Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

 TCCS - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao sự cần thiết và vai trò của việc nêu gương đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Nêu gương được Người coi là một trong những cách thức quan trọng để cán bộ, đảng viên phát huy trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân. Tư tưởng đó của Người có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhất là trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng giai đoạn hiện nay.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm với nhân dân tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Phủ Chủ tịch_Ảnh: TTXVN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nêu gương của cán bộ, đảng viên

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về việc nêu gương, gương mẫu, nói đi đôi với làm... Điều đó được minh chứng trong cả cuộc đời của Người.

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn gương mẫu đi đầu. Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” (năm 1927), Người nêu ra 23 điều về “Tư cách một người cách mệnh”, trong đó có điều: “Nói thì phải làm”. Người còn nhấn mạnh: “Cán bộ xung trước,/Làng nước theo sau,/Việc khó đến đâu,/Cũng làm được hết(1).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương trước hết là phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt, nhất là nêu gương về đạo đức, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là phẩm chất đạo đức cách mạng chủ yếu, là nhân cách của con người. Theo Người, kẻ thù của lòng chí công vô tư chính là chủ nghĩa cá nhân, chỉ muốn tự tư tự lợi, chỉ thấy lợi ích riêng của mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, của đất nước. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, hình thành phẩm chất đạo đức đúng đắn, để “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”(2).

Thứ hai, cần nêu gương trên ba mối quan hệ: với mình, với người, với việc. Đối với mình, người cán bộ, đảng viên không được tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, mà phải luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân, phải tự phê bình như rửa mặt hằng ngày. Đối với người, cán bộ, đảng viên luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào, cán bộ, đảng viên cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng” (đặt việc công lên trên, lên trước việc tư).

Thứ ba, muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là một tấm gương đạo đức mẫu mực cho mọi người học tập và noi theo. Ở Người đã đạt tới sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo đức và nêu gương, đạt tới sự nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức vĩ nhân và đạo đức đời thường, địa vị càng cao, uy tín càng lớn, ra sức hoàn thiện, trở thành tấm gương đạo đức trọn vẹn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “... một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(3). Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, theo yêu cầu của Người, là những người ưu tú nhất trong nhân dân, lời nói phải đi đôi với việc làm để nêu gương cho quần chúng nhân dân noi theo. Nói đi đôi với làm là sự nêu gương tốt của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với cấp dưới, của cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân... 

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành... Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được, ta phải: Quyết tâm, tín tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất là các đồng chí phải thành công”(4).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(5). Tự mình phải “chính” trước mới giúp người khác chính. Mình không “chính”, mà muốn người khác “chính” là vô lý.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đối với cán bộ, đảng viên, thì sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo đức và nêu gương cần đạt tới sự nhất quán trong công việc và trong đời sống riêng, giữa đạo đức của người lãnh đạo và đạo đức đời thường. Địa vị càng cao càng phải ra sức hoàn thiện về đạo đức, thống nhất giữa nói và làm. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống; trong mọi lúc, mọi nơi, nói đi đôi với làm để quần chúng nhân dân noi theo. Việc nói đi đôi với làm mang lại cho quần chúng nhân dân lòng tin và sự tôn trọng đối với người cán bộ; do đó, người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của mình. Người phê phán những cán bộ “chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”(6). Nhân dân không bao giờ tin cậy cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đằng làm một nẻo. Muốn rèn luyện được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải thường xuyên tự kiểm điểm, soi xét chính mình; đồng thời, phải khuyến khích cấp dưới và quần chúng nhân dân nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về những điều đã hứa. Người cán bộ cũng phải biết tránh căn bệnh hình thức, bệnh “hữu danh, vô thực”, chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài.

Cán bộ, đảng viên tự tu dưỡng hằng ngày để trở thành con người có đời tư trong sáng, là tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó mà noi theo; qua đó, mà làm tăng những điều đúng, điều thiện, chống thói hư, tật xấu.

Thứ tư, để giáo dục bằng nêu gương đạt hiệu quả cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”(7).

Trong các nội dung nêu gương, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nêu gương về tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa rằng, “dân là chủ”, “dân làm chủ” và “cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân”(8). Do đó, cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước nhân dân cả về lời nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu đựng gian khổ, quan tâm và tìm mọi cách giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhu cầu mà nhân dân đặt ra, kể cả chấp nhận sự hy sinh để bảo vệ nhân dân, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng đạo đức ấy đã tạo nên một phong cách nêu gương, tự giác gương mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người lãnh tụ kính yêu của cách mạng Việt Nam, người suốt đời phấn đấu, hy sinh vì đất nước, vì dân tộc, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị; vì vậy, cả cuộc đời Người là một tấm gương lớn cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi noi theo.

Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, là một phương thức lãnh đạo của Đảng ta. Các cấp ủy, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương phải nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.

Nêu gương bằng những việc làm, hành động cụ thể hằng ngày, với phương châm “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau”, “học tập đi đôi với làm theo Bác”. Đề cao vai trò, trách nhiệm tiên phong, gương mẫu với nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cương vị càng cao càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để nhân dân noi theo; phải thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng đúng đắn, phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thực sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể...

Nêu gương là đề cao “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, nâng cao tính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực; đồng thời, khuyến khích, cổ vũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của nhân dân, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh.

Đảng ta luôn coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Sự nêu gương của cán bộ, đảng viên có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều quy định về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên(9). Mới đây nhất, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, về “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” tiếp tục khẳng định vai trò, trách nhiệm gương mẫu, đi đầu của cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên có những chuyển biến tích cực, thể hiện qua các mặt sau:

Về tư tưởng chính trị, đa số cán bộ, đảng viên giữ vững lập trường tư tưởng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào sự lãnh đạo, đường lối đổi mới của Đảng; gương mẫu trong việc thực hiện, tuyên truyền và bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên đã nhận thức đầy đủ hơn tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; bước đầu có chuyển biến rõ rệt trong nhận diện và tham gia đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để tự soi, tự sửa.

Về đạo đức, lối sống, nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, đã tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện các bộ quy tắc, chuẩn mực đạo đức công vụ gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị; qua đó, tạo được sự chuyển biến bước đầu trong nhận thức và nêu cao tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có thái độ chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; có tác phong sâu sát thực tế, gần gũi với cấp dưới, với nhân dân; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí... Việc thực hiện các quy định về nếp sống văn minh, văn hóa công sở... có nhiều tiến bộ.

Về tự phê bình và phê bình, nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu đã gương mẫu thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần xây dựng, cầu thị, tự giác. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đã có chuyển biến tích cực, từng bước khắc phục tình trạng độc đoán, chuyên quyền hoặc dân chủ hình thức. Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình, đã xác định rõ hơn trách nhiệm của từng cá nhân trong khuyết điểm của tập thể.

Về quan hệ với nhân dân, nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, đã sâu sát cơ sở, gần dân, sát dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để có hướng xử lý phù hợp. Một số cấp ủy và chính quyền đã có cách làm hiệu quả, như tổ chức đối thoại trực tiếp giữa lãnh đạo cấp ủy - chính quyền với nhân dân, để kịp thời lắng nghe những vấn đề phát sinh từ cơ sở; công bố số điện thoại đường dây nóng, số điện thoại cơ quan, đơn vị để nhân dân phản ánh kịp thời về tinh thần trách nhiệm, thái độ thực thi nhiệm vụ và phục vụ nhân dân... Qua đó, vừa nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tiếp thu được ý kiến của nhân dân, giải quyết các vụ việc bức xúc, phức tạp, vừa kịp thời chấn chỉnh thái độ, phong cách giao tiếp, phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên; góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, đảng viên.

Về trách nhiệm trong công tác, một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp đã nêu gương về đổi mới tư duy, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận nhiệm vụ do tổ chức phân công. Thực thi công vụ bảo đảm nguyên tắc, kỷ cương, hoàn thiện các quy trình, đổi mới cách làm, tận tụy với công việc; xây dựng và thực hiện các quy chế, quy ước, đạo đức công vụ, nhất là về thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí.

Về ý thức tổ chức, kỷ luật, đa số cán bộ, đảng viên gương mẫu chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết và các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật trong chi bộ, cơ quan, đơn vị. Tuân thủ sự phân công, điều động của tổ chức; gương mẫu thực hiện chế độ sinh hoạt đảng và các nội quy, quy chế của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Về đoàn kết nội bộ, ở nhiều nơi, cán bộ, đảng viên đã tích cực tham gia xây dựng đoàn kết nội bộ trong tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhiều cán bộ chủ chốt là tấm gương trong đoàn kết, tạo môi trường làm việc dân chủ, hợp tác và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; tích cực đấu tranh chống các biểu hiện chia rẽ, cục bộ, bè phái, ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị và khi phát hiện có dấu hiệu mất đoàn kết nội bộ, người đứng đầu đã chủ động gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu, nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý kịp thời.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên cũng còn hạn chế, khuyết điểm:

Một là, một số cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu, thậm chí cả Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, cán bộ chủ chốt chưa thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung chủ yếu vào đảng viên có chức vụ. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt thiếu gương mẫu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong, với các biểu hiện, như nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, trục lợi; lạm dụng tài sản công (công quỹ, xe công, nhà công vụ...); lãng phí trong công tác và sinh hoạt, tiêu dùng xa xỉ, tiệc tùng xa hoa; thiếu minh bạch trong kê khai tài sản, thu nhập; lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong công tác cán bộ; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, không thực sự sâu sát cơ sở, chưa kịp thời nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ diễn ra ở một số cơ quan, đơn vị chưa được giải quyết kịp thời, vẫn còn cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo chủ chốt, ngại khó khăn, gian khổ, không sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi được tổ chức phân công. Một số cán bộ, trong đó có cả cán bộ cao cấp đã vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, vẫn còn tình trạng vi phạm quy chế làm việc của cấp ủy; thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình còn mang nặng tính hình thức, chưa thực sự phát huy hết vai trò, trách nhiệm nêu gương. Tinh thần, trách nhiệm của nhiều cán bộ, đảng viên trong tự phê bình và phê bình chưa cao, chưa mạnh dạn, chưa thẳng thắn, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, né tránh không nhận khuyết điểm, sai phạm của mình. Trong đấu tranh còn có biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm, ngại góp ý với đồng chí, đồng nghiệp, nhất là khi phê bình người đứng đầu; có nơi, có lúc vẫn còn tình trạng lợi dụng phê bình để xu nịnh, lấy lòng, thổi phồng thành tích hoặc nói xấu, cường điệu khuyết điểm, hạ thấp uy tín của nhau.

Ba là, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định nêu gương của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thường xuyên, nghiêm túc, chủ yếu lồng ghép với kiểm tra, giám sát các nghị quyết, quy định, chỉ thị khác. Nhiều vi phạm của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, chủ yếu do cấp trên kiểm tra, giám sát phát hiện hoặc do đơn, thư tố cáo, phản ánh, kiến nghị, góp ý của đảng viên, nhân dân và báo chí. Việc xử lý vi phạm ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm, tính răn đe chưa cao.

Bốn là, công tác sơ kết, đánh giá việc thực hiện quy định nêu gương còn nhiều hạn chế. Hằng năm, không có báo cáo riêng về thực hiện trách nhiệm nêu gương. Việc phát hiện, xây dựng gương người tốt, việc tốt và tổng kết mô hình mới, cách làm hay để nhân rộng và biểu dương, khen thưởng chưa được kịp thời.

Cán bộ, công chức ngành kiểm sát với đồng bào xã Húc Động, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh_Nguồn: baovephapluat.vn

Giải pháp nâng cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Để phát huy trách nhiệm tự giác, tích cực nêu gương của cán bộ, đảng viên trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức chính trị, ý thức trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự ý thức trách nhiệm nêu gương của mình; phải nhận thức rằng, nếu cán bộ, đảng viên mà không nêu gương thì không còn xứng đáng là cán bộ, đảng viên nữa.

Thứ hai, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm nêu gương trước quần chúng nhân dân; từ đó, nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo, làm nên lịch sử, là nguồn lực, là sức mạnh của Đảng. Nhân dân là đối tượng lãnh đạo, quản lý, nhưng dân là chủ và dân làm chủ. Cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân, trước hết phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, suốt đời phấn đấu vì tự do, hạnh phúc, lợi ích chính đáng của nhân dân.

Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương thực hiện tốt đường lối nhân dân của Đảng, trước hết là phải thường xuyên quán triệt mục tiêu, lý tưởng của Đảng là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc đem lại lợi ích cho nhân dân.

Để nâng cao ý thức trách nhiệm với nhân dân, điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình; phải làm tốt, xử lý hài hòa mối quan hệ với nhân dân theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Khắc phục những tác động tiêu cực của mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế. Tổ chức đảng, cơ quan quản lý nhà nước phải có quy định cụ thể, lấy tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân làm thước đo chuẩn mực đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên.

Thứ ba, nâng cao ý thức trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Lẽ tự nhiên là sự lớn mạnh của Đảng, sức mạnh của Đảng nằm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất và năng lực, có đức, có tài, có trách nhiệm nêu gương và sự nhiệt tình, tâm huyết trong công tác xây dựng Đảng. Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên là tích cực tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nhưng để trách nhiệm nêu gương đó được thực hiện tốt thì cần có sự chuyển động từ hai phía: cán bộ, đảng viên và cấp ủy.

Với cấp ủy, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong tổ chức đảng, tổ chức tốt việc tự phê bình và phê bình như lời căn dặn của Bác Hồ. Cán bộ lãnh đạo các cấp thực sự gương mẫu, tôn trọng nguyên tắc sinh hoạt đảng, tôn trọng tập thể, lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên... Có như vậy, tính tích cực, tự giác trong mỗi cán bộ, đảng viên mới được phát huy mạnh mẽ.

Với cán bộ, đảng viên, phải tích cực học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn; tham gia vào các quá trình xây dựng đường lối chính trị; góp phần quán triệt, triển khai đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong nhân dân; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ tư, nâng cao ý thức trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên đối với cộng đồng, gia đình, xã hội. Trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, việc xác định rõ, nêu cao ý thức trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên trước gia đình, cộng đồng, Tổ quốc là rất quan trọng để phát huy tính tích cực của họ; đồng thời, hạn chế tác động tiêu cực từ những nhân tố khách quan đó.

Duy trì và tự giác thực hiện các giá trị truyền thống tốt đẹp, các chuẩn mực đạo đức trong gia đình, có lối sống mực thước, nêu gương trong học tập, lao động, sản xuất, công tác; người trên làm gương cho người dưới, thế hệ trước làm gương cho thế hệ sau, cán bộ, đảng viên nêu gương trước quần chúng là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Phải luôn luôn đoàn kết, tôn trọng và bảo vệ cộng đồng; phát huy và bảo vệ tập quán, truyền thống tốt đẹp; có ý thức cộng đồng, ý thức về cội nguồn, đạo lý uống nước nhớ nguồn; tôn trọng quy tắc ứng xử của cộng đồng; lên án hành vi xâm hại lợi ích chung của cộng đồng, gây phương hại đến lợi ích của các thành viên trong cộng đồng.

Thứ năm, xác định rõ trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên trên vị trí công tác. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc xây dựng phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống qua xác định trách nhiệm chung với Tổ quốc, dân tộc, nhân dân, Đảng, Nhà nước, cộng đồng xã hội, gia đình chỉ có hiệu quả khi xác định rõ trách nhiệm nêu gương cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên. Để mỗi người đều thấy rõ trách nhiệm của chính mình, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự rèn luyện đạo đức cách mạng, coi đó là nhiệm vụ không thể thoái thác, tự thân... cần xác định rõ nghĩa vụ và quyền lợi trên mỗi cương vị công tác. Đó là trách nhiệm của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể.

Phẩm chất chính trị, đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên được thể hiện trong sự tôn trọng bản thân, thể hiện trong các mối quan hệ với chính mình, với người và với việc. Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của mỗi người thể hiện qua trách nhiệm với công việc được giao. Mọi công việc phải được làm cho đến nơi đến chốn, làm cho kỳ được với tinh thần “việc thiện thì nhỏ mấy, khó mấy cũng nên làm; việc ác thì nhỏ mấy cũng phải tránh”./.

-------------------------


PHỔ BIẾN NỘI DUNG CUỐN SÁCH VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CỦA TỔNG BÍ THƯ TỚI TOÀN QUÂN

 Sáng 4/7, tại Hà Nội, Thường vụ Quân ủy Trung ương tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn quân phổ biến, học tập một số nội dung cuốn sách "Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Hội nghị nhằm tuyên truyền rộng rãi những nội dung cơ bản của cuốn sách đến cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân.
Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì Hội nghị. Cùng dự có các Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương: Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hoạt động góp phần giúp cán bộ, đảng viên và quần chúng, nhất là cán bộ chủ trì các cấp nắm chắc những nội dung cơ bản, cốt lõi của cuốn sách; nâng cao nhận thức có hệ thống về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Thông qua nghiên cứu, học tập, các cơ quan, đơn vị kịp thời cụ thể hóa, vận dụng sáng tạo phù hợp nội dung cuốn sách với điều kiện thực tiễn, chức năng, nhiệm vụ được giao. Sau Hội nghị, cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, học tập sâu rộng tới cán bộ, đảng viên, quần chúng trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân với những hình thức phong phú, đa dạng, sáng tạo, hiệu quả, gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, Quân đội, cơ quan, đơn vị.
Giới thiệu về quá trình biên tập cuốn sách, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Trọng Lâm, Giám đốc, Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cho biết, cuốn sách "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Tạp chí Cộng sản, Thông tấn xã Việt Nam và các cơ quan liên quan tổ chức biên tập, xuất bản. Được triển khai từ tháng 3/2023, cuốn sách đã hoàn thành, ra mắt vào dịp kỷ niệm 99 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2024).
Cuốn sách gồm 928 trang, tuyển chọn 92 bài viết, bài phát biểu, bài nói, lược ghi, trả lời phỏng vấn, thư... của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, trong đó bài viết sớm nhất là năm 1968. Nội dung các bài phát biểu, bài viết thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Tổng Bí thư đối với việc xây dựng, giữ gìn, phát triển nền văn hóa Việt Nam với các yếu tố truyền thống và hiện đại, bản sắc và hội nhập; tạo nguồn lực nội sinh, huy động sức mạnh của văn hóa, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Tại Hội nghị, Đại tá, Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương kiêm Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Phê bình lý luận văn học nghệ thuật Trung ương đã giới thiệu một số nội dung cơ bản của cuốn sách.
Theo đó, nội dung cuốn sách gồm ba phần. Phần thứ nhất "Văn hóa là hồn cốt của dân tộc", gồm 19 bài phát biểu, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng; Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị công tác tư tưởng - văn hóa toàn quốc, Hội nghị Tuyên giáo toàn quốc... Bằng những lập luận thuyết phục, dẫn chứng sinh động, Tổng bí thư đã lý giải cụ thể nội hàm của khái niệm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phân tích vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; mục tiêu, nhiệm vụ, định hướng giải pháp để phát huy đầy đủ, toàn diện giá trị văn hóa.
Phần thứ hai của cuốn sách: "Phát triển toàn diện, đồng bộ để văn hóa thật sự là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước bền vững", tuyển chọn 73 bài phát biểu, bài viết, thư của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với các lĩnh vực văn hóa cũng như quá trình xây dựng, phát triển của các cơ quan văn hóa. Với thực tiễn phong phú, tư duy lý luận sắc bén, sự am hiểu sâu sắc về đặc trưng của từng loại hình văn hóa, đồng chí đã có những chỉ đạo toàn diện đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật; giáo dục, đào tạo; khoa học, công nghệ; báo chí, xuất bản...
Trong phần thứ ba "Từ luận điểm văn hóa của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thực tiễn cuộc sống", độc giả được tiếp cận với 32 bài viết, trả lời phỏng vấn của các cán bộ, đảng viên và nhân dân trong nghiên cứu, học tập và triển khai, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, gắn với xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam.
Bên cạnh đó, cuốn sách còn bao gồm hơn 90 bức ảnh tư liệu quý, ghi lại những hình ảnh của Tổng Bí thư trong các hoạt động văn hóa, hội nghị văn hóa; các chuyến đi thăm, làm việc với các địa phương; các cuộc làm việc với các cơ quan, đơn vị trong ngành Văn hóa; các buổi gặp gỡ văn nghệ sĩ, trí thức trên mọi miền Tổ quốc.../.
St

TIẾP TỤC KHẲNG ĐỊNH, PHÁT HUY HỆ GIÁ TRỊ VĂN HÓA BỘ ĐỘI CỤ HỒ

 Bộ đội Cụ Hồ là sản phẩm chính trị, đạo đức, văn hóa, mang ý nghĩa nhân dân sâu sắc, được chính nhân dân cảm nhận, đúc kết, khẳng định và truyền tụng, đồng thời có cội nguồn sâu xa từ lịch sử đặc biệt của dân tộc.

Đó là di sản, là sản phẩm, là tài sản tinh thần vô giá chứa đựng những giá trị văn hóa cao đẹp, bền vững, đồng thời mang tính độc đáo của lịch sử dân tộc. Vì vậy, chắc chắn rằng, cùng với những di sản văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được khẳng định là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ xứng đáng là Di sản văn hóa phi vật thể rất độc đáo của văn hóa Việt Nam hiện đại.
Tiếp tục tạo sức sống mới cho hệ giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ
Sự xuất hiện của Bộ đội Cụ Hồ trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc ta đã trải qua 80 năm. Thời gian đó so với lịch sử dân tộc không dài, song chỉ bằng thời gian đó, hình tượng Bộ đội Cụ Hồ đã đi vào lịch sử, đi vào đời sống đất nước, đi vào lòng dân và đời sống cộng đồng một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn, trở thành một trong những giá trị văn hóa tiêu biểu của thời đại mới.
Những đặc trưng của kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ trở thành một hệ giá trị văn hóa thống nhất, được nhân dân xác định, đồng thuận, ngợi ca. 80 năm qua, biết bao thế hệ người mẹ, người cha đã tin tưởng gửi con em mình vào Quân đội để tuổi trẻ trở thành chiến sĩ cách mạng được mang danh hiệu đầy khiêm tốn mà kiêu hãnh, tự hào: Bộ đội Cụ Hồ.
Với ý nghĩa đó, có 3 vấn đề lớn đặt ra trong hiện tại và tương lai, đó là tiếp tục phát huy, phát triển và khẳng định giá trị văn hóa này, để nó có sức sống ngày càng bền vững, trở thành chuẩn mực văn hóa cho các thế hệ chiến sĩ và góp phần làm giàu có, phong phú cho các di sản, tài sản văn hóa của dân tộc ta. Cũng có ý kiến cho rằng, hình tượng, kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ trong hai phần trên cho phép chúng ta khẳng định rằng, kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử đấu tranh, trong truyền thống văn hóa lâu đời và độc đáo của dân tộc ta.
Vì vậy, từ cội nguồn dân tộc và nhân dân, nó có sức sống bền vững, phải được bảo vệ, củng cố và phát triển trong thời gian tới. Mặt khác, từ yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn mới, theo mục tiêu cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, việc tập trung mọi nỗ lực để tiếp tục xây dựng, nuôi dưỡng kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ trở nên tất yếu, trở thành một nội dung xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng Quân đội từ nay về sau. Tất nhiên, kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ không phải và không thể là sản phẩm tự phát mà cần một sự chuẩn bị và tiến hành công phu, khoa học, kiên trì, sáng tạo không ngừng.
Nuôi dưỡng và xây dựng nhân cách Bộ đội Cụ Hồ trong giai đoạn mới nhằm mục tiêu tạo ra những thế hệ kế tiếp nhau trở thành người quân nhân cách mạng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và bảo vệ nhân dân, góp phần xây dựng Tổ quốc Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, tạo khả năng phát triển toàn diện của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trước yêu cầu mới đó, nhiệm vụ tiếp tục phát huy, phát triển kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ phải đồng thời xử lý hai mối quan hệ cơ bản.
Quan hệ lớn bảo đảm sự thống nhất hài hòa giữa yêu cầu chung đối với con người Việt Nam thời kỳ mới và yêu cầu riêng mang tính đặc thù của người chiến sĩ trong tổ chức quân sự. Xử lý biện chứng quan hệ lớn này sẽ tạo được hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới, đồng thời chuẩn bị cho sự phát triển phẩm chất công dân theo những đòi hỏi hiện đại, khi người cán bộ, chiến sĩ xuất ngũ. Sự đổi mới toàn diện các lĩnh vực cơ bản trong hoạt động Quân đội, đặc biệt là công tác Đảng, công tác chính trị, tư tưởng-văn hóa trong Quân đội sẽ là chìa khóa giải quyết hiệu quả quan hệ trên.
Quan hệ đặc thù trong bản thân Quân đội, đó là vừa khẳng định những giá trị cốt lõi, cơ bản, dứt khoát không thể thay đổi, vừa sẵn sàng bổ sung, phát triển các nội dung mới cần có, phải có trong nhân cách Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới. Định hướng và xử lý đúng quan hệ đặc thù giúp Quân đội chủ động trong quá trình nuôi dưỡng nhân cách Bộ đội Cụ Hồ, tránh được hai khuynh hướng, hoặc là bảo thủ, cứng nhắc trong ý chí; hoặc là bị động trước tác động ngày càng phức tạp đối với tổ chức Quân đội chắc chắn sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai. Từ quan hệ này, việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa "xây" và "chống" trở thành “vũ khí” hữu hiệu để bảo vệ và phát triển nhân cách Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới.
Chú trọng “văn hóa hóa” đời sống Quân đội
Con đường và giải pháp cơ bản, bao trùm là: Trên nguyên tắc lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, làm nền tảng, cần chú trọng “văn hóa hóa” toàn bộ đời sống Quân đội.
Văn hóa hóa toàn bộ đời sống Quân đội là nuôi dưỡng và xây dựng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ thành những quân nhân có văn hóa mang phẩm chất, giá trị văn hóa, thành nhu cầu của chính mình; là sự biến đổi mọi lĩnh vực của đời sống quân nhân từ ăn, ở, mặc, huấn luyện, lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi, vui chơi, quan hệ nội bộ và quan hệ với nhân dân ở mọi lúc, mọi nơi theo các chuẩn mực văn hóa, ngày càng nỗ lực hướng tới chân-thiện-mỹ và sự hoàn thiện của nhân cách Bộ đội Cụ Hồ. Trong đó, cái gốc của văn hóa là tình yêu Tổ quốc, nhân dân, là chủ nghĩa nhân văn, tôn trọng con người dân chủ, công bằng, bình đẳng, minh bạch... tạo lập cho quân nhân một môi trường văn hóa-môi trường sống thực sự lành mạnh, tốt đẹp và phong phú. Ở đó, mỗi quân nhân được thể hiện hết mọi khả năng của mình với sự nỗ lực cao nhất trong tình thương yêu của tập thể, đồng chí, đồng đội.
Văn hóa hóa còn mang ý nghĩa sâu xa, bền chặt hơn là ở quá trình, thông qua toàn bộ hoạt động tư tưởng, chuyển những yêu cầu chính trị cơ bản: Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại thành những văn hóa thấm sâu trong nhân cách cán bộ, chiến sĩ. Có nghĩa là, các yêu cầu trên không dừng lại ở nhận thức lý thuyết khô cứng mà phải được chuyển hóa thành bản lĩnh, tình cảm, thành tố chất bên trong mỗi cán bộ, chiến sĩ. Nhân cách Bộ đội Cụ Hồ được hình thành, phát triển và dần định hình từ quá trình đó. Truyền thống Bộ đội Cụ Hồ không chỉ của quá khứ mà được hiện thực hóa, phát triển, khẳng định trong hiện tại và tương lai.
Tính bền vững, thấm sâu trong đời sống, trong tình cảm của nhân dân suốt 80 năm là đặc điểm hết sức rõ ràng của hình tượng Bộ đội Cụ Hồ. Có lẽ chưa ở đâu hình tượng đó không chỉ lan tỏa trong đời sống mà còn đi vào văn hóa, văn học, văn nghệ, tạo nên trong lịch sử văn hóa - văn nghệ Việt Nam một dòng chảy mạnh mẽ, hào sảng, trung thực, đầy sức vẫy gọi, cổ vũ con người về hình tượng người chiến sĩ “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” (Lê Anh Xuân), “Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép” (Nam Hà), “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” (Quang Dũng), “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm)... Hầu như ở tất cả loại hình văn hóa - nghệ thuật Việt Nam suốt 80 năm qua, các nghệ sĩ, chiến sĩ đều dành những tình cảm đẹp và trân trọng nhất cho việc tái hiện hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ.
Khác với nhiều hình tượng văn học - nghệ thuật do sự sáng tạo thông qua đặc trưng khám phá cuộc sống hình tượng và hư cấu, hình tượng Bộ đội Cụ Hồ là kết quả của sự đúc kết, tái hiện từ bản thân đời sống, từ nguyên mẫu Bộ đội Cụ Hồ trong hiện thực. Chính những nguyên mẫu đó đã tạo nên cảm xúc, cảm hứng sáng tạo của người chiến sĩ.
Thử nêu vài ví dụ quen thuộc trong sáng tác âm nhạc. Trong 80 năm qua, hàng loạt ca khúc đi cùng năm tháng, sống trong tình cảm sâu lắng của nhân dân đều mang âm hưởng “hành quân” của đoàn quân chiến thắng Bộ đội Cụ Hồ, như: “Cùng nhau đi hồng binh” (Đinh Nhu), “Cảm tử quân” (Hoàng Quý), “Tiến quân ca”, “Chiến sĩ Việt Nam” (Văn Cao), “Vì nhân dân quên mình” (Doãn Quang Khải), “Tiến bước dưới quân kỳ” (Doãn Nho), “Đội cận vệ bất diệt” (giao hưởng Đàm Linh), “Anh vẫn hành quân” (Huy Du), “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân” (Huy Thục), “Hành khúc ngày và đêm” (Phan Huỳnh Điểu), “Bước chân trên dải Trường Sơn” (Vũ Trọng Hối), “ Chào anh Giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng” (Hoàng Vân), “Hát mãi khúc quân hành” (Diệp Minh Tuyền)...
Danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ xứng đáng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Có thể khẳng định rằng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ có giá trị kép. Một là, bản thân danh hiệu đó là một giá trị văn hóa quân sự nói riêng và giá trị độc đáo của văn hóa Việt Nam hiện đại nói chung. Hai là, vẻ đẹp, sức hấp dẫn, lan tỏa của danh hiệu đã tạo ra một giá trị riêng của văn học - nghệ thuật Việt Nam hiện đại: Dòng văn học-nghệ thuật về LLVT và chiến tranh cách mạng mà hình tượng trung tâm là Bộ đội Cụ Hồ. Phải chăng chỉ nước ta mới có được một giá trị kép, gắn kết chặt chẽ với nhau như vậy?
Bộ đội Cụ Hồ là sản phẩm chính trị, đạo đức, văn hóa, mang ý nghĩa nhân dân sâu sắc, được chính nhân dân cảm nhận, đúc kết, khẳng định và truyền tụng, đồng thời có cội nguồn sâu xa từ lịch sử đặc biệt của dân tộc. Đó là di sản, là sản phẩm, là tài sản tinh thần vô giá chứa đựng những giá trị văn hóa cao đẹp, bền vững, đồng thời mang tính độc đáo của lịch sử dân tộc. Vì vậy, chắc chắn rằng, cùng với những di sản văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được khẳng định là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ xứng đáng là Di sản văn hóa phi vật thể rất độc đáo của văn hóa Việt Nam hiện đại.
Danh hiệu cao quý đó không chỉ là di sản của quá khứ mà là tài sản tinh thần của Quân đội ta, hôm nay và mai sau. Trong ý nghĩa đó, Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục củng cố, bảo vệ, phát huy và phát triển trong toàn bộ quá trình xây dựng từ nay về sau giá trị Bộ đội Cụ Hồ mà nhân dân, Bác Hồ và Đảng đã trao tặng./.
St

Tấm gương sáng ngời về “Học, học nữa, học mãi”

 BÁC HỒ - TẤM GƯƠNG SÁNG NGỜI VỀ “HỌC, HỌC NỮA, HỌC MÃI”


Bác Hồ, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng giáo dục, nhà sư phạm thực tiễn vĩ đại, đồng thời là một tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học.


Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập khai mạc ngày 6-5-1950, Người nói: “Lê-nin khuyên chúng ta: “Học, học nữa, học mãi”. Mỗi người phải ghi nhớ và thực hành điều đó”. Người còn cho treo trong phòng họp lời dạy của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Người coi lời dạy của Lê-nin là phương châm sống và hành động trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Cũng tại Hội nghị này, Người nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”. Người còn xác định: “Không phải có thầy thì học, không thầy đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”.


Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), khi nói về cách học tập, Người viết: “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”.

Thân phụ của Người, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy là thầy dạy chữ Hán cho Người. Nhờ chăm học và học rất giỏi, sau này Người sử dụng thành thạo chữ Hán trong sáng tác thơ Đường. Quách Mạt Nhược, nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc, đã từng nói rằng: nếu để một số bài thơ Đường trong tập Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh bên cạnh những bài thơ Đường bất hủ thì e khó mà phân biệt nổi.

Khi theo thân phụ vào Huế, Người học ở Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, rồi Trường Quốc học Huế, Người rất yêu thích học tiếng Pháp. Trong cuộc biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, Người đã từng làm phiên dịch giúp cho những người biểu tình đề đạt nguyện vọng, đấu tranh với viên Khâm sứ Pháp.


Ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911), trên tàu Latouche Tréville, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành với tên mới Văn Ba đã nêu cao ý chí tự học: “Mỗi ngày, đến 9 giờ tối công việc mới xong…, Anh mệt lử. Nhưng trong khi mọi người nghỉ hay đánh bài, anh đọc hay viết đến mười một giờ hoặc nửa đêm”.


Trong thời gian ở thị trấn Saint Adret, làm vườn cho gia đình viên chủ hãng tàu, Nguyễn Tất Thành cũng tranh thủ học tiếng Pháp. Khi gặp những từ mới, anh Thành viết vào một tờ giấy dán vào chỗ dễ thấy, có khi viết vào cánh tay để trong lúc làm việc vẫn học được. Cả khi đi đường, anh cũng nhẩm những từ mới học. Và cứ như thế, mỗi ngày, anh học thêm vài từ mới, và tìm cách ghép câu để dùng ngay. Sau đó không lâu, Nguyễn Tất Thành học cách viết báo. Anh bắt đầu viết được những bài báo ngắn với sự giúp đỡ của ông chủ bút báo “Đời sống thợ thuyền”. Sau đó, anh viết những bài báo dài hơn. Khi viết được những bài báo dài, ông chủ bút lại khuyên anh viết ngắn lại. Sau đó, Nguyễn Tất Thành nhanh chóng trở thành nhà báo có uy tín tại thủ đô nước Pháp, là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo “Le Paria” (Người cùng khổ) với nội dung đầy sức chiến đấu, lên án chủ nghĩa thực dân Pháp, đấu tranh cho quyền lợi của người lao động.


Cuối chiến tranh thế giới lần thứ nhất, từ Anh trở lại Pháp, anh Thành viết bài cho các báo, tạp chí và viết sách bằng tiếng Pháp. Những bài đăng trên các báo Le Paria, Thư tín Quốc tế, Đời sống công nhân…, đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp đã minh chứng cho sự thành công của một người tự học.


Chỉ trong một thời gian chưa đầy 10 năm sống ở Pháp, người thanh niên có chí khí ấy đã học hỏi được nhiều điều bổ ích cần thiết cho sự nghiệp cách mạng của mình. Thường thường, Nguyễn Tất Thành chỉ làm việc buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều thì đi đến thư viện hoặc dự những buổi nói chuyện chính trị. Tối đến, dự mit-tinh ở Paris.


Khi đến Liên Xô, đất nước của Lê-nin vĩ đại, làm việc ở Bộ Phương Đông, học ở Trường Quốc tế Lê-nin, nghiên cứu sinh ở Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc học và thuộc địa, anh tự học tiếng Nga thật vất vả, nhưng đã nhanh chóng thành công. Người đã viết bài đăng báo, tạp chí và đã hoàn thành chương trình học tập ở Trường Quốc tế Lê-nin.


Không dừng lại ở những ngoại ngữ đã biết, Bác Hồ của chúng ta còn nỗ lực tiếp tục học thêm một số ngoại ngữ khác. Năm 1928, khi hoạt động cách mạng tại Thái Lan, Người đã tự học thêm tiếng Thái. Mỗi ngày học 10 chữ, và chỉ sau ba tháng, Người đã xem được báo chữ Thái.


Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (1935), với bí danh Lin, khi khai lý lịch, trả lời câu hỏi về trình độ học vấn (tiểu học, trung học, đại học), Người đã ghi: Tự học. Trả lời câu hỏi: Đồng chí biết những ngoại ngữ nào? Người ghi: Anh, Pháp, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga.


Bác Hồ đến với chủ nghĩa cộng sản bằng con đường tự học. Sự tự học của Người gắn chặt với mục tiêu lý tưởng mà Người phấn đấu.

Bác luôn nhắc nhở đồng chí của mình và thế hệ trẻ phải nỗ lực học và tự học. Người ân cần dạy bảo: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.


Trong bài nói chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm, ngày 9-12-1961, Người tâm sự: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học…Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau. Chúng ta là đảng viên già, hiểu biết của chúng ta hồi 30 tuổi so với sự hiểu biết của lớp trẻ bây giờ…thì chúng mình dốt lắm. Tôi cũng dốt lắm…Nếu thế hệ già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt. Bệt là không tốt. Người ta thường nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Ta hiểu như thế, nhưng không có tư tưởng thụt lùi nạnh kẹ…”.


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng. Và chính cuộc đời của Người là tấm gương sáng ngời về tự học./.



KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN KIỂU PHẢN BIỆN QUY CHỤP

 Tự cho mình thông tuệ hơn người, một số trí thức từng có thời gian du học, làm việc ở nước ngoài đã lợi dụng hoạt động phản biện xã hội, lớn tiếng chỉ trích, bỉ bai, quy chụp... lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Đi sâu vào những luận điểm của cái gọi là “phản biện”, “hiến kế” ấy, chúng ta thấy thực chất đó chỉ là kiểu tư duy của “thầy bói xem voi”. Nó là một dạng của “căn bệnh” ảo tưởng trên không gian mạng, rất nguy hại...
Ảo tưởng bản thân và tư duy quy chụp
“ATSM” (ảo tưởng sức mạnh) là cách dùng từ của một bộ phận giới trẻ trên không gian mạng, chỉ những người thích chơi trội, thích gây chú ý để được nổi tiếng. Bám vào một chút sở trường hoặc kiến thức chuyên môn nào đó, những người “ATSM” thường lên mạng xã hội khoe mẽ, thể hiện bản thân, lên mặt dạy đời. Tuy nhiên, với không gian tương tác đa chiều, nhiều người trong số họ không thể lòe bịp thiên hạ và nhanh chóng bị “bóc phốt”.
Trên nhiều diễn đàn về tâm lý xã hội, các bác sĩ, chuyên gia tâm lý đã cảnh báo, ảo tưởng bản thân nếu không sớm được ngăn ngừa, chữa trị, sẽ rất nguy hại. Trước hết là về phía cá nhân những người này sẽ có diễn biến tâm lý phức tạp, dễ dẫn đến những dạng bệnh lý về tâm thần, hoang tưởng, trầm cảm... Về phía xã hội, biểu hiện “ATSM” làm cho môi trường văn hóa trên không gian mạng bị ảnh hưởng xấu, tác động tiêu cực đến tâm lý cộng đồng.
Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, thời gian qua cũng đã xuất hiện một số cá nhân có biểu hiện như vậy. Cá biệt trong đó có một số thành phần trí thức. Họ là người có năng lực, được đào tạo căn bản, đi du học, có thâm niên công tác trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa - nghệ thuật và đã đạt những thành tích đáng kể. Trang cá nhân của họ trên các nền tảng mạng xã hội có lượng người theo dõi, tương tác khá lớn. Chính vì vậy, khi họ bị “ATSM”, lên tiếng chỉ trích, quy chụp chính trị, sự ảnh hưởng, tác động xấu đến tâm lý cộng đồng là không hề nhỏ...
Thời gian qua, dư luận không gian mạng chú ý đến một nhân vật từng là nhà báo khá nổi tiếng và cũng không ít tai tiếng. Sau thời gian đi du học ở nước ngoài trở về nước, những năm gần đây, ông này xuất bản một số tác phẩm văn học, báo chí với những góc nhìn phiến diện, võ đoán, phủ nhận thành quả cách mạng của dân tộc. Đáng tiếc, hành động sai trái rất đáng lên án này lại nhận được sự cổ xúy, tán dương của nhiều đối tượng cực đoan, bất mãn chính trị và các thế lực thù địch.
Sự tung hô đầy toan tính này khiến ông này bị ảo tưởng, tự cho mình uyên bác hơn người. Ông liên tục thực hiện các bài viết trên mạng xã hội với nội dung ám chỉ, quy chụp, hạ thấp uy tín, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Với lối tư duy thiếu thiện chí, ông này thường lấy các mô hình quản trị xã hội của một số nước phương Tây so sánh với Việt Nam rồi lên giọng dạy đời, bỉ bai, quy chụp, cho rằng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đang “lỗi thời”, “lạc hậu”, “đi thụt lùi”... Muốn phát triển, Việt Nam cần áp dụng, học tập mô hình quản trị của các nước phương Tây.
Hiện tượng trí thức mắc hội chứng “ATSM” như trên không phải cá biệt. Sau gần 40 năm đất nước đổi mới, hội nhập, đời sống xã hội đã xuất hiện không ít hiện tượng tương tự. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ rõ các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ những hiện tượng này, đó là: “Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước...”; “... Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ xúy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan...”.
Phòng ngừa, ngăn chặn bằng cách nào?
Cần thấy rõ rằng, trong thời gian gần đây, bằng sức mạnh, hiệu quả của công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, thông qua dư luận tiến bộ và cả những biện pháp xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, những hiện tượng nêu trên đã giảm đáng kể. Có nhiều người sau khi nhận ra sai lầm đã biết ăn năn, hối cải, trở thành công dân tốt, là nhân tố tích cực được dư luận đánh giá cao trên không gian mạng. Đáng chú ý là sau khi một số đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật bị cơ quan chức năng khởi tố, bắt tạm giam, trên không gian mạng đã có nhiều ý kiến của các trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng lên tiếng bày tỏ sự đồng tình, đề nghị cơ quan chức năng phải xử lý thật nghiêm minh. Đây là những biểu hiện tích cực của dư luận xã hội, đặc biệt là dư luận trong giới tinh hoa, có tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa, tinh thần của công chúng.
Thực tế này đã góp phần khẳng định, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị do Đảng ta thực hiện đã có tác động ngày càng tích cực đến đời sống xã hội, được đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ. Chính vì vậy, việc xây dựng, nhân rộng, cổ vũ các nhân tố tích cực trong giới tinh hoa và đời sống xã hội để tạo sức mạnh văn hóa, tinh thần, cảm hóa, thức tỉnh những bộ óc đã và đang bị "ATSM" chính là giải pháp chủ yếu, căn cơ, bền vững, cần được coi trọng ngay từ cơ sở. Đó cũng chính là cách để chúng ta “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “lấy hoa thơm lấn át cỏ dại”, “lấy xây để chống”... trong việc phòng ngừa, ngăn chặn các biểu hiện lệch lạc, dao động.
Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về "Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã đánh giá: Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được nâng lên; nhận diện sâu sắc, đầy đủ hơn các biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... Nhiều tấm gương điển hình tiên tiến được nhân rộng, lan tỏa trong đời sống xã hội, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh, khách quan những cán bộ, đảng viên vi phạm... có tác dụng cảnh báo, răn đe, phòng ngừa chung...
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, bên cạnh coi trọng giáo dục, thuyết phục, cảm hóa bằng dư luận tiến bộ, phải kiên quyết xử lý nghiêm minh, làm đến nơi đến chốn những đối tượng cố tình vi phạm, vi phạm có hệ thống, gây tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.
Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh các phong trào, chương trình, kế hoạch hành động hướng đến Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Cả nước hướng đến chào mừng các ngày lễ lớn: Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024); 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024); 95 năm Ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/2025); 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 (1945-2025) và 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)...
Chuỗi sự kiện này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với đời sống văn hóa, tinh thần, là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và kiều bào yêu nước khắp nơi trên thế giới. Trong môi trường đó, chúng ta cần đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện những âm mưu lợi dụng phản biện xã hội để thực hiện các hành vi chống phá Đảng, Nhà nước bằng kiểu tư duy ám chỉ, quy chụp, thiếu thiện chí.
Khi xuất hiện các hiện tượng này, cần lấy dư luận tích cực để thuyết phục, giáo dục, cảm hóa; đồng thời sẵn sàng các biện pháp nghiêm trị, răn đe những đối tượng cố tình đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc bằng mưu đồ đen tối. Đảng, Nhà nước ta luôn sẵn sàng lắng nghe, đón nhận, tiếp thu những ý kiến đóng góp, phản biện mang tinh thần xây dựng; kiên quyết không thể chấp nhận kiểu phản biện ám chỉ, quy chụp, thiếu thiện chí./.
St

Cán bộ nữ phải tự học tập nâng cao trình độ

 CÁN BỘ NỮ PHẢI TỰ HỌC TẬP NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ


Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ I được tổ chức sau Đại hội Công đoàn toàn quốc và tôi được phân công là Trưởng Ban Ban Tổ chức Đại hội. Bác đã đến cơ quan Phụ vận Trung ương để nghe báo cáo về tình hình chuẩn bị Đại hội. Bác dặn dò phải rút kinh nghiệm Đại hội Công đoàn để tổ chức mọi mặt cho tốt hơn nữa… Bác đã góp ý với Đoàn Phụ nữ Trung ương: Các cô phải nói lên được tinh thần yêu nước của phụ nữ các tầng lớp, nói lên công lao của phụ nữ nông dân cần cù lao động sản xuất sao huy động được nhiều hơn nữa sự đóng góp của phụ nữ cả nước cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Đi đôi với động viên, các cô phải chăm lo quyền lợi thiết thực cho phụ nữ. Chỉ có phụ nữ mới chăm lo được cho phụ nữ. Các chú ấy không lo được cho các cô đâu…


Từ khi hòa bình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ II và lần thứ III và hai lần này tôi vẫn là Trưởng Ban Tổ chức Đại hội. Trong công tác phụ vận, tôi đã ghi nhận nhiều lời dạy của Bác. Bác nói về mục tiêu phấn đấu của người nữ cán bộ Hội. Bác có những ý kiến cụ thể: “Các cô phải chống phong kiến, chống mê tín dị đoan và hủ tục lạc hậu. Góp phần giải quyết nạn mù chữ, nạn thất nghiệp cho phụ nữ. Các cô đừng tự ti, đừng hay khóc. Cách mạng là phải đấu tranh, đưa nước mắt ra không giải quyết được gì đâu. Hội Phụ nữ là tổ chức đấu tranh cho quyền lợi của chị em. Cuộc sống của họ phải gắn với Hội, Hội phải lo cho họ. Các cô phải đi vào quần chúng phụ nữ để thấy họ đang gặp khó khăn gì, họ được cái gì và chưa được cái gì. Từ đó nghĩ cách học tập nâng cao trình độ, không dựa vào người khác được đâu. Đảng chỉ giúp một phần mà bản thân mình phải gỡ là chính”.


Sưu tầm.

SỰ LỰA CHỌN LỊCH SỬ

 NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH LẦN ĐẦU TIÊN ĐẾN NƯỚC NGA: SỰ LỰA CHỌN LỊCH SỬ


Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lần đầu tiên đặt chân lên nước Nga Xô viết ngày 30-6-1923 và ở lại đây đến khoảng đầu tháng 10-1924. Sau nước Pháp, nước Nga Xô viết là chặng đường quan trọng thứ hai để Nguyễn Ái Quốc hoàn thiện và củng cố vững chắc hơn những luận điểm cơ bản về con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam.


Điểm đến thứ hai có chủ đích rõ ràng nhất của Nguyễn Ái Quốc.


Khi Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã thành công. Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy đây là một biến cố lớn trong lịch sử cách mạng thế giới - lần đầu tiên nhân dân lao động có chính quyền của mình. Sự kiện lịch sử này đã có một sức lôi cuốn mạnh mẽ với Người.


Sau khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất Những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin (đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo) hai số liên liếp ngày 16 và ngày 17- 6-1920), Nguyễn Ái Quốc đã có được lời giải đáp cho câu hỏi trăn trở hàng chục năm qua của mình. Người đã thấy được cái cần thiết cho dân tộc Việt Nam - con đường giải phóng dân tộc theo tư tưởng cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy nguồn sức mạnh, chỗ dựa và sự ủng hộ (trước hết về mặt lý luận, tinh thần) để vươn tới cái đích của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong nửa cuối năm 1920, Người đã “xông vào các cuộc tranh luận” (như sau này Hồ Chí Minh kể lại) với sự giúp đỡ của các đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp, dần dần Nguyễn Ái Quốc đã có được những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin. Vấn đề đặt ra là: Con đường Cách mạng Tháng Mười, con đường cách mạng của Lênin phải được vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, một nước thuộc địa - phong kiến, như thế nào? Câu hỏi (cần được trả lời thấu đáo) đó đã dẫn đến quyết định quan trọng tiếp theo của Nguyễn Ái Quốc: Tìm cách đến nước Nga Xô viết, hoạt động trong phong trào Cộng sản quốc tế, kêu gọi mọi sự hỗ trợ cho cuộc cách mạng giải phóng ở các thuộc địa.


Những hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc với tư cách đại biểu của Đông Dương trong Đảng Cộng sản Pháp đã gây được sự chú ý với D. Manuilsky - một lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản (QTCS) khi đó - và ông đã “mở đường” cho nhà cách mạng châu Á đến Liên Xô dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Nông dân dự định sẽ diễn ra cuối mùa hè năm 1923.


Bước ngoặt trở thành nhà cách mạng “chuyên nghiệp”.


Nguyễn Ái Quốc đã dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Nông dân, khai mạc ngày 10-10-1923 và phát biểu tại hai phiên họp (phiên thứ nhất, ngày 10-10 và phiên thứ 7, ngày 13-10). Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân gồm 11 ủy viên. Trong năm 1924, ngoài việc tham dự sự kiện lớn là Đại hội lần thứ V QTCS (6-1924), Nguyễn Ái Quốc còn dự Đại hội lần thứ IV Quốc tế Cộng sản Thanh niên (6-1924), Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Cứu tế Đỏ (7-1924), Đại hội lần thứ ba Quốc tế Công hội Đỏ (7-1924), dự mit-tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (1-5), dự mit-tinh vì hòa bình thế giới (ngày 6-7-1924) tại Quảng trường Đỏ... Những bài viết của Người cũng xuất hiện thường xuyên trên nhiều báo và tạp chí: Inprekorr, L’ Humanite’, Le Paria, Rabotnhitsha, Pravda, La Vie Ouvriere... Nguyễn Ái Quốc đã hòa nhập nhanh chóng trong môi trường mới và Người đã tranh thủ tận dụng tối đa những cơ hội mình có. Trên tất cả các diễn đàn, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi sự chú ý ủng hộ (thiết thực) của những người cộng sản ở “chính quốc” cho phong trào giải phóng ở các thuộc địa. Không chỉ bày tỏ những quan điểm mạnh mẽ về vấn đề thuộc địa (bằng cả lý trí và tình cảm - như nhà thơ O-xip Man-den-xtam đã miêu tả trong một bài báo của mình), tháng 1-1924, người ta còn thấy Nguyễn Ái Quốc, với đôi bàn tay và mặt sưng đỏ vì lạnh, đến viếng và đưa tang V.I. Lênin trong những ngày giá buốt nhất của mùa đông Mátxcơva. Tình cảm của Người với Lênin dồn nén trong những bài viết ca ngợi vị lãnh tụ của Cách mạng Tháng Mười Nga như một người thầy cách mạng vĩ đại của nhân dân các nước thuộc địa và là một tấm gương đạo đức cao cả. Một bài xuất sắc trong số đó sau này được đánh giá như một “thành tựu báo chí” của Nguyễn Ái Quốc trong lần đầu đến Liên Xô là “Lênin và các dân tộc phương Đông” (đăng báo Le Paria số 27, tháng 7-1924). Cho đến cuối đời, tình cảm của Hồ Chí Minh với Lênin và đất nước của Lênin vẫn không hề thay đổi.


Trong 14 tháng ở Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ thời gian để củng cố và thiết lập thêm nhiều mối quan hệ của mình với những người cộng sản thế giới, với Quốc tế Cộng sản, tranh thủ học khóa ngắn hạn tại trường Đại học Cộng sản Phương Đông. Dù được hoạt động trong một môi trường tốt, được phát biểu trên nhiều diễn đàn, được gặp gỡ nhiều nhân vật khá quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế lúc đó, song tâm nguyện của Nguyễn Ái Quốc không phải là ở lại Liên Xô lâu dài. Đích đến (hay trở về) tiếp theo của Người là phong trào cách mạng ở Việt Nam.


Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, và chỉ một thời gian ngắn sau Người đã mở được các lớp huấn luyện cán bộ. Mong muốn thiết thực của Người khi quyết tâm ra đi từ Sài Gòn hơn 13 năm trước: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta” đã bước đầu được thực hiện thành công. Trong hơn mười năm đó, vấn đề lớn (câu hỏi) đặt ra và đã được Nguyễn Ái Quốc (trả lời) giải quyết thành công là: Cần phải đi theo con đường (thành công) của Cách mạng Tháng Mười Nga, con đường cách mạng của Lênin và Để giải phóng các dân tộc bị áp bức phải vận dụng con đường đó như thế nào trong thực tiễn cách mạng ở Việt Nam, một nước thuộc địa - phong kiến ở phương Đông. Những câu trả lời đã được thể hiện rõ trong Đường Kách mệnh - như một “giáo án” cách mạng được Người truyền đạt cho đội ngũ cán bộ trung kiên ở Quảng Châu. Những gì thu nhận được ở Liên Xô những năm 1923 - 1924 là tiền đề quan trọng để có bước đi quan trọng tiếp theo của Nguyễn Ái Quốc trên hành trình cứu nước./.

 CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

 

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở quân đội hiện nay là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của các tổ chức cơ sở đảng, nhằm không ngừng xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng trong tình hình mới. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị phải bảo đảm giữ vững và phát huy được bản chất giai cấp công nhân không chỉ trong ý thức, nhận thức, mà cả trong hành động, trong sức mạnh chiến đấu của mỗi tổ chức cơ sở đảng và trong mỗi cán bộ, đảng viên. 

 

Thực tế hiện nay cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng với sự tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường; sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ; sự tấn công của các lực lượng thù địch hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang ngày càng lộ rõ hơn tính chất gay go, quyết liệt, phức tạp trong giành giật trái tim, khối óc của con người. Cuộc đấu tranh nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội cách mạng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác chính trị, tư tưởng trong quân đội.

 

Vì hiện nay có người cho rằng, phát triển kinh tế thị trường chỉ cần tri thức, trí tuệ khoa học để cạnh tranh thắng lợi, để thu lợi nhuận ngày càng cao; rằng, để kinh tế thị trường phát triển cần gạt bỏ cản trở ý thức hệ, từ bỏ “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Về thực chất đó là sự phủ nhận chủ nghĩa xã hội để đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đây vừa là quan điểm lập trường chính trị, vừa là vấn đề nhận thức tư tưởng. Lý luận và thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng: mọi biểu hiện xa rời hoặc phủ nhận hệ tư tưởng của giai cấp công nhân nhất định dẫn tới hệ tư tưởng tư sản dù đó là tự giác hay không tự giác. Do vậy, hiện nay đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải nhận thức sâu sắc và kiên quyết đấu tranh loại trừ ảnh hưởng của quan điểm tư tưởng cơ hội, xét lại, thực dụng ra khỏi đời sống chính trị, tinh thần ở đơn vị cơ sở quân đội.

 

Cần phải nhận thức đầy đủ rằng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở quân đội là nhằm đạt tới không ngừng nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng cho mỗi cán bộ, đảng viên hướng đến nhận thức đúng đắn và sâu sắc vai trò nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng để tạo nên sự nhất trí về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là sự vững vàng, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đây chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản và chỉ có như vậy giai cấp công nhân mới thực hiện đầy đủ, trọn vẹn và thực chất mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân lao động. Hiện nay, yêu cầu phải tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong Đảng là vấn đề cốt tử giữ cho Đảng thực sự là một Đảng cách mạng chân chính, bất kỳ trong hoàn cảnh nào cũng không từ bỏ mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn, không từ bỏ nguyên tắc lãnh đạo, không dao động, mất phương hướng chính trị trong cuộc đấu tranh một mất, một còn.

 

Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng nói chung và trong Đảng bộ Quân đội nói riêng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đấu tranh có hiệu quả trước mọi biểu hiện tư tưởng, quan điểm sai trái đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cấp ủy và chỉ huy các đơn vị cơ sở quân đội phải chủ động, tích cực thực hiện đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện đầy đủ và có hiệu quả những nội dung cơ bản sau:

 

Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ quân đội, của đơn vị trong tình hình mới cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở. Đây là nội dung giáo dục cơ bản, thiết thực nhằm xây dựng thế giới quan Mác-Lênin, phương pháp luận khoa học, niềm tin cộng sản chủ nghĩa, lập trường của giai cấp công nhân; xây dựng bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên luôn kiên định, vững vàng, nhạy cảm, sắc sảo về chính trị, không bị tự diễn biến trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch hòng “phi chính trị hóa” quân đội nhằm vô hiệu hóa quân đội - công cụ sắc bén của Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thường xuyên gắn giáo dục chính trị, tư tưởng với giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là sống, lao động học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, suy đồi về đạo đức, tha hóa về lối sống dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường và các âm mưu, thủ đoạn của các lực lượng thù địch. Cần coi trọng thực chất của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, khắc phục bệnh hình thức; đổi mới căn bản nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục cho phù hợp với tình hình và đối tượng.


Hai là, thường xuyên thông tin kịp thời và có định hướng rõ ràng những vấn đề chính trị - xã hội phức tạp đang đặt ra cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở. Đây là yêu cầu cơ bản nhằm trang bị những tri thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, kiên quyết đấu tranh chống mọi quan điểm sai trái phản động của kẻ thù, chống tư tưởng mơ hồ, ảo tưởng, dao động xuất hiện trong cán bộ, đảng viên. Cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng và chỉ huy ở đơn vị cơ sở phải thực sự nhạy bén ngăn ngừa mọi tác động tiêu cực của đời sống xã hội có thể len lỏi vào đơn vị và những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường để định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trong đơn vị một cách có hiệu quả; kịp thời giải quyết những vướng mắc trong nhận thức, đấu tranh với những khuynh hướng lệch lạc, giữ vững trận địa tư tưởng của đơn vị, của tổ chức trong mọi tình huống. Cấp ủy và chỉ huy đơn vị cần tổ chức đa dạng các hình thức sinh hoạt tư tưởng cho bộ đội như: diễn đàn tình hình chính trị nổi bật của đất nước, thế giới, thi báo cáo thời sự chính trị, thi kết quả đọc báo, sách…


Ba là, phải chú trọng truyền đạt nghị quyết của cấp ủy đảng một cách thiết thực, cụ thể, tạo sự thống nhất tư tưởng, tạo dựng niềm tin, thúc đẩy hành động phù hợp với trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên trong đơn vị. Đây là một yêu cầu, nhiệm vụ hết sức quan trọng, là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị. Để quá trình truyền đạt nghị quyết của Đảng có hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở phải chú trọng sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, với nhiều hình thức cổ động, tuyên truyền làm cho tư tưởng, nghị quyết của Đảng thấm sâu trong mỗi cán bộ, đảng viên. Muốn vậy, tổ chức cơ sở đảng ở đơn vị phải đổi mới cách ra nghị quyết, nghị quyết bảo đảm phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phải đẩy mạnh công tác đôn đốc, kiểm tra việc thi hành nghị quyết; chú trọng sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về tác dụng, hiệu quả của nghị quyết trong thực tiễn hoạt động của đơn vị. Trong tình hình hiện nay, nghị quyết của cấp ủy phải đặc biệt coi trọng nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên đơn vị.


Bốn là, phải coi trọng công tác kiểm tra, thăm dò dư luận để thấu hiểu tình hình, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong đơn vị. Đây là một biện pháp hữu hiệu đảm bảo cho nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng, giữa cán bộ với chiến sĩ thuộc quyền. Chỉ có như vậy nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng, kế hoạch công tác của người chỉ huy mới thực sự có giá trị, có ý nghĩa tác dụng to lớn trong thực tiễn hoạt động của đơn vị cơ sở.


Năm là, thường xuyên chú trọng giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống của Đảng, của dân tộc, của quân đội và gắn kết nó với truyền thống của đơn vị. Đây là hình thức giáo dục có tầm quan trọng đối với mọi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đối với hạ sĩ quan, chiến sĩ. Vì nếu coi nhẹ giáo dục truyền thống trong tình hình chính trị phức tạp, sự tác động của kinh tế thị trường và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch sẽ có nguy cơ dẫn đến phai nhạt lòng tự hào chính đáng, sùng ngoại, lai căng, quay lưng lại với cội nguồn. Đó là một kẽ hở để cho kẻ thù lợi dụng nhằm tuyên truyền xuyên tạc truyền thống vẻ vang của dân tộc, của Đảng và quân đội.


Những yêu cầu cơ bản trên phải được tiến hành đồng bộ trong triển khai công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở quân đội nhằm giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng của Đảng trong đơn vị, cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng hiện nay./.


Nhân văn Hà Nội

Đấu tranh đẩy lùi thái độ bàng quan, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

 


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, một bộ phận cán bộ, đảng viên tỏ ra thờ ơ, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị cần đấu tranh phê phán, loại bỏ.

Nhận diện và đấu tranh với các tà đạo đội lốt tôn giáo hiện nay

 


Sự xuất hiện những tà đạo đội lốt tôn giáo được lập ra với mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, làm xáo trộn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở một bộ phận nhân dân. Hoạt động của các tà đạo đó đã vi phạm pháp luật, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội... Chính vì vậy, việc nhận diện, đấu tranh với các tà đạo đội lốt tôn giáo là rất cần thiết.

Quân đội xây dựng thế trận bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng

 


Nền tảng tư tưởng của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định phương hướng chính trị, bản chất cách mạng của một Đảng chân chính. Bảo vệ nền tảng tư tưởng (NTTT) của Đảng là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ chính trị quan trọng của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới. Vì vậy, Quân đội cần tiếp tục phát huy vai trò là lực lượng tiên phong, mũi nhọn trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ NTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam.

CẦN CHẤM DỨT NHẬN ĐỊNH THIẾU KHÁCH QUAN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM


Chiều 4-7, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam đối với Báo cáo tình hình tự do tôn giáo quốc tế năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, trong đó Mỹ xếp Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nêu rõ: Mặc dù đã ghi nhận một số tiến bộ của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy tự do tôn giáo, tín ngưỡng, song Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn đưa ra những nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin chưa được kiểm chứng và không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam.
Theo bà Phạm Thu Hằng, Việt Nam sẵn sàng trao đổi với phía Mỹ về các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau về những vấn đề còn khác biệt, qua đó đóng góp vào việc thúc đẩy quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam - Mỹ.
Trước tiên, cần khẳng định rằng tại Việt Nam, không có ai bị phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo tín ngưỡng và các hoạt động của các tổ chức tôn giáo được bảo đảm theo đúng các quy định của pháp luật. Là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo với đời sống tín ngưỡng, tôn giáo phong phú, Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật. Các quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan và được bảo đảm, tôn trọng trên thực tế.
Các thành tựu về bảo đảm quyền con người tại Việt Nam được quốc tế đánh giá tích cực. Tại phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) tại Geneva, Thụy Sĩ, tháng 5 vừa qua, nhiều nước đã ghi nhận và đánh giá cao chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người, trong đó có tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng. Các nước hoan nghênh các thành tựu của Việt Nam về phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội, đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức về quyền con người, thúc đẩy quyền phụ nữ, quyền của nhóm đồng tính, song tính và chuyển giới, quyền của người dân tộc thiểu số.
Trong cuộc làm việc với lãnh đạo Việt Nam năm ngoái, Giáo hoàng Francis và Thủ tướng Tòa thánh, Hồng y Pietro Parolin đã bày tỏ ấn tượng trước sự phát triển tích cực, đa dạng, phong phú của đời sống tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam, trong đó có Công giáo; nhất trí cho rằng Giáo hội Công giáo Việt Nam cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa đường hướng “đồng hành cùng dân tộc”, “giáo dân tốt là công dân tốt”, đồng thời giáo dân và chức sắc Công giáo tại Việt Nam cần tiếp tục đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển của đất nước và Giáo hội.
Trong bài viết “Nhân quyền ở Việt Nam: Sự thật hơn lời nói”, tác giả Moisés Pérez Mok, Trưởng Cơ quan thường trú của Hãng thông tấn Mỹ Latinh Prensa Latina tại Hà Nội khẳng định, những tiến bộ không thể phủ nhận mà Việt Nam đạt được nhờ thực hiện nhất quán chính sách thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, cho tất cả người. Theo nhà báo Moisés Pérez Mok, quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, cũng như quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam được bảo đảm. Sau 26 năm kết nối Internet, Việt Nam đã có hệ thống công nghệ viễn thông hiện đại với độ phổ cập cao. Tính đến tháng 9-2023, Việt Nam có 78 triệu người sử dụng Internet, tăng 21% so với số thuê bao năm 2019. Số thuê bao băng rộng di động là 86,6 triệu thuê bao, tăng 38%. Hiện có khoảng 72.000 hội hoạt động ở Việt Nam thường xuyên, tích cực tham gia đóng góp vào xử lý các vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng của đất nước.
Nhà báo kỳ cựu của Prensa Latina nêu rõ, Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, cũng như quyền được lập hội, vốn là các quyền được thiết lập kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 và được nêu rõ trong Hiến pháp 2013. Cả nước Việt Nam có tới 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau hoạt động, với 26,7 triệu tín đồ, gần 60.000 chức sắc và 30.000 nơi thờ tự, cũng như một số lượng lớn các ấn phẩm tôn giáo.
Còn trong bài viết “Việt Nam: Thể chế xã hội chủ nghĩa tôn trọng quyền con người” trên báo "Độc lập" của Nga, tác giả Grigory Trofimchuk - chuyên gia phân tích chính trị quốc tế, người đã có nhiều năm nghiên cứu về Việt Nam, nhấn mạnh một trong những khía cạnh khó khăn nhất của vấn đề nhân quyền là tôn giáo. Tại Việt Nam, một nhà nước xã hội chủ nghĩa, đời sống tôn giáo của người dân hoàn toàn cởi mở. Ở Việt Nam hiện có 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo, với hơn 26,5 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, hơn 54.000 chức sắc, hơn 135.000 chức việc và gần 30.000 cơ sở thờ tự. Nhiều loại hình tín ngưỡng, di tích, đồ thờ cúng được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO) công nhận là Di sản Thế giới. Tác giả nhấn mạnh, điều này có vẻ xa lạ đối với một nhà nước chủ nghĩa xã hội, nhưng đó là sự thật tại Việt Nam.
Chuyên gia Trofimchuk đánh giá cao sự đa dạng về loại hình và nội dung của các phương tiện truyền thông tại Việt Nam, với 1 hãng thông tấn quốc gia và 72 cơ quan hoạt động phát thanh, truyền hình với 79 kênh phát thanh và 198 kênh truyền hình. Điều này chứng minh cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin của Việt Nam. Tác giả cũng đề cập tới quyền sống, quyền được tôn trọng nhân phẩm và sự toàn vẹn về thể chất trong những nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam.
Còn một thực tế không thể phủ nhận là Việt Nam đã luôn chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực và trên thế giới. Minh chứng rõ nét nhất cho điều đó là mức độ tín nhiệm với tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao khi Việt Nam ứng cử tham gia thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 và đã có nhiều sáng kiến về bảo đảm quyền con người, quyền lợi của các nước đang phát triển, quyền của các nhóm yếu thế... được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Việt Nam khẳng định nguyên tắc đối thoại, hợp tác, tôn trọng khác biệt; đồng thời nhấn mạnh không có một mô hình chung cho tất cả các nước, mỗi nước tùy theo đặc thù, điều kiện của mình sẽ có con đường phát triển riêng. Thiết nghĩ, đã đến lúc các cơ quan chức năng Mỹ nên chấm dứt những nhận định không khách quan mang tính định kiến và không chính xác về tình hình nhân quyền và tự do tín ngưỡng thực tế tại Việt Nam. Thay vào đó, trao đổi với Việt Nam về những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm trên tinh thần cởi mở, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau để đóng góp và thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình hợp tác và phát triển bền vững giữa hai nước./.
QĐND