cho lực lượng lao động này đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức, đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ làm cho nhiều ngành, nghề thủ công mất đi, người lao động cần có trình độ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc sử dụng, vận hành các máy móc kỹ thuật. 

Thứ ba, tiếp thu, học hỏi khoa học - công nghệ của doanh nghiệp FDI hay chuyên gia tư sản chưa mang lại kết quả như kỳ vọng. Sau hơn 30 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực, khoa học - công nghệ mà các doanh nghiệp, chủ thể kinh tế Việt Nam tiếp thu, cải biến và sáng tạo từ doanh nghiệp FDI nhìn chung chưa tạo được cú huých, thúc đẩy sự phát triển khoa học - công nghệ nói riêng, kinh tế Việt Nam nói chung. Điều này một phần do doanh nghiệp FDI tại Việt Nam chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ theo cả tiêu chí vốn, lao động và doanh thu, do đó công nghệ, kỹ thuật của các doanh nghiệp này cũng chỉ đạt ở mức cao hơn so với trình độ công nghệ của Việt Nam. Mặt khác, doanh nghiệp FDI tại Việt Nam chủ yếu đầu tư vào những lĩnh vực thâm dụng lao động, lĩnh vực sử dụng máy móc hiện đại lại không phải là yếu tố được chú trọng hàng đầu. Và nếu doanh nghiệp FDI có công nghệ hiện đại thì những ràng buộc để họ chuyển giao công nghệ cũng tương đối khó khăn vì liên quan đến bản quyền, ký kết hợp đồng đầu tư...

Thứ tư, chúng ta kỳ vọng vào việc cung cấp các hàng hóa phụ trợ cho doanh nghiệp FDI của doanh nghiệp trong nước và thị trường hàng hóa đa dạng, phong phú hơn. Xét về khía cạnh hàng hóa phụ trợ, năm 2022 là năm mà số lượng doanh nghiệp FDI sử dụng hàng hóa dịch vụ đầu vào cung ứng bởi doanh nghiệp khu vực tư nhân Việt Nam cao nhất từ năm 2012 cũng mới chỉ đạt 63,3%. Trong 63,3% doanh nghiệp này, việc sử dụng hàng hóa đầu vào cũng vẫn chủ yếu từ công ty mẹ, tỷ lệ hàng hóa đầu vào của Việt Nam không lớn trong tổng sản lượng hàng hóa đầu vào của các doanh nghiệp FDI này.

Thứ năm, trong quan hệ sản xuất, bên cạnh việc học tập những phương thức, kỹ thuật quản lý tổ chức, nhân lực của doanh nghiệp FDI, những mặt trái trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đang dần tác động đến tổ chức, quản lý trong doanh nghiệp khu vực tư nhân Việt Nam, đặc biệt là trong khâu phân phối. Doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu tư bản sang Việt Nam, mang theo quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, với giá trị thặng dư thuộc về giới chủ. Quan hệ sản xuất này tuy không trở thành quan hệ sản xuất thống trị của nền kinh tế nước ta, song thực trạng phân phối giá trị thặng dư, kết quả lao động trong doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp khu vực tư nhân Việt Nam đặt ra các vấn đề, như tình trạng bóc lột, bất bình đẳng xã hội... Đây cũng chính là những nội dung các thế lực thù địch thường xuyên xoáy sâu để xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Sản xuất ô tô du lịch tại nhà máy lắp ráp ô tô Ford Hải Dương_Ảnh: TTXVN

Một số hàm ý chính sách

Từ cơ sở lý luận và một số vấn đề đặt ra trong thu hút FDI tại nước ta hiện nay, để nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự trở thành nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho xã hội xã hội chủ nghĩa thì cần chú trọng một số nội dung sau:

Một là, bảo đảm thực hiện hiệu quả luật thuế quốc gia, quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu (Luật Quản lý Thuế năm 2019; Nghị định số 132/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết; Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu (có hiệu lực năm 2024) hướng tới siết chặt quản lý thuế, điều chỉnh các quy định về tái đầu tư, chống chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng). Cần thực hiện nghiêm túc và đồng thời tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh pháp luật thuế để qua đó, việc thu “tô nhượng” của các nhà tư bản nước ngoài không bị thất thoát, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội xã hội chủ nghĩa.

Hai là, cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực được đào tạo, có trình độ cao. Người lao động cần có một trình độ nhất định để thực sự học tập được kỹ thuật, ý thức kỷ luật, thái độ lao động từ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong doanh nghiệp FDI. Nguồn lao động giá rẻ, trình độ thấp sẽ không còn là lợi thế của Việt Nam trong tương lai gần khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra ngày càng mạnh mẽ với những máy móc hiện đại thay thế lao động thủ công. Mặt khác, nếu chỉ dựa vào nguồn lao động trình độ thấp để thu hút FDI thì việc thông qua thành tựu của chủ nghĩa tư bản nhà nước để nâng cao trình độ, kỹ thuật lao động trong nước khó có thể đạt được. Do đó, việc tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề cần được chú trọng và thực hiện một cách hiệu quả, coi đây là chiến lược thu hút FDI và cũng là điều kiện để người lao động Việt Nam lĩnh hội được tri thức từ chuyên môn đến tác phong công nghiệp trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại.

Ba là, trong thu hút FDI cần có sự lựa chọn công nghệ phù hợp, tránh tình trạng thu hút FDI bằng mọi giá, bất chấp công nghệ lạc hậu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, việc lựa chọn công nghệ trong thu hút FDI không phải là việc dễ dàng, đặc biệt là trong bối cảnh tỷ lệ lao động qua đào tạo của nước ta còn chưa cao. Song, điều đó không có nghĩa là bất cứ công nghệ nào chúng ta cũng sẵn sàng đón nhận từ FDI. Cần tiếp tục có sự phân loại và lựa chọn công nghệ phù hợp với trình độ lao động, khoa học - công nghệ trong nước.

Bốn là, nghiên cứu xây dựng các cam kết sử dụng hàng hóa, nguyên liệu Việt Nam để phát triển công nghiệp phụ trợ. Việt Nam cần “khéo léo” lồng ghép các điều khoản sử dụng nguyên liệu trong nước vào hợp đồng với doanh nghiệp FDI. Bên cạnh đó, để doanh nghiệp FDI sử dụng nguyên liệu, hàng hóa của Việt Nam, chúng ta cũng cần xây dựng, hoàn thiện thị trường hàng hóa, nguyên liệu đầu vào với chất lượng, số lượng bảo đảm theo tiêu chuẩn quốc tế./.

ST.

Phát huy truyền thống đoàn kết, đồng thuận của các tầng lớp nhân dân thông qua vai trò của Ban Công tác Mặt trận

Trong quá trình hình thành và phát triển, Ban Công tác Mặt trận đã tham gia, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ quan trọng của địa phương, góp phần xây dựng, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, hiệu quả trong hoạt động của Ban Công tác Mặt trận vẫn còn một số hạn chế nhất định. Do đó, trong thời gian tới, hệ thống chính trị các cấp tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp nhằm nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của Ban Công tác Mặt trận.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp mặt Đoàn đại biểu người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới, biển đảo nhân dịp tham dự chương trình “Điểm tựa của bản làng” lần thứ II, do Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tổ chức tại Hà Nội _Ảnh: Tư liệu

1- Ở nước ta, truyền thống gắn kết cộng đồng giữa cá nhân - gia đình - làng - nước gắn liền với chiều dài lịch sử dân tộc và tồn tại đến ngày nay. Tính cộng đồng ở các khu dân cư là nền tảng quan trọng cho các quan hệ dân chủ, bình đẳng, là cái gốc của cấu trúc, tổ chức làng xã Việt Nam. Điều này được thể hiện qua ca dao, tục ngữ, như “tình làng, nghĩa xóm”, “tối lửa tắt đèn có nhau” - đó là sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam. Sự trường tồn được kết tinh bởi tính cộng đồng bền chặt, liên kết các thành viên của gia đình, dòng họ cùng chung sống gắn bó với nhau theo đơn vị thôn, xóm, làng, bản. Tính cộng đồng giữa các hộ gia đình sinh sống ở các khu dân cư biểu hiện sinh động và đa dạng, hình thành tâm lý cộng đồng dựa trên sự cộng đồng về cư trú, cộng đồng về sở hữu chung và lợi ích, cộng đồng về tâm linh và cộng đồng về văn hóa; mỗi thành viên trong cộng đồng ngoài chăm lo cho bản thân và gia đình mình còn có trách nhiệm bảo đảm lợi ích chung của các thành viên khác trong cộng đồng.

Hệ thống hành chính ở nước ta được tổ chức theo 4 cấp, bao gồm trung ương, tỉnh, huyện, xã. Như vậy, xã là cấp đơn vị hành chính thấp nhất trong hệ thống hành chính; tuy nhiên, các khu dân cư gắn bó gần nhất với nhân dân. Hiện nay trên địa bàn cả nước, tại mỗi khu dân cư đều xây dựng “cánh tay nối dài” của hệ thống chính trị, bao gồm tổ chức đảng (chi bộ, tổ đảng); tổ chức chính quyền (thôn, ấp, cụm, khu phố...); tổ chức Mặt trận và đoàn thể (Ban Công tác Mặt trận; chi hội phụ nữ; chi hội cựu chiến binh; chi hội thanh niên, nông dân...). Các tổ chức nói trên hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt động đều được quy định bởi điều lệ của tổ chức; tuân thủ pháp luật, dân chủ, công khai, minh bạch; thực hiện phát huy quyền làm chủ của hội viên phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của cộng đồng dân cư, không thoát ly, tách rời với sự quản lý của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của chi ủy, sự điều hành của trưởng thôn, vai trò tập hợp, vận động cộng đồng và sự hướng dẫn của Ban Công tác Mặt trận nhằm phát huy vai trò tự quản của nhân dân theo phương châm: “lấy sức dân để chăm lo cuộc sống của dân”.

Điều 27 Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa IX quy định cụ thể về Ban Công tác Mặt trận như sau: “Ban Công tác Mặt trận được thành lập ở thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố... (gọi chung là khu dân cư). Cơ cấu của Ban Công tác Mặt trận bao gồm: một số Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã cư trú ở khu dân cư; đại diện chi ủy; người đứng đầu của chi hội Người cao tuổi, chi hội Cựu chiến binh, chi hội Nông dân, chi hội Phụ nữ, chi đoàn Thanh niên, chi hội Chữ Thập đỏ... Một số người tiêu biểu trong các tầng lớp nhân dân, trong các dân tộc, tôn giáo...”. Ban Công tác Mặt trận có chức năng phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên; phối hợp với trưởng thôn (làng, ấp, bản), tổ trưởng dân phố... để thực hiện các nhiệm vụ quan trọng của địa phương.

Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư do Mặt trận Tổ quốc cấp xã thành lập, không phải là một cấp của Mặt trận mà là tổ chức tự quản thực hiện nhiệm vụ “cánh tay nối dài” của công tác mặt trận tại các thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, tổ dân phố,... có vai trò quan trọng trong việc mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy vai trò người tiêu biểu, xây dựng cộng đồng dân cư tự quản hoạt động trên cơ sở hương ước, quy ước; động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát và phản biện xã hội theo quy định của Đảng và Nhà nước; tập hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước. Hiện nay, cả nước có 129.896 Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư, trung bình mỗi ban có 5 thành viên. Tổng số thành viên Ban Công tác Mặt trận ở các địa phương là gần 650 nghìn người.

Để thực hiện các nhiệm vụ, Trưởng Ban Công tác Mặt trận có nhiệm vụ triệu tập, chủ trì các cuộc họp, thường kỳ mỗi tháng một lần, họp bất thường khi cần thiết và việc tổ chức hội nghị của thôn, tổ dân phố được vận dụng linh hoạt phù hợp với tình hình thực tiễn ở cơ sở. Thành phần hội nghị cơ bản là cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố. Nhiều nội dung quan trọng được cử tri thảo luận và biểu quyết trong hội nghị thôn, tổ dân phố. Các nội dung tự quản của cộng đồng ở khu dân cư nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân thông qua vai trò “cầu nối” của Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư. Trong nhiều năm qua, các phong trào, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên phát động thông qua Ban Công tác Mặt trận và các chi hội đoàn thể ở các khu dân cư đã thu hút đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia với nhiều cách làm sáng tạo, phù hợp với đặc điểm, tâm lý của từng cộng đồng.

Thực hiện các nhiệm vụ theo quy định trong điều lệ, trên cơ sở phối hợp với trưởng thôn, nhiều Ban Công tác Mặt trận đã xây dựng được các mô hình tự quản trong một số lĩnh vực, thu hút, tập hợp được bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, khơi dậy truyền thống yêu nước, phát huy quyền lợi và trách nhiệm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng dân cư, bảo đảm an sinh xã hội, xóa bỏ hủ tục. Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư đã phối hợp với các chi hội đoàn thể triển khai xây dựng các mô hình tự quản ở khu dân cư để đưa “ý Đảng vào lòng dân” đến với từng thành viên trong cộng đồng, xây dựng được lực lượng nòng cốt nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, định hướng được dư luận xã hội, giúp củng cố niềm tin, nâng cao nhận thức trong nhân dân, kịp thời đề xuất, xử lý hiệu quả các vụ, việc phức tạp ở cơ sở, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, nhất là ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng trọng điểm về an ninh - quốc phòng, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Thành viên nòng cốt của mô hình tự quản ở cộng đồng dân cư chủ yếu là các thành viên trong Ban Công tác Mặt trận; chi hội đoàn thể; người uy tín tiêu biểu trong cộng đồng đứng ra chủ trì, tập hợp, vận động hội viên, đoàn viên và nhân dân trong cộng đồng dân cư tự giác, tự nguyện, tâm huyết tham gia thực hiện với nhiều mô hình mới, cách làm hay theo phương châm “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. 

Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến chung vui ngày hội đại đoàn kết cùng đồng bào các dân tộc xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, tháng 11-2022 _Nguồn: daidoanket.vn

Ban Công tác Mặt trận và các chi hội đoàn thể ở các khu dân cư trên địa bàn cả nước đã xây dựng được 637.534 mô hình tự quản, với 23.460.795 thành viên tham gia với các tên gọi khác nhau trong các lĩnh vực. Trong đó, mô hình tự quản liên quan đến lĩnh vực kinh tế có 288.921 mô hình, với 8.956.551 thành viên tham gia (trung bình khoảng 31 thành viên/1 mô hình); mô hình tự quản liên quan đến lĩnh vực bảo vệ an ninh, trật tự có 186.935 mô hình, với 6.916.595 thành viên tham gia (trung bình khoảng 37 thành viên/1 mô hình); mô hình tự quản liên quan đến lĩnh vực bảo vệ môi trường có 87.345 mô hình, với 2.533.005 thành viên tham gia (trung bình 29 thành viên/mô hình); mô hình tự quản liên quan đến lĩnh vực thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh có 67.432 mô hình, với 4.585.376 thành viên tham gia (trung bình 68 thành viên/ mô hình); mô hình tự quản liên quan đến các lĩnh vực hoạt động khác có 6.901 mô hình, với 469.268 thành viên tham gia (trung bình 68 thành viên/mô hình). Những kết quả đạt được trong hoạt động tự quản của Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân, khơi dậy lòng yêu nước, vượt qua khó khăn, phát huy dân chủ và nội lực của cộng đồng dân cư, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh của các địa phương.

2- Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của Ban Công tác Mặt trận ở một số địa phương còn có những hạn chế, khó khăn, như công tác tham mưu cho Chi ủy, chi bộ lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện chương trình phối hợp thống nhất hành động ở một số nơi còn thiếu cụ thể, chưa chủ động. Một số Trưởng Ban Công tác Mặt trận chưa thực sự sát dân, gần dân, hiểu dân, lắng nghe dân để nắm bắt, xử lý, kiến nghị và phối hợp giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân nên hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào, các cuộc vận động ở một số khu dân cư hiệu quả chưa cao, chưa có chiều sâu, còn mang tính hình thức. Công tác nắm bắt tư tưởng, tình hình nhân dân có lúc, có nơi chưa kịp thời. Công tác giám sát chỉ dừng lại ở mức độ “theo dõi - phát hiện”, nội dung kiến nghị chưa cụ thể, chưa theo sát việc giải quyết của các cơ quan liên quan đến nội dung đã kiến nghị, nên hiệu quả công tác chưa cao. Hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng một số địa phương chưa được phát huy. Vai trò phối hợp, thống nhất hành động giữa Ban Công tác Mặt trận với các chi hội đoàn thể và trưởng thôn ở các khu dân cư để vận động, phát huy tính tự nguyện, tự giác, tự quản, tự chịu trách nhiệm của nhân dân ở cộng đồng dân cư chưa thống nhất, trùng lặp về đối tượng, nội dung và nguồn lực, thiếu sự chỉ đạo, lồng ghép, thống nhất giữa các tổ chức nên vẫn còn tình trạng “mạnh ai nấy làm”, xây dựng quá nhiều mô hình tự quản, nhưng chưa phát huy hiệu quả, chồng chéo trong nhiều lĩnh vực bởi còn một số nơi chạy theo thành tích để bảo đảm các tiêu chí đánh giá thi đua, hoạt động theo kiểu “sớm nở, tối tàn, có kinh phí thì có hoạt động, hết kinh phí thì hết hoạt động”. Công tác hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra của hệ thống chính trị ở cơ sở trong triển khai thực hiện các hoạt động tự quản và các mô hình tự quản còn nhiều hạn chế; không ít Ban Công tác Mặt trận chưa xây dựng quy chế hoạt động, chưa xây dựng bộ tiêu chí hay khung chuẩn để đánh giá chất lượng hoạt động các mô hình tự quản nhằm thu hút sự tự giác, tự nguyện, đồng thuận của người dân để mô hình có sức sống lâu dài. Một số nơi còn chưa hiểu rõ mô hình tự quản, nội dung và phương thức vận hành của hoạt động tự quản ở khu dân cư để phát huy và thực hiện hiệu quả các phong trào, các cuộc vận động thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể phát động. Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ Ban Công tác Mặt trận chưa cao, không đồng đều; chế độ sinh hoạt phí đối với Trưởng Ban Công tác Mặt trận còn thấp, chưa phù hợp từ đó không khuyến khích được Trưởng ban tích cực học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, năng lực, nhiệt huyết công tác; kinh phí hoạt động cho Ban Công tác Mặt trận ở một số địa phương chưa thật sự được quan tâm. Việc đánh giá, khen tặng danh hiệu “Khu dân cư văn hóa”, “Gia đình văn hóa” còn có biểu hiện chưa thực chất, chưa động viên được tính tự quản, sáng tạo trong công việc của mỗi người dân, mỗi gia đình.

Các đại biểu thưởng thức rượu cần với nhân dân tại Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc ở buôn Ciết, xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk _Ảnh: TTXVN

3- Để tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Công tác Mặt trận, phát huy vai trò tự quản, đoàn kết, đồng thuận xã hội của từng người dân, từng hộ gia đình, từng dòng họ sinh sống ở các khu dân cư trên địa bàn cả nước, hệ thống chính trị các cấp cần quan tâm thực hiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và đội ngũ cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư để tiếp tục triển khai, thực hiện hiệu quả nghị quyết, chương trình hành động của Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp nhiệm kỳ 2024 - 2029. Hệ thống chính trị các cấp, nhất là hệ thống chính trị ở cơ sở tại hơn 10 nghìn xã trên địa bàn cả nước cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức lồng ghép các hoạt động tự quản ở khu dân cư thông qua vai trò của Trưởng Ban Công tác Mặt trận để tập hợp, vận động sự tự nguyện, tự giác, tự quyết, tự chịu trách nhiệm, tự chủ về kinh phí, tạo sự đồng thuận của các thành viên trong cộng đồng dân cư. Về quy mô tổ chức, phạm vi và lĩnh vực hoạt động sẽ linh hoạt tùy thuộc vào điều kiện và tình hình thực tiễn của từng địa phương; phát huy tính chủ động, linh hoạt và sáng tạo của từng cộng đồng dân cư trong công tác xây dựng quy ước, hương ước nhằm tạo sự đồng thuận của mỗi người dân, mỗi gia đình, mỗi dòng họ và cả cộng đồng. 

Thứ hai, xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư bảo đảm số lượng, bảo đảm cơ cấu thành phần theo quy định. Xây dựng quy chế hoạt động của Ban Công tác Mặt trận, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên; duy trì họp thường kỳ mỗi tháng một lần, họp bất thường khi cần thiết. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Ban Công tác Mặt trận để triển khai các phong trào thi đua một cách linh hoạt, sáng tạo, có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với thực tiễn địa phương, thu hút đông đảo người dân hưởng ứng tham gia. Chủ động nắm chắc tình hình nhân dân ở khu dân cư, kịp thời phát hiện mâu thuẫn, bức xúc trong nhân dân để có biện pháp giải quyết, tháo gỡ; thường xuyên “gần dân, sát dân, hiểu dân, trọng dân, nghe dân nói, nói dân nghe, làm dân tin”, tạo sự thống nhất giữa “ý Đảng lòng dân”, tăng cường đoàn kết thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, khơi dậy các nguồn lực trong nhân dân “lấy sức dân để xây dựng cuộc sống cho nhân dân”, lấy đoàn kết để phát huy sức mạnh của mọi tổ chức và cá nhân, lấy việc động viên, thực hiện dân chủ và công khai, minh bạch ở cộng đồng dân cư làm phương châm hành động.

Thứ ba, tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết liên tịch số 88/2016/NQLT/CP-ĐCTUBTWMTTQVN, ngày 7-10-2016, của Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về “Phối hợp thực hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” và Nghị định số 122/2018/NĐ-CP, ngày 17-9-2018, của Chính phủ, “Quy định về xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa””; kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc, đề xuất, kiến nghị liên quan của nhân dân. Tạo điều kiện thuận lợi để Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư triển khai thực hiện tốt việc tổ chức “Ngày Hội đại đoàn kết dân tộc ở khu dân cư” vào ngày 18-11 hằng năm nhằm góp phần phát huy dân chủ, thắt chặt tình đoàn kết, gắn bó, đồng thuận xã hội giữa các hộ gia đình tại các khu dân cư; xây dựng, nhân rộng, nâng cao chất lượng các hoạt động tự quản gắn với việc đánh giá, bình xét, biểu dương, khen thưởng các danh hiệu gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa ở khu dân cư trên địa bàn cả nước./.

ST.

Hệ lụy của già hóa dân số: Nhìn từ trường hợp Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam

Từng là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và được kỳ vọng sẽ vươn lên vị trí dẫn đầu, Nhật Bản dần mất đi động lực tăng trưởng, gần đây nhất xếp sau Đức (năm 2022). Vấn đề già hóa dân số được xem là một trong những nguyên nhân chủ đạo thách thức nền kinh tế nước này. Từ bài học của Nhật Bản, có thể thấy, việc thích ứng và xử lý vấn đề già hóa dân số là một trong những ưu tiên quan trọng đối với nhiều chính phủ trên thế giới hiện nay.

Già hóa dân số - một trong những tác nhân chủ đạo làm suy giảm nền kinh tế Nhật Bản

Theo số liệu của Chính phủ Nhật Bản công bố vào ngày 15-2-2024, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) danh nghĩa năm 2023 của Nhật Bản đạt khoảng 4.200 tỷ USD, trong khi đó GDP của Đức đạt khoảng 4.500 tỷ USD. Điều này đồng nghĩa với việc Đức đã vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, sau Mỹ và Trung Quốc.

Nhật Bản đã trải qua thời kỳ khó khăn sau giai đoạn phát triển “thần kỳ” từ năm 1952 – 1971, với tăng trưởng tổng sản lượng quốc gia (GNP) bình quân đạt 9,6%/năm. Từ năm 1992 - 2011, tốc độ tăng trưởng GNP của Nhật Bản giảm xuống chỉ còn trung bình 0,7%/năm. Quy mô nền kinh tế Nhật Bản ngày càng thu nhỏ, với GDP năm 2022 đạt 4.231 tỷ USD, giảm 33% so với năm 2012 là 6.272 tỷ USD. Kinh tế Nhật Bản suy giảm trên nhiều lĩnh vực, đi kèm với tỷ lệ nợ công cao. Những thế mạnh chủ chốt của nền kinh tế Nhật Bản, như ngành công nghiệp sản xuất ô-tô và điện tử, đã chứng kiến sự sụt giảm mạnh mẽ. Từ xếp hạng vị trí hàng đầu về sản xuất ô-tô trên thế giới, thị trường ô-tô Nhật Bản đã giảm xuống vị trí thứ tư, sau Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ. Tương tự, từ xếp hạng vị trí thứ hai về xuất khẩu hàng điện tử, Nhật Bản đã xuống vị trí thứ sáu, với thị phần giảm từ 13% năm 2000 giảm còn 4% vào năm 2022.

Nền kinh tế Nhật Bản rơi vào trạng thái đình trệ trong thời gian dài do nhiều nguyên nhân, nhưng phần lớn được cho là bắt nguồn từ xu hướng già hóa dân số. Là đất nước già nhất thế giới, số lượng người trên 65 tuổi tại Nhật Bản đạt hơn 36 triệu người, chiếm khoảng 29% dân số năm 2022, vượt xa các nước phát triển khác. Theo dự báo của Viện Nghiên cứu dân số và an sinh xã hội quốc gia Nhật Bản, tỷ lệ người cao tuổi sẽ chiếm khoảng 35,3% tổng dân số Nhật Bản vào năm 2040 và có thể lên tới 40% vào năm 2060. Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh của Nhật Bản cũng liên tục giảm, trung bình khoảng 2,5%/năm trong thập niên qua.

Tình trạng già hóa dân số gia tăng liên tục với tốc độ nhanh đã khiến đất nước được mệnh danh là “gã khổng lồ” về kinh tế phải đối mặt với không ít thách thức, khó khăn. Già hóa dân số làm suy giảm lực lượng lao động, gia tăng áp lực quỹ lương hưu, đặt gánh nặng lên vai lực lượng lao động trẻ, dẫn đến chi phí sinh hoạt đắt đỏ, thời gian làm việc gia tăng và trách nhiệm phụng dưỡng người cao tuổi ngày càng lớn. Áp lực công việc dẫn đến những vấn đề xã hội, góp phần vào xu hướng sống cô độc, không muốn kết hôn và có con trong giới trẻ Nhật Bản, tạo ra vòng xoáy đi xuống giữa già hóa và suy thoái kinh tế.

Người cao tuổi ở Nhật Bản_Nguồn: japannews.yomiuri.co.jp

Từ câu chuyện Nhật Bản suy nghĩ về nguy cơ già hóa dân số

Câu chuyện nền kinh tế Nhật Bản cho thấy một thực tiễn đáng quan ngại trước tác động của tình trạng già hóa dân số đến phát triển kinh tế, phát tín hiệu báo động đối với nhiều quốc gia. Đã đến lúc cần nhìn lại một cách hệ thống vấn đề già hóa dân số và những hệ lụy mang tính hệ thống của tình trạng này.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), già hóa dân số là quá trình thay đổi về thành phần tuổi và gia tăng tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số. Dân số được gọi là già hóa khi người cao tuổi chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong toàn bộ dân số. Cụ thể, một quốc gia có tỷ lệ người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) chiếm từ 7 - 9,9% tổng dân số, được coi là “già hóa”; từ 10 - 19,9% được coi là dân số “già”; từ 20 - 29,9% được coi là dân số “rất già” và từ 30% trở lên được coi là dân số “siêu già”. 

Về kinh tế, già hóa dân số tạo ra nhiều thách thức trong phát triển kinh tế, nhất là về cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động giảm đi, cơ cấu nghề nghiệp sẽ thay đổi, gánh nặng kinh tế đối với người lao động trẻ cũng gia tăng. Già hóa dân số gây thiếu hụt nguồn lao động bổ sung cho tương lai, làm suy giảm năng suất lao động và kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Cân đối tài chính vĩ mô bất ổn do giảm nguồn thu từ thuế, tăng chi tiêu công của chính phủ và thiếu hụt hệ thống phúc lợi xã hội. Hệ thống an sinh xã hội, nhất là các ngành dịch vụ y tế, lương hưu, phúc lợi xã hội sẽ phải chịu những áp lực về bảo đảm nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (chi phí trung bình để chăm sóc sức khỏe cho một người cao tuổi bằng 7 - 8 lần chi phí trung bình chăm sóc sức khỏe cho một người trẻ tuổi). Ngoài ra, dân số già là nhóm dễ bị tổn thương trong các cuộc khủng hoảng sức khỏe như đại dịch, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh y tế toàn cầu. Tác động kinh tế của khủng hoảng sức khỏe cũng bị khuếch đại nhiều hơn ở các khu vực có số lượng người cao tuổi đông, bởi vì chi phí chăm sóc và áp lực đối với hệ thống phúc lợi xã hội tăng trong khi năng suất lao động giảm.

Về văn hóa - xã hội, già hóa dân số có thể làm gia tăng tình trạng phân biệt đối xử theo độ tuổi, nhất là phụ nữ lớn tuổi. Thu nhập của người cao tuổi thấp khiến nhu cầu chi tiêu, mua sắm giảm, gia tăng khoảng cách giàu - nghèo, bất bình đẳng trong xã hội. Bên cạnh đó, già hóa dân số và dân số già đặt ra thách thức trong việc bảo đảm đời sống văn hóa và tinh thần cho người cao tuổi, điều chỉnh thị trường lao động - việc làm, giải quyết mâu thuẫn và xung đột giữa các thế hệ.

Về an ninh - chính trị - đối ngoại, xu hướng già hóa dân số tác động đến tiềm lực quốc phòng - an ninh của các nước; do đó, về lâu dài có thể ảnh hưởng đến tương quan sức mạnh giữa các quốc gia. Các nước có dân số già phải đối mặt với thách thức trong việc duy trì sức mạnh quân sự và khả năng cạnh tranh kinh tế. Dân số già có thể làm giảm khả năng chi tiêu cho quốc phòng - an ninh do áp lực về kinh tế, hệ thống an ninh xã hội và lương hưu. Ngoài ra, tỷ lệ người trẻ ở độ tuổi nhập ngũ giảm gây khó khăn cho việc tuyển quân và duy trì ổn định lực lượng quân đội, có thể dẫn đến nhiều rủi ro khi xảy ra chiến tranh hoặc các tình huống khẩn cấp.

Bên cạnh đó, già hóa dân số mang lại một số hệ lụy từ xu hướng di cư gia tăng. Các nước tiếp nhận phải đối mặt với thách thức phát triển kết cấu hạ tầng và an ninh do số lượng người nhập cư lớn, kèm theo các vấn đề, như nhập cư trái phép, buôn lậu và xung đột sắc tộc. Ngược lại, các nước đang phát triển với dân số trẻ hơn phải đối diện với lỗ hổng trong lực lượng lao động, gây “chảy máu” chất xám và áp lực tiêu cực đối với sức khỏe, phát triển xã hội ở trong nước.

Già hóa dân số là một thực tế khách quan trong sự phát triển của các quốc gia. Bên cạnh những thách thức, xu thế này cũng đem lại không ít cơ hội.

Một là, già hóa dân số mang đến cơ hội tích cực cho năng suất lao động và phát triển nền “kinh tế bạc”. Nếu có sự đầu tư thích hợp, người lao động cao tuổi sẽ trở thành nguồn lao động chất lượng cao, nhiều kinh nghiệm, kỹ năng và gắn kết hơn với công việc, dẫn đến năng suất lao động cao hơn. Bên cạnh đó, số lượng người cao tuổi gia tăng cũng góp phần kích thích tiêu dùng, nhất là các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, y tế, phúc lợi…, hình thành nền “kinh tế bạc”.

Tạo điều kiện cho người cao tuổi tham gia thị trường lao động vừa đem lại niềm vui, sức khỏe và đóng góp cho xã hội (Trong ảnh: Người giữ nghề truyền thống (tác giả: Nguyễn Văn Điệp))_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Hai là, già hóa dân số gây áp lực phải đẩy mạnh sự phát triển khoa học - công nghệ. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực và áp lực đối với hệ thống dịch vụ công góp phần đẩy nhanh quá trình nghiên cứu, ứng dụng thành tựu công nghệ đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi; giúp cải thiện năng suất kinh tế trong bối cảnh tự động hóa và công nghệ mới được áp dụng ngày một phổ biến.

Ba là, già hóa dân số thúc đẩy tăng cường hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực, nhất là y tế và công nghệ. Già hóa dân số là xu thế quốc tế phi chính trị hóa, thúc đẩy sự hợp tác của các nước nhằm giải quyết những thách thức chung. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng và nhu cầu về đổi mới công nghệ khuyến khích các quốc gia đẩy mạnh hợp tác về công nghệ, trao đổi sáng kiến nghiên cứu và chia sẻ kinh nghiệm quản lý,... giúp phát triển các chính sách toàn diện cho xã hội già hóa trong tương lai.

Một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam

Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Tỷ trọng nhóm dân số trẻ từ 0 - 14 tuổi giảm từ 24,3% năm 2019 xuống khoảng 23,9% vào năm 2023; trong khi đó, nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên tăng nhanh, từ 11,9% năm 2019 lên 13,9% vào năm 2023. Nhóm dân số trong độ tuổi từ 15 - 59 tuổi chiếm khoảng 63,8% năm 2019 giảm xuống còn 62,2% năm 2023. Các chỉ số cho thấy, Việt Nam hiện ở trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” nhưng cũng đã bước vào quá trình già hóa dân số, dự báo sẽ chuyển sang giai đoạn “dân số già” vào năm 2038. Như vậy, Việt Nam chỉ có khoảng 14 năm để tranh thủ cơ hội của cơ cấu “dân số vàng” và cần có những bước chuẩn bị thích ứng trong tương lai.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) nhấn mạnh, “xu hướng già hóa dân số nhanh” là một trong những thách thức lớn mà Việt Nam phải giải quyết; trong thời gian tới, cần “chuẩn bị điều kiện thích ứng với già hóa dân số”. Việt Nam hiện tồn tại hai thực trạng về dân số, vừa trong giai đoạn “dân số vàng”, vừa đang trong quá trình già hóa dân số. Do đó, hiện nay là thời điểm phù hợp để nghiên cứu những chính sách hợp lý để ứng phó với thách thức và tận dụng cơ hội của tình trạng già hóa dân số, cụ thể là:

Thứ nhất, xác định già hóa dân số là một trong những vấn đề ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Già hóa dân số sẽ trở thành xu hướng lớn, đặt ra cả cơ hội và thách thức đối với tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội của Việt Nam trong thời gian tới. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để ứng phó hiệu quả với vấn đề già hóa dân số, cần có sự thay đổi về nhận thức kết hợp với các giải pháp tổng thể, toàn diện, kịp thời và phù hợp với bối cảnh và điều kiện của Việt Nam. Vấn đề già hóa dân số cần được đặt ở vị trí tương xứng trong các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thứ hai, đầu tư vào công nghệ và đổi mới kỹ thuật để bù đắp cho tình trạng thiếu hụt lao động. Chính phủ và các tổ chức liên quan có thể thúc đẩy việc đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ để nâng cao năng suất lao động, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các công nghệ tiên tiến, như trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa và robot hóa, trong quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ. Việc sử dụng những công nghệ này có thể giúp gia tăng tốc độ sản xuất, cải thiện hiệu suất và giảm sự phụ thuộc vào lao động.

Thứ ba, thúc đẩy tinh thần học tập suốt đời và giáo dục suốt đời để bảo đảm người lao động trung tuổi, cao tuổi có thể thích nghi với sự thay đổi công nghệ và yêu cầu của thị trường lao động. Đồng thời, cần xây dựng các chính sách để khuyến khích việc làm lâu dài và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trung niên và người già tham gia lực lượng lao động. Chẳng hạn, Hàn Quốc đã xây dựng một hệ thống giáo dục linh hoạt và phát triển nhiều chương trình đào tạo nghề và huấn luyện kỹ năng cho người lao động cao tuổi tiếp cận công nghệ. Hàn Quốc cũng thúc đẩy các chính sách nhằm khuyến khích việc làm lâu dài và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trung niên và người già tham gia lực lượng lao động, bao gồm các biện pháp hỗ trợ tìm kiếm việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm sự công bằng trong việc tiếp cận cơ hội việc làm.

Thứ tư, xây dựng một hệ thống quỹ hưu trí vững mạnh nhằm đem lại sự độc lập về kinh tế cho người cao tuổi. Ngoài ra, để thích ứng với già hóa dân số và bảo đảm nguồn tài chính sử dụng chăm sóc dài hạn đối với người cao tuổi, cần có những nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung chính sách về bảo hiểm chăm sóc dài hạn dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của các nước. Đơn cử như trường hợp Singapore với mô hình Tập đoàn Quỹ Tài sản quốc gia (GIC) và Quỹ Bảo hiểm xã hội (CPF) để bảo đảm tiền tiết kiệm hưu trí cho người lao động. GIC là một quỹ đầu tư quốc gia quản lý các tài sản của Singapore, trong khi CPF là hệ thống tiết kiệm và bảo hiểm xã hội bắt buộc. Điều này cho phép người lao động tích lũy tiền tiết kiệm trong suốt quá trình làm việc để bảo đảm độc lập tài chính khi về hưu. Ngoài ra, Singapore cũng tăng cường chính sách bảo hiểm chăm sóc dài hạn và hỗ trợ tài chính cho người cao tuổi có thu nhập thấp, bảo đảm họ có đủ tài chính để chăm sóc sức khỏe và sinh hoạt hằng ngày.

Thứ năm, hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Mở rộng, nâng cao năng lực chăm sóc, khám, chữa bệnh cho người cao tuổi, xây dựng môi trường sống thân thiện với người cao tuổi. Hướng tới sự phát triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến để quá trình già hóa dân số diễn ra một cách năng động, với sự bảo đảm sức khỏe và đóng góp tích cực cho xã hội của người cao tuổi. Đồng thời, tăng cường đào tạo cán bộ chăm sóc và cán bộ chuyên môn y tế trong công tác chăm sóc người cao tuổi và phát triển dịch vụ, hoạt động chăm sóc người cao tuổi ở gia đình. Ngoài ra, đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư nhân trong chăm sóc người cao tuổi để gia tăng sự lựa chọn và chất lượng dịch vụ chăm sóc.

Thứ sáu, có chính sách phù hợp, khuyến khích phát triển nền “kinh tế bạc”. Ở góc độ doanh nghiệp, chính phủ có thể đưa ra những chính sách khuyến khích và hỗ trợ phù hợp cho người cao tuổi muốn khởi nghiệp hoặc mở doanh nghiệp riêng. Điều này có thể bao gồm việc cung cấp vốn kinh doanh, tư vấn và hỗ trợ về quy trình hành chính, giảm thuế và các lợi ích khác nhằm khuyến khích sự phát triển kinh doanh cho người cao tuổi. Đồng thời, cần xây dựng mạng lưới và nền tảng để người cao tuổi có thể chia sẻ kinh nghiệm và tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau.

Ở góc độ người tiêu dùng, chính phủ và các tổ chức có thể đưa ra chính sách và tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi để khai thác tiềm năng tiêu dùng của người cao tuổi. Về kết cấu hạ tầng, có các trung tâm thương mại, khu vui chơi, hạ tầng giao thông công cộng thuận tiện và các cơ sở y tế phục vụ người cao tuổi. Về sản phẩm và dịch vụ, bao gồm các sản phẩm công nghệ, dịch vụ chăm sóc và giải trí dành cho người cao tuổi. Cần đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ để có những giải pháp ứng dụng, tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người cao tuổi. Các loại sản phẩm, dịch vụ có thể bao gồm công nghệ hỗ trợ sức khỏe, dịch vụ chăm sóc từ xa, AI và robot hóa trong lĩnh vực chăm sóc và hỗ trợ hằng ngày. Việc áp dụng công nghệ có thể giúp tăng sự độc lập và chất lượng cuộc sống của người cao tuổi, đồng thời tạo ra cơ hội kinh doanh và phát triển cho các doanh nghiệp công nghệ.

Có thể nói, nguồn nhân lực là một trong ba đột phá quan trọng nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển của đất nước. Với tinh thần chủ động, dự báo “từ sớm, từ xa”, triển khai các biện pháp thích ứng sớm, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội và hóa giải những thách thức của già hóa dân số, nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc đã được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng./.

ST.