Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

Để đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” là trách nhiệm, tình cảm từ trái tim của các thế hệ người Việt Nam

Những thành tựu trong thực hiện chính sách và phong trào đền ơn, đáp nghĩa góp phần khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; thể hiện sự quan tâm, tình cảm, trách nhiệm đối với người đã cống hiến, đóng góp, hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc, tô đậm thêm truyền thống nhân văn, nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Đồng thời, những thành tựu đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cơ sở cho giữ vững ổn định chính trị - xã hội để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.



Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính gặp mặt, tri ân chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN

Phát huy truyền thống, đạo lý của dân tộc, chăm lo người có công với cách mạng

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ chuyển lại cho chúng ta Trong suốt 77 năm qua, thấm nhuần lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” được kết tinh thành nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để tri ân, giáo dục các thế hệ người Việt Nam hiện nay và thế hệ mai sau, cả trong và ngoài nước, có ý thức trách nhiệm, phấn đấu vươn lên để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; “Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công; bảo đảm chế độ ưu đãi người và gia đình người có công phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội”.

Các chính sách ưu đãi đối với thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng được Nhà nước ban hành, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện để thể chế quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về ưu đãi người có công với cách mạng; chuẩn hóa điều kiện, tiêu chuẩn xem xét công nhận người có công với cách mạng; góp phần chăm lo, bảo đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của người có công. Với việc ban hành và triển khai toàn diện các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, trong giai đoạn 2012 - 2022, ngân sách nhà nước được bố trí 357.373 tỷ đồng để thực hiện tăng mức chuẩn trợ cấp người có công bảo đảm không thấp hơn mức chuẩn hộ nghèo khu vực thành thị. Trong năm 2023, đã trợ cấp thường xuyên cho trên 1,13 triệu người có công với cách mạng, với kinh phí 29 nghìn tỷ đồng; gần 3,4 triệu đối tượng bảo trợ xã hội và gần 355 nghìn hộ gia đình, cá nhân được nhận chăm sóc, nuôi dưỡng hằng tháng... Trong quý I-2024, các địa phương trong cả nước đã thực hiện chi trả trợ cấp cho 1.054.953 người có công với cách mạng, với kinh phí khoảng hơn 8,05 nghìn tỷ đồng. Mới đây nhất, Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2021/NĐ-CP quy định mức hưởng trợ cấp, phụ cấp và các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng từ 2,055 triệu đồng lên 2,789 triệu đồng nên kinh phí thực hiện trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng trong năm 2024 là 35.629 tỷ đồng. Để tặng quà nhân dịp kỷ niệm 77 năm Ngày thương binh, liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2024), Chủ tịch nước đã ký Quyết định tặng quà cho 1.371.586 người, với tổng kinh phí để tặng quà cho người có công là 419.646 triệu đồng. Việc thực hiện nhanh chóng, kịp thời chính sách của Nhà nước đã góp phần nhanh chóng tạo ra sức mạnh tổng hợp về chính trị, kinh tế và xã hội; sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân và bản thân người có công với cách mạng; tác động sâu sắc đến toàn xã hội, cùng với Nhà nước chăm lo người có công với cách mạng, phát huy truyền thống, đạo lý của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”. Đây là các chính sách đột phá, tác động tích cực đến đời sống của hàng triệu người có công, thân nhân của người có công với cách mạng.

Hệ thống chính trị các cấp từ Trung ương đến cơ sở đã tích cực vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các phong trào “Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng”, “Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ”, “Người chiến sĩ Công an nhân dân thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ”, thể hiện sâu sắc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” chăm sóc gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh và người có công với cách mạng, qua nhiều hoạt động thiết thực, như “Tặng nhà tình nghĩa”, “Tặng sổ tiết kiệm”, “Phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng”, “Chăm sóc vườn cây tình nghĩa”, “Đi tìm đồng đội”, “Quy tập hài cốt về nghĩa trang”, “Trồng cây xanh trong các khu mộ liệt sĩ”, “Thương binh tàn nhưng không phế”...  Các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” ngày càng đi vào chiều sâu và xã hội hóa cao, thu hút sự tham gia của toàn xã hội. Các phong trào phát triển sâu rộng, được xã hội đồng tình, hưởng ứng; qua phong trào đã xuất hiện nhiều tổ chức và tấm gương tiêu biểu trong mọi tầng lớp nhân dân đóng góp các nguồn lực ủng hộ quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”. Đồng thời, cá nhân được hưởng chính sách cũng đã tự vượt lên theo tinh thần “tàn nhưng không phế”, không ỷ lại, đòi hỏi Nhà nước; tận tâm cống hiến sức lực còn lại để vươn lên ổn định cuộc sống. Việc xây dựng, nâng cấp, tu bổ phần mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công liệt sĩ được quan tâm đầu tư; công tác tìm kiếm, quy tập, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ được triển khai tích cực, hiệu quả, làm ấm lòng hương hồn các liệt sĩ và góp phần giảm bớt nỗi đau cho những người ở lại. 

Một số định hướng, giải pháp cần tập trung thực hiện

Trong giai đoạn hiện nay, để việc tiếp tục thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” là trách nhiệm, tình cảm từ trái tim của các thế hệ người Việt Nam, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, hệ thống chính trị các cấp cần tập trung thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với việc thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công; tích cực thực hiện phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, coi đây là trách nhiệm, đạo lý để đền đáp sự hy sinh to lớn của thế hệ cha anh; là hành động thiết thực nhằm tiếp tục phát huy lòng bác ái, hiếu nghĩa, truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời kỳ mới. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; mở rộng hợp tác quốc tế nhằm trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến bộ đội Việt Nam hy sinh, mất tích trong chiến tranh, phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Đồng thời, thường xuyên quan tâm gần gũi, lắng nghe, chia sẻ, động viên, tạo mọi điều kiện để người có công tiếp tục phát huy ý chí tự lực, tự cường, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống và tham gia các hoạt động xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng quê hương, đất nước. 

Hai là, tiếp tục rà soát, nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện tốt hơn nữa chính sách, pháp luật đối với người có công, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn với tinh thần không để người có công nào không được hưởng chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, trọng tâm là địa bàn trong nước; tập trung rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về liệt sĩ; kết luận địa bàn, lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên phạm vi toàn quốc; xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin bằng phương pháp thực chứng và giám định ADN. Tập trung tu bổ, sửa chữa nâng cấp nghĩa trang, đài tưởng niệm, bia tưởng niệm, công trình ghi công liệt sĩ. 

Ba là, nâng cao chất lượng Cuộc vận động “Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng”, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, phong trào “Cung cấp thông tin mộ liệt sĩ” trên phạm vi cả nước của đồng đội liệt sĩ, đồng bào đang làm ăn, sinh sống ở nước ngoài, hội cựu chiến binh các cấp; triệt để khai thác các nguồn thông tin lưu trữ; làm tốt công tác phối hợp, nâng cao hiệu quả xác định danh tính hài cốt liệt sĩ... Tích cực đổi mới phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” theo hướng phát triển mô hình hay, việc làm tốt, mang lại hiệu quả thiết thực, vận động tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân cùng tham gia xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” ở các cấp với nhiều hình thức phong phú phù hợp với khả năng, điều kiện thực tế, như “Xây Nhà tình nghĩa”, tặng “Sổ tiết kiệm tình nghĩa”, “Phụng dưỡng các Mẹ Việt Nam Anh hùng”... Tổ chức thăm hỏi, động viên đối tượng người có công tại các trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng thương bệnh binh và gia đình chính sách tiêu biểu,... góp phần bù đắp thiệt thòi của người có công và gia đình có công với cách mạng. Đồng thời, thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến làm tốt phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” và đối tượng chính sách có nhiều cố gắng vươn lên trong sản xuất, kinh doanh, học tập, công tác... trên từng địa bàn và cả nước. 

Bốn là, chấn chỉnh, xử lý tập thể và cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm, vô cảm, tiêu cực, làm không đúng chế độ, chính sách đã ban hành. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách vì chế độ, chính sách này không chỉ mang tính nhân văn sâu sắc, mà còn thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết xử lý nghiêm các vụ việc tiêu cực, giải quyết dứt điểm khiếu nại của các đối tượng chính sách, không để tích tụ, kéo dài./.

ST.

 GIÁO DỤC PHẨM CHẤT “TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN” CHO THANH NIÊN VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

“Trung với nước, Hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, bổ sung và phát triển trong điều kiện mới, trở thành một phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Bài viết làm rõ phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục phẩm chất này cho thanh niên Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số biện pháp nhằm giáo dục phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” cho thanh niên Việt Nam trong thời gian tới

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến thanh niên, phát huy vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người đặc biệt coi trọng giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới, các thế lực thù địch không ngừng đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước; bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động, tác động nhiều chiều đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của thanh niên Việt Nam hiện nay. Vì vậy việc bồi dưỡng, giáo dục phẩm chất đạo đức “Trung với nước, Hiếu với dân” cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân”

Một là, “Trung với nước, Hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức của dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, bổ sung, phát triển trong thời đại mới

“Trung với nước, Hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức vốn có từ xa xưa trong đạo đức truyền thống phương Đông và đạo đức truyền thống của Việt Nam. Trong điều kiện mới, phẩm chất đạo đức này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, bổ sung và phát triển đưa vào khái niệm nội dung mới, có ý nghĩa khoa học đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Người đã đưa vào đó những nội dung đạo đức mới, phù hợp hơn, rộng lớn hơn và sâu đậm tình người làm cơ sở cho việc xây dựng một nền đạo đức mang tính cách mạng và khoa học, hình thành nên những phẩm chất đạo đức tiêu biểu cho con người Việt Nam trong thời đại mới, để mỗi người học tập, phấn đấu, rèn luyện “Không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, đại diện cho lợi ích và quyền lợi của toàn dân tộc. Trung với nước trước tiên là phải có niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng của Đảng và phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; là “Chấp hành triệt để đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, hăng hái thi đua yêu nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống”.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hiếu là hiếu với dân - thương yêu, quý trọng và tin dân. Hiếu với dân trước hết là phải hiếu với cha mẹ, không chỉ hiếu với cha mình mà còn hiếu với cha mẹ người, phải làm cho mọi người đều biết yêu thương cha mẹ. Hiếu với dân không phải chỉ là hiếu với cha mẹ mình mà còn là hiếu với nhân dân, với toàn dân tộc. Ðó là, lòng yêu nước thương nòi, tự hào với truyền thống vẻ vang của dân tộc; là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người dân với cộng đồng, với sự nghiệp của Ðảng và dân tộc, với sự hưng vong của đất nước; là ý chí và nghị lực vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng; là sự tin yêu, kính trọng nhân dân. 

Hai là, “Trung với nước, Hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất, chi phối tất cả các phẩm chất khác

“Trung với nước, Hiếu với dân” trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phẩm chất đạo đức vô cùng quan trọng của mỗi con người, chi phối tất cả các phẩm chất khác và hành động của họ. Khi phẩm chất đạo đức “Trung với nước, Hiếu với dân” phát triển là khi cá nhân luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân sẵn sàng: “hy sinh cho giai cấp, cho nhân dân”; “đoàn kết đấu tranh, thành một lực lượng tất thắng”; “vượt mọi khó khăn”, “giữ vững lập trường cách mạng, không lay động, không hoang mang… vui vẻ chịu đựng mọi gian khổ, bền bỉ làm mọi công tác nặng nề..., hết sức phục vụ nhân dân, anh dũng hy sinh cho Tổ quốc”. 

 “Trung với nước, Hiếu với dân” còn được thể hiện ở “trung với Đảng”, “sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Người nhấn mạnh, “Trung với nước, Hiếu với dân” là phải “có tinh thần yêu nước chân chính, lại có tinh thần quốc tế vô sản cao cả, luôn luôn đoàn kết với nhân dân và quân đội các nước xã hội chủ nghĩa anh em, với nhân dân các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; “phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, hăng hái thi đua yêu nước với tinh thần "mỗi người làm việc bằng hai"...

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” được cụ thể bằng những hành động, việc làm thiết thực đóng góp cho quê hương, đất nước, cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Nhân dịp khai giảng của Trường Trần Quốc Tuấn khóa thứ IV, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi và tặng Trường 6 chữ: “Trung với nước, Hiếu với dân”. Theo đó, “Trung với nước, Hiếu với dân” được Người khái quát ở một số nội dung như: “Lòng yêu nước rất nồng nàn, chí kiên nhẫn rất vững chắc, sự đoàn kết rất chặt chẽ và một kỷ luật rất nghiêm minh đánh bại mọi kẻ thù xâm lược; là sự cố gắng học tập kỹ thuật cho ngày càng tiến bộ, mà còn phải giữ vững và phát triển truyền thống vẻ vang của quân đội; là mỗi cá nhân, mỗi cán bộ, chiến sĩ thi đua tìm cách dạy cho dễ hiểu, cho chóng tiến bộ; thi đua học cho chóng, cho nhiều, cho tốt”; “Sẵn sàng quên mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, cho độc lập tự do của Tổ quốc, cho lý tưởng cộng sản vẻ vang không đòi danh, đòi lợi… một lòng một dạ phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân”. “Trung với nước, Hiếu với dân” còn là phẩm chất đạo đức quan trọng giúp mỗi cá nhân khắc phục, vượt qua mọi khó khăn, tinh thần đồng cam cộng khổ với đồng chí, đồng đội; tinh thần “không quản khó nhọc, luôn luôn vui vẻ làm tròn nhiệm vụ”.

Như vậy có thể thấy, “Trung với nước, Hiếu với dân” không phải là một khẩu hiệu mà đã được cụ thể hóa thành những việc làm, hành động thể hiện trách nhiệm của mỗi cá nhân đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ, xây dựng, phát triển đất nước; trở thành yêu cầu cơ bản, căn cốt là kim chỉ nam quan trọng định hướng cho công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên Việt Nam hiện nay. 

2. Nội dung giáo dục phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” cho thanh niên Việt Nam hiện nay

Một là, trung thành tuyệt đối với lợi ích của đất nước, của nhân dân, của Đảng, của tổ chức mà mình tham gia

Trong điều kiện hòa bình, phẩm chất đạo đức “Trung với nước, Hiếu với dân” của các thế hệ thanh niên thể hiện ở quyết tâm bảo vệ nền độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ra sức học tập nâng cao trình độ để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân; hăng hái lao động, sản xuất khoa học - kỹ thuật, văn hóa - nghệ thuật góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội xứng với tinh thần “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. 

Giáo dục thanh niên phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của đất nước, của tổ chức mình tham gia: “Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”. Thanh niên cần phải: “luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “Trung với nước, Hiếu với dân”, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Không sợ gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu… tin tưởng sâu sắc ở lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân dân. Tăng cường đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau... Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn.

Hai là, đoàn kết, gắn bó với bạn bè, đồng nghiệp; tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau

“Trung với nước, Hiếu với dân” không chỉ là trách nhiệm mà còn là đạo lý của thanh niên đòi hỏi họ phải biết chủ động, sáng tạo, hết lòng, hết sức làm tròn những việc được giao. Mỗi thanh niên cần được tăng cường giáo dục để nghiêm túc chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị; làm đúng với đạo lý uống nước nhớ nguồn, mang lại lợi ích cho bản thân và cộng đồng. Đồng thời, thanh niên ngày nay cần được tăng cường giáo dục về tinh thần đoàn kết, gắn bó với bạn bè, đồng nghiệp trong quá trình học tập, công tác, lao động sản xuất. 

Ba là, sẵn sàng làm trọn nhiệm vụ với Đảng, Nhà nước và Nhân dân

Trong bối cảnh đất nước hoà bình và phát triển, thanh niên cần được giáo dục để sẵn sàng, tích cực và chủ động khi tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú; “sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nội dung giáo dục cần tập trung vào vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự để thanh niên nhận thức được việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp… Những công dân đến tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự cần thực hiện tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc. Mỗi gia đình cần động viên, khuyến khích con em mình tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi như pháp luật quy định.

Cần tập trung giáo dục để thanh niên luôn cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” và “bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Bốn là, giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên

Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên giúp họ trở thành những công dân tốt, người cách mạng chân chính: “Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp. Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm”, “gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người”. Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ”. Theo đó, thanh niên cần được giáo dục và thấm nhuần giá trị lịch sử, đạo đức, văn hóa truyền thống của dân tộc và các vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, quê hương. Rèn luyện, giáo dục cho đoàn viên, thanh niên có đạo đức, lối sống tốt, sống có trách nhiệm, có ước mơ, hoài bão. Cần giáo dục cho thanh niên những giá trị trung - hiếu mới gắn với giá trị văn hoá truyền thống, khơi dậy khát vọng tiên phong, dũng cảm trong học tập, lao động, cống hiến xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc.

3. Một số giải pháp tăng cường giáo dục phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên Việt Nam trong thời gian tới

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm năng lực thực tiễn và sự phối hợp giữa các chủ thể trong giáo dục chính trị, đạo đức, trực tiếp là giáo dục phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên hiện nay

Cần đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để toàn xã hội nhận thức rõ về vị trí, vai trò của thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, đóng vai trò quyết định của sự nghiệp cách mạng, là người chủ tương lai của đất nước, để có sự quan tâm đến thanh niên, cùng với Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội làm tốt công tác giáo dục đạo đức thanh niên. 

Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên: Nâng cao vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ thanh thiếu nhi; cùng với nhà trường giáo dục hình thành nhân cách và trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết cho thế hệ trẻ phát triển toàn diện. Tạo điều kiện để các tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong trường học phát huy vai trò, ảnh hưởng và tích cực tham gia quá trình giáo dục toàn diện học sinh, sinh viên, bồi đắp lòng yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường phát triển đất nước.

Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp trong chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” cho thanh niên hiện nay

Các cấp ủy đảng phải luôn chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo, xác định việc giáo dục đạo đức cách mạng, phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” cho thanh niên là việc làm thường xuyên, liên tục của mỗi tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 42 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về "tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030". 

Tổ chức đảng các cấp cần phải xác định rõ nội dung, chỉ tiêu, biện pháp lãnh đạo phù hợp đối với công tác thanh niên và giáo dục đạo đức cách mạng, phẩm chất “Trung với nước, Hiếu với dân” cho thanh niên ở mỗi giai đoạn nhiệm vụ cụ thể. Đồng thời, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức “Trung với nước, Hiếu với dân” cho thanh niên gắn với việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. 

Thứ ba, đổi mới, đa dạng hóa nội dung, vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp bồi dưỡng phẩm chất trung hiếu theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên 

Cần thường xuyên được cập nhật thông tin mới về nội dung, đổi mới phương pháp, hình thức giáo dục nhằm thu hút, hấp dẫn thanh niên tham gia; xác định đúng nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp bồi dưỡng một cách phù hợp, đồng thời, phát huy được tối đa các ưu điểm của từng hình thức, biện pháp, từ đó làm cho cho hoạt động bồi dưỡng phẩm chất đạo đức “Trung với nước, Hiếu với dân” cho thanh niên đạt kết quả cao. 

Đổi mới nội dung, hình thức giáo dục phẩm chất đạo đức “Trung với nước, Hiếu với dân” cho thanh niên Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động, phòng trào thực tiễn, thiết thực về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, những hoạt động giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng của quê hương, đất nước và những hoạt động thể hiện trách nhiệm của thanh niên với cộng đồng nhằm thu hút, hấp dẫn thanh niên tham gia.

Tăng cường tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt trong thanh niên nhằm giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất đạo đức “Trung với nước, Hiếu với dân”, kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện, hành vi phi đạo đức, vi phạm các chuẩn mực đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc trong thanh niên.

Thứ tư, phát huy tính tích cực, chủ động tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của thanh niên hiện nay 

Hình thành cho thanh niên nhu cầu, động cơ phấn đấu, rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham học hỏi, cầu tiến bộ, vươn lên tự khẳng định mình. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để thanh niên phấn đấu, rèn luyện; đồng thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả, định hướng phấn đấu cho thanh niên. 

Quan tâm đáp ứng những nhu cầu chính đáng của thanh niên về vật chất, tinh thần; giao nhiệm vụ phù hợp với sở trường, năng khiếu đặc điểm tâm, sinh lý của họ sẽ tạo điều kiện tốt để thanh niên rèn luyện đạo đức, lối sống. Mỗi thanh niên phải xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, sống có lý tưởng, có hoài bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ; sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ.

Thanh niên có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng nói chung và phẩm chất đạo đức “Trung với nước, Hiếu với dân” nói riêng cho thanh niên Việt Nam hiện nay là cần thiết nhằm “hình thành một lớp thanh niên ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa”, “có lý tưởng cao đẹp”, biết “nuôi dưỡng hoài bão lớn”, “tự cường dân tộc” theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại tạo “sức đề kháng” cho thanh niên trước những tác động tiêu cực từ nền kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế; sự chống phá, lôi kéo của các thế lực thù địch, phản động./.

Tạp chí Giáo dục Lý luận

Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2024

NHỮNG LỜI NÓI CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG TIẾP THÊM SỨC MẠNH CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Nhớ về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mỗi người dân Quận Hai Bà Trưng rất đỗi tự hào, kính trọng. Tổng Bí thư cũng nhiều lần nhấn mạnh, bản thân đồng chí là công dân Thủ đô, khi về với Hà Nội, về với Quận Hai Bà Trưng như về ngôi nhà thân thương...

Người dân nào gặp Tổng Bí thư cũng cảm thấy thân thương

Sáng sớm 25/7, những người dân ở phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng thức dậy sớm hơn ngày thường để chuẩn bị treo cờ rủ tưởng nhớ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Với những lá cờ thắt dải băng đen gọn gàng, trang nghiêm được treo lên trong các ngày Quốc tang, người dân bày tỏ sự kính trọng và niềm tiếc thương vô hạn khi phải tiễn biệt một nhân cách lớn của dân tộc.

“Vô cùng thương tiếc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng tôi đã tự đi mua và làm cờ rủ, bàn nhau tập trung rất sớm, trước những ngày Quốc tang"- bà Nguyễn Thanh Hương, một người dân phường Bách Khoa chia sẻ.

Không thể đến trực tiếp thắp nén nhang trước anh linh của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, những đảng viên chi bộ Tổ dân phố số 2, phường Lê Đại Hành, Quận Hai Bà Trưng cùng nhau tập hợp tại nhà sinh hoạt cộng đồng để theo dõi Lễ viếng Tổng Bí thư được truyền hình trực tiếp. Nhìn hình ảnh từ Nhà tang lễ Quốc gia, tất cả đảng viên có mặt tại đây đều không thể kìm nén được niềm xúc động và tiếc thương.

“Nghe tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mất, tất cả đảng viên trong chi bộ đều rất buồn. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, suốt đời vì nước, vì dân. Tiếng nói của Tổng BÍ thư đối với Đảng bộ, Chi bộ, chúng tôi luôn ghi nhớ”- Bí thư chi bộ Tổ dân phố số 2 phường Lê Đại Hành Doãn Văn Hải nghẹn ngào.

Còn đối với ông Vũ Hy Chương, trú tại số 13 phố Nguyễn Thượng Hiền (phường Nguyễn Du), nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam phường Nguyễn Du, lời căn dặn đáng nhớ nhất của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là phải thường xuyên tăng cường khối đại đoàn kết. Trực tiếp Tổng Bí thư đã đến dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân ở địa bàn dân cư, khiến người dân rất vui, hồ hởi.

“Dù là lãnh đạo cấp cao nhưng tính cách Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vô cùng giản dị, gần gũi, khiến người dân nào gặp Tổng Bí thư cũng cảm thấy thân thương, không hề có khoảng cách, phân biệt gì. Tại các cuộc họp, khi kết thúc, đồng chí luôn dành 10-15 phút trò chuyện với những người cao tuổi, cựu chiến binh… Được mời dự các cuộc họp của Tổ dân phố, hay Ngày hội Đại đoàn kết của địa bàn dân cư, đồng chí đều đi bộ từ nhà cùng một số người thân”- ông Vũ Hy Chương bồi hồi.

Mỗi người dân Quận Hai Bà Trưng đều rất đỗi tự hào

Theo Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam Quận Hai Bà Trưng Nguyễn Hiền Phương, nhớ về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mỗi người dân Quận Hai Bà Trưng đều rất đỗi tự hào vì trên địa bàn có vị lãnh đạo cao nhất của Đảng. Trong suy nghĩ của người dân địa phương, Tổng Bí thư luôn là tấm gương về lối sống giản dị, chan hòa tình yêu thương với mọi người.

Cùng gia đình sinh sống tại căn nhà trên phố Thiền Quang (phường Nguyễn Du, Quận Hai Bà Trưng), dù bận nhiều công việc của Đảng, Nhà nước, mỗi lần về nhà, gặp những người hàng xóm xung quanh, Tổng Bí thư đều ân cần thăm hỏi, đặc biệt quan tâm người cao tuổi, các cháu thiếu niên nhi đồng. Có đêm 30 Tết, Tổng Bí thư đến động viên lực lượng cán bộ cơ sở ở các chốt trực, khiến mọi người hết sức bất ngờ, cảm động.

Tổng Bí thư cũng là đảng viên sinh hoạt hai chiều gương mẫu của chi bộ 6 (nay là chi bộ 8 ) phường Nguyễn Du. Còn nhớ Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc năm 2018, Tổng Bí thư đã tới chung vui với người dân tổ dân phố, cùng hát bài ca “Kết đoàn” với Nhân dân. Nhớ kỳ bầu cử ĐB Quốc hội và HĐND các cấp, sớm ngày 23/5/2021, Tổng Bí thư là một trong những công dân đầu tiên của Khu vực bỏ phiếu số 4 phường Nguyễn Du đến thực hiện quyền bầu cử.

Nhiệm kỳ 2021-2026, thật vinh dự cho cử tri 3 quận Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là ĐB Quốc hội khóa XV tại đơn vị bầu cử số 1. Từ đó, mỗi khi tiếp xúc với ĐB Quốc hội trước và sau kỳ họp, cử tri Quận Hai Bà Trưng lại được gặp Tổng Bí thư, nghe những lời phát biểu rất mộc mạc nhưng là bài học vô cùng sâu sắc về niềm tự hào được là công dân của Thủ đô ngàn năm văn hiến, về đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực, về những vấn đề người dân quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các địa phương đối với Nhân dân… Tổng Bí thư luôn dành thời gian trước hội nghị hoặc lúc giải lao để chuyện trò, hỏi thăm cử tri với tác phong giản dị, cử chỉ ân cần…

“Tổng Bí thư nhiều lần nhấn mạnh, ông là công dân của Thủ đô, về với Hà Nội, về với Quận Hai Bà Trưng như về ngôi nhà thân thương của mình. Những lời nói của Tổng Bí thư như tiếp thêm sức mạnh cho đội ngũ cán bộ, công chức, các tầng lớp Nhân dân quận tiếp tục phát huy truyền thống văn hiến anh hùng của Thủ đô, giữ lấy cốt cách, nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Luôn nhớ hình ảnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với lòng kính trọng, yêu quý, các tầng lớp Nhân dân quận sẽ tiếp tục phấn đấu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn vững mạnh, góp phần xây dựng Thủ đô ngày càng văn minh, giàu đẹp”- bà Nguyễn Hiền Phương bày tỏ./. 

St

 QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO TRONG TÁC PHẨM “ĐỜI SỐNG MỚI” CỦA HỒ CHÍ MINH - Ý NGHĨA TRONG RÈN LUYỆN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ HIỆN NAY

Tác phẩm “Đời sống mới” ra đời trong hoàn cảnh đất nước còn đang rất khó khăn, cần có sự đổi mới để nâng cao đời sống nhân dân, góp phần đưa công cuộc kháng chiến, kiến quốc đi đến thắng lợi. Bài viết tập trung phân tích quan điểm đổi mới tư duy và phương pháp lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới”, từ đó làm rõ ý nghĩa của tác phẩm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay.

Đặt vấn đề

Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng văn hóa, con người mới phục vụ kháng chiến kiến quốc, Đảng cần lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành đổi mới để xóa bỏ những tàn dư, lạc hậu của xã hội phong kiến, tạo ra những giá trị văn hóa mới phù hợp với thực tiễn. Tác phẩm “Đời sống mới” của chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời nhằm cổ vũ, động viên, khích lệ cho tinh thần, phong trào thay đổi đó. Nghiên cứu quan điểm đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong tiến trình đổi mới hiện nay.

1. Quan điểm đổi mới tư duy và phương pháp lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới”

Sau cách mạng Tháng Tám thắng lợi, vận mệnh đất nước ở vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc khi vừa phải đối mặt với các thế lực thù địch chống phá quyết liệt vừa phải đối mặt với giặc đói, giặc dốt, những hủ tục lạc hậu và nền tài chính kiệt quệ... Cùng với việc kháng chiến kiến quốc, Đảng chủ trương xây dựng đời sống mới nhằm xóa bỏ những tàn dư, lạc hậu mà chế độ cũ để lại, giúp nhân dân nhận thức được về tính ưu việt của chế độ mới và trách nhiệm và quyền làm chủ của mình đối với xã hội, với đất nước. Tác phẩm “Đời sống mới” được Người viết trong hoàn cảnh đó với bút danh Tân Sinh.

Đổi mới, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa kế thừa và phát huy, giữa đổi mới và phát triển, giữa truyền thống và hiện đại. Đổi mới không phải là xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, xây dựng cái mới mà là quá trình chọn lọc, kế thừa, cải tiến và đổi mới. Người lãnh đạo phải nhìn nhận được xu hướng phát triển, hình dung về tổ chức của mình trong tương lai, từ đó chọn lọc ra những giá trị “cũ và mới”. Trong đó “cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ”, có sự kế thừa và cải tiến “Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý”, “Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm và có sự đổi mới”, “Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”.

Người cũng nhận định rằng con người không dễ dàng, không thích sự thay đổi. Người nhận xét “ta có tính lười thay đổi”, khi thay đổi ta lại phải mất công học lại những kiến thức mới, kỹ năng mới, mà để làm quen với một cái mới“...bất kỳ việc gì, bước đầu cũng khó”. Vì vậy, tâm lý chung của con người ta là “thà chịu khát chứ không muốn đào giếng”, tức là thích nhàn, yên thân, lười thay đổi. Hơn nữa, “thói quen xấu rất khó đổi” nhất là những thói quen đã hình thành từ rất lâu, con người lại dễ thích nghi, “Cái xấu mà quen người ta cho là thường”, cho nên “Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu”. Vì vậy, việc thay đổi “Nói dễ thì dễ. Nói khó thì khó”, bởi vì “Việc đời không gì khó, chỉ sợ chí không bền”, cần phải bền chí bền gan thì thay đổi mới thành công.

Bác cũng nhấn mạnh vai trò của từng cá nhân đối với sự thay đổi. “Người là gốc của làng nước”, mỗi người cần ý thức được rằng mình chính là hạt nhân, là nhân tố quyết định của sự đổi mới, đồng thời cũng là đối tượng được hưởng lợi ích từ sự đổi mới đó. Để việc thay đổi ở mỗi người trở nên hăng hái, bản thân mỗi người cần yêu tổ chức của mình, “việc gì có lợi cho tổ chức phải ra sức làm, việc gì hại cho tổ chức thì ra sức tránh”. Luôn có thái độ sẵn lòng công ích, bất kỳ việc to việc nhỏ, có ích chung thì phải hăng hái làm, không kiêu căng, nịnh hót, sống giản dị, tiết kiệm, làm việc siêng năng, có tinh thần phụ trách, đã làm việc gì thì làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn, không làm chống đối. Cư xử thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp đỡ, ham học hỏi. Đó cũng là những tinh thần mà người lãnh đạo cần truyền tới cấp dưới của mình để cấp dưới hiểu vai trò, ý nghĩa của mình, từ đó chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ cá nhân, nhiệm vụ của tổ chức.

Bác cũng căn dặn cán bộ lãnh đạo: cán bộ phải là người trong sạch, công bình, thạo việc để có thể làm “gương cho dân làng; có thể hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung”, “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”. Người cán bộ cần phải hăng hái tuyên truyền cổ động và định kế hoạch cho thích hợp với tổ chức, đơn vị của mình, nhất là phải cố gắng làm kiểu mẫu. Nếu người người quyết tâm làm, đơn vị quyết tâm làm, người cán bộ và nhân viên đều đồng lòng thì nhất định sự đổi mới sẽ thành công, nhất định tổ chức sẽ phát triển “Chúng ta đồng tâm mà làm, quyết tâm mà làm thì đời sống mới nhất định thực hiện được”. Việc đổi mới không phải là điều dễ dàng, vì vậy, Người cũng căn dặn mỗi người, mỗi đơn vị, mỗi cán bộ phải bền chí, bền gan, dám nghĩ dám làm, nếu không chịu làm thì không thể thành công được, “Việc dễ mấy nhưng không quyết chí bền gan thì cũng không bao giờ làm được”.

Để đổi mới trở nên hiệu quả, Người cũng hướng dẫn cán bộ các bước, các biện pháp rất cụ thể:

Một là, tuyên truyền, giải thích: mục tiêu của tuyên truyền là phải cho mọi người hiểu ý nghĩa, lợi ích của việc thay đổi. Cách thực hành như thế nào: “Nói một lần họ chưa hiểu thì nói nhiều lần. Nói đi, nói lại, bao giờ người ta hiểu, người ta làm mới thôi”. Cách thức tuyên truyền: “Nói thì phải nói một cách giản đơn, thiết thực với hoàn cảnh mỗi người; nói sao cho người ta nghe rồi làm được ngay. Việc dễ, việc nhỏ làm được rồi, sẽ nói đến việc to, việc khó”. Để tuyên truyền hiệu quả, người lãnh đạo cần phải hiểu rõ tổ chức của mình, cần hình dung sự đổi mới sẽ được thực hiện như thế nào trong từng cá nhân, từng bộ phận, giống như cách mà Bác chỉ dẫn thực hành “Đời sống mới” một cách cụ thể cho từng đối tượng là trẻ em, người lớn, ông chủ, người làm công, bộ đội, việc nhà, việc làng, trường học, công sở... Từ đó, có những biện pháp tuyên truyền hướng dẫn cụ thể, dễ hiểu, tránh mơ hồ, chung chung. 

Người lãnh đạo cần phải tạo ra được những thành công bước đầu của sự đổi mới. Khi sự đổi mới đạt được thành công bước đầu ở một số bộ phận, cần lan tỏa điều tốt đó tới khắp tổ chức, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong tổ chức. Sự đổi mới phải làm đồng bộ, kịp thời, nếu một vài người chịu thay đổi mà đa số không thay đổi thì sự đổi mới sẽ không hiệu quả. Người lãnh đạo phải có tinh thần giúp đỡ cán bộ thay đổi, người tiến bộ có tinh thần giúp đỡ người chậm tiến thay đổi. Như vậy, sự đổi mới mới diễn ra hiệu quả.

Hai là, nêu gương: cách tuyên truyền tốt nhất là nêu gương, tức là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước. Sự đổi mới cần có những người làm gương, những đơn vị làm gương, những lãnh đạo làm gương. Khi thấy hiệu quả tốt tươi thì những người, những đơn vị khác sẽ hăng hái làm theo. Nếu tuyên truyền mà không làm gương thì “tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích”. Bác cũng căn dặn: “Lúc số đông quốc dân chưa hiểu, chưa làm đời sống mới, thì tuyệt đối không nên bắt buộc”. Nếu nóng vội, thúc ép, bắt buộc, sẽ bị gây phản ứng ngược, người ta tức giận, oán ghét, “chứ không ích gì”. Bởi những cái cũ đã tồn tại lâu đời, không phải một ngày một bữa mà bỏ được. Phải hiểu rằng tuyên truyền thì phải dần dần nói cho người ta hiểu, để người ta vui lòng làm, chứ không có quyền ép người ta. “Tuyên truyền đời sống mới cũng như tuyên truyền việc khác, phải hăng hái, bền gan, chịu khó, đồng thời phải cẩn thận, khôn khéo, mềm mỏng”.

Ba là, tổ chức phong trào thi đua: một cách tốt nhất là tổ chức phong trào thi đua, người này thi đua với người khác, đơn vị này thi đua với đơn vị khác... Ai hơn, có thành tựu sẽ được mọi người yêu quý, kính trọng, và khen thưởng. Như vậy ai cũng hăng hái

“Người người thi đua

Ngành ngành thi đua

Ta nhất định thắng

Địch nhất định thua”.

Bốn là, bắt buộc: đến khi đại đa số mọi người đã theo đời sống mới, chỉ còn số rất ít không theo, khuyên mãi cũng không được, lúc đó có thể dùng cách cưỡng bức, bắt họ phải theo.

2. Ý nghĩa của tác phẩm “Đời sống mới” đối với rèn luyện cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay

Trong thời đại ngày nay với sự bùng nổ của khoa học công nghệ cùng với sự phát triển toàn cầu hóa đã thúc đẩy sự đổi mới nhanh và mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sự đổi mới là nhu cầu tất yếu khách quan, là yếu tố không thể tách rời đối với tổ chức và người lãnh đạo, quản lý. Đứng trước những cơ hội thách thức đó, những chỉ dẫn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đổi mới trong tác phẩm “Đời sống mới” có ý nghĩa sâu sắc và kinh nghiệm quan trọng với cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay:

Một là, người lãnh đạo, quản lý luôn phải có tầm nhìn về sự đổi mới

Là người đứng đầu tổ chức, người lãnh đạo, quản lý luôn cần nhìn nhận rõ sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài (kinh tế, chính sách pháp luật, xã hội, công nghệ...), và các yếu tố nội bộ (như nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất, thông tin...), nhận định các xu hướng phát triển, những nguy cơ hoặc cơ hội mà các yếu tố đó có thể ảnh hưởng tới tổ chức, để từ đó xây dựng tầm nhìn của tổ chức, đồng thời cụ thể hóa tầm nhìn đó thành các chiến lược dài hạn, kế hoạch ngắn hạn.

Khi người lãnh đạo, quản lý có tầm nhìn dài hạn về sự đổi mới, người lãnh đạo, quản lý sẽ chủ động tạo ra những thay đổi ngắn hạn và dài hạn trong tổ chức. Những thay đổi trong ngắn hạn sẽ phục vụ cho những thay đổi trong dài hạn, những thành công ngắn hạn sẽ cổ vũ cá nhân, tổ chức thay đổi theo đúng định hướng đề ra. Điều này sẽ giúp những thay đổi trong tổ chức sẽ diễn ra một cách tự nhiên và dễ dàng hơn, đồng thời, sẽ xóa bỏ tâm lý không thích thay đổi, ngại thay đổi của con người. Việc thay đổi theo lộ trình như này cũng sẽ giúp tổ chức có thời gian để chọn lọc và kế thừa những giá trị tiến bộ của tổ chức, cải tiến những giá trị cũ và xóa bỏ những giá trị không còn phù hợp một cách tự nhiên trong tổ chức.

Đổi mới phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn khách quan, vì lợi ích, vì sự phát triển của tổ chức. Đối với tổ chức công, sự đổi mới của tổ chức còn vì sự phát triển của đất nước, của sự phát triển của tiến bộ xã hội, phục vụ nhu cầu ngày càng cao của đời sống nhân dân, vì vậy người lãnh đạo, quản lý cần công tâm, khách quan, tránh việc tư lợi cá nhân, lợi ích nhóm trong quá trình đổi mới. 

Hai là, luôn phát huy tính dân chủ trong tổ chức

Khi người lãnh đạo, quản lý có kế hoạch làm bất cứ điều gì, dù là kế hoạch dài hạn, trung hạn hay ngắn hạn đều phải phát huy tính dân chủ. Việc bàn bạc, thảo luận, cùng với các đơn vị, các cá nhân trong tổ chức sẽ giúp kế hoạch trở nên thiết thực, cụ thể và đi sát thực tiễn, đồng thời chuyển hóa kế hoạch lớn thành các kế hoạch nhỏ phù hợp với lợi ích của cá nhân, vừa đưa lợi ích của cá nhân phục vụ lợi ích của tập thể. Dân chủ cũng giúp mọi người trong tổ chức có cái nhìn tích cực về sự đổi mới, đồng thời xác định được vị trí, vai trò của mình trong sự đổi mới đó.

Người lãnh đạo, quản lý cần cũng cần có kế hoạch, yêu cầu, hướng dẫn sự đổi mới một cách cụ thể cho từng đối tượng, cá nhân, xác định rõ ai, làm gì, làm như thế nào, yêu cầu kết quả đạt được ra sao. Việc mô tả, diễn giải công việc càng chi tiết, càng dễ hiểu, dễ hình dung, gắn với công việc cụ thể từng người, từng cơ quan, đơn vị và có thể thực hiện được ngay thì việc triển khai càng nhanh chóng và đạt được mục tiêu đề ra. Và cuối cùng, khi sự đổi mới thành công, những kết quả đạt được từ sự đổi mới sẽ là những lợi ích mà tất cả cá nhân, tập thể trong tổ chức đều được hưởng.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền và nêu gương

Tuyên truyền: trong việc tổ chức thực hiện sự đổi mới cần chú trọng đến biện pháp tuyên truyền, động viên, thuyết phục, làm sao để mọi người, mọi bộ phận trong tổ chức phải biết, phải hiểu phải tin vào cái mới thì mới có thể triển khai đồng bộ sự đổi mới bên trong tổ chức. Trong công tác tuyên truyền “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ” mà “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”.

Hiểu được tâm lý ngại thay đổi, không thích thay đổi nên người lãnh đạo, quản lý phải thực hiện tuyên truyền thường xuyên, liên tục, đơn giản, thiết thực, dưới mọi hình thức khác nhau để mọi cá nhân đều hiểu, khi hiểu rồi thì mọi người sẽ ý thức và vui lòng làm, khi làm mà thấy hiệu quả rồi thì tự giác mọi người sẽ nghe theo. Trong giai đoạn này không nên nóng vội, chủ quan mà thúc ép, bắt buộc mọi người phải thay đổi sẽ gây tâm lý tiêu cực, thù ghét, thậm chí chống lại sự đổi mới. 

Nêu gương: trong tổ chức thực hiện, người lãnh đạo, quản lý cần phải hành động, không chỉ tuyên truyền mà phải chú trọng vào việc làm, nhất là sự nêu gương. Từ những việc làm cụ thể của người lãnh đạo, quản lý sẽ toát lên tư tưởng của sự đổi mới và thúc đẩy mọi người làm theo, một tấm gương sáng còn quý hơn một trăm bài diễn văn. Nói phải đi đôi với làm, làm được thì lời nói mới có trọng lượng, mọi người mới nghe và làm theo. Trong quá trình tổ chức thực hiện, người lãnh đạo, quản lý cần phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích mọi người tích cực hoàn thành nhiệm vụ của mình, thậm chí trực tiếp hỗ trợ hoặc phân công những người tiến bộ giúp đỡ, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của cá nhân trong quá trình thực hiện sự đổi mới. Vì vậy, người lãnh đạo, quản lý luôn cần phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”, “phải thật thà nhúng tay vào việc”, sát sao, quan tâm, giúp đỡ mọi người trong công việc.

Khi sự đổi mới bắt đầu có hiệu quả, người lãnh đạo, quản lý cần phải xây dựng thành phong trào, được thực hành rộng rãi và có ảnh hưởng, sức lan tỏa mạnh mẽ tới từng người, từng bộ phận trong tổ chức, đồng thời, với những số ít người không chịu thay đổi, họ sẽ buộc phải tuân theo hoặc sẽ tự bị đào thải. Từ đó, những giá trị mới dần dần sẽ được hình thành trong tổ chức và chuyển hóa vào trong văn hóa tổ chức. 

Kết luận

Tác phẩm “Đời sống mới” là những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm xây dựng đời sống văn hóa tốt đẹp cho nhân dân, nhưng chứa đựng bên trong nó là những lý luận, giá trị khoa học về đổi mới. Những quan điểm này “...là lý luận được phát hiện và khái quát lên từ kinh nghiệm nhưng vượt qua kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh nghiệm tiến tới lý luận, làm cho kinh nghiệm được lý luận hóa...”. Đây cũng có thể được coi là cuốn cẩm nang dễ hiểu nhất cho lãnh đạo, quản lý trong việc dẫn dắt sự nghiệp đổi mới hiện nay./.

LÊ QUANG HIỂN

Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam

Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị (28-6-1972 - 16-9-1972) là một trong những biểu hiện sinh động nhất cho khát vọng độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại.

Các chiến sĩ giải phóng dũng cảm đánh phá đồn địch trên điểm cao 365 (huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị)_Ảnh: TTXVN

Là địa đầu của hai chiến tuyến, tỉnh Quảng Trị nói chung, thị xã Quảng Trị, đặc biệt là Thành cổ nói riêng trở thành nơi tập trung sự quan tâm đặc biệt cả về quân sự, chính trị và ngoại giao. Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị “với phương thức tác chiến phòng ngự, bảo vệ một mục tiêu có tính chất chiến lược trong thời điểm có tính nhạy cảm, với điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch chênh lệch nhau nhiều cả về số quân, trang bị vũ khí hiện đại, phương tiện vật chất trong một thời gian dài, là một thành công đặc biệt xuất sắc”. Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm giữ vững Thành cổ trở thành sự kiện quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari, mở đường cho đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, khẳng định lòng yêu nước nhiệt thành, sự hy sinh cao cả cho chính nghĩa, vì sự nghiệp vĩ đại của nhân dân Việt Nam.

Kiên cường chiến đấu với tương quan lực lượng chênh lệch

Sau khi để mất Quảng Trị, Tổng thống Mỹ Ních-xơn một mặt ra lệnh cho Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu phải chiếm lại tỉnh Quảng Trị, một mặt “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh để cứu vãn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đang có nguy cơ sụp đổ. Để ngăn chặn quân ta phát triển tiến công vào phía nam, chính quyền Sài Gòn lập tức tăng quân và hỏa lực, nhanh chóng củng cố tuyến phòng ngự phía nam sông Mỹ Chánh. Đồng thời, lập tuyến phòng ngự phía tây đường 12 để ngăn chặn quân ta tiến công vào Huế nhằm bảo toàn lực lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc phản công lại ở Quảng Trị. Với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, để chắc thắng, Nguyễn Văn Thiệu đã huy động lực lượng tham gia chiến dịch mạnh nhất. Lực lượng phản công gồm: 1 sư đoàn dù, 1 sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, sư đoàn 1 bộ binh, trung đoàn 4 thuộc sư đoàn 2 bộ binh. “Tổng lực lượng gồm 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn và nhiều đơn vị công binh, không quân, hải quân của quân khu 1 hỗ trợ”. Đặc biệt, Mỹ tăng gấp 2 lần số máy bay ném bom chiến lược B52, triển khai lại các lực lượng không quân và hải quân chi viện hỏa lực trực tiếp với mật độ cao và cường độ rất lớn cho cuộc phản công. Chính quyền Sài Gòn hy vọng sẽ nhanh chóng chiếm lại thị xã, cắm cờ lên Thành cổ trước ngày 10-7-1972. Đến ngày 27-6-1972, “địch đã chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt cho cuộc tiến công lớn ra vùng giải phóng nhằm chiếm mục tiêu trước mắt là thị xã và Thành cổ Quảng Trị”.

Trước hành động của địch, ngày 27-6-1972, Quân ủy Trung ương thông báo cho Bộ Tư lệnh chiến dịch các hoạt động khẩn trương chuẩn bị tiến công ra Quảng Trị của địch và chỉ thị biện pháp đánh địch của ta phối hợp với đấu tranh ngoại giao. Tối 28-6-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm: “Chuyển từ chiến dịch tiến công sang chiến dịch phản công nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giữ vững vùng giải phóng, đánh bại cuộc hành quân của địch và phát triển lúc thời cơ có lợi”. Bộ Tư lệnh chiến dịch đã bố trí lực lượng gồm các Sư đoàn 308 (trung đoàn 36, 102, 66, Tiểu đoàn 2 độc lập); 304 (trung đoàn 24, 9, 88, Tiểu đoàn đặc công 35); 320B (trung đoàn 27, 64, 18, các tiểu đoàn 14, 47 địa phương) có nhiệm vụ ngăn chặn các hướng tiến công của địch; Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương và 3 tiểu đoàn phòng không có nhiệm vụ bảo vệ khu vực thị xã Quảng Trị, La Vang, Ái Tử. Cùng với việc tổ chức lực lượng ở các hướng chiến lược, việc tổ chức sơ tán cho nhân dân ra khỏi vùng có chiến sự ác liệt được thực hiện khẩn trương. Trong một thời gian ngắn, ta đã đưa được “8 vạn dân thị xã và hai huyện Thiệu Phong, Hải Lăng… đến các nơi an toàn”. Trước khi bước vào trận chiến mới, mọi công tác chuẩn bị về lực lượng và thế trận chiến đấu của ta cơ bản hoàn thành. Tuy nhiên, thực tế lúc đó do ta chưa nắm chắc và chưa lường hết âm mưu, thủ đoạn và quyết tâm của địch là tái chiếm lại Quảng Trị, nên ta vẫn chưa có kế hoạch phòng ngự, giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị. Do đó, lực lượng ban đầu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị do Trung đoàn 48 đảm nhiệm là chính.

Tác chiến phòng ngự, bảo vệ một mục tiêu có tính chất chiến lược, trong một thời điểm chiến lược với điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch chênh lệch nhau khá lớn trong một thời gian dài, “là một thành công đặc biệt xuất sắc của các lực lượng vũ trang bảo vệ thị xã, Thành cổ và các lực lượng hiệp đồng tác chiến ở vòng ngoài”. Vào thời điểm quân ta rút khỏi Thành cổ, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã điện khen: “Cán bộ, chiến sĩ ta rất dũng cảm, nhiệm vụ đã hoàn thành. Lịch sử chống ngoại xâm, giữ Thành lâu như thế, ông cha ta ít làm”.

Kiên cường bám trụ, bảo vệ từng tấc đất Thành cổ

Với mục tiêu trước ngày 10-7-1972 cắm cờ lên Thành cổ để phục vụ ý đồ ép ta ở Hội nghị Pari, dự định họp lại vào ngày 13-7-1972 sau nhiều lần trì hoãn, địch điên cuồng đánh phá. Đây là cuộc hành binh đẫm máu, cực kỳ tàn bạo với đủ loại vũ khí hiện đại, từ bom phá, bom napan, bom lân tinh, bom bi, bom 7 tấn, bom điều khiển bằng lade đến các loại pháo chơm, pháo khoan, chất độc hoá học và hơi ngạt… Nhằm mục đích hỗ trợ cho tinh thần quân ngụy, ngoài máy bay chiến thuật, chiến lược oanh tạc theo yêu cầu của bộ binh ở tiền duyên, Mỹ còn cho pháo hạm, pháo mặt đất tầm xa bắn tới hai vạn viên đạn suốt một ngày. Với chiến thuật “chậm chắc” mỗi khi gặp quân ta, quân địch dừng lại, đội bom, pháo vào rồi mới tổ chức tiến công tiếp.

Suốt 81 ngày đêm, ngày nào địch cũng tiến hành rất nhiều trận đánh bằng bom pháo, bằng bộ binh có xe tăng, xe thiết giáp, xe phun lửa yểm trợ cho lính dù, lính thuỷ đánh bộ, lính biệt động tiến công, chỉ xoay quanh một tòa thành không đầy 300.000m2, trong một thị xã với diện tích gần 4km2, nhà cửa đổ nát, không một bóng người… Trong khi đó, quân ta, trừ mấy tiểu đoàn của Tỉnh đội Quảng Trị, đại bộ phận đều chưa thông thạo địa hình, phải vừa đánh vừa quan sát hiệp đồng nhưng đã phát huy trí thông minh của từng cấp mà tạo ra cách đánh phù hợp, không chịu phòng thủ thụ động mà liên tục cải thiện thế phòng thủ, vừa giữ chốt vừa xuất kích phản kích, tập kích tìm địch mà đánh. Chính cách đánh sáng tạo của ta đã tạo ra “cái tốc độ rùa bò” 81 ngày đêm từ sông Mỹ Chánh tới Thành cổ của những lực lượng cơ động chiến lược hàng đầu của địch.

Trước sức mạnh tàn phá, huỷ diệt điên cuồng của địch, có ngày “địch đã trút vào mảnh đất nhỏ hẹp này 13.000 đạn pháo, hàng ngàn tấn bom… Tính bình quân, mỗi người dân phải chịu 250 quả đạn pháo”. Tuy nhiên, quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị về ý nghĩa cuộc chiến đấu ở Quảng Trị là “trận quyết chiến có tầm quan trọng lớn về chính trị và về chiến lược”, chúng ta đã kiên cường bám trụ, nhiều trận phản kích đẫm máu của bộ đội ta diễn ra dưới chân Thành cổ. Ngay từ những ngày đầu chiến dịch phòng ngự Thành cổ Quảng Trị, có thời điểm “các chiến sĩ Trung đoàn 48 đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm “1 chọi 100” đánh quỵ Lữ đoàn 2 dù”. Trong trận địa đang nghiêng ngả, chao đảo vì bom đạn của địch, bộ đội ta vẫn kiên cường đánh trả. Trong đó, “có ngày Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 3 đánh lui 13 đợt tiến công của địch. Chiến sĩ Phan Văn Ba (Tiểu đoàn 3) bị thương nát một bàn tay vẫn kiên quyết xin ở lại chiến đấu”. Tình trạng thiếu thốn, khó khăn do tiếp tế vũ khí đạn dược, hậu cần gặp khó khăn như giai đoạn “đầu tháng 8, chiến sĩ ta phải sống bằng lương khô, nước lã, bắn dè xẻn từng viên đạn trong vòng vây địch” cũng không làm nhụt ý chí, quyết tâm của bộ đội ta.  

Tuy nhiên, do hỏa lực của địch quá mạnh, phòng tuyến vòng ngoài của ta bị vỡ dần. Từ đầu tháng 9-1972, cuộc chiến đấu đã diễn ra vô cùng ác liệt trong lòng thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Ta và địch giành nhau từng căn nhà, góc phố, từng mảng tường Thành cổ. Thời tiết lúc này không thuận lợi, áp thấp nhiệt đới liên tục xảy ra, nước sông Thạch Hãn dâng cao, cả thị xã chìm trong biển nước. Lợi dụng tình hình đó địch tăng cường bắn phá vào công sự của ta. Các chiến sĩ của ta vừa thay nhau tát nước chống ngập công sự, vừa chống trả địch, suốt ngày ngâm mình trong nước, ăn lương khô, uống nước lã nên sức khoẻ giảm sút, thương vong rất lớn. Trước tình thế đó, quân ta được lệnh rút lui sang sông Thạch Hãn vào 18 giờ, ngày 16-9-1972.

Từ một thị xã nhỏ ít ai biết đến, Quảng Trị trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của nhân dân cả nước và thế giới bởi sự hung bạo của kẻ thù và tinh thần anh dũng vô song của đồng bào, chiến sĩ ta. Địch đã huy động vào đây những sư đoàn thiện chiến nhất, những đơn vị binh chủng được trang bị tối tân, hiện đại nhất, được chi viện tối đa hỏa lực với khối lượng bom đạn tương đương “7 quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima”. Nhưng quân ta đã làm chủ thị xã trong một thời gian dài, “diệt hơn 24.000 tên địch, phần lớn là quân dù và thuỷ quân lục chiến, bắn rơi 180 máy bay, phá huỷ 140 xe quân sự trong đó có 90 xe tăng, xe bọc thép, 20 khẩu pháo cùng nhiều đồ dùng quân sự khác. Riêng lực lượng vũ trang tỉnh từ 28-6-1972 đến 16-9-1972 đã đánh 642 trận…”. Không có sự so sánh nào nói lên hết sự khốc liệt của chiến tranh nhưng “nếu đem so với tất cả các trận đánh phòng ngự đô thị đã diễn ra trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam thì đây là đợt tác chiến dài ngày nhất và cũng là quyết liệt nhất”. Tất cả sự hy sinh ấy đều vì độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.

Sáng ngời chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”

Trải qua 81 ngày đêm chiến đấu (thời gian kéo dài gấp tám lần dự kiến ban đầu của Mỹ - ngụy), phải chịu đựng hàng trăm ngàn tấn bom đạn các loại, nhưng với ý chí “bộ đội còn, Quảng Trị còn”, nhiều trận đánh giáp lá cà để giành giật từng căn hầm, đoạn hào, điểm chốt với địch, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ trên mặt trận Quảng Trị đã thực sự trở thành một tập thể anh hùng. Tinh thần, nghị lực, ý chí chiến đấu trong 81 ngày đêm dưới mưa bom, bão đạn khốc liệt của kẻ thù, các đơn vị bộ đội của ta đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, kiên cường bám trụ, chốt giữ và giành giật với địch từng mét chiến hào, từng đống đổ nát; mưu trí, linh hoạt, phát hiện và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thậm chí tiêu diệt cả những bộ phận nhỏ, lẻ, bí mật lẻn vào bằng đường hầm nhằm cắm cờ trên Thành cổ. Qua gần 3 tháng chiến đấu anh dũng, kiên cường, các lực lượng hoàn thành nhiệm vụ chiến lược được giao, làm thất bại ý đồ nhanh chóng “tái chiếm Thành Cổ” của Mỹ - ngụy, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ đấu tranh chính trị, ngoại giao.

Hơn 4.000 anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu và nằm lại nơi Thành cổ, tinh thần kiên cường chiến đấu và niềm tin quyết thắng của những người lính khi tuổi còn đôi mươi đã khẳng định ý chí sắt đá của con người trước bom đạn và điều kiện sống khắc nghiệt nhất của chiến tranh. Sự hy sinh của họ là câu trả lời ngắn gọn, rõ ràng nhất, cảm động nhất, thức tỉnh lương tri nhân loại về khát vọng cháy bỏng “độc lập, tự do, thống nhất” cho cả dân tộc. Sự hy sinh ấy đã làm sáng ngời chân lý: cái chết không làm chùn bước những người con yêu nước, vũ khí của kẻ thù dù có tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có ý chí thép gang và lòng quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc tập, tự do là khát vọng của cả dân tộc và để có độc lập, tự do thì họ sẵn sàng đánh đổi tính mạng của mình, chấp nhận và khắc phục mọi khó khăn, trở ngại về điều kiện sống, như lời của Tổng Bí thư Lê Duẩn trong lần về thăm Thành cổ đã viết: “Chúng ta đã chịu đựng được không phải vì chúng ta là gang thép, vì gang thép cũng chảy với bom đạn của chúng. Mà chính chúng ta là những con người, những con người thật sự - những con người Việt Nam, với truyền thống 4.000 năm đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại”. Chính tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, thống nhất và một cuộc sống hoà bình, với ý thức về cội nguồn dân tộc đã khiến sức mạnh con người chiến thắng sự tàn phá của vũ khí, bom đạn ác liệt của kẻ thù.

Giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc cho thế hệ trẻ (Trong ảnh: Các em học sinh tiểu học tham quan Di tích quốc gia đặc biệt Thành cổ Quảng Trị)_Nguồn: vnexpress.net

Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm oanh liệt đã góp phần quan trọng đánh bại những cố gắng cao nhất của Mỹ - ngụy, tác động trực tiếp đến Hội nghị Pari. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari được ký kết, những hy sinh của quân và dân ta trong 81 ngày đêm ấy, cùng với những chiến công khác trong năm 1972 đã phần nào được hiện thực hoá trong Hiệp định. Tuy nhiên, nhân dân ta vẫn phải tiếp tục đấu tranh hai năm gian khổ, mất mát, hy sinh mới tới ngày toàn thắng năm 1975 và được sống trong nền độc lập, tự do mà cả dân tộc cùng đoàn kết đồng lòng, đánh đổi bằng rất nhiều máu xương để giành lại.

Ý chí, khát vọng độc lập tự do của dân tộc được hiện thực hóa bằng sự hy sinh của quân và dân ta trong 81 ngày đêm kiên cường bám trụ bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Đó cũng là ý chí chung của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ 21 năm. Sau ngày toàn thắng 30-4-1975, non sông thu về một mối, đất nước ta bắt tay vào khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

81 ngày đêm “hoa lửa” bảo vệ Thành cổ Quảng Trị đã trở thành huyền thoại. Sự hy sinh, mất mát của quân dân cả nước nói chung, quân dân Quảng Trị nói riêng làm sáng ngời chân lý “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” và “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Từ trong bom đạn ấy, hàng nghìn tấm gương anh hùng liệt sĩ đã trở thành những bài học thực tiễn sinh động về lòng quả cảm, về chủ nghĩa yêu nước, về truyền thống anh hùng cách mạng. Trên cơ sở đó, chúng ta tiếp tục “giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”… để thế hệ trẻ hôm nay thêm tự hào, kính trọng, biết ơn lớp lớp cha anh đi trước, nguyện tiếp nối truyền thống quý báu ấy của dân tộc; đồng thời, thấm nhuần tư tưởng “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam”(18) để đóng góp sức mình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phát triển giàu mạnh, tự lực, tự cường./.

ST.

Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược nhằm củng cố niềm tin của nhân dân, giữ gìn uy tín, thanh danh của Đảng (Kỳ 1)

Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược luôn có vai trò đặc biệt quan trọng, là “tinh hoa của Đảng”, luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sự tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ này trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống luôn tạo ra ảnh hưởng chính trị lớn, có sức lan tỏa, truyền cảm hứng mạnh mẽ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ, giữ gìn uy tín, thanh danh của Đảng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tại lễ hội Đền Hùng _Ảnh: Tư liệu

Vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược

Hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, theo cách hiểu phổ biến, bao gồm lãnh đạo các cơ quan của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, là các chức danh thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Đội ngũ này có vị trí, vai trò then chốt, đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, điều hành các công việc chủ chốt, đề ra chủ trương, chính sách lãnh đạo có ảnh hưởng sâu rộng, quyết định đến sự phát triển của đất nước, dân tộc. Do vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược luôn có tầm quan trọng đặc biệt trong công tác cán bộ, quyết định đến vận mệnh của Đảng và sự phát triển của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cán bộ là gốc của mọi công việc. Trong đội ngũ cán bộ, cán bộ cấp chiến lược là gốc của cái gốc đó, là lực lượng nòng cốt, là nhân tố quan trọng nhất trong bộ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức chính trị - xã hội. Cán bộ cấp chiến lược là người có đủ phẩm chất và năng lực để tham gia xây dựng và lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, nhiệm vụ ở tầm chiến lược. Do đó, cán bộ cấp chiến lược có vị thế, vai trò quan trọng đối với công tác lãnh đạo, chỉ đạo; duy trì, khẳng định uy tín, thanh danh của Đảng và qua đó, thể hiện một cách sinh động, cụ thể năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội; đồng thời, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Không phải ngẫu nhiên mà Đảng ta lại dành sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Sự quan tâm, chú trọng đặc biệt của Đảng đến đội ngũ cán bộ cấp chiến lược chính là vì đội ngũ cán bộ này, một mặt, là những người tham gia trực tiếp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước ta; trực tiếp tổ chức ở tầm vĩ mô việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, sự tiên phong, gương mẫu của các cán bộ này trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống là tấm gương sáng, tạo ra ảnh hưởng chính trị lớn, có sức lan tỏa, truyền cảm hứng, động viên tinh thần sâu rộng trong toàn Đảng, trong bộ máy nhà nước và toàn xã hội; qua đó, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Ở chiều ngược lại, nếu chỉ một vài người trong đội ngũ này vi phạm, dù vi phạm ở mức độ nào đi chăng nữa, thì cũng sẽ gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, thanh danh của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và gây tác động tiêu cực, tạo ra sự hồ nghi nhất định đối với năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Vai trò của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược còn thể hiện ở chỗ: Cán bộ cấp chiến lược là người có năng lực phát hiện, lựa chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài; lựa chọn, giới thiệu với cấp có thẩm quyền để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình. Cán bộ cấp chiến lược xác lập uy tín bằng hiệu quả công tác thực tiễn, bằng việc thực hiện nghiêm các quy định về thực hành dân chủ ở cơ sở, tiếp dân, đối thoại với nhân dân; thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”, nắm bắt và giải quyết thỏa đáng, kịp thời tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân. 

Đặc biệt, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Nếu cán bộ cấp chiến lược có năng lực nổi bật trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng ở tầm vĩ mô, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới, thì sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Đồng thời, nếu đội ngũ này có năng lực dự báo tốt, có tầm nhìn xa, tư duy chiến lược và khả năng ứng phó nhạy bén trước các thách thức, diễn biến rất nhanh, khó lường của tình hình trong nước và thế giới, trên cơ sở bám sát và xuất phát từ thực tiễn; có năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng; kiên quyết khắc phục yếu kém, trì trệ, không né tránh trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện... thì sẽ góp phần củng cố, tăng cường năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Không chỉ thế, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược còn có vai trò và trách nhiệm quan trọng trong tham gia phát triển, nâng tầm lý luận, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận, cung cấp luận cứ khoa học, lý luận nền tảng cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các chiến lược phát triển quốc gia trong tầm nhìn dài hạn.

Nhấn mạnh tới vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, “...[đội ngũ cán bộ cấp chiến lược] là tinh hoa của Đảng, đòi hỏi phải thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và có uy tín cao để giải quyết những công việc ở tầm chiến lược, xử lý kịp thời, đúng đắn, có hiệu quả những tình huống phức tạp có quan hệ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, sự sống còn của chế độ. Thực tế cho thấy, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là vào những thời điểm quyết định hoặc có tính bước ngoặt lịch sử, vận nước đặt tất cả vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược”.

Để củng cố niềm tin của nhân dân, giữ vững uy tín, thanh danh của Đảng, phấn đấu và xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu cầu đặt ra là rất cao đối với đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đòi hỏi họ có năng lực ở trình độ cao và đặc biệt, như tư duy chiến lược, nắm bắt cục diện chiến lược, tầm nhìn dài hạn và dự báo khoa học, nhạy bén trong nhận diện và nắm bắt thời cơ, có khả năng kiến tạo các giá trị mới và quy tụ, đoàn kết, truyền cảm hứng và tuyên truyền cho mọi người trong Đảng và ngoài xã hội hiểu rõ và thực hiện được các giá trị đó. Đồng thời, họ còn phải thực hiện trách nhiệm nêu gương, thường xuyên có ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, “tự soi”, “tự sửa”, có khả năng vượt qua cám dỗ, cạm bẫy, mặt trái, tiêu cực xuất hiện trong điều kiện Đảng ta là một đảng duy nhất cầm quyền, đất nước ta đang đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay. Thực tế cũng chứng tỏ, khi người cán bộ cấp chiến lược nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, có được uy tín trong Đảng và trong nhân dân, được đồng chí, đồng bào quý trọng, yêu mến, thì đó là niềm hạnh phúc, tự hào rất to lớn của bản thân và của tổ chức đảng. Uy tín đó đến từ sự hết lòng, hết sức vì công việc, luôn luôn đặt lợi ích của tập thể, lợi ích chung lên trên hết, trước hết; không vụ lợi, chỉ thu vén lợi ích cho cá nhân, gia đình, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mưu lợi riêng; gương mẫu trong mọi việc; luôn luôn đề cao trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân; thật sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, dám vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực hành động vì lợi ích chung; không quan liêu, xa dân, không tham nhũng, lãng phí, tiêu cực hoặc để người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để trục lợi, có hành vi vi phạm pháp luật.

Niềm tin, sự ủng hộ của nhân dân - cội nguồn sức mạnh, “thước đo” uy tín, thanh danh của Đảng

Nhân dân dành cho Đảng niềm tin yêu, trước hết là bởi Đảng ta trong suốt quá trình đấu tranh, lãnh đạo của mình đã luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập cho dân tộc, tự do và hòa bình cho Tổ quốc, quyền sống và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập trước đây, biết bao nhiêu đảng viên của Đảng đã vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân mà không quản ngại, sẵn sàng xả thân, hy sinh anh dũng trong mưa bom, bão đạn và giữ vững khí phách, niềm tin vào lý tưởng của Đảng, không đầu hàng trước bất kỳ ngón đòn tra tấn cực kỳ dã man, tàn bạo nào của kẻ thù, khiến cho đến kẻ thù hung ác cũng phải nể phục và khiếp sợ. Họ là những tấm gương sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tạo lập nên uy tín và thanh danh của Đảng đối với các tầng lớp nhân dân. Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, không phải tự nhiên mà Đảng có được uy tín, thanh danh, niềm tin to lớn của nhân dân. Nguyên nhân chủ yếu là bởi “Đảng ta là đảng cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Vì vậy mà Đảng ta được dân tin, dân phục, dân yêu”. Đồng thời, chính những tấm gương sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân đã có sức lay động, lan tỏa mạnh mẽ, tạo dựng uy tín, phẩm cách, danh dự và thanh danh của Đảng. Và nhờ có được uy tín, thanh danh to lớn ấy mà Đảng ta đã giành trọn sự tin tưởng, niềm tin yêu và đáp ứng được sự kỳ vọng của nhân dân ngay trong những thời kỳ đấu tranh cách mạng đầy gian khó, hiểm nguy nhất. Cũng vì lẽ đó mà ngay từ khi mới ra đời, tuy còn non yếu, nhưng vì được nhân dân hết mực tin yêu, ra sức bảo vệ, đùm bọc, che chở, nuôi dưỡng mà Đảng ta đã vượt qua những thời khắc sinh tử, ngày càng trưởng thành và phát triển lớn mạnh như ngày hôm nay.

Sở dĩ Đảng ta có được uy tín, thanh danh và niềm tin yêu ấy của nhân dân ngay từ khi mới ra đời, còn là vì hình ảnh của Đảng luôn gắn liền với hình ảnh Bác Hồ - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta; đồng thời, cũng bởi Người luôn có uy tín, ảnh hưởng và vai trò cá nhân to lớn đối với phong trào cách mạng trong nước và trên trường quốc tế. Người là tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân, đã để lại muôn vàn tình cảm thân yêu cho các tầng lớp nhân dân và đã được nhân dân tin yêu, ngưỡng mộ, gửi gắm trọn vẹn tình cảm của trái tim mình.

Sinh thời, qua kinh nghiệm hoạt động, đấu tranh cách mạng vô cùng phong phú và gian khổ ở trong nước và quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhìn thấy rõ, thấu hiểu và thấu cảm sâu sắc sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, đúc rút các bài học có tính chân lý: “Nước lấy dân làm gốc”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu/ Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Tư tưởng vì dân, trọng dân, tin dân, thân dân và thương dân ấy là tư tưởng lớn, chủ đạo, xuyên suốt và nhất quán trong toàn bộ cuộc đời, trong tình cảm và hoạt động của Người, kể từ khi bước chân ra đi tìm nước cứu nước cho đến tận những giây phút cuối cùng. Tư tưởng ấy được thể hiện kết tinh trong bản Di chúc thiêng liêng mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Chính niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào Bác Hồ, các lãnh tụ tiền bối của Đảng và những đảng viên tiên phong, gương mẫu, đặc biệt là lớp lớp cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược tài giỏi, đức độ, đã tạo nên uy tín, sức mạnh vô cùng lớn lao của Đảng. Niềm tin sắt son ấy là cội nguồn sức mạnh to lớn và trường tồn của Đảng, đem lại những thắng lợi vẻ vang, những chiến công hiển hách trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước đây và tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cho đất nước ta trong thời kỳ đổi mới ngày nay. Chính vì vậy, những hy sinh, phấn đấu của đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam góp phần quan trọng nâng cao uy tín, thanh danh của Đảng trước nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Theo Người, muốn cho dân tin, cán bộ, đảng viên phải thanh khiết, thấm nhuần đạo đức cách mạng. Đạo đức đó phải được hiện thực hóa bằng việc làm cụ thể, bằng tấm gương sống động. Thông qua những tấm gương đạo đức sống động thì nhân dân mới tin tưởng ở cán bộ, đảng viên; từ đó, nhân dân mới thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng theo Đảng, tạo ra sức mạnh làm nên những thành tựu to lớn trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Một khi nhân dân đã tin thì sẽ luôn ủng hộ Đảng, Chính phủ và đến lượt mình, sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân đã giúp cho chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được hiện thực hóa, tạo ra và khẳng định uy tín, vị thế, tiềm lực mới, sức mạnh mới của dân tộc ta trên trường quốc tế trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.

Niềm tin của nhân dân không chỉ là cội nguồn sức mạnh, mà còn là “thước đo” uy tín, thanh danh của Đảng trong hơn 94 năm qua. Thực tế cho thấy, chỉ khi nào có được niềm tin yêu của nhân dân, sự ủng hộ của nhân dân thì Đảng mới thực sự vững mạnh, đất nước trường tồn, phát triển mạnh mẽ; còn khi nào niềm tin ấy suy giảm thì Đảng không thể vững mạnh và đất nước gặp nhiều khó khăn, thậm chí còn rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy, toàn Đảng và mỗi đảng viên của Đảng, nhất là đội ngũ lãnh đạo cấp cao, cấp chiến lược, cần quán triệt thật sâu sắc về vị thế, vai trò, sức mạnh của nhân dân; có ý thức trách nhiệm cao trong công tác, thường xuyên trau dồi, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, nguyện suốt đời phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân, chăm lo củng cố và giữ vững niềm tin của nhân dân; từ đó, mới tạo ra được sức mạnh nội lực tổng hợp, bền vững để lãnh đạo, phát triển đất nước đạt tới nhiều thành công hơn nữa trong giai đoạn tiếp theo. 

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi nhân dân khu vực dự án cao tốc Cần Thơ - Cà Mau_Ảnh: TTXVN

Trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trong phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, giữ gìn hình ảnh tốt đẹp để củng cố niềm tin của nhân dân và uy tín, thanh danh của Đảng

Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến việc phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp cách mạng. Theo Người, tính tiên phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên nói chung và của cán bộ lãnh đạo cấp cao nói riêng phải được quán triệt, thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, để làm gương cho nhân dân noi theo. Đó là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trước nhân dân. Cán bộ giữ cương vị, trọng trách càng cao càng phải chăm lo giữ gìn hình ảnh tốt đẹp, thực hiện trách nhiệm nêu gương trong mọi công việc và cả trong đời sống thường nhật. Tuy nhiên, phẩm chất đó không thể tự nhiên mà có, mà phải do chính người cán bộ, đảng viên thường xuyên có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện hằng ngày, thông qua quá trình phấn đấu không mệt mỏi và đầy gian nan, vì phải tự đấu tranh với chính bản thân mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Người đảng viên - dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp - ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng... Mà muốn cho quần chúng hăng hái thi hành, thì người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt chước, làm theo”. Mặt khác, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên tiên phong, gương mẫu còn bởi vì, họ chính là những người nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vì thế, phải luôn tâm niệm “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, hăng hái dẫn dắt quần chúng trong phong trào cách mạng. Cán bộ, đảng viên có vai trò là người dẫn dắt quần chúng và vì thế, muốn quần chúng tin tưởng, làm theo thì bản thân phải là tấm gương sáng, phải “cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc”.

Quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong Điều lệ Đảng, Đảng ta khẳng định: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”. Xuất phát từ vị thế, vai trò của mình, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược càng phải tự ý thức trước Đảng và dân tộc, nỗ lực phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh xưng “đảng viên” cao quý đó và có trách nhiệm nêu gương cho đảng viên trong toàn Đảng noi theo. Trước khi trở thành cán bộ cấp chiến lược, giữ những trọng trách, cương vị quan trọng trong Đảng, Nhà nước thì trước hết, họ luôn là đảng viên và phải thấm nhuần, quán triệt nội dung Điều lệ Đảng và hơn thế, càng phải có ý thức cao trong suy nghĩ và hành động, luôn phấn đấu vì lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng và vì hạnh phúc của nhân dân.

Uy tín, phẩm cách của mỗi đảng viên tạo nên uy tín, thanh danh của Đảng; do vậy, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược phải luôn trau dồi khả năng “tự phản tư” về trách nhiệm chính trị trước Đảng và nhân dân, thường xuyên có ý thức nâng cao nhận thức, rèn luyện, tu dưỡng để củng cố, giữ gìn hình ảnh của người đảng viên. Vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, “chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng". Uy tín và hình ảnh tốt đẹp của người cán bộ, đảng viên phải xuất phát từ sự tận tụy, hết lòng, hết sức vì việc công, “dĩ công vi thượng”, không tơ hào, vun vén cho lợi ích bản thân và gia đình mình, thật sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, không quan liêu, xa cách và hống hách với dân, luôn khiêm nhường, giản dị trong cuộc sống, luôn tâm niệm “danh dự là điều thiêng liêng, cao quý” cần gìn giữ suốt cuộc đời.

Thực tế cho thấy, cán bộ cấp chiến lược được giao trọng trách lớn, có chức, có quyền nên luôn bị tấn công bởi những “viên đạn bọc đường”, dễ bị mua chuộc bởi những cám dỗ mà đảng viên thường sẽ hiếm khi bị rơi vào tình trạng này. Sự tấn công, mua chuộc còn đến với cả gia đình, người thân của người cán bộ. Thực trạng này càng đòi hỏi người cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, nếu không rất dễ bị sa ngã, thậm chí vướng vào vòng lao lý, mà những vụ “đại án” vừa qua luôn là những hồi chuông cảnh tỉnh, có tính răn đe rất cao đối với đội ngũ cán bộ này. Những sai phạm không chỉ làm mất uy tín của bản thân người cán bộ cấp chiến lược, tổ chức đảng, mà rộng hơn, còn có thể gây ra hệ lụy khôn lường đối với Đảng và chế độ. Vì vậy, khi nhìn lại lịch sử, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá: “Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và một số nước Đông Âu sụp đổ là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng là lựa chọn, bố trí sai một số cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, nhất là cấp cao nhất. Cần phải khẳng định và thấm nhuần sâu sắc vị trí, ý nghĩa của công việc cực kỳ quan trọng này không chỉ đơn thuần đối với việc tổ chức một Đại hội Đảng, mà đây là công việc có ý nghĩa chiến lược gắn liền với vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước”.

Trong điều kiện hiện nay, cán bộ cấp chiến lược phải có trách nhiệm nêu cao tính tiên phong, gương mẫu trên các mặt, lĩnh vực chủ yếu sau: 1- Tiên phong, nêu gương về tinh thần yêu nước, tôn trọng nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng và Tổ quốc, luôn đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; 2- Tiên phong, gương mẫu về giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; 3- Tiên phong về bản lĩnh, phẩm chất chính trị; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung; 4- Gương mẫu về tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng; 5- Tiên phong, gương mẫu về trình độ, năng lực, phong cách, tác phong công tác, trong quan hệ mật thiết với nhân dân; 6- Tiên phong trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; 7- Đi đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; 8- Tiên phong trong phát hiện, lựa chọn, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài cho Đảng và Nhà nước; 9- Đặc biệt là, phải tiên phong, gương mẫu trong giữ gìn danh dự, hình ảnh tốt đẹp, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, giữ gìn uy tín, thanh danh của Đảng.

Như vậy, trách nhiệm đặt “lên vai” đội ngũ cán bộ cấp chiến lược là rất nặng nề; song, vinh quang và đóng góp cũng sẽ rất lớn, bởi lẽ, chỉ khi có được đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ đức, đủ tài, Đảng ta mới phát triển vững mạnh và mới có đủ uy tín, năng lực lãnh đạo, cầm quyền, đủ sức đưa dân tộc ta phát triển lên tầm cao mới, đáp ứng được kỳ vọng, niềm tin lớn lao của nhân dân đối với Đảng. Thông qua đó, Đảng còn nâng cao được năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, góp phần gìn giữ mối quan hệ hữu cơ, mật thiết, không thể tách rời giữa “ý Đảng với lòng Dân” - cội nguồn của sức mạnh Việt Nam trong suốt hơn 94 năm qua./.

ST.