Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

QUY ĐỊNH 144-Q Đ/TW: NỀN TẢNG GIÚP CÁN BỘ ĐỐI MẶT VỚI THỬ THÁCH


Cán bộ, đảng viên tại tỉnh Hòa Bình phấn khởi, đồng lòng quyết tâm thực hiện nghiêm túc Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Việc ban hành Quy định số 144 là cấp thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, phát huy ưu điểm, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng.
Quy định 144 phù hợp với yêu cầu thực tiễn
Bí thư Huyện ủy Cao Phong Bùi Thị Kim Tuyến nêu rõ, Quy định 144 có 5 chuẩn mực quan trọng để mỗi cán bộ, đảng viên, từ cán bộ cấp chiến lược, cấp cao đến cán bộ cấp cơ sở thực hiện nghiêm túc; đồng thời là căn cứ để đánh giá phẩm chất, nhân cách, thái độ, hành vi của cán bộ, đảng viên; là tấm gương để mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người giữ các chức vụ tự soi, tự sửa, tự rèn mình. Đây cũng là cơ sở để các cấp ủy Đảng rèn luyện, lựa chọn, bổ sung những cán bộ, đảng viên có đức, có tài để chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng bộ các cấp, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Bà Nguyễn Thị Dung, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy, Giám đốc Trung tâm Chính trị thành phố Hòa Bình cho biết, bên cạnh việc quán triệt, tuyên truyền, các cấp ủy cần xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện gắn với thực tiễn; có phân nhóm đối tượng, xác định rõ các nhóm giải pháp theo từng vấn đề được nêu trong Quy định theo hướng ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu để cán bộ, đảng viên cam kết và tự giác làm theo. Quy định này được thực hiện liên tục, thường xuyên, lâu dài. Vì vậy hằng năm, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, các cấp ủy, tổ chức Đảng nên lựa chọn, xác định những nội dung trong Quy định mang tính đột phá, nhằm làm chuyển biến thực chất việc rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND phường Đồng Tiến (thành phố Hòa Bình) Phạm Thị Nam cho biết, việc triển khai Quy định 144 của Bộ Chính trị có ý nghĩa quan trọng đối với cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ phường Đồng Tiến; đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ từ phường tới các tổ dân phố, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, cán bộ, công chức, viên chức phường và đội ngũ Bí thư, tổ trưởng, trưởng ban công tác mặt trận… Ở khu dân cư, lực lượng cán bộ gần dân, sát dân nhất phải tự rèn luyện và thực hiện tốt các chuẩn mực theo Quy định số 144.
Quy định 144 của Bộ Chính trị đã đưa ra những chuẩn mực và trách nhiệm cao đối với đảng viên, cán bộ; trong đó, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự giác và tự rèn luyện để trở thành những người có đầy đủ phẩm chất đạo đức, đóng góp vào sự phát triển của bản thân, gia đình và tổ chức Đảng. Theo đó, đảng viên, cán bộ phải tự giác, tự quản và tự rèn luyện tuân thủ nguyên tắc và quy định của Đảng, cũng như pháp luật của Nhà nước. Đảng viên, cán bộ cần đặt ra mục tiêu phát triển bản thân, không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng và ý thức đạo đức; từ đó đóng góp mạnh mẽ và hiệu quả hơn vào công việc và cuộc sống.
Quy định 144 gần dân, sát dân, lắng nghe nhân dân
Quy định 144 có nhiều nội dung quan trọng; trong đó nói về "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Đây là những quy định cụ thể về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với bản thân, gia đình và tổ chức Đảng; là những chuẩn mực đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đề cập đến trong các bài nói, bài viết của mình.
Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Hòa Bình Hà Thị Thanh Hải cho biết, ngoài việc làm rõ hơn các khái niệm "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", Quy định số 144 đã đưa ra những yêu cầu, quy định cụ thể, phù hợp với giai đoạn hiện nay để có thể nhận diện, giám sát cán bộ, đảng viên trong đời sống, việc làm. Triển khai Quy định, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện bằng được phương châm "gần dân, trọng dân, lắng nghe nhân dân", lời nói phải đi đôi với việc làm. Mọi việc phải xuất phát từ lợi ích chung, đảm bảo đúng quy định, trên tinh thần công tâm, khách quan. Việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tổ chức, cơ quan, đơn vị thì nhất quyết làm, việc gì có hại thì hết sức tránh.
Bí thư Huyện ủy Cao Phong Bùi Thị Kim Tuyến cũng cho rằng, Quy định 144 đã chỉ ra “Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”; trong đó nêu rõ “luôn giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, cơ quan, tổ chức và trong nhân dân, trước hết là ở chi bộ, cơ quan, đơn vị công tác, khu dân cư”. Điều 4 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đoàn kết, cả trong nội bộ Đảng với nhân dân, mọi sự chia rẽ, mâu thuẫn hoặc xung đột nội bộ đều cần được khắc phục và giải quyết một cách nhanh chóng, hiệu quả. Việc thống nhất hành động giữa các cấp, ngành, địa phương là cần thiết để Đảng hoạt động hiệu quả và phản ánh được ý chí của Đảng trong hành động cụ thể. Sự đoàn kết, thống nhất còn là nền tảng để Đảng phát triển bền vững và đối mặt với những thách thức, biến động của xã hội ngày nay.
Theo bà Nguyễn Thị Dung, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy, Giám đốc Trung tâm Chính trị thành phố Hòa Bình, để thực hiện Quy định số 144 sâu rộng, trên cơ sở hướng dẫn của Trung ương và của tỉnh, các cấp ủy, tổ chức Đảng có trách nhiệm quán triệt sâu rộng để mọi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc nội dung Quy định; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến những nội dung cơ bản, cốt lõi của Quy định trên các loại hình báo chí của địa phương, các trang, nhóm mạng xã hội của các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị. Các cấp ủy, tổ chức Đảng lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa nội dung Quy định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tình hình của địa phương, cơ quan, đơn vị; phối hợp triển khai Quy định với thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định khác của các cấp ủy trong lĩnh vực xây dựng Đảng, nhất là trên các mặt xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội có trách nhiệm giám sát, phản biện xã hội theo quy định hiện hành của Đảng, Nhà nước đối với việc tu dưỡng, rèn luyện và thực hiện quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, tổ chức đoàn thể, cán bộ chủ chốt. Cấp ủy, tổ chức Đảng chú trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng gắn với kết hợp phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện quy định chuẩn mực đạo đức, quy định nêu gương; lấy kết quả thực hiện làm cơ sở để đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Hiện nay có rất nhiều yếu tố của nền kinh tế thị trường, đời sống xã hội tác động tiêu cực đến đội ngũ cán bộ, đảng viên như: Tình trạng quan liêu, xa dân, sợ trách nhiệm... Từ đó, đòi hỏi cần phải có một quy định chặt chẽ làm công cụ, thước đo về các tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức. Qua đó, mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa; đồng thời để tổ chức, nhân dân có thể giám sát, đánh giá cán bộ, đảng viên... Trong các điều của Quy định số 144 đã thể hiện đầy đủ yêu cầu tối thượng đối với mỗi cán bộ, đảng viên; đó là lòng yêu nước, tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân lên trên hết, trước hết. Đây là cái gốc của mọi việc, bởi chỉ khi người cán bộ đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết thì trong mọi việc làm, quyết định sẽ đảm bảo công tâm, khách quan và tạo được lòng tin của mọi người.
TTXVN

TÁC PHẨM CỦA TƯ DUY, TẦM NHÌN VÀ SỰ TÂM HUYẾT VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM


Đại hội XIII của Đảng xác định rõ, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Bằng tư duy lý luận sắc bén, thực tiễn phong phú, sự am hiểu tường tận và tình cảm đặc biệt, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những chỉ đạo toàn diện về văn hóa thông qua cuốn sách "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Tác phẩm gửi gắm những thông điệp sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư đối với đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Những ý kiến của người đứng đầu Đảng ta về văn hóa, văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản thể hiện trong tác phẩm đã bao quát một cách hệ thống, đầy đủ, sáng tạo về những vấn đề căn cốt của từng lĩnh vực, có giá trị khơi gợi khát vọng sáng tạo, cống hiến của những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng của Đảng.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường để dựng nước và giữ nước, đồng thời tiếp thu thành tựu của văn hóa nhân loại, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã hình thành nên nền văn hóa Việt Nam với những giá trị độc đáo, phong phú và thống nhất trong đa dạng.
Trong dòng chảy của lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 94 năm qua, việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước.
Sau gần 40 năm đổi mới, sự nghiệp phát triển xã hội, văn hóa, con người đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Đội ngũ trí thức ngày càng tinh hoa và đông đảo chưa từng có trong lịch sử. Văn hóa ngày càng phát triển đa dạng về lĩnh vực, loại hình, sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mới và mọi mặt của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, gìn giữ, phát huy văn hóa Việt Nam cũng còn không ít bất cập, hạn chế, yếu kém, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người và môi trường văn hóa. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đan xen trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, với quyết tâm lớn, nỗ lực bền bỉ của cả hệ thống chính trị, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có những bước chuyển biến quan trọng, từ nhận thức đến hiệu quả hành động. Những thành tựu lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam những năm qua là thành quả của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó nhân tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Trải qua nhiều cương vị công tác, với những trọng trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đặc biệt quan tâm, dành tâm huyết rất lớn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Cuốn sách Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra mắt bạn đọc nhân dịp kỷ niệm 76 năm Ngày Bác Hồ ra Lời kêu gọi Thi đua ái quốc (11-6-1948 - 11-6-2024), 99 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6-1925 - 21-6-2024) có ý nghĩa rất quan trọng. Với 92 bài viết, bài phát biểu, bài nói, lược ghi, trả lời phỏng vấn, thư... của đồng chí Nguyễn Phú Trọng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời gian 60 năm qua được tuyển chọn trong tác phẩm đã hệ thống hóa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giúp các ngành, các cấp, các địa phương, cán bộ, đảng viên, nhân dân xác định rõ quan điểm, mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa, để văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần, động lực và nguồn lực nội sinh cho phát triển đất nước. Các bài phát biểu, bài viết thể hiện sự quan tâm sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư đối với việc xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam với các yếu tố truyền thống và hiện đại, bản sắc và hội nhập, tạo nguồn lực nội sinh và huy động sức mạnh của văn hóa, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thịnh vượng.
Những điểm nhấn quan trọng trong tác phẩm "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" được thể hiện cụ thể:
Thứ nhất, đồng chí Tổng Bí thư đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cốt lõi trong đường lối của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đồng chí đã phân tích, kiến giải và chỉ đạo những nội dung quan trọng về đặc trưng, bản chất, vị trí, vai trò, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; để phát huy vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực quan trọng để phát triển đất nước. Những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong tác phẩm được rút ra từ thực tiễn phong phú, khẳng định tầm nhìn xa, rộng, sự chỉ đạo sâu sát, toàn diện, đầy sức thuyết phục của đồng chí Tổng Bí thư; góp phần làm sáng rõ tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người... Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
Tác phẩm đã nâng tầm lý luận về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là cẩm nang quý báu giúp các cấp ủy, tổ chức đảng, các ngành, các cấp, cán bộ, đảng viên nắm vững và triển khai hiệu quả công tác xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ hai, đồng chí Tổng Bí thư đã hệ thống một cách xuyên suốt và biện chứng về quá trình vận động, phát triển và những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, nhất là trong thời đại Hồ Chí Minh. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc rút những vấn đề có tính quy luật khách quan, có giá trị định hướng rất sâu sắc về đường hướng xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc; trong đó, trọng tâm là xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới, đồng thời có những gợi ý rất quan trọng về các thành tố trong từng hệ giá trị. Hệ giá trị quốc gia: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Hệ giá trị văn hóa: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học. Hệ giá trị gia đình: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh. Chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo... Đây là những giá trị tốt đẹp, tiêu biểu, cốt lõi, được kế thừa và phát triển từ truyền thống dân tộc, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như qua các kỳ Đại hội của Đảng. Việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới chính là cách để chúng ta củng cố vững chắc trận địa tư tưởng, phát triển văn hóa, góp phần quan trọng để củng cố và tăng cường sức mạnh mềm, sức mạnh nội sinh phát triển đất nước.
Có thể khẳng định, tác phẩm là một công trình có ý nghĩa đặc biệt, góp phần quan trọng làm rõ bản sắc, hoạch định đường hướng căn bản và lâu dài đối với nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, với kiến thức chuyên sâu và sự am hiểu về đặc trưng của từng loại hình văn hóa, từ văn học, sân khấu đến mỹ thuật nhiếp ảnh, thể dục thể thao, từ ca dao, dân ca đến ca trù, quan họ, từ những làn điệu chèo đến những câu hò ví dặm, hay đờn ca tài tử,... phản ánh bản sắc văn hóa của từng vùng, miền, địa phương trên cả nước, như Thăng Long - Hà Nội, Bắc Ninh - Kinh Bắc đến Phú Thọ, Thái Bình, dân ca Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ..., đồng chí Tổng Bí thư có những dẫn chứng rất sinh động và lập luận thuyết phục, định hướng vừa mang tầm chiến lược, bao quát, nhìn xa trông rộng, vừa rất cụ thể, gần gũi. Nói về vai trò của văn học, nghệ thuật - “tiếng nói của tình cảm” và các nhà văn - “người dự báo”, “thư ký của thời đại”, đồng chí chỉ rõ: “Mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật thật sự có giá trị phải có sức lay động công chúng, độc giả bằng trách nhiệm, tấm lòng, trái tim của người nghệ sĩ”; “Sự nghiệp sáng tạo văn học đòi hỏi phải có những người có tài năng, có tâm hồn, có nhân cách, đặc biệt là có chỗ đứng và cách nhìn đúng đắn”. Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, nhà văn cần có “Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của cuộc sống Nhân dân, chứ không phải chỉ đi vào tâm trạng cá nhân, gặm nhấm tâm tư, yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp, thậm chí coi văn chương như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường”, làm cho người đọc sau khi gấp sách lại đều cảm thấy “mạch đời đập dưới bìa sách như mạch máu đập dưới làn da (Kalinin)”.
Với nghệ thuật sân khấu, đồng chí đề nghị cần “sáng tạo được nhiều vở diễn có giá trị về Dân tộc Việt Nam, về con người Việt Nam đang dũng cảm vượt qua thử thách, đẩy nhanh tiến trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, đồng thời sáng tạo, dàn dựng nhiều vở diễn về lịch sử, cách mạng, kháng chiến ở tầm cao mới, xứng đáng với sự tích hào hùng của Dân tộc ta, Nhân dân ta; bởi “cuộc sống đang rất cần những vở diễn mang hơi thở cuộc sống, mang tầm vóc của dân tộc và thời đại, thu hút và hấp dẫn được đông đảo người xem”. Người nghệ sĩ sân khấu phải tự nguyện tham gia sự nghiệp cách mạng, thường xuyên bồi dưỡng cả về phẩm chất và tài năng - những nhân tố quyết định sự thành công trong hoạt động sáng tạo để đóng góp cho nhân dân, cho đất nước những tác phẩm hay.
Về vai trò của văn hóa, văn nghệ trong giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nhân cách con người, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, nhân cách con người, nâng cao bản lĩnh và ý thức dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc, làm cho phát triển kinh tế thị trường mà không băng hoại giá trị đạo đức xã hội, “hội nhập mà không hòa tan””. Để tạo điều kiện cho văn hóa phát triển, đồng chí khẳng định Đảng, Nhà nước ta luôn khuyến khích, tạo điều kiện, có cơ chế đặc thù và tôn trọng tự do sáng tạo của người nghệ sĩ, song mỗi người nghệ sĩ cũng phải “vừa có bản lĩnh, sự tỉnh táo; vừa có trình độ, tầm nhìn, cách nghĩ và phương thức thể hiện mới trong sáng tạo nghệ thuật, phù hợp với yêu cầu thực tiễn”. Chỉ khi có khát vọng và hoài bão lớn lao, tầm nhìn xa rộng và tư duy sâu sắc thì người nghệ sĩ mới có tác phẩm hay, có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, những tác phẩm “phản ánh tâm hồn và tính cách dân tộc, những điều lớn lao, mạnh mẽ của con người và dự báo cho cả tương lai”.
Với quan điểm: Con người Việt Nam là sự kết tinh của văn hóa Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, trong đó giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Trong các chuyến thăm, làm việc với các cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở đào tạo, các học viện, trường đại học, cao đẳng, trường phổ thông,... đồng chí nhiều lần nhắc nhở: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là công việc vừa có tính chiến lược, vừa mang tính cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, trước hết là trách nhiệm của các nhà trường, của ngành giáo dục - đào tạo”. Nhiệm vụ của giáo dục - đào tạo là “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân,... làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách”. Đó chính là việc đào tạo “người có văn hóa”, sống có nghĩa có tình, có trước có sau, có nhân cách, có bản lĩnh, có lòng yêu nước, thiết tha gắn bó với nhân dân, sẵn sàng đóng góp công sức, trí tuệ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Luôn hy vọng vào tương lai thế hệ trẻ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc nhở: “Cha ông đã để lại cho chúng ta một đất nước Việt Nam giang sơn gấm vóc vô cùng tươi đẹp. Trách nhiệm của các thế hệ hôm nay và mai sau là phải làm cho non sông nước Việt ngày càng giàu đẹp, hùng cường”.
Kế thừa truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Việt Nam, mặc dù làm công việc gì, ở cương vị nào, cả khi đã là lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Nguyễn Phú Trọng vẫn thường xuyên viết thư hỏi thăm sức khỏe các thầy giáo, cô giáo cũ. Trong các bài phát biểu, bài viết, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, cán bộ làm công tác văn hóa. Đồng chí luôn luôn nhấn mạnh phải chú ý phát huy tài năng, tâm huyết, động viên sự sáng tạo của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong việc tham gia phát triển văn hóa, văn nghệ của đất nước; khuyến khích các tài năng trẻ và có hình thức tôn vinh xứng đáng các văn nghệ sĩ có công lao đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa. Văn hóa là sự nghiệp của nhân dân, do vậy mỗi người dân phải tích cực tham gia, đóng góp vào việc sáng tạo nên những giá trị văn hóa vật chất, tinh thần, vun đắp cho nền văn hóa dân tộc ngày một hoàn thiện, cao đẹp hơn.
Đồng chí Tổng Bí thư đánh giá cao vai trò, trách nhiệm và những đóng góp nổi bật của các địa phương, cơ quan, đơn vị; cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong việc giữ gìn, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam thông qua các hoạt động thiết thực, như đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; tổ chức các hoạt động văn hóa, xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa; biểu dương những tấm gương điển hình trong việc thực hiện hiệu quả nội dung xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới; kịp thời phê phán những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc,...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng rất chú trọng tới việc giữ vững và phát huy vai trò tiên phong của báo chí, xuất bản trên mặt trận văn hóa - tư tưởng của Đảng, đóng góp vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng có quá trình công tác gần 30 năm ở Tạp chí Cộng sản, rèn luyện, trưởng thành từ một biên tập viên của Tạp chí, nên đồng chí hiểu rất rõ vai trò, nhiệm vụ của nghề báo và nhà báo: “Nghề báo thật sự là một nghề cao quý, một nghề có ích cho xã hội”; “Nhà báo trước hết phải hiểu đúng và nắm rất vững chức năng, nhiệm vụ của tờ báo mà mình phụng sự, cộng tác”. Trực tiếp làm Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản - Cơ quan lý luận chính trị của Đảng, tiếp đó là Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách công tác tư tưởng - văn hóa và khoa giáo của Đảng, là Phó Chủ tịch, rồi Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ trách công tác lý luận của Đảng, đồng chí đã nhiều lần làm việc, nói chuyện, chia sẻ kinh nghiệm với cán bộ, biên tập viên các cơ quan báo chí chủ lực và các báo, tạp chí chuyên ngành. Đồng chí đề nghị các cơ quan báo chí cần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là đội quân chủ lực, tiên phong trên mặt trận tư tưởng, “góp phần đắc lực vào việc hình thành dư luận xã hội lành mạnh; xây dựng bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn, khí phách con người Việt Nam trong thời kỳ mới; góp phần cổ vũ và tạo ra sức mạnh đoàn kết, thống nhất, đồng thuận toàn dân tộc”. Với vốn kiến thức phong phú, sự am hiểu sâu sắc, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú của một nhà báo, cùng với quá trình không ngừng tự học tập, tự rèn luyện, đồng chí chia sẻ: Mỗi phóng viên, biên tập viên, nhà báo phải có quyết tâm cao, có lòng say mê yêu nghề, chịu khó học tập, kiên trì rèn luyện “để vừa có phẩm chất chính trị vững, có đạo đức nghề nghiệp tốt, vừa có đủ trình độ, năng lực nghiên cứu và biên tập được, viết bài được”, cần “cẩn trọng trong từng câu, từng chữ”, luôn luôn chú trọng rèn luyện ngòi bút để văn phong đĩnh đạc, trong sáng; lập luận chặt chẽ, rõ ràng, dẫn chứng sắc sảo, chính xác, có sức thuyết phục cao thì mới có được bài báo hiệu quả nhất.
Đối với ngành xuất bản, in và phát hành Việt Nam - một binh chủng quan trọng trên mặt trận văn hóa, tư tưởng của Đảng, Tổng Bí thư yêu cầu “luôn luôn giữ vững định hướng chính trị, tư tưởng, bảo đảm hài hòa giữa nhiệm vụ chính trị và sản xuất kinh doanh, phục hồi và phát triển mạnh mẽ văn hóa đọc; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xuất bản, in và phát hành sách có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng; chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần khẳng định vị thế, vai trò là một trong những hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và Nhân dân”.
Những bài viết, bài nói, bài phát biểu, thư... của đồng chí Nguyễn Phú Trọng trong tác phẩm cho thấy sự am hiểu sâu sắc, toàn diện về bản chất và đặc trưng văn hóa Việt Nam của người đứng đầu Đảng ta. Sự đồng tình hưởng ứng, tinh thần quyết tâm và sự vào cuộc nhanh chóng, đồng bộ, sáng tạo của các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị, đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân là minh chứng rất thuyết phục về vai trò, những đóng góp quan trọng và rất đặc biệt của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tác phẩm "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra mắt trong thời điểm hết sức quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã và đang nỗ lực, đồng lòng, tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đảng ta đang huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, phát huy trí tuệ của đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân tham gia tổng kết lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; khẩn trương chuẩn bị tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng...
Tác phẩm là một đóng góp quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận và cơ sở thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Tác phẩm là minh chứng cho thấy bước trưởng thành, phát triển về tư duy lý luận và năng lực lãnh đạo thực tiễn của Đảng ta đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta tin tưởng sâu sắc, việc ra mắt tác phẩm quan trọng này, cùng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc đồng bộ, nhịp nhàng của cả hệ thống chính trị, sự đồng tình, ủng hộ của đội ngũ trí thức, của văn nghệ sĩ, các tầng lớp nhân dân, sự nghiệp phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong thời gian tới; trực tiếp góp phần xây dựng và phát triển đất nước ta phồn vinh, văn minh, hạnh phúc./.
Tạp chí Cộng sản

Liêm chính quan chức

Bài báo “Cần, kiệm, liêm, chính” của Bác Hồ nhằm răn dạy cán bộ về đạo đức, khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn non trẻ, toàn quốc kháng chiến trường kỳ. Từ đó đến nay, những thành tựu to lớn, vĩ đại mà Nhà nước và nhân dân ta đạt được có phần quan trọng là nhờ thực hành cần, kiệm, liêm, chính.

(Hình minh họa: qdnd.vn)

(Hình minh họa: qdnd.vn)

“Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc vǎn minh tiến bộ”, đó là nội dung trong bài báo “Cần, kiệm, liêm, chính” của Bác Hồ viết năm 1949. Trong đó, “Liêm là trong sạch, không tham lam” - thật đơn giản, dễ hiểu, dễ học và dễ làm theo. Bác dạy sâu sắc như vậy, nhưng thực hiện không dễ, vì trong cuộc sống có biết bao nhiêu cám dỗ, cạm bẫy rình rập, nhất là đối với những người có quyền thế, chức vụ, địa vị mà mỗi lời nói, quyết định của họ đều có ảnh hưởng đến nhiều người, thậm chí đến cả cộng đồng.

Hiện nay, trong xã hội đang phổ biến một tư duy rằng, hễ là người có quyền, có danh thì có lợi, kể cả cái lợi ích đến từ những hành vi vi phạm pháp luật. Thế nên, có nhiều cán bộ, đảng viên đã bị xử lý vì sa ngã trước cái lợi bất chính. Trong số ấy cũng có những người trước cái lợi nhỏ thì có thể từ chối được, nhưng với những cái lợi cực lớn như hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng “lại quả” từ các dự án thì đã đánh mất mình.

“Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm” là ước mong của Bác Hồ và của tất cả chúng ta. Đó là dân tộc mà từ người già đến trẻ, từ cán bộ đến người dân, từ công chức, viên chức đến tiểu thương, công nhân, nhà khoa học... đều chăm chỉ, cần cù lao động và sống bằng thu nhập chính đáng. Vì vậy, muốn giữ được thanh danh thì phải tự rèn giũa để có đủ bản lĩnh, phẩm chất mà từ chối những cái lợi không chính danh, cái lợi bất minh, phi pháp, ngõ hầu giữ lấy phẩm cách liêm khiết, trong sạch của bản thân mình.

Biết là không dễ nhưng không thể để tình trạng bất liêm, tham nhũng có nguy cơ lan tràn trở thành phổ biến trong xã hội. Điều đó sẽ làm thoái hóa cả một thế hệ cán bộ và tạo ra hậu quả lâu dài đối với hệ thống chính trị.

Vì thế, trước hết, làm sao để quan chức, công chức, những người có quyền lực hay dựa vào quyền lực không thể, không muốn, không dám và không cần tham nhũng, bất liêm, bất chính. Cần phải có một hệ thống đa chiều, vững chắc, bao gồm cả giáo dục đạo đức, hệ thống pháp luật nghiêm minh, nghiêm ngặt và sự giám sát có hiệu quả của xã hội.

Các quy trình ra quyết định, quá trình thực thi, nhất là trong các hoạt động kinh tế cần phải được công khai và minh bạch để mọi người có thể theo dõi và giám sát. Công nghệ thông tin có thể được sử dụng để tạo ra các hệ thống giám sát tự động và công khai.

Cần phải có các kênh thông tin cho phép và bảo vệ người dân tố cáo về những hành vi tham nhũng mà không sợ bị trù dập. Báo chí và các tổ chức xã hội cũng cần được khuyến khích để đưa ra những báo cáo điều tra về tham nhũng, tiêu cực.

Sau cùng, mỗi quan chức, công chức, viên chức cần phải tự giác tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật bản thân. Họ cần phải nhận thức được rằng: Việc giữ gìn phẩm chất liêm khiết không chỉ là lợi ích cá nhân mà còn là trách nhiệm với cộng đồng và xã hội; rằng khi họ đút túi một đồng tiền tham nhũng thì có nghĩa ai đó đang nghèo khổ, bệnh tật ngoài kia phải đóng thêm một đồng viện phí, học phí...

Quan chức phải xem sự liêm chính của bản thân như là sinh mệnh chính trị của mình. Không cần tham nhũng hại dân mà ngược lại, đồng cam cộng khổ, chia sẻ ngọt bùi với nhân dân, họ vẫn có thể có được một cuộc đời đầy đủ hạnh phúc, thanh liêm và nhiều giá trị.

Bài báo “Cần, kiệm, liêm, chính” của Bác Hồ nhằm răn dạy cán bộ về đạo đức, khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn non trẻ, toàn quốc kháng chiến trường kỳ. Từ đó đến nay, những thành tựu to lớn, vĩ đại mà Nhà nước và nhân dân ta đạt được có phần quan trọng là nhờ thực hành cần, kiệm, liêm, chính. Thực tế hiện nay đã cho thấy, những ai không thực hiện lời dạy đó đến nơi đến chốn đã phải trả giá. Đó cũng là bài học đạo đức quý báu đối với mỗi chúng ta, không chỉ riêng với quan chức./.

ST.

Khen thưởng sao cho thực chất

Để vườn hoa thi đua kết “quả ngọt” thực sự thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải hết sức công tâm, khách quan, khen thưởng phân minh trên cơ sở đánh giá trung thực kết quả thực hiện nhiệm vụ của cá nhân, tập thể được đề nghị khen thưởng. Các cơ quan, đơn vị phải phát huy dân chủ, công khai bình xét khen thưởng đúng người, đúng việc.

(Hình minh họa)

(Hình minh họa)

Cùng với nhìn lại chất lượng và tiến độ triển khai, thực hiện công việc sau nửa năm, các hoạt động sơ kết 6 tháng cũng là dịp để đánh giá công tác thi đua, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ; đồng thời nhân rộng, lan tỏa những mô hình hay, cách làm sáng tạo trong phong trào thi đua.

Nếu ví thi đua là gieo trồng thì khen thưởng là gặt hái. Thi đua để tạo động lực cho mọi người cùng phấn đấu đạt được những chỉ tiêu đề ra. Còn khen thưởng là hái “quả ngọt” sau quá trình nỗ lực thực hiện các mặt thi đua.

Trong tâm lý con người, ai cũng thích được khen. Dù chỉ là lời biểu dương đúng lúc, đúng chỗ cũng tạo tinh thần hứng khởi, tự tin cho mỗi người. Hình thức khen tạo ra cảm xúc tích cực, có tác dụng kích thích con người hành động hướng đến những việc làm tốt hơn, hiệu quả hơn. Đi cùng với khen là thưởng. Đó là những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần dành cho cá nhân, tập thể được khen. Khen thưởng đúng người, đúng việc chính là biện pháp hữu hiệu để nhân thêm người tốt - việc tốt.

Tuy nhiên, bên cạnh những danh hiệu, phần thưởng dành cho các tập thể, cá nhân xứng đáng, thực tế thời gian qua, ở một số cơ quan, đơn vị vẫn còn những bất cập trong công tác khen thưởng. Vì muốn được khen thưởng, một số cá nhân, tập thể có động cơ thi đua không lành mạnh, thiếu trong sáng, tìm mọi cách để "đánh bóng" kết quả, nâng cấp thành tích. Có người vì mục đích cá nhân đã “chạy” khen thưởng nhằm đủ tiêu chí xét cân nhắc vị trí mới, nâng lương.

Có trường hợp lợi dụng địa vị công tác để vơ nhận khen thưởng thái quá về mình. Người lại phấn đấu theo “mùa vụ”, được khen rồi thì có biểu hiện làm việc trung bình chủ nghĩa, cầm chừng. Trong khi đó, còn có đơn vị khen thưởng theo kiểu phân bổ đều chỉ tiêu hoặc xoay vòng lần lượt để ai cũng được khen, "hoa thơm mỗi người hưởng một tí". Cách làm này vô hình trung tạo ra tâm lý cào bằng, triệt tiêu động lực phấn đấu thi đua.

Người Việt ta rất coi trọng khen thưởng, coi đó là niềm vinh dự trước cộng đồng, làng xã. “Trăm đồng tiền công không bằng một đồng tiền thưởng” là vậy! Khi khen thưởng thực chất là góp phần tạo "men say" tích cực để mỗi cá nhân, tổ chức tăng thêm niềm tin, động lực rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Ngược lại, khen thưởng thiếu trung thực, không công bằng, chạy theo thành tích, tranh công đổ lỗi không chỉ là hành vi thiếu văn hóa mà còn kéo phong trào thi đua đi xuống, thậm chí gây mất đoàn kết, tạo dư luận xấu trong tập thể.

Để vườn hoa thi đua kết “quả ngọt” thực sự thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải hết sức công tâm, khách quan, khen thưởng phân minh trên cơ sở đánh giá trung thực kết quả thực hiện nhiệm vụ của cá nhân, tập thể được đề nghị khen thưởng. Các cơ quan, đơn vị phải phát huy dân chủ, công khai bình xét khen thưởng đúng người, đúng việc.

Cùng với đó, mỗi người cần nhận thức sâu sắc ý nghĩa, giá trị của phong trào thi đua, đề cao lòng tự trọng, uy tín, danh dự, tự giác phấn đấu để nhận được hình thức khen thưởng xứng đáng. Việc khen thưởng đúng người, đúng việc sẽ góp phần tạo ra nền tảng văn hóa thi đua lành mạnh, lan tỏa những năng lượng tích cực, giá trị tốt đẹp cho cơ quan, đơn vị./.

ST.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về biện pháp đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ

Đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học và công nghệ là một trong những khâu đột phá, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động và bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững cho các quốc gia. Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ tầm quan trọng và từ đó xác định nội dung, biện pháp, điều kiện thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ ở Việt Nam. Những quan điểm đó vẫn vẹn nguyên giá trị đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo ở nước ta hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thử máy cấy lúa cải tiến tại Trại thí nghiệm trồng lúa Sở Nông lâm Hà Nội (ngày 16/7/1960). (Ảnh: Tư liệu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thử máy cấy lúa cải tiến tại Trại thí nghiệm trồng lúa Sở Nông lâm Hà Nội (ngày 16/7/1960). (Ảnh: Tư liệu)

Lịch sử dân tộc đặt ra cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam những nhiệm vụ vô cùng to lớn, khó khăn, đó là: Đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của những nước thực dân, đế quốc hùng mạnh để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; cải tạo xã hội cũ nghèo nàn lạc hậu với những tàn tích phong kiến, thực dân, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhận thức sâu sắc đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, với tầm nhìn vượt thời đại, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ và coi đó là khâu then chốt trong sự nghiệp cách mạng giải phóng và phát triển. Nghiên cứu các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như những chỉ đạo thực tiễn của Người, có thể thấy một hệ thống tư tưởng sâu sắc, toàn diện về đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ, trong đó, quan điểm về các biện pháp đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ có vị trí quan trọng. Hệ thống tư tưởng đó không chỉ góp phần thiết thực giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan của cách mạng Việt Nam trong các thời kỳ lịch sử trước đây, mà ngày nay vẫn chứa đựng những giá trị định hướng, gợi mở quan trọng đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về biện pháp đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ thể hiện qua những nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp thu thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong nước và tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học, kỹ thuật trong nhân dân.

Đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực chất chính là khơi dậy và phát huy sức mạnh của trí tuệ Việt Nam, là nguồn lực quan trọng giúp dân tộc Việt Nam đánh bại các lực lượng thực dân, đế quốc hùng mạnh, cũng như giành chiến thắng trong “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn trong bản Di chúc thiêng liêng của Người. Giải phóng dân tộc là cả một thành tựu vĩ đại của trí tuệ Việt Nam, của đổi mới, sáng tạo, kết tinh ở học thuyết Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trong xây dựng xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Người khẳng định: “Nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học, kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi”(1).

Về biện pháp thực hiện nhiệm vụ đó, theo Người, đầu tiên cần trân trọng tiếp thu thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại. Nhận thức rõ thời đại mới là thời đại của khoa học và công nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn cởi mở, thể hiện tinh thần khoan dung văn hóa đối với các tài nguyên trí tuệ, tri thức của nhân loại. Đối với hệ tư tưởng Nho giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra chỉ dẫn khách quan: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”(2). Để tiếp thu trí tuệ nhân loại, Người chú trọng việc cử thanh niên Việt Nam ra nước ngoài đào tạo, bồi dưỡng. Theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều học sinh, sinh viên đã được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có trình độ phát triển cao về khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Nhiều người trong số đó sau khi trở về đã trở thành những nhà khoa học hàng đầu của đất nước. Có những người vẫn ghi nhớ những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi họ rời Tổ quốc: “Các chú sắp được sang học ở Liên Xô. Liên Xô là nước có trình độ khoa học - kỹ thuật cao. Các chú sang đó học để làm gì? Có phải học cho thông thạo để có địa vị không? Học để phụng sự nhân dân. Làm sao để dân có cơm no, áo ấm, có sức khỏe. Dân đói bụng, đưa rượu sâm-banh, dân rét đưa ca-ra-vát ra có đúng không? Nên học cái gì thiết thực, dân cần dùng. Bây giờ các chú đi học ở một nước có trình độ cao so với nước ta. Ði học, bê cả các thứ về một cách máy móc thì vô dụng, không làm gì cả. Học cách người ta làm, cách xếp đặt, những cái to lớn từ đâu mà ra. Học để biết mà dùng, mà áp dụng theo từng hoàn cảnh của ta. Học, dùng phải đi đôi với nhau, nhằm một mục đích phụng sự nhân dân”(3). Trân trọng nghiên cứu, tiếp thu tri thức khoa học tiên tiến của nhân loại và áp dụng sao cho phải phù hợp với điều kiện nước ta đến nay vẫn là bài học lớn trong phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta.

Cùng với tiếp nhận tri thức khoa học từ bên ngoài, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong nước cũng là biện pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Người nêu quan điểm: “Các cán bộ quân sự thì phải nghiên cứu khoa học quân sự, cán bộ y tế phải nghiên cứu y học. Cán bộ môn nào thì nghiên cứu lý luận của môn ấy”(4). Người nhắc đến tấm gương nhà khoa học nữ người Trung Quốc là Lý Mận Hoa để cổ vũ tinh thần hăng say lao động trí óc của chuyên gia nước nhà: “Bà Lý vừa nuôi con, vừa làm việc nhà, vừa nghiên cứu khoa học. Thật là khó nhọc, nhưng bà Lý quyết tâm học cho kỳ được. Kết quả bà Lý đã thành một nhà động lực học nổi tiếng” và nhấn mạnh: “Lao động chân tay, lao động trí óc, bất kỳ làm việc gì hễ có ích cho xã hội đều là vẻ vang, đều được nhân dân quý trọng”(5).

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh, cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học, kỹ thuật trong quần chúng nhân dân. Tuyên truyền, phổ biến tri thức không chỉ để thỏa mãn quyền lợi căn bản của người dân là được hưởng thụ những thành quả của khoa học, để lao động trí óc gắn chặt với lao động chân tay, để tri thức khoa học, kỹ thuật đi vào thực tiễn, được ứng dụng trong thực tiễn, mà sâu xa hơn là để tạo điều kiện nâng cao dân trí, phát huy trí tuệ của nhân dân, để các tầng lớp nhân dân có điều kiện tham gia đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng rằng, quần chúng nhân dân, một khi được cổ vũ, động viên sẽ phát huy được nguồn lực trí tuệ vô tận trong sự nghiệp cách mạng. Người viết: “Tư tưởng của quần chúng thông, lực lượng và trí tuệ của quần chúng sẽ vô cùng vô tận, khó khăn gì cũng vượt được, công việc to mấy cũng làm nên”(6).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới chế độ thực dân phong kiến, khoa học chịu sự chi phối và thao túng bởi giai cấp thống trị, đồng thời cũng trở thành phương tiện để chúng áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Ngược lại, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, khoa học là tài sản chung của toàn dân chứ không phải là tài sản riêng của một nhóm người nào, do đó cần được ứng dụng vào việc tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy tiến bộ của xã hội. Do vậy, Người yêu cầu, đội ngũ trí thức, nhất là trí thức khoa học “phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động... Có như vậy nước mới giàu, dân mới mạnh và đời sống của nhân dân mới được cải thiện về mọi mặt”(7). Người lưu ý rằng, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, phổ biến rộng rãi những tri thức khoa học, kỹ thuật trong quần chúng nhân dân gắn liền với trách nhiệm quan tâm, hỗ trợ, giúp đỡ để người dân có thể trở thành chủ thể sáng tạo, đó là điều Hồ Chí Minh luôn trăn trở, căn dặn các nhà khoa học, cán bộ, đảng viên: “Sau khi đã phổ biến, ta phải theo dõi, giúp đỡ quần chúng học tập và áp dụng cho tốt. Nếu chỉ phổ biến rồi bỏ mặc quần chúng, không quan tâm theo dõi họ thực hiện được hay là không, kết quả tốt hay là xấu, như vậy là thiếu tinh thần trách nhiệm”(8). Có thể thấy, đẩy mạnh phổ biến tri thức, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân dân về vai trò của đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ; khơi dậy tinh thần và khát vọng sáng tạo trong nhân dân; góp phần hình thành văn hóa đổi mới, sáng tạo, để xã hội ngày càng tôn trọng khoa học và có tư duy sáng tạo là biện pháp mang tính chiến lược, góp phần phát huy nguồn sức mạnh của nhân dân trong cách mạng.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan Triển lãm quốc tế đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2023 (VIIE 2023). (Ảnh: TTXVN)

Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn khoa học, kỹ thuật phát triển thì con người là nhân tố quyết định. Để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ, “dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp”, cần phải ra sức phát triển nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật.

Trước hết, Người yêu cầu phải có chính sách giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp để nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ trí thức cách mạng nói chung và trí thức khoa học, kỹ thuật nói riêng. Chỉ một tuần sau khi đất nước giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ và kêu gọi toàn dân xóa nạn mù chữ. Người chú trọng đào tạo tri thức khoa học, kỹ thuật cho thế hệ trẻ. Trong Bài nói tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam (tháng 5/1963), Người căn dặn: “Hội còn có nhiệm vụ dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học, kỹ thuật, làm cho các cháu ngay từ thuở nhỏ đã biết yêu khoa học, để mai sau các cháu trở thành những người có thói quen sinh hoạt và làm việc theo khoa học”(9). Người nhấn mạnh việc xây dựng hệ thống các trường đại học và trường trung học chuyên nghiệp và có sự “phối hợp chặt chẽ với các ngành, các địa phương, đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ, tập trung cũng như tại chức”(10), nhằm đào tạo lực lượng khoa học, kỹ thuật chuyên nghiệp. Với sự quan tâm, sâu sát của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật của chế độ mới từng bước hình thành và lớn mạnh, bao gồm lực lượng của toàn dân, nguồn nhân lực trong tương lai và lực lượng hoạt động khoa học, kỹ thuật chuyên nghiệp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý, trong quá trình xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật, bên cạnh việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ khoa học và kỹ thuật, việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong cũng cần hết sức coi trọng. Theo Người, một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức, tuy nhiên, đó mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để trở thành trí thức, bởi một người có trình độ học vấn cao chỉ có thể trở thành trí thức khi người đó đem tri thức của mình áp dụng vào hoạt động lao động, sáng tạo, áp dụng vào thực tiễn sản xuất, để phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân. Với người trí thức, trong đó có trí thức khoa học, kỹ thuật, thì tài phải đi đôi với đức, trong đó đức là gốc, bởi: “Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”(11).

Trong bối cảnh hiện nay, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo phát triển toàn diện, cả đức và tài vẫn mang tính thời sự. Thực tiễn cho thấy, phẩm chất đạo đức trong sáng, tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân, lòng tự tôn, tự trọng thực sự là nền tảng, là động lực để tài năng của đội ngũ trí thức khoa học, công nghệ phát triển và để tài năng không trở thành “vô dụng” đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm cảnh báo.

Ngoài việc trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật của chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trọng dụng các trí thức tài năng, đức độ mà chế độ cũ để lại, đặc biệt là coi trọng việc thu hút lực lượng trí thức Việt Nam ở nước ngoài. Với tinh thần “kiến thiết thì phải có nhân tài”, năm 1946, khi sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau (Phông-ten-nơ-blô) với tư cách thượng khách của Chính phủ Pháp, Người đã gặp gỡ, tiếp xúc, dùng đại nghĩa dân tộc và uy tín cá nhân để kêu gọi nhiều trí thức Việt Nam ở Pháp trở về nước phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, trong đó có kỹ sư Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa), Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh và bác sĩ Trần Hữu Tước. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thêm nhiều trí thức Việt Nam ở nước ngoài cũng lần lượt về nước tham gia kháng chiến, như Nguyễn Khắc Viện, Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, Lê Văn Thiêm, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ… Những trí thức đó được chính quyền cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trọng dụng đã thể hiện được tài năng, góp phần làm nên những thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Đây là bài học lớn cần được tiếp tục được quán triệt trong bối cảnh hiện nay.

Một điều đặc biệt thể hiện tầm nhìn vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là ngay từ giữa thập niên 40 của thế kỷ XX, Người đã đặt vấn đề mời các chuyên gia khoa học, giáo dục nước ngoài sang Việt Nam làm việc và mở các cơ quan khoa học nước ngoài ở Việt Nam. Theo tinh thần đó, Tạm ước Việt - Pháp (ngày 14/9/1946) ghi rõ: “Những trường học Pháp các cấp sẽ được tự do mở trên đất Việt Nam. Những trường ấy sẽ theo chương trình học chính thức của Pháp… Những trường ấy sẽ mở rộng cho cả học sinh Việt Nam. Những kiều dân Pháp sẽ được tự do nghiên cứu khoa học và mở những viện khoa học trên đất Việt Nam”, mặt khác, “những kiều dân Việt Nam cũng được hưởng đặc quyền ấy ở Pháp”(12). Đây thực sự là biện pháp có ý nghĩa, góp phần phát triển nhân lực khoa học, công nghệ của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay.

Thứ ba, xây dựng các thể chế, thiết chế khoa học, giáo dục.

Cùng với quan điểm về phát triển nhân lực khoa học, kỹ thuật, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng các thể chế, thiết chế khoa học, giáo dục, bởi đây là biện pháp quan trọng để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ.

Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 44/SL, thành lập Hội đồng cố vấn học chính, gồm hơn 30 thành viên là những nhà quản lý giáo dục, giáo giới, trong các đoàn thể chính trị, đại diện phụ huynh học sinh, để (i) nghiên cứu một chương trình cải cách các nền học của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; (ii) theo dõi sự thực hành bản chương trình ấy khi đã được Hội đồng Chính phủ duyệt y, đề nghị những điều sửa đổi cho phù hợp với tình hình trong nước. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc gia Giáo dục đã tổ chức khai giảng các trường phổ thông trong cả nước vào tháng 9-1945. Về giáo dục đại học, Hội đồng Chính phủ dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định việc tiếp thu cơ sở của Đại học Đông Dương, kế thừa và cải tổ các trường đại học và cao đẳng đã có, thành lập thêm một số trường mới, dùng tiếng Việt để giảng dạy ngay từ niên khóa 1945 - 1946. Đáng chú ý là cũng vào ngày 10-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 43/SL nhằm thiết lập cho trường Đại học Việt Nam một quỹ tự trị, trong đó thâu gồm các tiền trợ cấp của Chính phủ hay của các địa phương, và có pháp nhân tư cách để thân nhận những động sản hoặc bất động sản của tư nhân quyên cho. Việc quản trị quỹ do một Hội đồng quản trị gồm có ông Giám đốc Đại học vụ làm Chủ tịch, ông Đổng lý Văn phòng Bộ Quốc gia giáo dục - ông Phó Giám đốc Đại học vụ, các ông giám đốc các trường đại học và mỗi trường một đại biểu, giáo sư cùng đại biểu của sinh viên, và 3 vị thân hào trong nước. Chủ trương thành lập Quỹ tự trị và cách thức quản trị Quỹ như trên cho thấy tư duy vượt trước thời đại của Người. Hiện nay, việc thành lập các quỹ phát triển khoa học và công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm,… ở Việt Nam nhằm huy động nguồn lực cho phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo mới từng bước hình thành, đạt được những kết quả bước đầu còn khiêm tốn, càng cho thấy, những quan điểm đúng đắn và vượt thời gian của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng các thể chế, thiết chế khoa học, giáo dục hàm chứa nhiều giá trị, tiếp tục cần được đi sâu nghiên cứu và vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

Các nhà khoa học hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học tại Khoa Công nghệ dược, Trường Đại học Dược Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)

Thứ tư, tăng cường trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với hoạt động đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ.

Để các hoạt động đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát huy tối đa vai trò trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, vai trò quản lý của Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “trong công cuộc xây dựng nước nhà, việc quản lý… là cực kỳ quan trọng. Nếu quản lý không chặt chẽ, thì cái gì thiếu không biết, cái gì thừa không hay, công việc sẽ bị bế tắc”(13).

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trách nhiệm của Nhà nước thể hiện ở việc hoạch định chiến lược phát triển đất nước, ở việc lập và tổ chức triển khai những kế hoạch cụ thể nhằm từng bước phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ làm cho nước giàu, dân mạnh và cải thiện mọi mặt đời sống của nhân dân. Người nhấn mạnh: “Kế hoạch không nên sụt lại sau, nhưng cũng không nên chạy quá trước sự phát triển của công nghệ, không nên xa rời nông nghiệp, không nên quên lãng sức tiết kiệm của ta. Nền tảng phát triển công nghệ phải dựa trên sự cần thiết cho thị trường trong nước, trước hết là thị trường của nông dân, và dựa trên phạm vi của cải của ta. Đó là nền tảng để liên hệ công nghệ với kinh tế của nông dân”; rằng kế hoạch cần bám sát điều kiện thực tế của đất nước, với các nguồn lực có thể huy động, với thế mạnh của một nước có tiềm năng phát triển nông nghiệp. “Có người theo ảo tưởng của mình mà định kế hoạch, chứ không nghĩ đến vốn liếng. Họ quên rằng: Nếu không có một số vốn tối thiểu, không có một số tiền hậu bị tối thiểu, thì chẳng những không đạt được kế hoạch công nghệ nào, mà cũng không xây dựng được những xí nghiệp “to lớn bao la””(14). Tóm lại, xuất phát từ đặc điểm của đất nước ta là “một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, nên kế hoạch phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ phải “liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp, không xa rời sức tiết kiệm và ǎn khớp với vốn liếng và sức hậu bị của ta - thì công nghệ mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của nó là lãnh đạo và cải tạo kinh tế quốc dân”(15). Điều cần nhấn mạnh ở đây là, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan trọng không chỉ nằm ở kế hoạch, mà còn thuộc khâu tổ chức thực hiện: Kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo thực hiện sát sao phải 30 phần. Có như thế mới chắc chắn hoàn thành tốt kế hoạch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến vấn đề cán bộ. Theo Người, cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực khoa học, kỹ thuật phải bám sát thực tế điều hành, phải hiểu rõ tình hình thực tiễn, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, nắm bắt được nhu cầu của quần chúng, trong đó có nhu cầu đối với khoa học, kỹ thuật. Người căn dặn: “Các đồng chí phải đi xuống tận các xí nghiệp, các hợp tác xã, hỏi han công nhân, nông dân yêu cầu gì, họ làm ăn và sinh sống như thế nào và phổ biến những điều cần thiết giúp đỡ họ cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống”(16). Khoa học, kỹ thuật biến đổi rất nhanh chóng, muốn làm tốt công tác quản lý khoa học, kỹ thuật, phải đấu tranh không khoan nhượng với thái độ bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, đố kỵ nhân tài, kìm hãm người giỏi, “đạo vị” của những người có năng lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cán bộ quản lý lĩnh vực khoa học, kỹ thuật phải yêu mến nhân tài, bảo vệ nhân tài, trọng dụng nhân tài, có gan tiến cử nhân tài. Người nhấn mạnh, đối với cán bộ quản lý khoa học và kỹ thuật vấn đề không chỉ là phương pháp, mà quan trọng hơn còn là đạo đức và thái độ ứng xử. Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn ra vai trò của quản trị quốc gia đối với phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ, đổi mới, sáng tạo và quan điểm đó có nhiều giá trị gợi mở trong bối cảnh đất nước hiện nay.

Thứ năm, mở rộng giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế là để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp các nước trên thế giới và sâu xa hơn, đó là đặt chiến lược phát triển đất nước gắn liền với những chuyển biến mang tính thời đại. Người cho rằng, giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học, kỹ thuật có quan hệ và ảnh hưởng qua lại, là điều kiện quan trọng để bảo đảm thắng lợi của công cuộc kiến thiết đất nước. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, trong bối cảnh thù trong giặc ngoài câu kết với nhau chống phá cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn “trước sau như một”, tỏ rõ thiện chí Việt Nam sẵn sàng quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước trên thế giới, nhất là trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật. Người đưa ra lời đề nghị các nước bạn hợp tác giúp đỡ, trong đó có giúp đỡ về khoa học, kỹ thuật công nghệ và ta phải khéo tranh thủ sự giúp đỡ ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả nǎng của ta. Trong Lời kêu gọi gửi tới Liên hợp quốc năm 1946, Người nêu rõ: Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý, nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối không được ỷ lại, trông chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà phải không ngừng tự lực cánh sinh. Người yêu cầu Chính phủ phải có những chính sách cụ thể, khả thi để thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học nước ngoài đến Việt Nam cộng tác, làm việc. Người nhấn mạnh, cần “mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia”(17), nhằm khuyến khích các đối tác nước ngoài hợp tác trên những lĩnh vực mà Việt Nam còn yếu, chưa có điều kiện khai thác, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước ta. Trong hợp tác quốc tế về khoa học, kỹ thuật, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý thêm, không bằng mọi giá, mà phải trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, các bên cùng có lợi.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ là một hệ thống quan điểm mang nhiều giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với tầm nhìn vượt thời gian. Đổi mới, sáng tạo, phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ là điều kiện mang tính then chốt để giải phóng dân tộc, đưa nhân dân ta nhanh chóng “vĩnh viễn thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu”. Đó là con đường đúng đắn đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền công - nông nghiệp hiện đại. Tư tưởng đó càng có ý nghĩa thời sự trong bối cảnh Việt Nam đang tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc./.