Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

Tầm nhìn và chỉ đạo chiến lược trong chiến thắng Điện Biên Phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Chiến thắng Điện Biên Phủ cho thấy dấu ấn sâu đậm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm nhìn dự báo và hoạch định đường lối chiến lược, về sử dụng nhân lực và binh lực, về phương pháp tác chiến, về sự khích lệ động viên bộ đội và đồng bào ta trong chiến tranh nhân dân, làm xoay chuyển cục diện chiến trường. Chiến thắng lịch sử ấy tạo đà cho thắng lợi trên bàn đàm phán Hiệp định Giơ-ne-vơ và là minh chứng cho giá trị hiện thời về chân lý độc lập, hòa bình, hạnh phúc và sức mạnh chính nghĩa trong thời đại Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của dân tộc, đã cống hiến cả cuộc đời mình và để lại những dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Một trong những cống hiến ấy là quá trình Người lãnh đạo, chỉ đạo chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi vẻ vang, khơi dậy và phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, gắn kết và quy tụ sự đồng lòng của hậu phương và tiền tuyến, của quân đội và nhân dân, của “ý Đảng và lòng dân” trong việc hoạch định đường lối chiến lược cho phù hợp với bối cảnh, cách thức tổ chức chiến thuật và phát triển lực lượng, động viên toàn dân và toàn quân vượt qua khó khăn, nhất tề quyết chiến, quyết thắng giành thắng lợi.

Dự báo và hoạch định đường lối chiến tranh

Thực dân Pháp chủ trương và tổ chức xây dựng khu tổ hợp công sự Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, nhằm giành thế đứng chân ở vùng Tây Bắc và Thượng Lào, thực hiện âm mưu kéo quân chủ lực của ta lên đây để tiêu diệt, tạo điều kiện cho việc bình định ở đồng bằng và trung du, hòng làm thay đổi cục diện chiến trường Đông Dương. Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ quyết định chọn tướng Na-va làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, vạch ra kế hoạch Na-va với âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh, hòng cứu vãn tình thế thất bại của chúng. Từ giữa tháng 11-1953, thực dân Pháp, với sự giúp sức của đế quốc Mỹ, đã từng bước xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương với tổng số quân hơn 16.000 tên, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 2 tiểu đoàn và 3 đại đội pháo lớn, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay, tổ chức thành 8 cụm với 49 cứ điểm. Việc Na-va quyết định giao chiến ở Điện Biên Phủ là do đánh giá chủ quan về quân ta không có khả năng đánh một tập đoàn cứ điểm, lại không thể đưa vũ khí hạng nặng và tiếp tế từ miền xuôi lên Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ đã trở thành trung tâm của kế hoạch Na-va và là điểm quyết chiến chiến lược trên chiến trường Đông Dương. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ định cơ quan lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch, trong đó, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng; lực lượng tham gia chiến dịch là Đại đoàn 308, Đại đoàn 312, Đại đoàn 316, Đại đoàn 351, Đại đoàn 304 (thiếu một trung đoàn)... Tại Khuổi Tát (Định Hóa, Thái Nguyên), Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến chào Người trước khi lên Tây Bắc, nêu ra những trở ngại khi tác chiến ở xa nên không thể thường xuyên xin ý kiến Người và Bộ Chính trị. Người nói: “Tổng tư lệnh ra mặt trận. “Tướng quân tại ngoại”. Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”. Lời căn dặn của Người đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành kim chỉ nam trong tư duy chiến thuật, quyết chiến chiến lược của quân đội ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Vấn đề đặc biệt quan trọng là đường lối chiến tranh, phương châm của chiến dịch có ý nghĩa quyết định đến tương lai cách mạng của dân tộc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự liệu và nhất quán phương châm chiến dịch, lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân quyết tâm đánh chắc, tiến chắc và động viên toàn dân dốc toàn lực lượng chi viện cho tiền tuyến đánh thắng hoàn toàn. Nhận định tình hình địch đã củng cố công sự phòng ngự rất nhanh chóng, mạnh mẽ, có sự yểm trợ của không quân; trong khi phía ta tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế về quân lực và khí tài, lại chưa kinh qua hợp đồng tác chiến lớn, cùng với những khó khăn về trang bị cho bộ đội và hậu cần chưa bảo đảm kịp thời, nên Đảng đã chỉ rõ: “Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn”.

Phương châm từ đánh nhanh, thắng nhanh được thay đổi sang đánh chắc, tiến chắc là đòi hỏi quyết tâm rất lớn, như đồng chí Võ Nguyên Giáp nói đó là “quyết định khó khăn nhất”. Đánh nhanh, giải quyết nhanh trong khi địch chưa kịp chuẩn bị củng cố trận địa phòng ngự, chủ yếu là những công sự dã chiến, một số cứ điểm lộ ra sơ hở, tiếp tế chủ yếu bằng máy bay; quân ta đã tập kết chung quanh Điện Biên Phủ, tinh thần công kiên rất cao, nhưng có bất lợi là chưa có kinh nghiệm tác chiến lớn với nhiều lực lượng tinh nhuệ và triển khai linh hoạt các biện pháp phòng ngự của quân Pháp. Đánh chắc, tiến chắc thì phải tiến hành trên quy mô lớn và diễn ra trong thời gian khá dài, trên mọi địa hình và trong công sự vững chắc kế tiếp nhau cho đến khi quân địch bị tiêu diệt và đầu hàng hoàn toàn. Đánh chắc, tiến chắc thì công tác chuẩn bị kéo dài; thời gian chiến đấu kéo dài sẽ phát sinh nhiều khó khăn mới, do địch có thời gian thúc đẩy chi viện tiếp tế và củng cố trận địa, đánh phá ngày càng ráo riết, ác liệt làm cho bộ đội ta sẽ gặp khó khăn, ảnh hưởng đến tư tưởng, còn công tác hậu cần tiếp tế sẽ phải diễn ra dài ngày và tăng lên.

Trong khi đó, phía địch đã đề ra kế hoạch phòng thủ gồm bốn bước: 1- Dùng không quân oanh tạc, nhằm làm chậm bước tiến của quân ta trên các tuyến giao thông chính từ Yên Bái và Thanh Hóa đi Tây Bắc; 2- Đánh phá và đánh chiếm hòng đánh bật quân ta ra khỏi Lai Châu; 3- Oanh tạc gây thiệt hại và chặn các cuộc tiến công của quân ta vào Điện Biên Phủ; 4- Khuếch trương lực lượng, mở rộng vùng chiếm đóng. Những khó khăn đó càng làm nổi bật tính sáng tạo và quyết tâm lớn lao của chúng ta. Lực lượng của ta tích cực hoàn thành công tác chuẩn bị làm đường mở đường kéo pháo, xây dựng trận địa, chuẩn bị lực lượng bộ đội về mọi mặt, hầm trú ẩn, hậu cần và theo dõi chặt chẽ tình hình địch.

Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn vào ngày 13-3-1954 và đã diễn biến làm ba đợt: 1- Đánh chiếm, tiêu diệt các vị trí Him Lam và phân khu bắc (phía bắc và đông bắc); 2- Bao vây, khống chế sân bay, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch ở khu vực phòng ngự then chốt của phân khu trung tâm, thu hẹp phạm vi chiếm đóng các ngọn đồi phía đông và vùng trời của địch; 3- Đánh chiếm các điểm cao cuối cùng ở phía đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm của quân địch. Sau 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ và anh dũng, ngày 7-5-1954, với 3 đợt tiến công, quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống hơn 16.000 tên địch, trong đó có tướng Đờ Cát-xtơ-ri và bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm, thu toàn bộ vũ khí, trang bị quân sự của địch. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh điểm là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân ta đã đập tan kế hoạch Na-va.

Nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ là chủ trương kiên quyết kháng chiến, xác định phương châm và cách đánh, thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo, đoàn kết trên dưới đồng lòng theo đường lối quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người lãnh đạo và động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung lực lượng, nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, phát huy thế mạnh của ta để giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược này.  

Chiến lược đại đoàn kết toàn dân, huy động nhân lực và binh lực

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung và Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng đều mang chiến lược đại đoàn kết toàn dân và tính chất nhân dân sâu sắc, “là điển hình thành công của việc quán triệt và tổ chức thực hiện tư tưởng chiến tranh toàn dân, toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta”.

Xuất phát từ niềm tin vào tinh thần yêu nước, đoàn kết, sáng tạo của đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm động viên quân và dân ta trong quá trình chuẩn bị cho đến khi giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ. Người đã gửi nhiều thư động viên, cổ vũ, khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã nỗ lực vượt qua khó khăn để làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Tháng 12-1953, trong Thư gửi cán bộ và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ, Người khẳng định: “Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chỉ đạo rất quan trọng về chiến tranh toàn dân với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Đó là tư tưởng của Người về chiến tranh nhân dân ở cơ sở và chiến tranh nhân dân ở địa phương, động viên đồng bào bám trụ và làm chủ bản làng, quê hương, đường phố để đánh địch. Đáp lại lòng tin cậy của Người vào sức mạnh của đồng bào và bộ đội, nên trong quá trình chuẩn bị và tác chiến tại chiến trường Điện Biên Phủ đã có nhiều sự đùm bọc, chia sẻ, quyết tâm và sáng tạo, như việc chặt tre nứa luồn xuống dưới lớp cỏ rồi chống lên như giàn mướp tạo thành giàn ngụy trang cho con đường kéo pháo vào các điểm trận địa được an toàn; phong trào “săn Tây, đánh tỉa”, đánh tập kích quân địch và giữ vững trận địa. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phát huy nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt là cách đánh du kích, đánh điểm, diệt viện, chiến thuật “điệu hổ ly sơn”… Ngày 16-1-1954, trong bài viết Đẩy mạnh phong trào du kích dưới bút danh Nguyễn Thao Lược đăng Báo Nhân dân, Người khẳng định vai trò và nhiệm vụ to lớn của lực lượng du kích trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện; giới thiệu vài kinh nghiệm thiết thực trong việc đánh giặc, như biết địch, biết ta, đánh giặc, thương dân. Cuối bài viết, Người khẳng định: “Chúng ta phát triển lực lượng du kích mạnh mẽ rộng khắp, thành một “thiên la địa võng”, giặc đi đến đâu là bị tiêu diệt đến đó, thì giặc nhất định thua, ta nhất định thắng”. Đó chính là tư duy của Người về phát triển nghệ thuật chiến tranh nhân dân, tạo sức mạnh kháng chiến.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương đã đánh giá cao sự chuẩn bị của các bộ phận tham gia chiến dịch, hợp đồng tác chiến của các đơn vị và quyết tâm quyết chiến, hy sinh của quân dân ta.

Sức mạnh vĩ đại của toàn quân, toàn dân ta đã làm nên mọi thắng lợi trong lịch sử. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, phía địch đã không đánh giá đúng tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn dân, toàn quân, toàn Đảng ta. Tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường đó đã giúp toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, khắc phục những hạn chế về lực lượng, khí tài và làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc thi đua, khen thưởng kịp thời cho quân dân, tạo động lực trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc. Ngày 15-2-1954, Người đã ký Sắc lệnh số 201-SL, tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho đồng bào và cán bộ khu Tây Bắc; ông Bùi Hương Chất (truy tặng) - Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Khu Tả Ngạn. Ngày 15-3-1954, Người gửi điện thăm hỏi, khen thưởng toàn thể cán bộ và chiến sĩ đã giành thắng lợi trong hai trận đầu tiên ở mặt trận Điện Biên Phủ và bày tỏ quyết tâm: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng. Địch sẽ ra sức đối phó, ta phải cố gắng, chiến đấu dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan khinh địch, giành toàn thắng cho chiến dịch này”… Theo đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng gửi Lệnh động viên đến từng đơn vị: “Đây là chiến dịch công kiên quy mô lớn nhất trong lịch sử quân đội ta từ trước đến nay… Giờ ra trận đã đến! Tất cả các cán bộ và chiến sĩ, tất cả các đơn vị, tất cả các binh chủng hãy dũng cảm tiến lên, thi đua lập công, giật lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã động viên phát huy cao độ tinh thần yêu nước của đồng bào và chiến sĩ, để rồi 55 ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn, bao nhọc nhằn vất vả, hy sinh bao xương máu để chiến thắng. Ngày 19-5-1954, Người có cuộc gặp gỡ các chiến sĩ đã lập thành tích xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và gắn huy hiệu cho Hoàng Đăng Vinh, người đã bắt sống tướng Đờ Cát-xtơ-ri; tối cùng ngày, Người mở tiệc chiêu đãi các chiến sĩ đã lập công trong chiến thắng Điện Biên Phủ.

Sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ nhiều ngày hoặc thậm chí sau nhiều năm, Người vẫn gửi thư đến toàn thể cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ. Người thăm hỏi những gia đình có liệt sĩ, các thương binh, đặc biệt là Người có ý định thưởng huy hiệu cho tất cả là “Chiến sĩ Điện Biên”.

Cách thức phát triển tầm nhìn chiến lược và chiến thuật

Tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh về xác định mục tiêu, nhiệm vụ và “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong quá trình tiến hành cách mạng. Cuối tháng 9-1953, tại bản Tỉn Keo (thuộc thôn Lục Giã, nằm dưới chân núi Hồng, huyện Định Hóa, Thái Nguyên), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị bàn kế hoạch tác chiến Đông - Xuân. Sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình địch, Người nhấn mạnh: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn” - bàn tay Người mở ra, mỗi ngón tay chỉ về một hướng. Kết thúc cuộc họp, Người nói: “Phương hướng chiến lược không thay đổi”. Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hành động có thể thay đổi. Phép dùng binh là thiên biến vạn hóa...

Trên cơ sở phát triển thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc, Ban Chấp hành Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp phổ biến tinh thần cách mạng, xác định và hoàn thành các nhiệm vụ: “Tiêu diệt sinh lực địch”, “tranh thủ nhân dân”, “chúng ta phải sửa đường, khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, anh dũng chiến đấu, chịu đói, chịu rét, trèo đèo lội suối, đi xa vác nặng, tìm đến tận sào huyệt quân địch để tiêu diệt chúng, để giải phóng đồng bào ta”.

Ngày 21-3-1954, trong bài viết Kế hoạch AV-AN dưới bút danh C.B đăng trên Báo Nhân dân, Người đã nêu những thất bại của quân đội Pháp từ ngày 1-1 đến ngày 10-3-1954 trên chiến trường Việt Nam, đặc biệt là trên mặt trận đánh giao thông vận tải (Kế hoạch “đánh què giặc” của ta). Người dự báo trước rằng: “Kế hoạch Nava của địch đã thất bại một phần và nhất định sẽ thất bại hoàn toàn vì “ta đã đánh cho kế hoạch Nava què hóa ra kế hoạch AV-AN””.

Chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương pháp dự báo tình hình, tạo lực, lập thế và tranh thủ thời cơ. Người đã nhận định tình hình lợi thế và thực lực của địch, những bất lợi của thực dân và sử dụng những thông tin báo chí nhằm góp phần đẩy mạnh quyết tâm và khí thế cách mạng của quân dân ta. Người đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng cách mạng (lực lượng vật chất, lực lượng tinh thần, bố trí lực lượng, xây dựng trận địa, tình hình quân sự và địa hình, diễn biến tác chiến) cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trên Báo Cứu quốc số 2358, ra ngày 22-2-1954, trong bài viết Phản động Pháp mắng thực dân Pháp, Người viện dẫn những bình luận trên các báo của Pháp, như Báo Thời tiết (ngày 20-1-1954), Báo Lơ Phigarô (ngày 22-1-1954), Báo Dân chúng (ngày 4-2-1954) và khẳng định: “Bọn đế quốc khi tạm thắng thì huênh hoang, khi thất bại thì lục đục. Bởi vì giặc Pháp thất bại liên tiếp, cho nên báo chí phản động Pháp hoang mang và cằn nhằn”. Người chỉ dạy, người cách mạng khi tạm bại thì không nản, khi thắng lợi thì không kiêu và có niềm tin rằng “Ta nhất định thắng, địch nhất định thua”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết các bài như “Chiến tranh xâm lược Việt Nam làm cho người ở Pháp chết”,… nhằm lên án mạnh mẽ thực dân Pháp gây chiến tranh ở Việt Nam, không những giết người Việt Nam, mà còn giết cả người Pháp; bởi vì, để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã tập trung tiền của mua sắm vũ khí làm cho nhiều người Pháp không có cơm ăn, không có nhà ở, rơi vào đói khổ, bệnh tật mà chết.

Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương pháp kết hợp các hình thức đấu tranh, ghi nhận thành quả cách mạng được thể hiện sâu sắc qua Chiến dịch Điện Biên Phủ. Người lãnh đạo, chỉ đạo phải chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo và tổng hợp mọi sức mạnh dân tộc để tạo đà tiến công thắng lợi trên mặt trận Điện Biên Phủ, kể cả việc kết hợp các hình thức đấu tranh và tranh thủ sức mạnh thời đại, của nhân dân tiến bộ ủng hộ nền hòa bình của Việt Nam. Vấn đề nổi bật trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo Chiến dịch Điện Biên Phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phương pháp so sánh tương quan lực lượng nhằm tạo ưu thế về binh lực và hỏa lực trong từng trận tác chiến, phân tích chính xác tình hình và quyết định tấn công chắc thắng qua từng trận đánh, phát triển chiến thuật và hiệp đồng binh chủng, xây dựng trận địa tiến công và bao vây địch; động viên toàn dân và toàn quân thấm nhuần đường lối quân sự, đoàn kết để quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do. Kinh nghiệm quan trọng của Người về đánh giá khách quan tình hình cách mạng có những chuyển biến tích cực, thuận lợi để có những bước chỉ đạo tiếp theo ở mặt trận Điện Biên Phủ. Do đó, ngày 24-4-1954, trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi hoàn toàn, Người đã ký ban hành Sắc lệnh số 205-SL thành lập Ủy ban kháng chiến hành chính khu Tây Bắc, gồm 5 đồng chí do đồng chí Bùi Quang Tạo làm Chủ tịch, nhằm nâng cao khả năng lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến, kiến quốc trong sự nghiệp cách mạng.

Ngày 7-5-1964, sau khi tròn 10 năm chiến thắng, Người ghi trong sổ lưu niệm của Nhà Bảo tàng Điện Biên Phủ, nhấn mạnh đây là chiến thắng “kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ, anh dũng của quân và dân nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại; cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”.

Và sau gần 12 năm thắng lợi Điện Biên Phủ, trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ năm (ngày 16-3-1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: “Ngoại giao ở Hội nghị Giơnevơ thắng lợi là vì Điện Biên Phủ đánh thắng lớn… Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng”. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của độc lập dân tộc đối với chủ nghĩa thực dân, đế quốc, không chỉ của Việt Nam, mà còn là thắng lợi của chính nghĩa, góp phần cổ vũ các dân tộc đứng lên đấu tranh giành độc lập, hòa bình trên thế giới.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Đông Dương; đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân, góp phần vào phong trào đấu tranh vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ của loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”./.

 

 

 

Bản chất của quyền con người

 


Thứ nhất, quyền con người là giá trị chung của nhân loại, là mục tiêu hướng tới của mọi xã hội dân chủ và văn minh. Quyền con người là phạm trù tổng hợp, phức tạp, nên có nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên quyền con người không trừu tượng, mà luôn gắn với cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột và “phụ thuộc vào bản chất của phương thức sản xuất và bản chất chính trị - xã hội với quan hệ sản xuất thống trị quy định nên chế độ chính trị - xã hội ấy”(3), “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát nhằm bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động và sự lãng quên làm tổn hại đến các quyền tự do cơ bản và phẩm giá con người”(4)...

Tư tưởng quyền con người xuất hiện từ chế độ thị tộc, nhưng phải đến thời kỳ cận đại mới được thảo luận sôi nổi và được đề cập như một học thuyết thực sự. Vì vậy, quyền con người thường bị lợi dụng nhằm gây hiểu lầm rằng, nó là thành tựu của riêng văn minh phương Tây. Cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc năm 1945, những văn kiện quốc tế về quyền con người cũng được xây dựng và phát triển (Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948, Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc năm 1965, Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR) năm 1966...), quyền con người được khẳng định là những giá trị bẩm sinh, vốn có của mỗi cá nhân, được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và quốc tế; là những giá trị, ngôn ngữ và tiêu chuẩn chung của nhân loại. Thực tế, quyền con người trước khi chuyển hóa vào hiện thực trong cuộc sống, “phải trở thành quan niệm của chính con người, nghĩa là được con người coi là cái thiết yếu, cái cần phải như vậy - cần cho sự tồn tại”(5).

Ở Việt Nam, Đảng ta luôn coi quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại. Việc chỉ rõ nguồn gốc quyền con người là cơ sở bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc, coi quyền con người như một phát kiến, sản phẩm của riêng giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản phương Tây; góp phần quan trọng trong đấu tranh chống các quan điểm cực đoan, phiến diện của các lực lượng thù địch, phản động luôn sử dụng thủ đoạn áp đặt cái gọi là “chuẩn mực” quyền con người tư sản vào các nước không “cùng quỹ đạo” hòng xóa bỏ chế độ chính trị ở những quốc gia này.

Thứ hai, quyền con người luôn gắn liền với quyền dân tộc tự quyết và chủ quyền quốc gia, gắn bó mật thiết trong toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử. Muốn có quyền con người, phải thực sự có chủ quyền quốc gia. Khi chủ quyền của một quốc gia, dân tộc bị xâm phạm, chà đạp thì không thể tồn tại các “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” của nhân dân. Ở cấp độ quốc tế, quyền dân tộc tự quyết được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc(6) và được nhấn mạnh trong các văn kiện quốc tế, rằng: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết... Khước từ quyền dân tộc tự quyết là sự vi phạm quyền con người”(7). Vì vậy, không một quốc gia, không một tổ chức nào được phép tự coi mình là đại diện cho quyền con người toàn nhân loại, sử dụng cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền” hay “nhân quyền không biên giới” nhằm can thiệp vào công việc nội bộ các quốc gia có chủ quyền, bởi đó là hành động vi phạm nghiêm trọng quyền con người.

Đối với Việt Nam, thực tiễn lịch sử cho thấy, khi mất chủ quyền thì người dân không có tự do, dẫn đến các quyền con người bị chà đạp, “Thân phận người An Nam chỉ là thân phận người nông nô”(8). Do đó, để giành quyền tự do của mỗi cá nhân thì trước hết phải giành quyền tự do cho cả dân tộc. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là nền tảng, là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền con người. Chỉ đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Dân chủ Cộng hòa ra đời, địa vị của người dân Việt Nam mới được thay đổi từ nô lệ trở thành chủ nhân của một quốc gia độc lập, các quyền công dân của người Việt Nam lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp năm 1946. Gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, hiện nay Việt Nam đang từng bước thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” - đây chính là biểu hiện cao nhất và cụ thể nhất của quyền con người Việt Nam, của sự khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc.

Thứ ba, quyền con người là giá trị phổ quát và mang tính tất yếu, song phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Quyền con người dù được thừa nhận, song lại không mặc định được áp dụng trực tiếp trong xã hội, chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền ấy mới chuyển thành những quyền con người mang đầy đủ giá trị hiện thực, và pháp luật chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hoá đó. Trên phạm vi thế giới, việc pháp điển hóa các quyền ấy thành các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người diễn ra một cách có hệ thống kể từ khi Liên hợp quốc ra đời. Theo đó, quyền con người đã trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp luật quốc tế, và việc tôn trọng, bảo vệ các quyền con người là thước đo về trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế giới. Trong phạm vi quốc gia, việc bảo vệ quyền con người thể hiện ở việc ghi nhận các quyền trong pháp luật cùng với các thành quả phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, qua đó, cũng là cách để một quốc gia tuyên bố với thế giới về hiện thực quyền con người của mình. Vì thế, không thể có cái gọi là “nhân quyền không biên giới”, nhân danh quyền con người để thực hiện các hành động bất hợp pháp, như xâm phạm chủ quyền và can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.

Tại Việt Nam, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập cho đến nay, cả hệ thống chính trị Việt Nam luôn nỗ lực bảo đảm quyền con người. Cùng với sự phát triển của đất nước, những tiêu chuẩn về quyền con người càng được củng cố. Trên cơ sở này, Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, tham gia các điều ước quốc tế, phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng nhằm thực hiện tiến bộ xã hội, mang lại những thành tựu quan trọng, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Thứ tư, quyền không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân. Sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ được hiểu rằng, các quyền của con người chỉ ra những nghĩa vụ của xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu của mỗi cá nhân, đồng thời mỗi cá nhân phải tôn trọng và thực thi nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với xã hội và cộng đồng. “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi”(9). “Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ”(10)... Điều này có nghĩa, mỗi cá nhân trong khi được hưởng thụ các quyền cần tôn trọng tự do của người khác và tôn trọng lợi ích của cộng đồng, cũng như vậy, “Nhà nước trong các chức năng của mình, vừa phải tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, vừa phải bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cũng như lợi ích chung của cả cộng đồng”(11). Mọi thành viên của xã hội đều có quyền và nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền và tự do của người khác. Do đó, tuyệt đối hóa quyền con người một cách máy móc mà không thấy nghĩa vụ cá nhân với cộng đồng và với xã hội là sai lầm.

Quan điểm quyền không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân cũng được Đảng ta khẳng định: “Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân”(12). Năm 2005, Sách trắng Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam cũng khẳng định: “... các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng”(13). Đây chính là cơ sở quan trọng để chúng ta bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền con người. 

          V3.

 ⭐CÓ MỘT THẾ HỆ ANH HÙNG NHƯ THẾ

Có những người không nhìn được gì nữa ở độ tuổi 22

Có những người mà đôi tai mãi mãi không thấy một tiếng động nào từ tuổi 18

Có những người may mắn trở về khi mà Hòa Bình.

Có những người nằm xuống dưới mặt đất lặng thinh giữa Chiến Tranh.

Có những người không nhai được thứ gì trong mấy mươi năm.

Có những người thường chỉ nằm ngửa mặt lên nhìn trần nhà vì xư.ơng sống bị gãy nát.

Có những khúc hát dành cho những người đã hy sinh. 

Có những bữa cơm không dành cho những người còn sống.

Có những nấm mồ mà chẳng có ai dưới đó.

Vì xư.ơng th.ịt họ đã hòa vào đất mất rồi.

🌾Bức hình từ hoạt động của bạn hoa khôi Vũ Thu Trà My

Nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện nghiêm Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

 Đạo đức cách mạng là gốc, là phẩm chất nền tảng của cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”; “không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Quán triệt tinh thần đó, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, về “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” ra đời có ý nghĩa sâu sắc, góp phần phát huy sức mạnh nội sinh của Đảng và cả hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.

Để Đảng xứng đáng là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn, đổi mới, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Chỉ khi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc và thấm nhuần, rèn luyện các chuẩn mực đạo đức cách mạng mới tạo nên sự thống nhất cao, sức mạnh lớn của toàn Đảng, đẩy lùi những nhận thức sai trái, không đúng đắn, “lệch chuẩn” ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của Đảng, phát huy tinh thần phụng sự, cống hiến vì sự phát triển của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự tiến bộ của nhân loại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Vì vậy, Đảng ta phải thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn; cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng. Mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng; phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân”. Dù “bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội''.

Trong tác phẩm Đường Cách mệnh,  Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong ba mối quan hệ: với mình, với người và với công việc.

Xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng, thang giá trị cao nhất chính là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”.

Cán bộ, đảng viên phải noi gương các thế hệ tiền bối, xác định: “Người cộng sản chúng ta không được phút nào quên lý tưởng cao cả của mình là: Suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới. Một ngày nào mà... nhân dân ta chưa được sung sướng, yên vui thì tất cả chúng ta vẫn phải đem hết tinh thần và nghị lực mà phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng hoàn toàn thắng lợi”. Phải có ý thức “gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một dạ phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng huấn thị: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Cần nhận thức sâu sắc, “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ba nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng trong xã hội và chính Người là một tấm gương đạo đức sáng ngời, suốt đời không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, cống hiến cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân:

Một là, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức. Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Phương pháp nêu gương đạo đức cách mạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong mọi công tác của Đảng. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên là rất quan trọng. Người làm cha mẹ nêu gương cho con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên... Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Thứ hai, xây đi đôi với chống. Xây dựng đạo đức cách mạng phải gắn chặt với chống chủ nghĩa cá nhân. Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, chống “chủ nghĩa cá nhân”. Xây đi đôi với chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Xây dựng đạo đức mới trước hết phải tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức để mọi người nhận thức và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống cái tiêu cực, lạc hậu, trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, chú ý phòng ngừa, ngăn chặn. Cái gì trái với đạo đức cách mạng, với chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, là bệnh chính, “là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu”, “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”. “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.

Ba là, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.

2- Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng bằng bản lĩnh, trí tuệ, sự nêu gương về đạo đức cách mạng và phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên nối tiếp nhau qua nhiều thế hệ. Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), bảo vệ vững chắc thành quả Cách mạng Tháng Tám qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân, đế quốc, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ngày càng khẳng định cơ đồ, vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Việc xây dựng đạo đức cách mạng luôn được Đảng ta chú trọng. Nhiều chỉ thị, nghị quyết xây dựng Đảng về đạo đức, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được ban hành. Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, ngay từ đầu mỗi nhiệm kỳ, các Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đều bàn và ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, quy định hết sức quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lần sau sâu sắc, toàn diện và cụ thể, rõ ràng hơn so với lần trước. Đặc biệt, trong 3 nhiệm kỳ liên tiếp Đại hội XI, XII, XIII, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, quyết sách quan trọng cùng với các biện pháp xử lý nghiêm khắc, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” để đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng tham nhũng, tiêu cực, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, qua đó tạo bước phát triển rất mới về nhận thức, tư duy, lý luận và hành động của Đảng trong xây dựng, rèn luyện tư tưởng, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tác phong và lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên, như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc; khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đồng thời, phải có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân”. Điều này đã tạo những chuyển biến tích cực, rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần rất quan trọng phát huy sức mạnh nội sinh của Đảng, hệ thống chính trị vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị nói chung, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước nói riêng, được nhân dân tin yêu, đồng tình, ủng hộ.

Về mặt lý luận, nhận thức của Đảng ngày càng phát triển, sáng rõ quan điểm, tư duy, phương pháp xây dựng Đảng về đạo đức, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, xây dựng Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng với trọng trách được nhân dân giao phó.

Trung ương và các cấp ủy, tổ chức đảng đề cao, xác định tầm quan trọng đặc biệt của công tác này trong xây dựng Đảng và phát huy tiềm lực, nội lực, nguồn lực quốc gia - dân tộc trong xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng, tính tiên phong của Đảng; vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Các kỳ đại hội của Đảng đều quan tâm, coi trọng đề ra nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức, thể hiện trên 3 khía cạnh cốt lõi: 1- Giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng; nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; 2- Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; 3- Chủ trương xây dựng quy định, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Về mặt thực tiễn, việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, gắn với trách nhiệm nêu gương có chuyển biến tích cực. Các cấp ủy, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, nhất là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng đã thực hiện nêu gương bằng những việc làm, hành động cụ thể với phương châm “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau”, “học tập đi đôi với làm theo”. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về chính trị, tư tưởng, đạo đức, nhiều cán bộ, đảng viên là tấm gương đạo đức mẫu mực, hăng hái đi đầu trong học tập, công tác, lao động, sản xuất và chiến đấu, tận tâm, tận lực, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng.

Những kết quả tích cực này đã góp phần đấu tranh ngăn chặn hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị. Nhiều vấn đề khó, hết sức phức tạp đã được giải quyết, có kết quả rõ rệt, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước gần 40 năm qua do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội được giữ vững, tăng cường và phát huy hiệu quả. “Thế trận lòng dân” dựa trên sự đồng thuận ý chí và hành động giữa Đảng với nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc, đấu tranh hiệu quả đối với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế. Công tác rèn luyện, quản lý cán bộ, đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ vi phạm đến mức phải kỷ luật, xử lý hình sự, trong đó có cả một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao.

Thực trạng này tiềm ẩn nguy cơ to lớn đối với vai trò, hình ảnh, uy tín của Đảng, như Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và Dân tộc”.

Yêu cầu đặt ra là phải tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Đảng, Nhà nước ta theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng: “Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày”. Chỉ có như vậy mới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ rất lớn là “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ tư, ngày 25-10-2021, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””, một lần nữa nhấn mạnh: Chú trọng xây dựng ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.

Trên tinh thần đó, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” (Quy định số 144) ra đời có ý nghĩa sâu sắc, kịp thời đáp ứng đòi hỏi về lý luận và thực tiễn, góp phần phát huy sức mạnh nội sinh của Đảng và hệ thống chính trị trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Quy định số 144 đề cập 5 điều về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên:

1- Yêu nước, tôn trọng Nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc.
2- Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập.
3- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
4- Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm.
5- Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời.

Cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng và hệ thống chính trị cần nghiêm túc, gương mẫu thực hiện Quy định số 144-QĐ/TW gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các quy định về trách nhiệm nêu gương, các nghị quyết, kết luận của Trung ương, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, khóa XII và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII...; đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của tổ chức đảng, bảo đảm Đảng vững mạnh về mọi mặt trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Cán bộ, đảng viên có chức vụ, cương vị càng cao càng phải gương mẫu, trách nhiệm trong thực hiện Quy định số 144, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống để quần chúng nhân dân noi theo. Đề cao “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.

Kiên quyết, kiên trì, tích cực phòng ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thực sự thấm nhuần, thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa lời nói và việc làm. Ai cũng nhận thức sâu sắc những chuẩn mực đạo đức cần tu dưỡng, rèn luyện; trở thành nhu cầu, lẽ sống, mong muốn vươn lên, hoàn thiện chính mình: bản lĩnh, kiên định, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; gần dân, tin dân, yêu dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân... Qua đó, bồi đắp tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Để thực hiện hiệu quả Quy định số 144, cần lưu ý một số điểm sau:

Một là, cấp ủy, tổ chức đảng có trách nhiệm tổ chức quán triệt sâu rộng Quy định số 144 để mọi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc nội dung Quy định. Đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa nội dung Quy định số 144, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tình hình của địa phương, cơ quan, đơn vị. Phối hợp triển khai thực hiện Quy định số 144 với thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định khác của Trung ương trong lĩnh vực xây dựng Đảng, nhất là trên các mặt xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Hai là, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội có thẩm quyền, trách nhiệm giám sát, phản biện xã hội theo quy định hiện hành của Đảng, Nhà nước đối với việc tu dưỡng, rèn luyện và thực hiện quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, tổ chức đoàn thể, cán bộ chủ chốt.

Ba là, coi trọng kiểm tra, giám sát trong Đảng gắn với kết hợp phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện quy định chuẩn mực đạo đức, quy định nêu gương, kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Tổ chức hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá phẩm chất đạo đức, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên.

Với truyền thống và bản chất tốt đẹp của Đảng ta, với nỗ lực lớn, quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi Quy định số 144-QĐ/TW và các Nghị quyết, Chỉ thị, Quy định khác của Trung ương, theo tinh thần đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “hơn lúc nào hết, Đảng ta càng phải đặc biệt coi trọng hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Đảng ... Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là: Tất cả chúng ta, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, đều phải có quyết tâm rất lớn, có sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại. Có những việc không thể chỉ làm một lần là xong. Ngược lại, phải làm rất kiên quyết, kiên trì, bền bỉ; làm thường xuyên, liên tục; làm đi làm lại nhiều lần”. Qua đó, tạo bước chuyển biến thật sự, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện, bản lĩnh, trí tuệ, ngang tầm nhiệm vụ, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, đủ sức lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước nhanh, bền vững, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, đưa “nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”./.

 

 

 

Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh

 


Thứ nhất, cho rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng.

Một số người bị dao động về lập trường tư tưởng, hùa theo luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động khi cho rằng “không có tư tưởng Hồ Chí Minh". 

Sinh thời, tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm tốn tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng, nhưng trên thực tế, trong quá trình hoạt động cách mạng, tư tưởng của Người đã dần được hình thành và được bạn bè thế giới công nhận. Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam"(1). Trong đó tiêu biểu là tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trước khi khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện thì thế giới đã thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tổ chức UNESCO khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau"(2). Nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, các tổ chức tiến bộ trên thế giới đã thừa nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng. Thực tiễn những thành tựu to lớn mà cách mạng Việt Nam đạt được nhờ vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh qua từng giai đoạn cách mạng đã củng cố vững chắc điều này.

 ​Thứ hai, cố tình đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của Đảng.

Một số người có nhận thức lệch lạc khi một mặt họ cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh khác và đối lập với Chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất; mặt khác, họ lại “tôn vinh" tư tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp giá trị, vai trò của Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam.

Hai quan điểm này đều không đúng cả về lịch sử và logic. Về mặt lịch sử, Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nguồn gốc quan trọng dẫn tới hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Về mặt logic, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với Chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất chứ không hề có sự mâu thuẫn, đối lập như suy luận, xuyên tạc của một số người.

Về quan điểm thứ nhất, một số người đã hùa theo các luận điệu xuyên tạc, nhận thức lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh. Luận điệu này đã làm dư luận hoài nghi về bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, gây ra tâm lý hoang mang, dao động, chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng, làm giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Về quan điểm thứ hai, một số người cho rằng, Chủ nghĩa Mác - Lênin từng có giá trị nhưng đã bị lịch sử vượt qua. Những người này còn ngụy biện rằng, cho dù chưa bị lịch sử vượt qua thì Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ phù hợp với các nước phương Tây, còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Do đó, họ ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua Chủ nghĩa Mác - Lênin".

Từ đó họ cho rằng, nên đưa Chủ nghĩa Mác - Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ nên giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Đây là quan điểm nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất nhằm phủ nhận cả Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có Chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi cội nguồn lý luận quan trọng nhất là Chủ nghĩa Mác - Lênin thì bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không còn những đặc tính khoa học, cách mạng, nhân văn như vốn có.

Bên cạnh đó, một số người đã cố tình vin vào cớ hiện nay “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống" như trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra để thổi phồng những khuyết điểm của một số cán bộ thoái hóa, biến chất mà bỏ qua những ưu điểm mang tính bản chất của đa số cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.

Từ đó, họ cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay cũng đã thoái hóa, biến chất, khác xa với lý tưởng, khát vọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ yêu cầu phải bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013, tức là xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đấu tranh tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên, mang bản chất cách mạng của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính"(3).

Vậy mà, khi Đảng kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, loại trừ các vấn nạn trong công tác cán bộ nhằm làm trong sạch Đảng, lấy lại niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ thì một số người lại có nhận thức lệch lạc, cố tình vu khống, quy kết là Đảng ta “đấu đá nội bộ", “đấu tranh giữa các phe phái vì quyền lực". Họ làm ra vẻ khách quan khi dùng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh làm “hệ quy chiếu" để đánh giá, phán xét Đảng.

Danh nghĩa là họ đề cao Hồ Chí Minh nhưng thực chất lại đang hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Điều này gây hoang mang, mất niềm tin, chia rẽ nội bộ, đặc biệt, nó có thể làm một bộ phận dân chúng, thậm chí ngay cả một số ít văn nghệ sĩ, trí thức từng tin tưởng và kính trọng Hồ Chí Minh cũng có thể trở nên lung lay tư tưởng, rệu rã niềm tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Thứ ba, phủ nhận giá trị thực tiễn và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Một số người đã có nhận thức rất lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là “nhà dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít", “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng" vì tư tưởng Hồ Chí Minh không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Những người này ra sức phủ nhận sự cần thiết và hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Lý do họ đưa ra là Hồ Chí Minh là bậc thánh nhân trong khi chúng ta là người bình thường; Hồ Chí Minh là người đi theo chủ nghĩa khổ hạnh trong khi chúng ta đang có cuộc sống bình thường ở thế giới hiện đại.

Thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa khổ hạnh và cũng chưa bao giờ tỏ ra mình là bậc thánh nhân, mà Người luôn yêu cầu cán bộ góp ý cho mình, rằng: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ" không nói, là tôi mang nhọ mãi"(4).

Những người này đã cố tình không hiểu rằng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là học tinh thần tinh túy trong tư tưởng, phương pháp, phong cách của Người để vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong thực tiễn như sinh thời Người đã học tập, vận dụng sáng tạo thành công Chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, chứ không phải học rồi “làm theo" một cách máy móc để cho giống hoặc thành một “Hồ Chí Minh thứ hai". Do đó, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là chủ trương đúng đắn của Đảng, hợp với lòng dân và có giá trị thiết thực trong việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số rất ít nhân vật trong lịch sử đã trở thành một phần của huyền thoại ngay từ khi còn sống. Cho đến nay, tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giá trị đó không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại; không chỉ được khẳng định trong thế kỷ 20, mà còn được thể hiện trong hiện tại và tương lai. Đấu tranh chống các nhận thức lệch lạc, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhằm bảo vệ nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.

Để việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự thuyết phục, chúng ta phải có cái nhìn khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử, không được chủ quan, áp đặt, thiên kiến hoặc máy móc trong việc nhận định, đánh giá, phản bác các luận điệu xuyên tạc tư tưởng của Người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn".​

          V3.