Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” - yêu cầu quan trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị

Từ lâu trong lịch sử, dân tộc ta luôn duy trì một truyền thống đẹp - đặt tên để ghi nhớ, tôn vinh những người có công với dân, với nước. “Bộ đội Cụ Hồ” cũng là một cái tên như thế và còn hơn thế nữa, bởi cái tên đó đã vượt qua ý nghĩa của một danh xưng thông thường để trở thành một kiểu mẫu nhân cách người lính của nhân dân (Bộ đội), nhưng được điển hình hóa theo nhân cách của một lãnh tụ vĩ đại, luôn gần gũi với nhân dân (Cụ Hồ).

1. Nguồn gốc, vinh dự và trách nhiệm khi được mang tên “Bộ đội Cụ Hồ”

Câu hỏi đặt ra là “Bộ đội Cụ Hồ” - cái tên rất thân thương và trìu mến dành cho Quân đội ta được xuất hiện đầu tiên ở đâu và vì sao Nhân dân lại gọi Quân đội ta là “Bộ đội Cụ Hồ”? Theo những sử liệu có được, tên gọi ấy xuất hiện và truyền tụng trong nhân dân được khởi nguồn ở Chiến khu Việt Bắc.

Để bảo toàn lực lượng chiến đấu cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, ngay sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều đơn vị bộ đội được lệnh cơ động lên Việt Bắc. Những ngày đầu trở lại Chiến khu, bộ đội tổ chức trú quân phân tán trong các bản, làng, thôn xóm, cùng ăn, cùng ở với nhân dân. Chính từ những năm tháng này, đã nảy nở và phát triển mối quan hệ quân dân “cá - nước” giữa nhân dân với những người lính do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Bằng những việc làm cụ thể thông qua thực hiện nghiêm kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, như: không lấy cái kim, sợi chỉ của dân, không gây phiền hà cho nhân dân, kính trọng dân, đoàn kết chặt chẽ với nhân dân; vừa bảo vệ dân, vừa hết lòng giúp đỡ nhân dân,... cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã nhanh chóng chiếm trọn tình cảm mến mộ của nhân dân, giúp nhân dân nhận thức được sự khác biệt căn bản giữa những chiến sĩ cách mạng với binh sĩ của các đội quân mà trước đó họ đã từng tiếp xúc. Tình cảm và niềm tin của nhân dân được củng cố và nhân lên khi biết những chiến sĩ cách mạng ấy do lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện - Người mà từ lâu đã được nhân dân ta hết lòng tôn kính, tin tưởng tuyệt đối vì lòng yêu nước, thương dân. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: ở khu giải phóng Việt Bắc, đồng bào các dân tộc trìu mến gọi các đơn vị vũ trang ta là “Bộ đội Ông Ké” hay “Bộ đội Ông Cụ”, khi biết “Ông Ké”, “Ông Cụ” là Chủ tịch Hồ Chí Minh, là Bác Hồ, mọi người đã gọi “Bộ đội Ông Ké” là “Bộ đội Cụ Hồ”. Và tên gọi yêu quý ấy từ Chiến khu Việt Bắc đã lan truyền đi khắp nơi và trở thành quen thuộc đến ngày nay.



Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị bộ đội ở Nam Định (1957).
 Ảnh: TTXVN

Thật vinh dự, tự hào khi được nhân dân ta gọi quân đội của mình là “Bộ đội Cụ Hồ”, đó là tình cảm kính yêu lãnh tụ và lòng tin yêu đối với Quân đội, tình cảm gắn bó thiêng liêng, ruột thịt giữa người lính với lãnh tụ của mình. Nhân dân ta gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Cha già dân tộc” - Người tượng trưng cho những giá trị văn hóa cao đẹp nhất của dân tộc Việt Nam. Kính yêu lãnh tụ của mình, gửi gắm niềm tin vào Quân đội do chính Người giáo dục và rèn luyện, nhân dân đã lấy tên của lãnh tụ đặt tên cho Quân đội. Điều này có lẽ duy nhất chỉ diễn ra ở Việt Nam, bởi nó chính là cốt cách và nét đặc sắc của văn hoá quân sự Việt Nam. Tận trong sâu thẳm tấm lòng và tình cảm của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta chính là con em của họ, những người dân mặc áo lính dám chấp nhận hy sinh vì dân, vì nước.

Nhân dân gọi Quân đội là “Bộ đội Cụ Hồ” còn thể hiện mối quan hệ máu thịt giữa Nhân dân với Quân đội. Xét trong mối quan hệ giữa Quân đội và Nhân dân, đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta có một đội quân cách mạng của chính mình. Còn với Quân đội, đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử quân sự Việt Nam, một đội quân mà từ bản chất đến thực tiễn hành động đều chứng tỏ rằng đó là Quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là lý do giải thích vì sao hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam - những người “lính Cụ Hồ”, luôn luôn được khắc sâu trong tâm khảm mỗi người dân.   

Được mang tên “Bộ đội Cụ Hồ” là một vinh dự lớn của Quân đội ta trước bè bạn quốc tế. Nhân dân thế giới không chỉ biết đến Việt Nam, khâm phục và kính trọng dân tộc Việt Nam bởi uy tín và đức độ của lãnh tụ Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách mạng giải phóng các dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới kiệt xuất của Việt Nam; mà còn bởi một lý do, vì đất nước Việt Nam, dân tộc và nhân dân Việt Nam đã sinh ra một Quân đội anh hùng, biểu trưng của lòng dũng cảm, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tinh thần quốc tế trong sáng; với chiến công vang dội “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, những chiến thắng có ý nghĩa quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. Thật hiếm có một quân đội nào trên thế giới lại chiếm trọn tình cảm của bạn bè, nhân dân tiến bộ trên thế giới như Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngay cả những người lính, những chính khách bên kia chiến tuyến, sau cuộc chiến nhìn lại cũng phải thốt lời khâm phục về ý chí, bản lĩnh của một đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.

Được mang tên “Bộ đội Cụ Hồ” là một vinh dự lớn đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam; đồng thời, cũng là trách nhiệm hết sức nặng nề của Quân đội và mỗi quân nhân. Trao tặng cho Quân đội danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”, nhân dân luôn mong mỏi, kỳ vọng danh hiệu đó sẽ luôn tỏa sáng, là niềm tin, là sức mạnh, chỗ dựa của nhân dân. Với trách nhiệm đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội phải ra sức tu dưỡng và rèn luyện, không ngừng phấn đấu để giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Đó là giá trị tinh thần vô giá mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã dày công vun đắp, nhân dân gửi trọn niềm tin đối với “Bộ đội Cụ Hồ”.

2. Giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”- yêu cầu quan trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong giai đoạn hiện nay.

Thấu triệt lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại” và thực tiễn gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta đã khẳng định xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là nguyên tắc, đồng thời là giải pháp cốt lõi, cơ sở nền tảng tạo sức mạnh tổng hợp, yếu tố quyết định bản chất cách mạng của Quân đội. Hiện nay, trước yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thì xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, nhằm bảo đảm Quân đội bất luận trong hoàn cảnh nào cũng luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân càng trở nên đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải tiến hành quyết liệt bằng nhiều giải pháp đồng bộ; trong đó, giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là giải pháp căn cốt với các nội dung cơ bản sau.

Một là, giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” phải đảm bảo giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu trong giữ vững, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Vì vậy, phải đảm bảo mọi cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần, nắm vững những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng, mang bản chất giai cấp công nhân cũng như thường xuyên thấu suốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp là đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở đó để mỗi cán bộ, chiến sĩ nhận thức đầy đủ và sâu sắc về sự thống nhất giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” với nâng cao giác ngộ bản chất giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội; phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới thống nhất với nội dung xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, trong đó phải lấy xây dựng về chính trị làm nền tảng. Từ đó luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng; luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ, Nhân dân ta đã lựa chọn; nêu cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường, khát vọng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là những vấn đề cốt yếu, nhằm đảm bảo cho Quân đội luôn giữ vững mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Hai là, giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” phải bảo đảm để Quân đội hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ; bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải luôn quán triệt sâu sắc tình hình, nhiệm vụ cách mạng, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Chuẩn bị tốt về mọi mặt, tích cực huấn luyện, trau dồi phẩm chất chính trị, năng lực công tác, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, không để bị động, bất ngờ, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống, kể cả với cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Trong mọi lúc, mọi nơi, nhất là những thời điểm cam go, thử thách, cán bộ, chiến sĩ phải đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết; sẵn sàng xả thân hy sinh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Tất cả quân nhân phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Phải làm thế nào để khi mình chưa đến, thì dân trông mong, khi mình đến thì dân giúp đỡ, khi mình đi nơi khác thì dân luyến tiếc. Muốn vậy, bộ đội phải giúp đỡ dân, thương yêu dân”. Thấm nhuần tư tưởng đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội không chỉ huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, chiến đấu thắng lợi,... mà còn làm tròn chức năng của “đội quân công tác”, “đội quân lao động sản xuất”. Phải tích cực học tập, rèn luyện không ngừng nâng cao trình độ, tri thức, có kiến thức về kinh tế, chính trị; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia giúp dân xóa đói giảm nghèo, phòng, chống và giải quyết hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn kết hợp với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là ở các địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Cùng với đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải là người tiên phong, lực lượng nòng cốt trên mặt trận tư tưởng, lý luận, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”, chống quan điểm sai trái, phản động, luận điệu đòi “phi chính trị hoá” Quân đội của các thế lực thù địch. Phải thực sự nhạy bén về chính trị, có ý chí, năng lực và phương pháp đấu tranh với kẻ thù; có khả năng “miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, sự tấn công của các thế lực thù địch để tham gia tích cực, hiệu quả vào mặt trận đấu tranh phi vũ trang, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng.

Ba là, giữ vững, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” cần làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ luôn có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, kỷ luật nghiêm. Phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là tổng hòa các yếu tố hợp thành; trong đó và trước hết phải thể hiện ở đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, lành mạnh; luôn kiên định, vững vàng, không bị sa ngã, tha hóa trước mọi tác động tiêu cực của đời sống xã hội, mặt trái của kinh tế thị trường, sự cám dỗ của lối sống thực dụng, ích kỷ, hẹp hòi, những thị hiếu, dục vọng thấp hèn, không bị gục ngã trước sự tấn công của kẻ thù bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”. “Bộ đội Cụ Hồ” phải là lực lượng tiên phong trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải luôn gương mẫu trong nhận thức, tư tưởng và hành động; nói, viết và làm đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, Điều lệnh, Điều lệ của Quân đội, các chế độ quy định của đơn vị và địa phương nơi đóng quân. Chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh cấp trên, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; luôn đặt lợi ích tập thể lên trên hết, trước hết, không đắn đo, suy tính thiệt hơn, sẵn sàng có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ.

Bốn là, giữ vững, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” phải luôn giữ vững và tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế. Tinh thần đoàn kết nội bộ, đoàn kết cán binh được thể hiện ở việc giúp nhau khắc phục khó khăn, cùng hoàn thành nhiệm vụ; nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho đồng chí, đồng đội; giúp nhau trong chiến đấu, công tác, lao động sản xuất và trong cuộc sống. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; quan liêu, xa rời quần chúng, bởi đó là những tác nhân làm rạn nứt đoàn kết nội bộ, đoàn kết cán binh, làm giảm sức mạnh chiến đấu của Quân đội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phẩm chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”. Trong đoàn kết (quan hệ) với nhân dân cần khắc ghi lời Bác dạy “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội, chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu bộ đội. Muốn như thế thì phải đốc thúc bộ đội siêng giúp dân, hăng đánh giặc”, các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy và chính quyền địa phương nơi đóng quân, gần gũi, gắn bó với nhân dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những khó khăn của nhân dân để có biện pháp giúp đỡ; không xâm phạm lợi ích của nhân dân, tích cực giúp đỡ dân phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, biên giới, hải đảo. Tích cực tham gia phòng chống thiên tai, dịch bệnh, thảm họa,... sẵn sàng hy sinh bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, chia sẻ những khó khăn, mất mát của dân khi gặp hoạn nạn. Cùng với đó, cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải tăng cường củng cố tình đoàn kết với quân đội các quốc gia, không ngừng mở rộng quan hệ, hợp tác với quân đội, nhân dân và các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay phải phân biệt rõ đối tác, đối tượng; chủ động phối hợp đấu tranh giữ vững môi trường hòa bình ổn định, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hợp tác trong giải quyết các vấn đề toàn cầu; phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn,... như lời dạy của Bác: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”.

Hiện nay, “Còn một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức chưa sâu sắc, trách nhiệm trong giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” chưa cao; thiếu tự giác, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng..., làm ảnh hưởng đến truyền thống, uy tín của Quân đội, phẩm chất và hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”5. Vì vậy, để giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” cần sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, mà trước hết là trách nhiệm của hệ thống tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy trong Quân đội và mọi quân nhân, làm cho những phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” tiếp tục tỏa sáng, nâng lên một tầm cao mới, xây dựng Quân đội vững mạnh, xứng đáng là “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng” và lòng tin tưởng của Đảng, Nhà nước, Nhân dân./.

ST.

Quân chủng Phòng không - Không quân phát triển nghệ thuật tác chiến trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc

Trải qua hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Bộ đội Phòng không - Không quân luôn phát huy vai trò nòng cốt, lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Quân chủng cần đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển nghệ thuật tác chiến phòng không, không quân, bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc trong tình hình mới.

Quân chủng Phòng không - Không quân được thành lập ngày 22/10/1963, trong suốt hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân chủng luôn giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; sẵn sàng hy sinh quên mình, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, cống hiến tài năng, trí tuệ vì sự nghiệp bảo vệ bầu trời Tổ quốc, lập nhiều chiến công hiển hách; điển hình là Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” năm 1972. Với thành tích xuất sắc đó, các binh chủng: Tên lửa, Không quân, Ra đa, Pháo cao xạ của Quân chủng đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Có nhiều nhân tố làm lên thành tích xuất sắc của Quân chủng; trong đó, việc thường xuyên nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để xây dựng, phát triển lý luận nghệ thuật tác chiến phòng không, không quân phù hợp với từng đối tượng, từng tình huống chiến tranh là một nội dung hết sức quan trọng.

Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó dự báo; các quốc gia có tiềm lực về khoa học, kinh tế, quân sự đã và đang đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tập trung đầu tư phát triển các loại phương tiện, vũ khí tiên tiến, công nghệ cao. Đồng thời, tổ chức lại lực lượng theo hướng tinh, gọn, đa năng, hiệu quả. Theo đó, các phương thức tác chiến mới, nhất là hoạt động tác chiến đường không đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về quy mô sử dụng lực lượng, mức độ hiện đại của các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật cùng với phương pháp, thủ đoạn tác chiến đa dạng, phức tạp. Vì vậy, việc nghiên cứu, phát triển, từng bước hoàn thiện nghệ thuật tác chiến phòng không, không quân là đòi hỏi cấp thiết.

Là lực lượng nòng cốt trên mặt trận đối không, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động tiến công đường không của địch trong mọi tình huống, Quân chủng Phòng không - Không quân xác định đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển nghệ thuật tác chiến phòng không, không quân với một số nội dung, giải pháp trọng tâm, căn cốt sau:

Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm chiến tranh nhân dân, sức mạnh toàn dân, xây dựng thế trận phòng không, không quân ngày càng vững chắc. Trên cơ sở đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của Đảng, Quân chủng phải thực hiện tốt việc đề xuất, tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các cấp chủ động chuẩn bị thế trận phòng không ba thứ quân, phòng không nhân dân và thế trận không quân toàn quân ngay từ thời bình. Việc xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố phải gắn với xây dựng thế trận phòng không, không quân vững chắc trên từng địa bàn, hướng chiến lược và phạm vi cả nước, bảo đảm sẵn sàng cho tác chiến phòng không, không quân ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi tình huống. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, sẵn sàng huy động lực lượng và phương tiện vật chất kỹ thuật bảo đảm cho tác chiến phòng không, không quân khi có tình huống xảy ra. Quy hoạch, từng bước đầu tư xây dựng hệ thống sân bay, bãi cất hạ cánh, trận địa phòng không, hệ thống kho tàng, khu sơ tán, đường cơ động của các lực lượng phòng không, không quân theo yêu cầu, nhiệm vụ. Thường xuyên tổ chức hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng phòng không, không quân với các quân khu, quân đoàn, Quân chủng Hải quân, Bộ đội Biên phòng và các lực lượng tác chiến điện tử, công nghệ thông tin,... trong khu vực phòng thủ để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn quân trên mặt trận đối không trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.



Khẩu đội pháo phòng không tham gia diễn tập bắn đạn thật

Hai là, tập trung nghiên cứu, phát triển lý luận nghệ thuật tác chiến của lực lượng phòng không, không quân trong điều kiện mới. Quân chủng cần tập trung nghiên cứu, phát triển, từng bước hoàn thiện những vấn đề lý luận về nghệ thuật tác chiến phòng không, không quân phù hợp với quy mô, loại hình và các hình thái chiến tranh công nghệ cao. Theo đó, cần tập trung nghiên cứu phát triển cách đánh của các lực lượng phòng không, không quân gắn với hoạt động tác chiến của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, phòng thủ quân khu ở cả quy mô chiến thuật, chiến dịch, chiến lược với từng loại hình tác chiến, hình thái chiến tranh trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, tác chiến điện tử mạnh, tác chiến không gian mạng rộng rãi. Trong đó, cần nghiên cứu cụ thể hóa các vấn đề lý luận về tạo lập và chuyển hóa thế trận phòng không, không quân trên từng khu vực, hướng chiến lược; kết hợp giữa tác chiến tại chỗ với lực lượng cơ động; giữa tác chiến rộng khắp, tác chiến độc lập với tác chiến tập trung hiệp đồng quy mô lớn của các lực lượng; cơ động phòng tránh đánh địch tiến công hỏa lực; tác chiến chiến dịch phòng không; tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng, v.v. Đồng thời, nghiên cứu lý luận về vận dụng sáng tạo, linh hoạt các biện pháp, hình thức tác chiến, hình thức chiến thuật, phương pháp, thủ đoạn chiến đấu; nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành thế chủ động đánh địch; phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng phòng không, không quân và của các lực lượng khác trong đánh địch tiến công đường không, cũng như tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng trong các hình thức tác chiến, hình thái chiến tranh.

Ba là, nâng cao năng lực thực hành tác chiến của Bộ đội Phòng không - Không quân. Thực hành tác chiến của Bộ đội Phòng không - Không quân gồm nhiều hoạt động, như: cơ động, triển khai lực lượng hình thành thế trận đánh địch; tổ chức triển khai hệ thống trinh sát, phát hiện, thông báo báo động địch trên không; tổ chức các hoạt động tác chiến đánh địch; triển khai hệ thống hậu cần, kỹ thuật; trong đó, tổ chức các hoạt động tác chiến đánh địch là nội dung trung tâm, cơ bản nhất. Vì vậy, các cấp cần tăng cường công tác huấn luyện, diễn tập để nâng cao năng lực thực hành tác chiến của bộ đội. Quá trình thực hiện, cần quán triệt sâu kỹ quan điểm, phương châm, nguyên tắc và các mối kết hợp trong huấn luyện; tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp huấn luyện sát với tình huống, đối tượng tác chiến, địa bàn hoạt động, tổ chức, biên chế, khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật trong điều kiện tác chiến mới. Huấn luyện đội ngũ cán bộ chỉ huy các cấp, nắm vững quan điểm của Đảng, nghệ thuật quân sự Việt Nam, nguyên tắc tác chiến; tập trung huấn luyện nâng cao trình độ cán bộ chỉ huy tham mưu các cấp, nâng cao trình độ tham mưu, dự báo, khả năng tổ chức chỉ huy tác chiến, khả năng xử lý linh hoạt các tình huống tác chiến, bảo đảm chỉ huy đơn vị chiến đấu giành thắng lợi. Chú trọng huấn luyện đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật, nắm chắc quy trình kỹ thuật, nâng cao trình độ khai thác, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật trong điều kiện chiến tranh hiện đại, xử lý linh hoạt, hiệu quả các tình huống tác chiến. Tổ chức tốt công tác huấn luyện chiến đấu trong điều kiện phức tạp, tác chiến ban đêm, tăng cường sức cơ động, cứu hộ, cứu nạn và làm nhiệm vụ biển, đảo, sát với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Bốn là, thường xuyên tổ chức nghiên cứu nắm chắc tình hình địch, đặc biệt là các đối tượng tác chiến của Bộ đội Phòng không - Không quân. “Biết địch, biết ta, trăm trận, trăm thắng”, vì vậy các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên tổ chức nghiên cứu nắm chắc tình hình địch, tập trung vào các nội dung, như: âm mưu, mục tiêu, thủ đoạn, thời điểm đánh phá, hướng đột nhập, lực lượng địch sử dụng, kiểu loại, tính năng kỹ, chiến thuật các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật và sự phát triển lực lượng, phương tiện tập kích đường không của địch. Trên cơ sở đó nghiên cứu, tìm cách đánh, biện pháp tác chiến phù hợp, hiệu quả để giành thế chủ động khi có tình huống xảy ra. Coi trọng hoàn chỉnh, bổ sung hệ thống trinh sát, cảnh giới quốc gia; xây dựng hệ thống thông tin đa kênh trong hệ thống cảnh giới, ứng dụng công nghệ thông tin để đẩy nhanh tốc độ hiệu quả thu thập, xử lý tình báo trên không tại sở chỉ huy các cấp và các đơn vị để chủ động xử lý các tình huống có thể xảy ra. Trong điều kiện hiện nay, Quân chủng và các đơn vị cần xây dựng phương án phối hợp giữa các lực lượng trinh sát: trên không, trên biển, trên mặt đất và trinh sát kỹ thuật để nắm chắc tình hình địch. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu thập, xử lý, quản lý thông tin, dự báo các tình huống trên không, trên biển, sẵn sàng đối phó với thách thức an ninh phi truyền thống.

Năm là, coi trọng công tác đào tạo bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực. Để phát triển nghệ thuật tác chiến phòng không, không quân trong điều kiện mới, cần coi trọng công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Vì vậy, các cấp cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên về công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ; tiếp tục thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại các học viện, trường sĩ quan của Quân chủng và học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội. Kết hợp chặt chẽ đào tạo trong nước với gửi đi đào tạo tại các nước có quan hệ truyền thống trong đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu, phi công quân sự, kỹ sư chuyên ngành kỹ thuật, v.v. Huấn luyện nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, đáp ứng tốt yêu cầu làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, cải tiến và từng bước đáp ứng điều kiện làm việc trong môi trường hợp tác quốc tế về quân sự, quốc phòng. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, xây dựng các học viện, nhà trường của Quân chủng chính quy, mẫu mực, chuẩn hóa, hiện đại và liên thông; triển khai hiệu quả việc xây dựng nhà trường thông minh tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hợp tác quốc tế trong công tác giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong tổ chức chỉ huy, điều hành, hiệp đồng chiến đấu; coi trọng giải quyết mối quan hệ giữa con người và vũ khí, trang bị kỹ thuật. Tích cực nghiên cứu, đề xuất và tham gia vào các chương trình khoa học, công nghệ của Nhà nước và Bộ Quốc phòng./.

ST.

Những giải pháp cơ bản bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng

Từ vị trí, vai trò, thực trạng và những vấn đề đặt ra cho thấy: để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu của các cấp, ngành, địa phương, lực lượng, cả hệ thống chính trị và toàn dân với tổng thể các giải pháp thống nhất, đồng bộ. Trong tình hình hiện nay, cần tập trung nắm vững và thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản dưới đây.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Đây vừa là nguyên tắc, đồng thời cũng là giải pháp quan trọng hàng đầu, quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Vì vậy, thời gian tới, cùng với phát triển, hoàn thiện phương thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng, các cấp, ngành, lực lượng, địa phương,... cần nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng và yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ quan trọng này; đồng thời, thường xuyên quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trọng tâm là Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Nghị quyết số 30-NQ/TW về Chiến lược an ninh mạng quốc gia, v.v. Trên cơ sở đó, chủ động đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả theo phạm vi, chức năng, nhiệm vụ; chú trọng tận dụng thế mạnh của không gian mạng để tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng tự bảo vệ cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân; thực hiện nghiêm quy định trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện; đồng thời, phát huy tốt vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là lực lượng nòng cốt, chuyên trách.

Cùng với đó, đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ, việc tổ chức triển khai thực hiện của các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý đồng bộ về lĩnh vực thông tin, truyền thông và an ninh mạng; có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn, răn đe những hành vi, thủ đoạn lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Bổ sung, điều chỉnh các quy chế, quy định về bảo vệ, quản lý, sử dụng tài nguyên thông tin, dữ liệu của quốc gia, người dân và doanh nghiệp; các văn bản quy phạm pháp luật về chống thông tin giả, xấu, độc hại; các quy định, chính sách liên quan đến công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối,... phù hợp với truyền thống văn hoá Việt Nam và bối cảnh mới. Đẩy mạnh kiện toàn tổ chức, bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về không gian mạng và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng từ Trung ương đến cơ sở. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông, Internet, mạng truyền hình và các dịch vụ mạng xã hội, cũng như các hoạt động xây dựng, phát triển, bảo vệ và khai thác hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số, cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia. Thường xuyên định hướng hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, nhất là trang thông tin điện tử, báo điện tử theo quy định của pháp luật; đồng thời, phát huy tốt vai trò của các cơ quan báo chí, nhất là báo điện tử trong tuyên truyền, cung cấp thông tin chính thống đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, được dư luận quan tâm. Kịp thời bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin và quy trình phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, địa phương; giữa các cơ quan, tổ chức và người dân; giữa Việt Nam với các nước trong xử lý các tình huống trên không gian mạng. Thực hiện tốt Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Xây dựng môi trường mạng trung thực, văn minh, an toàn, lành mạnh, tạo lập niềm tin số, xã hội số, công dân số. Đẩy mạnh đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của các cấp, các ngành; làm tốt công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhất là sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, nhằm không ngừng bổ sung, phát triển lý luận trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.


Ký kết kế hoạch phối hợp thực hiện công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng giữa Văn phòng Quốc hội và Bộ Tư lệnh 86. Ảnh: daibieunhandan.vn

Hai là, đẩy mạnh phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, rộng khắp gắn với nâng cao năng lực phòng, chống tấn công mạng, tội phạm mạng. Đây là giải pháp rất quan trọng, trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nội dung bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Bởi vì, xây dựng cũng là cách tốt nhất để bảo vệ; ngược lại, bảo vệ cũng góp phần xây dựng, phát triển không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của đất nước. Thực hiện giải pháp này, thời gian tới, Chính phủ cần tập trung đầu tư phát triển hạ tầng không gian mạng quốc gia hiện đại, đồng bộ, kết nối thông suốt từ Trung ương đến địa phương; giữa các cấp, các ngành, các tổ chức, người dân, doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước, tạo động lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh. Ưu tiên phát triển hệ thống thông tin phục vụ cho hạ tầng thiết yếu, quan trọng của quốc gia. Tiếp tục phát triển siêu xa lộ thông tin trong nước và kết nối băng thông rộng quốc tế gắn với bảo đảm an toàn thông tin. Đẩy mạnh xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia toàn diện; xây dựng và thực hiện tốt cơ chế cung cấp, chia sẻ, khai thác thông tin gắn với nhu cầu sử dụng, xác thực, bảo mật thông tin; phát triển hạ tầng chứng thực số và mật mã quốc gia đáp ứng yêu cầu bảo vệ an toàn thông tin cho hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Có chính sách động viên, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển công nghệ mạng, mở rộng thị trường dịch vụ viễn thông, Internet cả ở trong nước và nước ngoài.

Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao năng lực phòng, chống chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, gián điệp mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Muốn vậy, cần nâng cao hiệu quả ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho phát triển, làm chủ, quản lý, bảo vệ không gian mạng quốc gia. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, nhất là Quân đội, Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan Tuyên giáo và các lực lượng khác trong xác lập, quản lý, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; đồng thời, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Có cơ chế kiểm soát hữu hiệu đối với một số trang mạng xã hội dựa trên nền tảng xuyên biên giới, như: Facebook, YouTube, TikTok,… để ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật Việt Nam. Xây dựng và tổ chức luyện tập thuần thục các phương án điều phối, xử lý sự cố mất an toàn thông tin mạng theo phân cấp, bảo đảm thông suốt, hiệu quả, đúng chức năng, thẩm quyền. Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống thông tin quân sự, quốc phòng, an ninh đồng bộ, hiện đại, độc lập và có khả năng kết nối linh hoạt với hạ tầng thông tin quốc gia. Tăng cường ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin, số hóa, thông minh hóa, hiện đại hóa trang thiết bị nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính quân sự, an ninh, tự động hóa chỉ huy, góp phần hiện đại hóa lực lượng vũ trang, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hoạt động cài cắm gián điệp, tấn công mạng, xâm phạm an ninh quốc gia. Nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo tình hình; kết hợp phòng thủ tích cực, vững chắc với tiến công đáp trả kịp thời các hoạt động chống phá, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng và các loại hình chiến tranh, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Ba là, xây dựng và phát huy tốt vai trò của lực lượng chuyên trách trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”. Trong khi đó, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ mới, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi không chỉ có trang thiết bị hiện đại mà cần có con người với chất lượng toàn diện để hình thành lực lượng nòng cốt, chuyên trách. Hiện nay, thực hiện chủ trương của Đảng, lực lượng chuyên trách được bố trí chủ yếu ở Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, ngoài ra còn có lực lượng đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng thuộc các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương và các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có năng lực về công nghệ thông tin, an ninh mạng. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng, thời gian tới, lực lượng chuyên trách ở các cơ quan, địa phương, đơn vị cần chủ động liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau trong hoạt động tác chiến, thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Theo đó, Quân đội, mà nòng cốt là lực lượng tác chiến không gian mạng, bao gồm lực lượng tác chiến không gian mạng cấp chiến lược, chiến dịch; lực lượng công nghệ thông tin các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội có vai trò quan trọng hàng đầu trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, lực lượng này cần được xây dựng tiến thẳng lên hiện đại với sự đồng bộ cả về con người, vũ khí, trang bị và phương thức tác chiến không gian mạng phù hợp với nền nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong quá trình thực hiện, cần bám sát phương châm: “Trinh sát kịp thời, ngăn chặn hiệu quả, phòng thủ vững chắc”, bảo vệ tuyệt đối an toàn hệ thống thông tin quân sự, quốc phòng và hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và phối hợp xử lý các lỗ hổng bảo mật, phần mềm gián điệp, mã độc, các hoạt động tấn công mạng. Tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng, Nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về lĩnh vực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông và các bộ, ngành liên quan, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các nguy cơ, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng nếu xảy ra.

Bộ Công an, trực tiếp là lực lượng an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao có vai trò rất quan trọng trong bảo vệ an ninh mạng quốc gia, phòng, chống tội phạm. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, lực lượng này cần được tiếp tục đầu tư phương tiện kỹ thuật hiện đại; tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực cho cán bộ, chiến sĩ. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng liên quan nắm chắc tình hình trên không gian mạng, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các nguy cơ, sự cố an ninh mạng, tội phạm mạng, các lỗ hổng bảo mật, phần mềm độc hại; bảo vệ tuyệt đối an toàn hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia. Chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với những tổ chức, cá nhân lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, xâm hại lợi ích của cá nhân, tổ chức. Thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống gián điệp mạng, khủng bố mạng, tội phạm mạng; thường xuyên thiết lập và duy trì có hiệu quả hệ thống đường dây nóng, hệ thống tiếp nhận, xử lý thông tin về tội phạm mạng từ quần chúng nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên không gian mạng phù hợp với thực tiễn chuyển đổi số quốc gia; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm quốc gia để kịp thời phát hiện, điều phối, ứng cứu với các sự cố an ninh mạng, bảo vệ an ninh, an toàn vùng lãnh thổ đặc biệt của Tổ quốc.

Các cơ quan thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông cần tiếp tục thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về an toàn thông tin, an ninh mạng, thúc đẩy phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, rộng khắp, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ an toàn cho cá nhân, tổ chức trên môi trường mạng; tiếp tục phát triển các phần mềm ứng dụng để tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và phổ biến kiến thức về an toàn thông tin cho người sử dụng; hỗ trợ bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng; hướng dẫn tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, bao gồm: Quy tắc Tôn trọng, tuân thủ pháp luật; Quy tắc Lành mạnh; Quy tắc An toàn, bảo mật thông tin; Quy tắc Trách nhiệm.

Tiếp tục phát huy tốt vai trò nòng cốt của Ban chỉ đạo 35 các cấp, cơ quan tuyên giáo, hệ thống báo chí, cơ quan đấu tranh tư tưởng, đồng thời mở rộng các kênh, lực lượng thông tin rộng khắp, làm chủ không gian mạng; xây dựng cơ chế chỉ đạo thông tin thống nhất, hiệp đồng thông tin đồng bộ, tác chiến thường trực, đa dạng, đa tuyến. Kết hợp thông tin phản bác của các cơ quan báo chí chính thống với các kênh truyền thông khác, theo phương thức lấy thông tin chủ đạo từ các cơ quan báo chí chính thống làm thông tin nguồn để lan tỏa trên không gian mạng.


Giám sát, phản ứng sự cố an toàn thông tin 24/7 của Viettel Security. Ảnh: VGP

Bốn là, phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng. Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử”. Với ý nghĩa đó, việc phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng hiện nay sẽ tạo ra bức tường thành vững chắc để ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Theo cơ quan chức năng, tính đến tháng 6/2023, Việt Nam có khoảng 78,59% người dân sử dụng Internet; 101,12 triệu thuê bao sử dụng điện thoại thông minh; là một trong những quốc gia có số lượng người sử dụng Facebook, YouTube và TikTok nhiều nhất thế giới3. Đây là thuận lợi lớn để chúng ta tận dụng cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại để phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, nếu không quản lý tốt, mức độ “sát thương” do các cuộc tấn công mạng gây ra cũng sẽ rất lớn, bởi vì nhân dân chính là đối tượng chủ yếu mà các thế lực thù địch hướng đến để tuyên truyền, chuyển hóa tư tưởng, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, kích động, gây rối, biểu tình, bạo loạn lật đổ. Để mỗi người dân Việt Nam là một chiến sĩ, mỗi tài khoản của người dân là một phần trong thế trận quốc phòng toàn dân, mỗi nhóm tài khoản là một khu vực phòng thủ, mỗi một bài viết đấu tranh với những quan điểm sai trái là một mũi tiến công trên không gian mạng,… đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp và cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của không gian mạng đối với sự phát triển của cá nhân, cộng đồng, quốc gia - dân tộc; đồng thời, cũng nhận biết rõ những nguy cơ, thách thức hiện hữu từ không gian mạng, nhất là âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, nguy cơ chiến tranh mạng, gián điệp mạng, thủ đoạn hoạt động của tội phạm mạng,... từ đó, giúp mọi người đề cao cảnh giác, có biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, bảo vệ hiệu quả.

Cùng với tuyên truyền để toàn dân nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, cần tiếp tục phổ biến sâu rộng về những hành vi bị cấm trong Luật An ninh mạng, nhất là các hành vi sử dụng không gian mạng để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước; tổ chức, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; các hành vi tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi. Quan tâm bồi dưỡng kỹ năng nhận diện và biện pháp phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn tấn công mạng, lừa đảo trên mạng; kiến thức, kỹ năng phòng tránh, tự vệ và đấu tranh trên không gian mạng, cũng như biện pháp kỹ thuật để khắc phục hậu quả bị tấn công mạng. Đặc biệt, quan tâm xây dựng, củng cố thế trận lòng dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên không gian mạng. Đồng thời, chú trọng nhân rộng những mô hình hay, cách làm sáng tạo trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, như mô hình: “Hội nhóm, trang mạng xã hội vì môi trường mạng an toàn, lành mạnh” (ở Đà Nẵng); Cuộc vận động: “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp trên mạng xã hội” (ở Bình Phước, Trung ương Đoàn); hay hoạt động của Lực lượng 47 trong Quân đội,… đã và đang góp phần tích cực bảo vệ không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, rộng khắp. Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp, phù hợp với từng đối tượng, như: thông qua sinh hoạt các tổ chức; tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng; nói chuyện chuyên đề, phổ biến pháp luật; các cuộc thi tìm hiểu về an toàn thông tin, an ninh mạng tại các cơ quan, địa phương, đơn vị, v.v.

Năm là, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, tiến tới chủ động về công nghệ, trang thiết bị và dịch vụ mạng, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế về an ninh mạng. Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “lấy con người, trí tuệ con người làm trung tâm, là nhân tố quyết định, đồng thời tranh thủ tối đa những thành tựu khoa học, công nghệ”. Theo đó, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là kỹ sư hệ thống thông tin, viễn thông, chuyên gia an ninh mạng, v.v. Muốn vậy, cần ưu tiên đầu tư, nâng cấp các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ mạng, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo; có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút, “giữ chân”, trọng dụng nhân tài trong lĩnh vực này. Đồng thời, có chính sách ưu đãi đối với lực lượng tác chiến không gian mạng, an ninh mạng và các lực lượng tham gia bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chuyển giao công nghệ, nghiên cứu sản xuất các sản phẩm, công nghệ nền tảng, cốt lõi về viễn thông và công nghệ thông tin, công nghệ mạng. Tăng cường đầu tư, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, tiến tới tự chủ trong bảo đảm trang bị các hệ thống tự động hóa chỉ huy và điều khiển vũ khí, tác chiến không gian mạng, tác chiến điện tử trong lực lượng vũ trang. Ưu tiên phát triển và sử dụng các công cụ, dịch vụ trên không gian mạng do Việt Nam sản xuất. Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển trí tuệ nhân tạo, sớm đưa Việt Nam trở thành một “cường quốc mạng”, góp phần gia tăng sức mạnh quốc gia, nâng cao vị thế quốc tế. Cùng với đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế về đảm bảo an toàn, an ninh mạng; tích cực tham gia, tiến tới chủ trì các diễn đàn khu vực và quốc tế về không gian mạng, nhằm lan tỏa những quan điểm tích cực của Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, sớm phát hiện và triệt tiêu các nguy cơ, thách thức, nhằm xây dựng không gian mạng quốc gia hòa bình, ổn định, an toàn, rộng khắp, vì người dân, doanh nghiệp và sự phát triển an toàn, bền vững của đất nước; đồng thời, góp phần tích cực kiến tạo môi trường hòa bình, an ninh và phát triển của khu vực và thế giới, v.v. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả những giải pháp nêu trên sẽ thiết thực góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng trong thời kỳ mới./.

ST.

Quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, kết quả bước đầu và vấn đề đặt ra

Nhận thức rõ tầm quan trọng của không gian mạng, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với việc xác lập, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng bằng nhiều nghị quyết, chỉ thị về lĩnh vực này. Đặc biệt, ngày 25/7/2018, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”. Đây là Nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bảo vệ vùng “lãnh thổ đặc biệt” của quốc gia, góp phần tạo ra hệ thống hoàn chỉnh trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Quan điểm, đối tượng, nội dung, phương thức, lực lượng bảo vệ

Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, toàn diện về đặc điểm tình hình cùng những nguy cơ, thách thức và yêu cầu về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Đảng ta xác định: phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng vững chắc, rộng khắp; xác lập, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Để thực hiện mục tiêu trên, chúng ta cần nhất quán các quan điểm chỉ đạo của Đảng là: (1). Giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, đồng thời xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị. (2). Xác lập, quản lý và bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng theo lãnh thổ, trên cơ sở pháp luật Việt Nam và tuân thủ luật pháp quốc tế. (3). Tổ chức bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng trong thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng với nhiệm vụ xây dựng, phát triển không gian mạng an toàn, lành mạnh và rộng khắp tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước. (4). Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào sức mình chính là nhân tố quyết định; đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trên không gian mạng.

Về đối tượng đấu tranh bao gồm các thế lực thù địch và tay sai có âm mưu, hành động sử dụng không gian mạng để can thiệp, hòng hạ thấp tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó còn là các thế lực nước ngoài có âm mưu, hành động sử dụng không gian mạng tiến hành các hình thái chiến tranh, thực hiện tham vọng xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc; các tổ chức phản động trong và ngoài nước, lực lượng cơ hội, suy thoái chính trị, đạo đức, lối sống có âm mưu, hành động cấu kết với thế lực bên ngoài, sử dụng không gian mạng chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng thực hiện các hoạt động xâm nhập, phá hoại về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Nội dung bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng rất rộng lớn, bao gồm cả xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp và phòng ngừa, ngăn chặn, làm thất bại mọi sự vi phạm, chống phá. Đó là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội, lợi ích quốc gia - dân tộc, nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phương thức bảo vệ là phi vũ trang, thông qua tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện nâng cao ý thức, trách nhiệm, năng lực bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; gia tăng sức mạnh tổng hợp, quốc phòng, an ninh, xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp; phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Đồng thời, phối kết hợp chặt chẽ giữa các chủ thể và lực lượng tham gia tích cực phòng ngừa, triệt tiêu các yếu tố dẫn đến nguy cơ đối với an toàn, an ninh, độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng; nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm hoạt động bảo vệ đối với không gian quan trọng này.

Lực lượng bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Trong đó, Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý, điều hành; lực lượng vũ trang làm nòng cốt; lực lượng tác chiến trên không gian mạng, an ninh mạng và đấu tranh tư tưởng văn hóa là chuyên trách.

Thủ trưởng Bộ Tư lệnh 86 kiểm tra công tác bảo đảm Kỹ thuật Công nghệ thông tin tại Lữ đoàn 3

Kết quả từ những nỗ lực, cố gắng

Ngay sau khi Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng được ban hành, cấp ủy, chính quyền các cấp đã tổ chức quán triệt sâu sắc, chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và quyết liệt trong triển khai thực hiện. Theo đó, để Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, cùng với tăng cường giáo dục, quán triệt, tạo sự đoàn kết, thống nhất cả về nhận thức và hành động, các cấp ủy, tổ chức đảng đã chủ động ra nghị quyết lãnh đạo chuyên đề, tổ chức phân công cụ thể; trong đó, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, xác định rõ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để triển khai thực hiện; đồng thời, phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng chung sức, đồng lòng tích cực tham gia bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và đạt nhiều kết quả nổi bật.

Hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước đối với các loại hình dịch vụ viễn thông, Internet, bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng không gian mạng tiếp tục được xác lập và ngày càng được củng cố, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng từng bước được bổ sung, hoàn thiện, như: Luật An ninh mạng 2018; Luật An toàn thông tin mạng (sửa đổi, bổ sung năm 2018); Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước 2018; Chỉ thị số 14/CT-TTg, ngày 25/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao năng lực phòng chống phần mềm độc hại; Chỉ thị số 02/CT-TTg, ngày 04/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng; Nghị quyết số 22/NQ-CP, ngày 18/10/2019 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị; cùng các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Chính phủ và cấp ủy, chính quyền các cấp, v.v. Đây là những văn bản quan trọng, tạo hành lang pháp lý cơ bản để các cấp, ngành, lực lượng, địa phương triển khai bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng.

Cùng với đó, cơ sở hạ tầng không gian mạng cũng được đầu tư xây dựng, phát triển mạnh, phục vụ đắc lực cho hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng ngày càng được đầu tư, củng cố. Chúng ta đã xây dựng được kết cấu hạ tầng viễn thông khá đồng bộ, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi từ Trung ương đến địa phương; xây dựng và duy trì một hệ thống mạng quốc gia an toàn và bảo mật, ngăn chặn được hiểm họa từ các cuộc tấn công, đánh cắp thông tin và tạo ra một môi trường trực tuyến khá an toàn. Hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia được triển khai xây dựng, bước đầu phục vụ tốt cho phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia. Đặc biệt, hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư - “trái tim” của chính phủ số đã được vận hành, tạo động lực để phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số. Chúng ta cũng đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tối ưu hóa các biện pháp bảo vệ không gian mạng; tham gia vào các cơ chế hợp tác quốc tế để đối phó với các mối đe dọa trực tuyến.

Cùng với phát huy sức mạnh của toàn dân, lực lượng chuyên trách cũng được quan tâm xây dựng, tiến thẳng lên hiện đại, như: Bộ Tư lệnh tác chiến không gian mạng (thuộc Bộ Quốc phòng); Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (thuộc Bộ Công an); Cục An toàn thông tin (thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông); Ban chỉ đạo 35, Lực lượng 47 các cấp, v.v. Thời gian qua, các lực lượng chuyên trách đã thực hiện tốt chức năng tham mưu, chủ động phối hợp, dự báo đúng tình hình; kịp thời phát hiện, đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động cài cắm gián điệp, tấn công mạng, triển khai các giải pháp bảo vệ hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia; vô hiệu hóa các hoạt động chống phá trên không gian mạng; xử lý nghiêm các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, cung cấp, sử dụng mạng Internet và thông tin trên mạng, v.v. Lực lượng tác chiến không gian mạng tiếp tục được điều chỉnh, bố trí ngày càng khoa học, phù hợp với phương án, quyết tâm, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, đủ khả năng thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, phòng thủ, phản công mạng trên các hướng chiến lược.

Có thể khẳng định, với những chủ trương đúng đắn, hành động quyết liệt, chúng ta đã “chủ động phát hiện, có các phương án, đối sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và kiểm soát tốt các nhân tố có thể gây bất lợi đột biến,... Bước đầu hình thành hệ thống pháp luật và cơ sở vật chất cho việc bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin quốc gia, không gian mạng quốc gia,… Chủ động đấu tranh kịp thời, hiệu quả, từng bước đẩy lùi các loại tội phạm;… làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động”. “Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng xã hội được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đạt kết quả rõ rệt”. “Từng bước hoàn thiện và phát triển tư duy lý luận, chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc theo hướng: Tăng cường thế trận lòng dân; chủ động, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa;... Tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, v.v. Chủ động, tích cực đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng. Theo đánh giá liên tục trong 3 kỳ gần đây của Liên minh Viễn thông quốc tế, chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu - GCI của Việt Nam đã tăng từ 100 lên 50 và hiện xếp thứ 25/194 quốc gia và vùng lãnh thổ; hệ sinh thái sản phẩm an toàn, an ninh mạng Việt Nam cũng đã được thúc đẩy phát triển.

Hạn chế, bất cập

Trước hết, dễ nhận thấy nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ này còn chưa sâu, kỹ dẫn tới chủ quan, mất cảnh giác, chưa đề cao trách nhiệm trong bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh mạng quốc gia tuy đã được xây dựng, bổ sung, song còn chưa đồng bộ, có văn bản hiệu lực thi hành chưa cao. Công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh mạng có lúc, có nơi còn sơ hở, chưa theo kịp tốc độ phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là đối với mạng xã hội, trò chơi trực tuyến, thuê bao di động trả trước, hoạt động cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet. Lực lượng chuyên trách đã được thành lập từ Trung ương đến cơ sở, song chất lượng, hiệu quả hoạt động còn chưa đồng đều. Đấu tranh trên không gian mạng có lúc hiệu quả chưa cao; việc đáp trả, phản bác thông tin xấu, độc, luận điệu xuyên tạc, phản động có lúc chưa kịp thời.

Cơ sở hạ tầng không gian mạng tuy đã được quan tâm xây dựng, song vẫn chưa tương xứng với tốc độ phát triển và yêu cầu nhiệm vụ. Mặc dù Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển Internet nhanh trong khu vực và thế giới, nhưng còn tồn tại không ít hạn chế về an ninh, an toàn mạng. Theo tổ chức an ninh mạng Kaspersky và Symantec, Việt Nam là một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về nguy cơ bị nhiễm mã độc, phần mềm độc hại (qua USB, thẻ nhớ) với gần 70% người dùng máy tính có nguy cơ bị lây nhiễm cao; đứng thứ ba về số lượng người dùng di động bị mã độc tấn công nhiều nhất thế giới; đứng thứ 4 trên thế giới về nguy cơ bị nhiễm mã độc khi sử dụng Internet. Hệ quả là năm 2020 có tới hơn 73% số vụ lộ, lọt bí mật nhà nước xảy ra trên không gian mạng. 

Tình trạng mất an toàn, an ninh thông tin mạng, tội phạm mạng còn diễn biến phức tạp. Theo thống kê, năm 2020, Bộ Công an đã phát hiện hơn 3.000 trang mạng có nội dung xấu, trong đó có 31 trang mạng, blog, 55 kênh Youtube, 49 trang fanpage, 765 tài khoản facebook, 149 hội nhóm chống đối cực đoan, đăng tải hơn 800.000 bài viết, video, clip có nội dung xấu, độc hại. Các hành vi phá hoại cơ sở hạ tầng thông tin; gây mất an toàn, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường, vững mạnh của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và hệ thống thông tin vô tuyến điện,… đã và đang gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Theo kết quả đánh giá an ninh mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện, trong năm 2019, chỉ tính riêng thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên tới 20.892 tỉ đồng (tương đương 902 triệu USD), hơn 1,8 triệu máy tính bị mất dữ liệu do sự lây lan của các loại mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền (ransomware), trong đó có nhiều máy chủ chứa dữ liệu của các cơ quan, gây đình trệ hoạt động của không ít cơ quan, doanh nghiệp.

Đánh giá về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong đó có bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Việc quán triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao. Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh có lúc chưa thật chủ động; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; an ninh một số địa bàn, lĩnh vực chưa thật sự vững chắc, nhất là an ninh mạng,… Công tác quản lý, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng còn hạn chế”. “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ chưa kịp thời”.

Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII nhận định: “Bên cạnh những ưu điểm, kết quả đã đạt được,… vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, như: Lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm tình hình; nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn có mặt, có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa mạnh mẽ và hiệu quả chưa cao”. Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là chính.

Một số vấn đề đặt ra

Từ thực tiễn bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng trong thời gian qua đặt ra cho chúng ta những vấn đề mới cần tiếp tục được quan tâm và giải quyết thấu đáo, nhằm thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ quan trọng này.

Trước hết, việc bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc lâu dài, cam go, phức tạp, lấy con người và trí tuệ của con người làm chính trên cơ sở pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải có chiến lược, sách lược đúng đắn; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ; lực lượng chuyên trách tinh thông nghiệp vụ, nhạy bén về chính trị, hiểu biết pháp luật; đặc biệt, phải huy động được sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế, nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng bảo vệ của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Điều đó đặt ra cho thời gian tới, cùng với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc chủ động, quyết liệt, hiệu quả các cấp, các ngành để huy động tốt mọi nguồn lực, chúng ta cần nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm, kỹ năng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Vấn đề này cần phải được tiến hành thường xuyên, với nội dung, biện pháp phù hợp, hiệu quả.

Hai là, cùng với sự phát triển của không gian mạng, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, thì nguy cơ tấn công mạng, gián điệp mạng, chiến tranh mạng, mất an toàn thông tin mạng cũng ngày càng gia tăng. Bởi vì, đi cùng với phát triển chính phủ điện tử là việc sử dụng Internet và hệ thống máy tính kết nối, điện thoại thông minh sẽ ngày càng rộng rãi; mọi hoạt động của xã hội di chuyển ngày càng nhiều lên không gian mạng. Đây là cơ hội để phát triển, nhưng cũng tạo nhiều kẽ hở để các thế lực thù địch, phản động, tội phạm tăng cường chống phá, xâm hại đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức trên không gian mạng. Theo thống kê, hiện nay, các tổ chức phản động đã và đang sử dụng khoảng 1.236 trang Web, trên 200 kênh youtube, hơn 2.000 fanpage, lập ra gần 1.000 hội nhóm trên mạng xã hội để tuyên truyền phá hoại tư tưởng, kích động các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Đáng chú ý, một số quốc gia vẫn đang bí mật triển khai các hoạt động trinh sát, giám sát, tình báo, bố trí hệ thống vũ khí mạng, sẵn sàng tiến công, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên không gian mạng; các thế lực thù địch, phản động cũng đang đẩy mạnh các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống phá chế độ, kích động biểu tình, bạo loạn, hòng thực hiện “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” đối với nước ta. Các hoạt động cài cắm mã độc, phần mềm độc hại vào hệ thống thông tin quan trọng quốc gia, quân sự, quốc phòng diễn ra ngày càng thường xuyên và tinh vi hơn. Tình hình đó đặt ra cho chúng ta phải giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa phát triển, khai thác với bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng.

Ba là, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ mới, rất phức tạp, đòi hỏi phải có hệ thống cơ sở pháp lý đồng bộ, lực lượng chuyên sâu, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, trong khi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này của ta còn thiếu và chưa đồng bộ. Các quy định về việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh thông tin mạng còn phân tán, có hành vi chưa có quy định rõ ràng, do đó lực lượng chức năng thiếu căn cứ để kiểm tra, xử lý một cách triệt để. Cùng với đó, lực lượng chuyên trách của ta tuy đã được thành lập và bước đầu hoạt động có hiệu quả nhưng kinh nghiệm tác chiến, đấu tranh trên không gian mạng còn chưa nhiều; trang bị kỹ thuật còn hạn chế, chưa đồng bộ; nguồn nhân lực chất lượng cao về lĩnh vực công nghệ thông tin, an ninh mạng còn thiếu, v.v. Đó cũng là những vấn đề cấp thiết đặt ra trong thời gian tới.

Bốn là, hạ tầng không gian mạng của ta hiện nay còn hạn chế, nhất là hạ tầng công nghệ phần cứng, từ các hạ tầng lõi cho đến các thiết bị điện tử cá nhân cơ bản đều nhập từ nước ngoài; nhiều trang thiết bị mạng được sử dụng trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cũng có nguồn gốc từ nước ngoài. Các hãng bảo mật và cơ quan chức năng nhiều nước, trong đó có Việt Nam đã chứng minh và cảnh báo về các mã độc, “cửa hậu” được cài sẵn trong các thiết bị trước khi xuất xưởng, cho phép đối phương có thể truy cập, kiểm soát từ xa. Bên cạnh đó, các trang mạng xã hội được người Việt Nam dùng nhiều cũng chủ yếu do nước ngoài quản lý và đặt máy chủ ở nước ngoài; trong khi, chúng ta còn thiếu nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, nhất là những chuyên gia giỏi về an ninh mạng, tác chiến mạng. Đây cũng là một trong những vấn đề hết sức khó khăn trong đảm bảo an ninh, an toàn cho tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động trên không gian mạng.

Không gian mạng ở Việt Nam là một bộ phận cấu thành Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Từ thực tiễn, kinh nghiệm, kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra trong thời gian qua đòi hỏi chúng ta tiếp tục nâng cao nhận thức, xây dựng quyết tâm và có nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc “vùng lãnh thổ đặc biệt” của Tổ quốc./.

ST.

BẢO VỆ TỔ QUỐC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG - NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC, CẤP BÁCH HIỆN NAY!

I. KHÔNG GIAN MẠNG  VÙNG - “LÃNH THỔ ĐẶC BIỆT” CỦA TỔ QUỐC
     Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là sự bùng nổ của công nghệ thông tin, dịch vụ Internet, mạng xã hội,… đã hình thành nên một không gian xã hội mới - không gian mạng với nguồn tài nguyên số cực lớn, mở ra nhiều cơ hội mới cho sự phát triển của cá nhân, cộng đồng, quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, cùng với mặt tích cực, không gian mạng cũng đặt ra không ít thách thức đối với quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là tất yếu khách quan, nhiệm vụ chiến lược, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị!
Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ hiện đại, đặc biệt là phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xuất hiện một không gian xã hội mới - không gian mạng. Đây là phần không gian đặc thù, được hình thành từ cơ sở hạ tầng thông tin và hoạt động của các thành phần xã hội trên đó, dần trở thành không gian chiến lược mới - vùng “lãnh thổ đặc biệt”, gắn kết chặt chẽ với các môi trường tự nhiên (đất liền, biển, đảo, trên không, vũ trụ) để các quốc gia khai thác, phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng
Thực chất, không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian (1). Không gian mạng được hình thành và phát triển trên cơ sở hai yếu tố cơ bản: cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và hoạt động, tương tác của các thành phần xã hội ở trên đó. Chính vì điều này mà không gian mạng đã, đang trở thành không gian xã hội đặc biệt, bao phủ toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội và không bị giới hạn bởi các yếu tố: không gian, thời gian.

Khác với không gian vật lý (luôn gắn liền với từng cộng đồng người và bị giới hạn bởi một không gian, thời gian nhất định), không gian mạng là không gian ảo - môi trường thông tin do con người tạo lập, phát triển, không có biên giới rõ ràng; ở đó, thông tin được cung cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi trên nền tảng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin; nơi mà mọi thông tin, hoạt động của cá nhân, tổ chức và toàn xã hội đã được số hóa. Mặc dù là không gian ảo, song không gian mạng cũng mang yếu tố thực, bởi nó diễn ra các hoạt động giao tiếp, làm việc, giải trí của con người; phản ánh đầy đủ các hoạt động, sinh hoạt của xã hội; tác động đến mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,…; gắn kết chặt chẽ với các môi trường tự nhiên, trở thành không gian sinh tồn rộng mở và có khả năng kiến tạo và gia tăng sức mạnh quốc gia với nguồn tài nguyên số cực lớn để các quốc gia khai thác, phát triển.

Tuy là không gian kết nối toàn cầu, song nó luôn gắn liền với chủ quyền của mỗi quốc gia. Vì vậy, vấn đề chủ quyền quốc gia trên không gian mạng được các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm. Ở Việt Nam, từ năm 1997, khi chúng ta kết nối mạng internet toàn cầu, vấn đề chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhanh chóng được xác lập. Theo quan điểm của Đảng, Nhà nước ta: Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là quyền tối cao, tuyệt đối, đầy đủ và riêng biệt của quốc gia đối với các vùng thông tin do Nhà nước quản lý, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bằng chính sách, pháp luật và năng lực công nghệ phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng giống như chủ quyền lãnh thổ truyền thống, Nhà nước ta có quyền tối cao, tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt đối với phạm vi không gian mạng thuộc quyền kiểm soát của mình; xác lập và thực thi quyền quản lý, kiểm soát, phát triển, khai thác đối với toàn bộ cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia cũng như thông tin được tạo ra, lưu trữ, xử lý và truyền đưa trên đó; đồng thời, mã hóa thông tin số, truyền đưa trên không gian mạng toàn cầu và kiểm soát toàn bộ các hoạt động trên vùng “lãnh thổ đặc biệt” thuộc quyền quản lý của mình trên cơ sở luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam.

Đặc tính ưu việt của không gian mạng
Từ thực tiễn cho thấy, với những đặc tính cơ bản của một kho tri thức khổng lồ; có tốc độ truyền tải, lan truyền, tìm kiếm thông tin nhanh; lưu trữ thông tin cực lớn; tính liên kết cộng đồng cao,... không gian mạng đã trở thành một phần của đời sống xã hội và là “không gian chiến lược mới”, mang đến nhiều cơ hội cho sự phát triển của cá nhân, cộng đồng và quốc gia - dân tộc; trong đó, Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Trước hết, không gian mạng góp phần phát triển nhận thức, tư duy và kỹ năng sống của con người ở mọi quốc gia, nhất là đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Được xem là cuốn “bách khoa toàn thư” khổng lồ của nhân loại mà ai cũng có thể tiếp cận, không gian mạng đã thực sự mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội học tập và phát triển bản thân. Chỉ với những thao tác đơn giản, người dùng có thể thu thập và sử dụng vô số tài nguyên thông tin phục vụ cho nhu cầu học tập, làm việc và cuộc sống của mình.

Thứ hai, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước. Không chỉ tạo ra môi trường làm việc, không gian mạng còn là môi trường giao tiếp vô cùng thuận lợi giữa người dân, doanh nghiệp với các cơ quan công quyền; nhiều thủ tục hành chính, nghĩa vụ kinh tế, hợp tác kinh tế,… được thực hiện thông qua không gian mạng; nhiều ngành nghề mới được ra đời, giúp gia tăng việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, không gian mạng ở nước ta đang là nền tảng quan trọng trong chương trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số, xã hội số. Theo “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”2, không gian mạng là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân trên môi trường số; các giao tiếp giữa chính quyền và người dân, doanh nghiệp cơ bản diễn ra trên không gian mạng. Điều này sẽ góp phần quan trọng giảm chi phí cho cá nhân, tổ chức, nâng cao năng suất lao động; đồng thời, giúp chính quyền các cấp nâng cao năng lực quản lý, điều hành, phát triển.

Thứ ba, không gian mạng góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa, giáo dục và hội nhập quốc tế của đất nước. Với đặc tính “xuyên biên giới”, tốc độ truyền tải, tìm kiếm thông tin nhanh, không gian mạng là môi trường lý tưởng để mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia - dân tộc kết nối, chia sẻ, giao lưu, lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; đồng thời, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực, cùng nhau giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng, quốc gia, quốc tế,... qua đó, thúc đẩy mở rộng hợp tác giữa nước ta với các nước. Hiện nay, với nhiều phần mềm quản lý, dạy học; nhiều hình thức dạy học trực tuyến, đào tạo từ xa, hợp tác đào tạo,... đã và đang được triển khai trên phạm vi quốc gia và quốc tế, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển giáo dục và đào tạo. Thực tế cho thấy, trong đại dịch Covid-19 vừa qua, nếu không có không gian mạng thì các kết nối cộng đồng, giáo dục đào tạo, thương mại,... sẽ bị ngừng trệ.

Thứ tư, không gian mạng ra đời đã làm xuất hiện hình thái chiến tranh trong môi trường mạng, hình thành loại hình và lực lượng tác chiến không gian mạng; làm thay đổi học thuyết, tư duy và phương thức tiến hành chiến tranh, bảo vệ an ninh quốc gia. Không gian mạng còn cho phép lực lượng vũ trang thiết lập, phát triển, sử dụng hiệu quả hệ thống thông tin, tình báo, quản lý điều hành, hệ thống điều khiển vũ khí, tự động hóa chỉ huy để tương tác, nâng cao hiệu quả hoạt động tác chiến; là nền tảng để lực lượng Quốc phòng, An ninh triển khai hệ thống phần mềm quản lý con người, kiểm soát, cập nhật thường xuyên tình hình, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, phòng chống bạo lực, tội phạm, khủng bố,... góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới rất coi trọng tác chiến không gian mạng, coi đó là phương thức chủ yếu nhằm kiểm soát không gian mạng của đối phương, bảo vệ không gian mạng của mình; là hoạt động đối kháng máy tính, gồm các hoạt động giám sát, bảo vệ và tiến công mạng; đồng thời, kết hợp với khả năng chỉ huy, kiểm soát, truyền tin, tình báo, trinh sát, giám sát, tạo điều kiện thuận lợi cho tác chiến liên hợp.

Thứ năm, ở nước ta, không gian mạng còn góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, tăng cường sự gắn kết và đồng thuận trong nhân dân. Thông qua không gian mạng, nhiều hội nghị, lớp học được tổ chức trực tuyến đến các điểm cầu trong cả nước; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhanh chóng được truyền tải đến với mọi cá nhân, tổ chức, giúp họ nắm bắt nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đồng thời, đó còn là môi trường thuận lợi để nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ văn hóa, ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; nâng cao chất lượng dịch vụ công,… góp phần tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Từ những lợi ích to lớn mà không gian mạng mang lại, ngày 25/7/2018, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Trong đó, xác định: không gian mạng là “vùng lãnh thổ đặc biệt” để các quốc gia khai thác, phục vụ cho phát triển,... Việt Nam chủ trương xây dựng không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, rộng khắp, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,… góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những nguy cơ, thách thức
Bên cạnh những mặt tích cực, cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đang phải đối mặt với không ít những nguy cơ, thách thức trên không gian mạng.

Một là, không gian mạng là môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Với tính chất mở, ẩn danh và lan truyền nhanh, không gian mạng đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng thường xuyên sử dụng mạng xã hội, phổ biến là Facebook, YouTube, TikTok,…để tuyên truyền, xuyên tạc, phá hoại nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xuyên tạc thành tựu của cách mạng, từ đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Lợi dụng tính xác thực thông tin trên không gian mạng còn yếu, chúng thường xuyên kích động các phần tử cực đoan, bất mãn phát tán thông tin bịa đặt, sai sự thật,… nhằm tạo ra các đợt “khủng hoảng truyền thông” để thu hút sự quan tâm của dư luận, hướng lái dư luận theo mục đích chính trị của chúng. Từ đó, hình thành tâm lý phản kháng, tư tưởng bất mãn, chống đối, tiến tới kêu gọi biểu tình, bạo loạn lật đổ. Điển hình như, chúng lợi dụng không gian mạng, tuyên truyền, kích động, xúi giục tụ tập đông người bất hợp pháp, gây mất an ninh, trật tự nhân việc Công ty Formosa Hà Tĩnh xả thải gây ô nhiễm môi trường biển (năm 2016); xuyên tạc Quốc hội khóa XIV thông qua Luật An ninh mạng, v.v. Những hoạt động này rất nguy hiểm, đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Hai là, không gian mạng là “mảnh đất” màu mỡ để các thế lực thù địch triển khai hoạt động gián điệp. Ra đời cùng với sự xuất hiện của không gian mạng, gián điệp mạng có thể gây ra những tổn thất lớn về nhiều mặt thông qua tấn công vào hệ thống máy tính của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an, tập đoàn kinh tế lớn, hệ thống ngân hàng, sân bay, bến cảng,... để đánh cắp dữ liệu, thông tin bí mật hoặc tấn công mã độc, chiếm quyền kiểm soát, điều khiển hệ thống thông tin, v.v. Thời gian qua, một số cơ quan đặc biệt của nước ngoài đã và đang đẩy mạnh các hoạt động do thám, xâm nhập gián điệp để đánh cắp thông tin, bí mật quốc gia, bí mật quân sự nhằm tạo lợi thế trong quan hệ hợp tác quốc tế; tác động vào đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại; đưa thông tin sai lệch, truyền bá quan điểm phản động nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội, phá hoại kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh; âm thầm, bí mật kiểm soát hệ thống mạng, tạo thế trận, xâm hại chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc của ta. Các hoạt động này thường được tiến hành thông qua các mã độc, phần mềm gián điệp được cài sẵn trong các phần mềm, ứng dụng, các thiết bị số bán ra thị trường, làm quà tặng hoặc có thể cài đặt từ xa qua mạng Internet. Theo Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam năm 2021, số cuộc tấn công mạng gây ra sự cố vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam không ngừng gia tăng, năm 2019 là 5.176 cuộc, năm 2020 là 6.829 cuộc. Sự nguy hiểm của gián điệp mạng đã được thế giới biết đến qua việc WikiLeaks cho công bố hàng loạt tài liệu mật, trong đó có nhiều tài liệu mật của Mỹ, bao gồm cả tài liệu phản ánh hoạt động giám sát các thiết bị di động của Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) khoảng từ năm 2006 đến 2017. Năm 2013, Edward Snowden cũng đã tiết lộ thông tin mật về chương trình do thám toàn cầu do tình báo Mỹ và Anh thực hiện. Năm 2016, có đến 11,5 triệu tài liệu mật cũng đã được công khai cho báo chí trong vụ “Hồ sơ Panama” gây chấn động thế giới.

Ba là, nguy cơ xảy ra chiến tranh mạng. Đây là một hình thái chiến tranh mới - chiến tranh phi đối xứng, diễn ra thường xuyên, liên tục, trong cả thời bình và thời chiến. Chiến tranh mạng không sử dụng khí tài quân sự truyền thống mà sử dụng lực lượng tinh nhuệ để lập trình, chế tạo, sản xuất và nhân bản hàng loạt vũ khí mạng, như: mã độc, hệ thống công cụ tấn công mạng, hệ thống công cụ tình báo mạng; hậu quả gây ra có thể vượt xa chiến tranh truyền thống. Vào tháng 4/2007, thế giới đã chứng kiến hàng loạt trang thông tin điện tử các cơ quan chính phủ, nhà cung cấp dịch vụ Internet, ngân hàng của Estonia bị tấn công, làm cho hầu hết các website của nước này bị tê liệt trong khoảng 3 tuần, gây nhiều thiệt hại. Năm 2009, hàng loạt website của Chính phủ Mỹ và Hàn Quốc cũng bị tấn công, trong đó nhiều website quan trọng của hai nước này phải tạm ngừng hoạt động. Hiện nay, một số quốc gia đang bí mật triển khai các hoạt động trinh sát, giám sát, tình báo, bố trí hệ thống vũ khí mạng, sẵn sàng tiến công, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên không gian mạng. Trước những nguy cơ và nguy hại của chiến tranh mạng, Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” của Đảng khẳng định, nguy cơ xảy ra khủng bố, chiến tranh mạng, mất an ninh thông tin ngày càng gia tăng. Mục tiêu tấn công của kẻ địch trong trường hợp xảy ra chiến tranh mạng đối với Việt Nam là hệ thống hạ tầng truyền dẫn vật lý, đó có thể là cáp truyền dẫn quốc tế, trục truyền dẫn nội bộ quốc gia; các hạ tầng dịch vụ lõi, như: router, thiết bị mạng,...; các hệ thống cơ sở dữ liệu, mạng máy tính nội bộ; hệ thống điều khiển tự động hóa của các cơ sở quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế, như hệ thống thông tin chỉ huy, giám sát, điều khiển vũ khí của Quân đội, nhà máy lọc dầu, thủy điện, nhiệt điện, giàn khoan, sân bay, bến cảng, v.v. Trên thực tế, từ ngày 08/3 - 10/3/2017, chúng ta đã chứng kiến tin tặc tấn công, thay đổi giao diện website Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Phú Quốc, Rạch Giá3,… đe dọa lớn đến an ninh hàng không. Thực tế đó cho thấy, nếu chiến tranh mạng xảy ra, hậu quả sẽ rất nặng nề, đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp phòng, tránh hiệu quả, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Bốn là, tội phạm công nghệ cao. Với đặc tính ảo, không gian mạng là môi trường thuận lợi để tội phạm công nghệ cao lợi dụng tiến hành các hoạt động gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức và lợi ích quốc gia. Chúng thường giả danh các cơ quan thực thi pháp luật để tiến hành các hoạt động lừa đảo qua mạng; lừa đảo qua phương thức kinh doanh đa cấp trên mạng; giả mạo website của các ngân hàng để lừa người truy cập, chiếm đoạt tài sản; tổ chức các hoạt động đánh bạc, “tín dụng đen”, v.v. Cùng với đó, mạng xã hội còn được các đối tượng phạm tội về hình sự, kinh tế, ma túy lợi dụng để làm công cụ liên lạc trong quá trình mua bán, vận chuyển các loại hàng cấm như: ma túy, vũ khí, vật liệu nổ và các hoạt động phạm tội khác, v.v. Riêng năm 2019, các đơn vị chức năng Bộ Công an đã khởi tố hơn 1.000 bị can; bắt và bàn giao cho cảnh sát các nước trên 500 đối tượng sử dụng không gian mạng thực hiện hành vi phạm tội4. Cũng theo thống kê của Bộ Công an, trong 5 năm (2017-2022), đã phát hiện, đấu tranh, xử lý hơn 2.300 chuyên án, khởi tố hơn 1.100 vụ với hơn 1.000 đối tượng và xử phạt hành chính 51 vụ liên quan tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua không gian mạng5. Hoạt động trên của các đối tượng đã gây nhiều thiệt hại cho cá nhân, tổ chức và lợi ích quốc gia - dân tộc.

Không gian mạng quốc gia là vùng “lãnh thổ đặc biệt" của Tổ quốc, vừa có vai trò quan trọng đối với sự phát triển an toàn, bền vững của đất nước nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức đối với quốc phòng, an ninh cũng như sự ổn định và phát triển của đất nước. Do vậy, không gian này cần được quản lý, định hướng, phát triển bằng những chủ trương, chiến lược, đề án,... bảo đảm chặt chẽ, khoa học, nhằm phát huy những đặc tính ưu việt, hạn chế tác động tiêu cực, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững./.
_________________
1 - Luật An ninh mạng Việt Nam năm 2018, Chương 1, Điều 2, Điểm 3.
2 - Chương trình Chuyển đổi số quốc gia xác định, mục tiêu đến năm 2025: kinh tế số chiếm 20% GDP; hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình, 100% xã; phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%. Mục tiêu đến năm 2030 là: 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ tại cấp huyện và 70% hồ sơ tại cấp xã sẽ được xử lý trên môi trường mạng.
3 - Thượng tướng, PGS, TS. Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương - Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng - những yêu cầu đảm bảo các chỉ số an ninh - an toàn trong bối cảnh hiện nay, Trang Thông tin điện tử Trường Đại học An ninh nhân dân.
4 - Sđd.
5 - Hùng Quân - 3 yếu tố then chốt trong đảm bảo an ninh mạng, Báo Công an nhân dân điện tử, ngày 22/6/2023.
(Còn nữa)
Ảnh: Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp Ban Chỉ đạo An toàn, An ninh mạng quốc gia lần thứ hai.

Ảnh: Diễn tập tình huống phòng, chống tấn công làm tê liệt mạng thông tin thành phố.
Yêu nước ST.