Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

Nhận diện, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Việt Nam

Trong những năm qua, đặc biệt là từ năm 2013, khi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập, trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được thực hiện quyết liệt, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, đạt nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ, được dư luận quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường xuyên sử dụng nhiều chiêu bài thâm độc hòng xuyên tạc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta... Vì vậy, cần nhận diện các thủ đoạn, chiêu bài của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị để phản bác, đấu tranh hiệu quả.

Toàn cảnh Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Toàn cảnh Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác 
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Nhận diện những luận điệu xuyên tạc 

Tham nhũng (tham ô, nhũng nhiễu) là hiện tượng xã hội tiêu cực, xấu xa mà thời nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có; đó là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực. Các quốc gia tồn tại và phát triển vững mạnh đều quan tâm đến công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Ở Việt Nam, công tác phòng, chống tham nhũng được Đảng ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài trong công tác xây dựng Đảng. Kể từ năm 2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban Chỉ đạo. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, đạt được những kết quả to lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. 

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng kết quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta để tung ra các luận điệu xuyên tạc, hướng lái dư luận xã hội. 

Thứ nhất, chúng rêu rao rằng, “đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên là “thanh trừng phe phái”, “đấu đá nội bộ, phe cánh”, “tranh giành quyền lực; xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên sai phạm chỉ là “trò đánh trống, khua chiêng nhằm che mắt thế gian”, là chính “ta đánh ta”; gần đây chúng còn đưa ra những quan điểm xuyên tạc, kích động dư luận rằng không ai có thể tin rằng ở Việt Nam: "Chống tham nhũng không có vùng cấm, không có ngoại lệ"; chúng cho rằng đây là “Một cuộc “thanh trừng” trong Đảng ở Việt Nam”, “Không cần phải thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”; không cần gán ghép “tham nhũng” với “tiêu cực”; không cần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng; chỉ cần “thay đổi thể chế chính trị” là sẽ không còn tham nhũng....

Thứ hai, các thế lực thù địch cho rằng tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là một “quốc nạn không có thuốc chữa”. Họ cho rằng tình trạng đó bắt nguồn từ nguyên nhân tất yếu là chế độ một đảng duy nhất ở Việt Nam hay tham nhũng là “căn bệnh nan y, kinh niên của chế độ độc đảng cầm quyền”. Để thực hiện những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm đó, chúng tận dụng triệt để in-tơ-nét, mạng xã hội để tuyên truyền, phát tán những clip, bài viết tập trung vào những vụ việc vi phạm kỷ luật của một số cán bộ, đảng viên, bình luận về nguyên nhân dẫn đến thoái hóa, biến chất, nguyên nhân dẫn đến sai phạm, nguyên nhân "thanh trừng" trong nội bộ; từ đó hướng lái tư tưởng, gieo rắc các quan điểm sai trái, xuyên tạc, bóp méo, thổi phồng các vụ việc trên; gây hoài nghi trong dư luận nhân dân; nhằm phủ nhận những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta và kết quả của công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Thứ ba, từ một số vụ, việc tham nhũng trong thời gian gần đây, nhất là những vụ liên quan đến một số lãnh đạo cấp cao, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trong và ngoài nước đã quy chụp, cường điệu hóa, suy diễn một cách vô căn cứ, đồng nhất toàn bộ Đảng Cộng sản Việt Nam với một số đảng viên, cán bộ tham nhũng, thoái hóa, biến chất. Họ rêu rao rằng “Đảng không còn là Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập, Đảng không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.

Những luận điệu đó còn nhằm gieo rắc tâm lý hoài nghi, dao động, mất niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; gây mất đoàn kết nội bộ, kích động xu hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng không vững vàng, có tâm lý bất mãn. Do đó, cần tỉnh táo nhận diện những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch qua các luận điệu đó; đồng thời có luận cứ xác thực, có tính thuyết phục để đấu tranh phản bác.

Thành tựu trong phòng, chống tham nhũng ở nước ta

Theo Từ điển tiếng Việt, tham nhũng là những hành vi của các cá nhân lợi dụng quyền hành, nhũng nhiễu dân để lấy của cải, vật chất. Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (khoản 1, Điều 3). Tham nhũng là vấn đề liên quan đến sự phát triển, sự sống còn của mỗi quốc gia, dân tộc; làm lung lay hệ thống chính trị, phá hoại việc thực thi pháp luật, gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng luôn là nhiệm vụ trọng tâm của các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, tham nhũng được nhận diện là một quốc nạn, một trong bốn nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. 

Công tác phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Theo khẳng định của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013 - 2020 được tổ chức ngày 12-12-2020: “Từ sau khi thành lập Ban Chỉ đạo (2013) đến nay, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác phòng chống tham những đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự “đã trở thành phong trào, xu thế”, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: ““Công tác phòng, chống tham nhũng được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn và có chiều hướng giảm”. 

Giai đoạn 2012-2022, đã xử lý kỷ luật 2.740 tổ chức đảng và hơn 167.000 cán bộ, đảng viên, trong đó có hơn 190 cán bộ diện Trung ương quản lý (4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 36 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương; hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang); qua kiểm tra, thanh tra, kiểm toán kiến nghị xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân; chuyển cơ quan điều tra, xử lý gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Những con số nêu trên cho thấy quyết tâm chính trị và hành động quyết liệt của Đảng và Nhà nước trong phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực. Và có thể nói cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo số liệu do Tổ chức Minh bạch thế giới (TI) công bố, Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng lên, thể hiện một chỉ báo tích cực đối với các nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong công tác phòng, chống tham nhũng. Cụ thể, năm 2019, Việt Nam đạt 37/100 điểm, đứng thứ 96/180 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng toàn cầu; đến năm 2023, Việt Nam đạt 41/100 điểm và xếp hạng 83/180 toàn cầu, cho thấy những nỗ lực, sự quyết tâm mạnh mẽ chống tham nhũng trong nước năm qua đã được ghi nhận.

Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị; các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch sẽ ngày càng gia tăng, tinh vi và xảo quyệt hơn. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới cần chú trọng một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và người dân để nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội, vạch trần bản chất của chúng, định hướng tiếp nhận thông tin trên các nền tảng mạng xã hội có chọn lọc, khách quan. Trước những sự kiện chính trị, nhất là các vụ việc phức tạp, nhạy cảm, các cơ quan thông tin, truyền thông cần khai thác thông tin từ cơ quan chức năng để thông tin kịp thời, chính xác, định hướng dư luận xã hội, tạo sự thống nhất trong nhận thức, thái độ và hành vi trong cộng đồng xã hội.

Hai là, tiếp tục quán triệt và thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng và cấp ủy các cấp về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tích cực tham gia nhiệm vụ này như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: “Nhất hô bá ứng”, “Tiền hô hậu ủng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” để nói lên tinh thần đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động, vì sự nghiệp cách mạng chung và công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng.

Ba là, mỗi tổ chức, cá nhân cần nhận thức rõ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc chiến chống “giặc nội xâm” của cả dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với tinh thần, kiên quyết phòng, chống tham nhũng bằng cả cơ chế, chính sách và hệ thống kiểm soát quyền lực... Có như vậy, tham nhũng, lợi ích nhóm mới được đẩy lùi. Đồng thời, phải luôn tỉnh táo trước các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề này. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực;…

Bốn là, tiếp tục triển khai mạnh mẽ Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, đây là sự định hướng chiến lược quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để mỗi cấp ủy, mỗi đảng viên, mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, trong đó những người làm công tác tuyên giáo, công tác chính trị, tư tưởng, báo chí là những chiến sĩ tiên phong.

Với ý chí quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta tin tưởng rằng công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới sẽ tiếp tục thực hiện hiệu quả; tham nhũng nhất định phải được ngăn chặn và từng bước được đẩy lùi; đập tan âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước ta, xây dựng Đảng ta, Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh./.

ST.


Thực tiễn bác bỏ sự xuyên tạc về đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”

Nhằm hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, các thế lực thù địch, phản động ra sức xuyên tạc đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Nhưng thực tiễn thành tựu trong công tác đối ngoại của nước ta đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc.

Trong những năm gần đây, ngoại giao “cây tre Việt Nam” là thuật ngữ được nhiều người nhắc đến khi đề cập đến hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đây là sự khái quát, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện, trên cơ sở quán triệt phương châm đối ngoại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.



Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tham quan triển lãm ảnh về ngoại giao Việt Nam tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32. Nguồn: vietnamplus.vn

Thuật ngữ ngoại giao “cây tre Việt Nam” được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sử dụng lần đầu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 (ngày 22/8/2016). Đến Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (ngày 14/12/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định: “Có thể khái quát, hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đó là mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái,…”. Sự khẳng định đó đã làm rõ nguồn gốc và đặc trưng của đường lối đối ngoại thời đại Hồ Chí Minh mang đậm bản sắc trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”.

Đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao đó được nhân dân ta tin tưởng, cộng đồng quốc tế đánh giá cao; bạn bè quốc tế ủng hộ, tôn trọng. Thế nhưng, để phủ nhận các thành quả của cách mạng Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo, cùng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta, các thế lực thù địch, phản động đã cố tình xuyên tạc đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” bằng nhiều luận điệu mang tính kích động, phủ định, bôi nhọ. Họ xuyên tạc trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “ba phải”, “hai mặt”, “gió chiều nào che chiều ấy”, “không có lập trường nhất quán, ổn định”, là “bắt cá hai tay”… nên không thể tin cậy được(!). Họ cho rằng, trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các quốc gia, dân tộc có mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ; trong khi đó, đường lối ngoại giao “cây tre” của Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là “bảo thủ”, “trì trệ”, “tự tách mình ra khỏi dòng chảy của lịch sử”, không phù hợp(!). Họ phê phán chủ trương “bốn không” của Việt Nam trong hoạt động đối ngoại quốc phòng là “dại dột”, “tự trói tay mình”, “tự cô lập mình”. Từ đó, họ “khuyên” Việt Nam nên chọn theo (hay dựa vào) nước này để chống nước kia và ngược lại(!).

Có thể khẳng định ngay rằng, những luận điệu nói trên của các thế lực thù địch, phản động là hoàn toàn sai trái, cần kiên quyết bác bỏ. Trên phương diện lý luận, việc sử dụng cụm từ ngoại giao “cây tre Việt Nam” là sự khái quát rất cao về lý luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trên cơ sở đúc kết thực tiễn lịch sử và bản sắc độc đáo của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam - một nền ngoại giao được xây dựng, phát triển trên cơ sở kế thừa, vận dụng sáng tạo tư tưởng, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, bản sắc văn hóa và ngoại giao của dân tộc đã trường tồn qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hình tượng “cây tre Việt Nam” phản ánh sinh động, nhưng dễ hiểu về những nội dung cốt lõi và bản sắc độc đáo của nền ngoại giao nước ta. Theo đó, “Vững ở gốc” là sự kiên định về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm nguyên tắc hàng đầu, “bất biến”; là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, lấy thực lực làm gốc, lấy đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế để tạo thế, lập thời; lấy phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng soi đường, chỉ lối. “Chắc ở thân” là những phương pháp tạo nên sức mạnh, thực hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố căn bản, sống còn, quyết định, đoàn kết quốc tế là nhân tố bổ trợ hết sức quan trọng; là giương cao ngọn cờ chính nghĩa, nhân văn, thủy chung, thượng tôn pháp luật và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. “Uyển chuyển ở cành” là phong cách, nghệ thuật ứng xử linh hoạt trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, đặc biệt trong các hoàn cảnh khó khăn, có sự mâu thuẫn giữa những xu thế khác nhau, đòi hỏi phải hài hòa cái chung và cái riêng, nhằm giữ vững bản sắc, giá trị đất nước và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam, phù hợp với những giá trị chung của nhân loại. Đó là cách ứng xử “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, “biết tiến, biết thoái”, “biết dừng, biết biến”, “biết nhu, biết cương” của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.

Trên phương diện thực tiễn, cách mạng nước ta hơn 90 năm qua, từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã chứng minh rất rõ: các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần giành lại và củng cố vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; phục vụ đắc lực, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân; tăng cường thế và lực, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế, góp phần vào xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển. Từ một nước bị bao vây, cấm vận nhiều mặt, nhưng với chính sách ngoại giao đúng đắn, giàu nhân văn, Việt Nam đã tạo được lòng tin đối với các tổ chức, các nước trên thế giới. Đến nay, trên bình diện song phương, chúng ta đã mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với 193 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có 03 nước quan hệ đặc biệt, 07 nước đối tác chiến lược toàn diện, 11 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Đảng ta đã có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính. Quốc hội nước ta cũng có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân, phi chính phủ nước ngoài. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, các hoạt động đối ngoại của Việt Nam diễn ra sôi động, liên tục, đồng bộ, hiệu quả, củng cố vững chắc hơn cục diện đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần huy động nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế đất nước. Lãnh đạo chủ chốt của đất nước đã thực hiện 45 chuyến thăm tới các nước, đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống. Nước ta cũng đón gần 50 đoàn lãnh đạo các nước, tổ chức quốc tế tới thăm; trong đó, rất đáng chú ý là chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden trong năm 2023, đã tạo nên bước phát triển mới về chất trong cục diện đối ngoại và hội nhập quốc tế của đất nước. Cùng với đó, quan hệ với nhiều đối tác được nâng lên tầm cao mới, tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác ngày càng mở rộng, thực chất và hiệu quả hơn. Trên bình diện đa phương, nước ta là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như: Liên hợp quốc (UN), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới (IPU), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), v.v.

Thông qua ngoại giao “cây tre Việt Nam”, quan hệ đối ngoại quốc phòng và an ninh của nước ta cũng không ngừng được mở rộng. Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với trên 100 quốc gia; trong đó có quan hệ với tất cả 05 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn; thiết lập tùy viên quốc phòng tại 33 nước, kiêm nhiệm tại 41 nước và Liên hợp quốc; có 52 quốc gia đặt tùy viên quốc phòng, tùy viên quân sự tại Việt Nam. Ở cấp độ đa phương, nước ta cũng là thành viên tích cực tham gia các cơ chế hợp tác, như: Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN, Đối thoại Shangri-La, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) và ADMM+, v.v. Từ năm 1991, nước ta đã là thành viên của Tổ chức Cảnh sát Hình sự quốc tế (Interpol) và năm 2014, bắt đầu tham gia vào sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tính đến nay, Việt Nam đã cử hơn 800 lượt sĩ quan, nhân viên của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đi làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại các Phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei và Cục Hoạt động hòa bình tại trụ sở Liên hợp quốc, thể hiện trách nhiệm với hòa bình thế giới.

Ngoại giao “cây tre Việt Nam” cũng đã góp phần quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Nếu năm 1991, nước ta mới có quan hệ  kinh tế - thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ, thì đến nay đã có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ, thu hút hơn 400 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Chỉ tính riêng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của nước ta đã đạt trên 680 tỉ USD, gấp 120 lần so với những năm đầu đổi mới, trong đó xuất khẩu đạt trên 354 tỉ USD; thu hút FDI đạt 36,6 tỉ USD, tăng 32,8%; nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đã cam kết đầu tư dài hạn ở Việt Nam. Nước ta cũng đã tham gia ký kết và là thành viên của 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 03 FTA thế hệ mới với tiêu chuẩn rất cao, như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), v.v.

Ngoại giao “cây tre Việt Nam” không chỉ nhận được sự đồng thuận từ dư luận trong nước, mà còn được bạn bè quốc tế ghi nhận, ủng hộ. Ông Hàn Phương Minh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc khẳng định: “Đây chính là nền tảng ngoại giao để Việt Nam vẫn phát triển ổn định, lành mạnh dù đứng trước tình hình thế giới vô cùng phức tạp”. Ông Amiad Horowitz, Ủy viên Ban Quốc tế, Ủy viên Ban Hòa bình và Đoàn kết Đảng Cộng sản Mỹ cho rằng: “Ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” là cách tiếp cận ngoại giao độc đáo, nhận được rất nhiều lời khen ngợi,… Bất kỳ ai quan tâm đến sự chung sống hòa bình đều cần phải nghiên cứu trường phái đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” để học được những bài học quan trọng”. Ngài Murayama Tomoichi, Cựu Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh: “Trong bối cảnh tình hình thế giới ngày càng phức tạp và xu thế toàn cầu hóa, đường lối ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” vừa linh hoạt, vừa kiên trì do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng đã lãnh đạo Việt Nam với những đặc tính vốn có của cây tre là “mềm mỏng” nhưng lại “mạnh mẽ”, “kiên quyết không lùi bước”. Tư tưởng đó vừa vì hòa bình của Việt Nam, cũng vừa là đóng góp cho chung sống hòa bình với các nước châu Á và với các nước trên thế giới”.

Những thực tiễn nói trên đã khẳng định giá trị của đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” là không thể phủ nhận. Đường lối đó góp phần nâng cao sức mạnh, tiềm lực, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế; đồng thời, góp phần quan trọng vào xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển. Đó là những minh chứng rất sinh động bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về đường lối, chính sách đối ngoại theo trường phái “cây tre Việt Nam”./.

ST.

Thói hàm hồ của những kẻ chống chủ nghĩa xã hội

Năm 2023, Hạ viện Mỹ thông qua cái gọi là nghị quyết “Lên án sự khủng khiếp của chủ nghĩa xã hội” (H.Con.Res 9), thể hiện thái độ thù địch, chống phá quyết liệt, phủ nhận, “bác bỏ chủ nghĩa xã hội dưới mọi hình thức”. Song, phải khẳng định rằng, đó là cách nhìn định kiến, phản khoa học, thể hiện thói hàm hồ của những kẻ chống chủ nghĩa xã hội.



Quang cảnh Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Ảnh: dangcongsan.vn

Điều dễ nhận thấy là, xuyên suốt nghị quyết lố bịch này đều dựa trên quan điểm của các vị tổng thống Mỹ về quyền cá nhân, quyền tư hữu và lấy các giá trị Mỹ để làm cơ sở tham chiếu đánh giá nhằm hạ thấp chủ nghĩa xã hội; áp đặt, ép buộc các quốc gia khác phải theo chế độ chính trị do họ định sẵn. Đây rõ ràng là một sự áp đặt chủ quan, phi lý; là hành động xâm lược, nô dịch về tư tưởng, chính trị, văn hóa. Bởi, thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan kiểm nghiệm chân lý, không thể chỉ dựa vào vài ba lời trích dẫn của các cá nhân về tự do, bình đẳng, bác ái chung chung mà coi đó là giá trị “ưu việt” của chủ nghĩa tư bản rồi đòi áp đặt nó cho mọi quốc gia trên thế giới. Hơn nữa, không chỉ tuyệt đối hóa quyền sở hữu cá nhân, họ còn cố tình đánh đồng quyền sở hữu cá nhân với chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu; từ đó xuyên tạc rằng chủ nghĩa xã hội muốn xóa bỏ quyền sở hữu của cá nhân, vi phạm nhân quyền, v.v. Trong khi đó, cả lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn các nước xã hội chủ nghĩa luôn đề cao con người với đầy đủ mọi quyền lợi và kiên trì đấu tranh cho lý tưởng xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu - nguồn gốc sinh ra mọi áp bức con người, bất công trong xã hội.

Trong khi đề cao quan điểm của các vị tổng thống Mỹ, coi đó như một “chân lý”, thì nghị quyết lại sử dụng ngôn từ miệt thị đối với tên tuổi, sự nghiệp của những cá nhân lãnh đạo các quốc gia khác, như V.I. Lênin (Liên Xô), Fidel Castro (Cuba), Hugo Chavez (Venezuela), v.v. Đó là biểu hiện của sự thiếu tôn trọng, kém văn minh, không phù hợp với thông lệ ngoại giao giữa các quốc gia.

Thói hàm hồ của những kẻ chống chủ nghĩa xã hội càng được đẩy lên đến cực điểm khi toàn bộ những thông tin được dẫn chứng để quy kết cho cái gọi là “tội ác của chủ nghĩa xã hội” đều là sự xuyên tạc, bóp méo lịch sử một cách trắng trợn. Họ cho rằng, chủ nghĩa xã hội gắn liền với chiến tranh, sự giết chóc bằng dẫn chứng về chế độ diệt chủng “Khơ-me đỏ” ở Campuchia và tự cho mình là đại diện cho văn minh, dân chủ, nhân đạo. Vậy, thử hỏi khi xảy ra nạn diệt chủng, khi “Người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu tiên Phật tới cứu”1 thì những kẻ tự xưng là “văn minh”, “dân chủ”, “nhân đạo” ấy đang ở đâu? Và, khi Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ tập đoàn diệt chủng ấy, tại sao Mỹ và các nước phương Tây lại đi đầu trong việc lên án Việt Nam, cũng như ngầm hậu thuẫn, tiếp sức cho chúng chống Việt Nam?

Họ còn quy kết “cuộc cách mạng cộng sản tại Liên Xô” đã làm chết hàng chục triệu người mà lại lờ đi nguyên nhân chính dẫn đến những hy sinh, mất mát đó chính là sự can thiệp của liên quân 18 nước đế quốc vào Liên Xô nhằm bóp nghẹt chính quyền Xô Viết non trẻ và cũng quên luôn sự hy sinh cao cả của nhân dân Liên Xô trong công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ nhân loại, góp phần kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, cứu nhân loại khỏi họa phát xít. Lật lại trang sử nước Mỹ, để củng cố vai trò thống trị của mình, giai cấp tư sản chẳng phải cũng đã trải qua một cuộc nội chiến kéo dài hơn bốn năm (1861 - 1865) với giai cấp chủ nô đó sao? Cho đến nay, đây vẫn là cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, dẫn đến cái chết ước tính lên đến 03% dân số Mỹ?

Đây thực chất chỉ là trò “mập mờ đánh lận con đen”, quy kết một cách thô thiển, bất chấp lý lẽ và sự thật, nhằm đánh đồng, phủ nhận tính chất, mục đích tốt đẹp của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cuộc đấu tranh, sự hy sinh của quần chúng nhân dân lao động vì chính nghĩa để giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, giải phóng và bảo vệ chính mình. Nó hoàn toàn khác với việc huy động quần chúng đưa lưng ra gánh đỡ lấy trách nhiệm bảo vệ lợi ích cho thiểu số giai cấp thống trị, như các cuộc cách mạng tư sản.

Trong khi trắng trợn bịa đặt cái gọi là những “tội ác ghê tởm” do chủ nghĩa xã hội gây ra, thì những tội ác của tư bản chủ nghĩa trong lịch sử và hiện nay được họ coi như là không có. Thực tế lịch sử cho thấy, hai cuộc chiến tranh thế giới, các cuộc chiến tranh xâm lược, nô dịch các quốc gia dưới hình thức thực dân cũ và thực dân mới từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX; hành động can thiệp vào nội bộ các quốc gia có chủ quyền bất chấp luật pháp quốc tế cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI,… đều do các nước tư bản gây ra để phục vụ lợi ích của mình. Đối với Việt Nam, nhân dân ta sẽ không bao giờ quên những tội ác mà quân xâm lược Mỹ, chư hầu và bọn tay sai ngụy quyền Sài Gòn đã gây ra, như: vụ thảm sát Mỹ Lai (Quảng Ngãi) năm 1968, Chiến dịch Linebacker II - “đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá” năm 1972, hậu quả của chất độc màu da cam, v.v.

Giống như trò đổ lỗi của trẻ con, họ còn quy kết chủ nghĩa xã hội là nguyên nhân gây nên nạn đói ở nhiều quốc gia mà thực chất là do chính họ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra. Lấy danh nghĩa là chống khủng bố, vai trò của Mỹ và phương Tây trong các cuộc xung đột dai dẳng ở Somalia, Nam Sudan,… đã quá rõ ràng, trực tiếp hoặc gián tiếp khiến hàng chục triệu người nơi đây đối mặt với nạn đói cùng cực. Chẳng đâu xa, chúng ta hẳn không bao giờ quên chính do chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp để phục vụ cho chiến tranh là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới nạn đói ở miền Bắc nước ta năm 1945, khiến hơn hai triệu người chết. Đó là thực tế không thể phủ nhận.

Thực tiễn chứng minh, chủ nghĩa xã hội không phải là sự ảo tưởng, mà là một chế độ xã hội có bản chất ưu việt, ra đời từ quy luật vận động tất yếu của lịch sử, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử nhân loại. Những thành tựu to lớn cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, quốc phòng, đối ngoại, mà chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô cùng hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay đạt được là không thể phủ nhận.

Từ nội dung cơ bản của nghị quyết đã nêu, có thể thấy, nó không chỉ được xây dựng trên những cơ sở, luận cứ thiếu tính thuyết phục, phản khoa học, mà còn thể hiện một góc nhìn chủ quan của một số ít người tạo ra nó với sự định kiến, phiến diện, thái độ hằn học, thù địch của họ đối với chủ nghĩa xã hội. Với tính chất hàm hồ, phi lý, thiếu căn cứ như vậy, nhưng lại được cơ quan lập pháp của một quốc gia lớn trên thế giới thông qua. Cũng dễ hiểu, bởi đó là sản phẩm của những thủ đoạn chính trị và lòng đố kỵ của một số nghị sĩ Mỹ nhằm lấy lòng, thu hút sự ủng hộ của số cử tri có nguồn gốc tị nạn chính trị đã nhập cư vào Mỹ. Một cách hình tượng, nghị quyết chỉ là miếng “bánh vẽ” dành cho những kẻ “bán nước cầu vinh”, mưu cầu vài ba lá phiếu từ chúng để phục vụ cho con đường chính trị của các chính khách Mỹ. Vì vậy, nó hoàn toàn “không mang tính ràng buộc”, phạm vi của nó chỉ đủ để vuốt ve những kẻ “lưu vong” mà thôi. Song, với bầy “ưng khuyển” đó, mẩu “bánh vẽ” ấy đã làm chúng như “mở cờ trong bụng”, ra sức đón nhận, tung hô, mà không hề thấy hổ thẹn khi chỉ là quân cờ trong tay giới chủ.

Mặc dù về câu chữ nghị quyết không nhắc gì đến Việt Nam, nhưng đám người Việt phản động lưu vong và những kẻ bất mãn, cơ hội chính trị trong nước vẫn ra sức tận dụng để đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, chống phá. Họ lu loa rằng, Bác Hồ, Đảng và Nhà nước Việt Nam là nguyên nhân gây ra hai cuộc chiến tranh trong thế kỷ XX, sinh ra các nạn đói rét, giết người, kìm hãm sự phát triển của dân tộc; rằng Đảng Cộng sản Việt Nam công ít, tội nhiều; con đường chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là ngõ cụt, hoàn toàn bế tắc, v.v. Mục tiêu của chúng luôn là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi Việt Nam phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tự do, dân chủ, nhân quyền theo hình mẫu phương Tây.

Thật ra, các chiêu trò bôi nhọ, xuyên tạc, phê phán, đả kích, lên án, bài bác, phủ nhận chủ nghĩa xã hội không phải là vấn đề mới, vẫn thường xuyên được các thế lực thù địch tiến hành trong hơn 100 năm qua. Khác chăng chỉ là sự điều chỉnh về phương thức, cường độ thực hiện và những chiêu trò dường như lố bịch hơn. Sự ra đời của nghị quyết hàm hồ trên cũng chỉ là một trong những chiêu trò như thế.

Vì vậy, đấu tranh phản bác, vạch trần các chiêu trò đả kích, lên án chủ nghĩa xã hội nói chung, các luận điệu bôi nhọ, xuyên tạc, bài bác Đảng, Nhà nước ta nói riêng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Theo đó, các cấp, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị cần nắm vững định hướng công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm bồi dưỡng, nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, quần chúng nhân dân vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao “sức đề kháng”, khả năng “tự miễn nhiễm” cho mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trước các thông tin xấu độc. Phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông, nền tảng số và hoạt động của các tổ chức, mở rộng phạm vi, nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền, giáo dục, định hướng tư tưởng cho các đối tượng; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự thấm sâu, là nền tảng tư tưởng vững chắc, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam; đồng thời, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống chính trị tinh thần của xã hội.

Thường xuyên giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho các tổ chức và cá nhân trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch về chính trị tư tưởng. Nhạy bén, chủ động sớm phát hiện, phòng ngừa tác động tiêu cực trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, văn hóa. Đổi mới phương pháp, hình thức; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đồng thời, phát huy nguồn lực chính trị tinh thần to lớn từ lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống đoàn kết của dân tộc; khai thác có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh, phồn vinh; lấy thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, lấy thực tiễn tiến bộ xã hội để chứng minh cho sự đúng đắn, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là lựa chọn duy nhất đúng đắn trong thời đại ngày nay./.

ST.

Cảnh sát biển Việt Nam nâng cao hiệu quả nghiên cứu, đánh giá tình hình, đáp ứng yêu cầu thực thi pháp luật trên biển

Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, đánh giá tình hình trên biển, làm cơ sở tham mưu, đề xuất chủ trương, đối sách xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh, trật tự, an toàn trên biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Nghiên cứu, đánh giá chính xác tình hình nói chung, tình hình an ninh, trật tự, an toàn trên biển nói riêng để chủ động đề xuất chủ trương, giải pháp, phương án bảo vệ an ninh quốc gia và thực thi pháp luật là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm thường xuyên của lực lượng Cảnh sát biển1. Đây là nhiệm vụ khó khăn, bởi phạm vi vùng biển nước ta rất rộng, tiếp giáp với nhiều nước, trong khi tình hình trên biển, nhất là tình hình vi phạm pháp luật nơi đây thường xuyên biến động, phức tạp, khó lường. Ý thức rõ điều đó, những năm qua, cùng với các lực lượng chức năng, Cảnh sát biển Việt Nam đã tổ chức tốt công tác này, qua đó đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương và phương án xử lý các tình huống quốc phòng, an ninh, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn trên biển. Từ năm 2021 đến nay, Cảnh sát biển đã thu thập gần 2.000 tin trinh sát kỹ thuật và tổng hợp, xây dựng hơn 80 báo cáo chuyên đề phục vụ Bộ Quốc phòng có các văn bản chỉ đạo toàn quân. Đặc biệt, vừa qua, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã chủ trì, phối hợp với Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng xây dựng báo cáo chuyên đề của Bộ Quốc phòng về tình hình vi phạm pháp luật khu vực biên giới, biển, đảo, trình Chính phủ và đề xuất nhiều giải pháp chủ động phòng ngừa, xử lý kịp thời, hiệu quả, linh hoạt, đúng pháp luật các tình huống trên biển. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.


Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế, trao đổi thông tin, đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trên biển.

Hiện nay và những năm tiếp theo, dự báo tình hình trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp. Một số nước tăng cường điều động tàu quân sự, tàu chấp pháp và sử dụng tàu cá để tranh chấp ngư trường, tiến hành khảo sát, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tình trạng tàu cá nước ngoài vi phạm vùng biển Việt Nam và tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài, khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU); buôn lậu, gian lận thương mại, tội phạm ma túy còn tiếp diễn phức tạp, v.v. Trong khi đó, tổ chức biên chế và trang bị của lực lượng Cảnh sát biển trực tiếp thực hiện công tác nắm tình hình trên biển còn mỏng, chưa đồng bộ; địa bàn, vùng biển quản lý rộng, thời tiết diễn biến phức tạp; công tác phối hợp với các lực lượng chức năng có nội dung chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Trước thực tế đó, để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, cùng với triển khai đồng bộ các mặt công tác, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, đánh giá tình hình trên biển; tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:

Một làphát huy sức mạnh tổng hợp các lực lượng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu, đánh giá tình hình an ninh, trật tự, an toàn trên biển, nhất là an ninh phi truyền thống. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo tính khách quan, khoa học, độ chính xác cao trong nghiên cứu, đánh giá tình hình trên biển. Vì thế, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị quán triệt, tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc các nhiệm vụ trong nắm, quản lý tình hình được xác định trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế biển đáp ứng mục tiêu, yêu cầu. Đặc biệt, thực hiện tốt phương châm “nắm chắc tình hình, phát hiện sớm, xử lý kịp thời hiệu quả những yếu tố bất lợi, nhất là nguy cơ gây đột biến, thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống từ cơ sở” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của từng cán bộ, chiến sĩ, nhất là lực lượng chuyên trách nắm tình hình an ninh, trật tự, an toàn trên biển. Trên cơ sở đó, cụ thể hóa thành các nội dung, chỉ tiêu, biện pháp thực hiện trong nghị quyết lãnh đạo thường kỳ, xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp tình hình thực tiễn.

Hiện nay, các vấn đề an ninh phi truyền thống diễn biến nhanh chóng, phức tạp; không chỉ tác động mà còn tạo nguy cơ chuyển hóa từ an ninh phi truyền thống thành an ninh truyền thống. Vì vậy, lực lượng Cảnh sát biển, nòng cốt là các đoàn trinh sát cần phối hợp chặt chẽ với các lực lượng có liên quan theo dõi, bám nắm tình hình trên các khu vực biển trọng điểm; theo sát hoạt động của các giàn khoan, tàu nghiên cứu thăm dò, tàu quân sự, chấp pháp, tàu cá của nước ngoài trong khu vực vùng biển đơn vị quản lý; hoạt động của tàu cá Việt Nam ở khu vực giáp ranh, chồng lấn, tiềm ẩn nguy cơ vi phạm vùng biển nước ngoài và hoạt động của các tàu vận tải, tàu thương mại có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Đồng thời, tích cực nắm, quản lý, khai thác những vấn đề liên quan đến các loại tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ma túy, buôn bán người, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ cao, v.v. Trên cơ sở đó, đưa ra các dự báo sâu, chính xác xu hướng phát triển của tình hình, nhất là những vấn đề mới ở tầm chiến lược, làm cơ sở để tham mưu hoạch định đường lối, đối sách xử lý các tình huống, ngăn ngừa những vấn đề thuộc về an ninh phi truyền thống có nguy cơ gây đột biến và đe dọa đến an ninh, trật tự, an toàn trên biển, thách thức đối với môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển kiểm tra công tác tuần tra, giám sát, bảo đảm an ninh, an toàn trên biển.

Hai làtiếp tục đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa trang bị, phương tiện phục vụ thu thập thông tin, nắm tình hình. Những năm qua, Cảnh sát biển đã được quan tâm đầu tư nhiều trang bị, phương tiện tàu, thuyền, thiết bị nghiệp vụ hiện đại. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ thì số lượng, chất lượng trang bị và phương tiện vẫn còn hạn chế, nhất là những hạn chế khi phải hoạt động liên tục, dài ngày, trong điều kiện thời tiết phức tạp trên biển. Khắc phục thực trạng này, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 594-NQ/ĐU, ngày 20/7/2022 của Đảng ủy Cảnh sát biển, Kế hoạch số 7118/KH-BTL, ngày 25/7/2022 của Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển về tổ chức lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo gắn với thực hiện Đề án “Xây dựng lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đến năm 2025 và những năm tiếp theo”. Để đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển tham mưu cho cấp trên huy động mọi nguồn lực để hiện đại hóa hệ thống trang bị kỹ thuật, đảm bảo tính đồng bộ, khả năng cơ động cao và đa năng trong thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu quản lý và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển. Trước mắt, ưu tiên bổ sung một số tàu hiện đại có khả năng hoạt động dài ngày trên vùng biển xa, thích ứng tốt với điều kiện khắc nghiệt và trang bị hệ thống quan sát, thông tin liên lạc hiện đại, đồng bộ tại một số khu vực trọng điểm. Về lâu dài, tham mưu cho Bộ Quốc phòng đầu tư phát triển các loại tàu có độ giãn nước lớn, phương tiện bay, hệ thống quan sát, thông tin liên lạc, chỉ huy điều hành, trinh sát kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ, thiết bị bảo đảm an toàn, cứu hộ, cứu nạn đồng bộ và hiện đại; có khả năng hoạt động dài ngày trong điều kiện thời tiết phức tạp, đảm bảo khả năng hiệp đồng tác chiến, giao lưu và hợp tác quốc tế. Đồng thời, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và huấn luyện cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật có đủ năng lực làm chủ trang bị kỹ thuật công nghệ cao, đảm bảo thu thập và xử lý nhanh thông tin, phục vụ chỉ huy xử lý các tình huống kịp thời và chính xác.

Ba làtăng cường phối hợp với các lực lượng trong nắm, nghiên cứu, trao đổi thông tin về tình hình an ninh, trật tự, an toàn trên biển. Với vai trò là lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển, thời gian qua, lực lượng Cảnh sát biển đã tham mưu, phối hợp xây dựng đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật về công tác phối hợp giữa các lực lượng, đặc biệt là Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018 và Nghị định số 61/2019/NĐ-CP, ngày 10/7/2019 của Chính phủ “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam”. Trên cơ sở đó, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã ký quy chế, chương trình, kế hoạch phối hợp hoạt động với 03 đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng; 08 đầu mối thuộc các bộ, ngành và cơ quan ngang bộ. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị ký 75 quy chế, chương trình, kế hoạch phối hợp với đơn vị thuộc lực lượng Công an, Biên phòng, Hải quan, Quản lý thị trường của nhiều tỉnh, thành phố ven biển. Qua đó, tạo sức mạnh tổng hợp cả về lực lượng, thế trận và pháp lý, nâng cao hiệu quả công tác nắm, nghiên cứu và đánh giá chính xác tình hình an ninh, trật tự, an toàn trên biển. Để nâng cao hơn nữa chất lượng thực hiện nhiệm vụ này, thời gian tới, Cảnh sát biển tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các lực lượng triển khai thực hiện chặt chẽ các quy chế, chương trình, kế hoạch đã ký kết; tích cực nghiên cứu, đề xuất phương thức phối hợp với các lực lượng chức năng có liên quan nhằm xây dựng cơ chế phối hợp nắm, trao đổi thông tin, đảm bảo khi cần thiết cơ chế phối hợp được “kích hoạt” để nắm và xử lý tình huống nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, các đơn vị Cảnh sát biển tiếp tục phối hợp triển khai thiết thực, hiệu quả hơn nữa công tác dân vận, nhằm tăng cường đoàn kết, gắn bó với nhân dân, hỗ trợ ngư dân vươn khơi, bám biển, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh trên biển vững mạnh, rộng khắp, phát huy “tai mắt” của ngư dân hoạt động trên biển trong nắm, thông báo tình hình, trao đổi thông tin cần thiết.

Bốn làtăng cường các hoạt động, cơ chế hợp tác quốc tế trong trao đổi thông tin trên biển. Hiện nay, Cảnh sát biển Việt Nam đang hợp tác với lực lượng thực thi pháp luật trên biển của 21 quốc gia và tổ chức quốc tế; tham gia 05 cơ chế và diễn đàn đa phương; ký kết 09 văn bản hợp tác với các nước: Hàn Quốc, Philippines, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Campuchia, Malaysia và Indonesia. Thông qua các hoạt động, cơ chế hợp tác, Cảnh sát biển Việt Nam đã phối hợp với các quốc gia, tổ chức quốc tế, nhất là các quốc gia có chung đường biên giới, ranh giới trên biển thực hiện tốt công tác nắm, trao đổi thông tin về tình hình an ninh, trật tự, an toàn trên biển. Trước diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình biển Đông; xu hướng gia tăng tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển, nhất là buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán ma túy, xuất nhập cảnh trái phép, khai thác hải sản bất hợp pháp, vi phạm IUU,… Cảnh sát biển Việt Nam tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trọng tâm là Nghị quyết số 2662-NQ/QUTW, ngày 26/02/2024 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo, Nghị định số 22/2016/NĐ-CP, ngày 31/3/2016 của Chính phủ Quy định về đối ngoại quốc phòng. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, trao đổi, chia sẻ thông tin, tuần tra liên hợp, hội nghị song phương,... với lực lượng thực thi pháp luật trên biển các nước láng giềng và trong khu vực nhằm xây dựng, phát triển bền vững các mối quan hệ hợp tác song phương tin cậy, ổn định. Tiếp tục tham gia tích cực và trách nhiệm trong các cơ chế, khuôn khổ đa phương, tăng cường kênh hợp tác với đại sứ quán các nước có quan hệ hợp tác với Việt Nam về lĩnh vực bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn trên biển. Đồng thời, thiết lập và cân bằng các mối quan hệ với lực lượng bảo vệ bờ biển của nhiều nước lớn trên thế giới, qua đó tiếp thu kinh nghiệm và tranh thủ các nguồn hỗ trợ về trang thiết bị, đào tạo, huấn luyện nâng cao năng lực nắm, dự báo tình hình an ninh, trật tự, an toàn trên biển.

Cùng với các nội dung, giải pháp trên, Cảnh sát biển Việt Nam tích cực ứng dụng công nghệ thông tin và triển khai nghiệp vụ cơ bản để quản lý địa bàn, nắm bắt tình hình, phát hiện sớm thủ đoạn của các đối tượng. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, những thông tin công khai về hoạt động tàu, thuyền trên biển dễ dàng được tìm kiếm, tra cứu thông qua các kênh khác nhau, như: thông báo hàng hải, các trang mạng giám sát hành trình tàu, thuyền trên biển, v.v. Đây là một trong những nguồn thông tin trực tiếp, nhanh chóng và đa dạng về các hoạt động trên biển. Vì vậy, lực lượng Cảnh sát biển tiếp tục đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin để khai thác tối đa các nguồn thông tin này; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, lực lượng chức năng kịp thời trao đổi, phối kiểm thông tin nhằm đảm bảo tính chính xác cao. Bên cạnh đó, chủ động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin để tiếp nhận tin báo và tố giác tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển từ nhân dân, đặc biệt là từ các tổ chức và cá nhân trực tiếp hoạt động trên biển, xây dựng mạng lưới thông tin rộng khắp trên các tuyến biển, đảm bảo thu thập và xác minh chính xác thông tin, từ đó nắm chắc tình hình và các phương thức hoạt động của đối tượng, làm cơ sở xây dựng chương trình, kế hoạch đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật hoặc tham mưu xử lý các tình huống liên quan đến an ninh, an toàn trên biển theo chức năng, nhiệm vụ.

Quán triệt sâu sắc Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam tiếp tục triển khai đồng bộ các chủ trương, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác nắm tình hình, làm cơ sở thực hiện tốt vai trò chuyên trách, nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển, góp phần phát triển bền vững kinh tế biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc./.

ST.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hậu phương chiến tranh vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cũng như công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ hậu phương, coi đó là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, hậu phương có vai trò hết sức to lớn và có vị trí mang tính quyết định việc thành bại của kháng chiến: “Muốn khởi nghĩa phải có căn cứ địa, muốn kháng chiến phải có hậu phương”. Đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng càng lâu dài, gian khổ và ác liệt, vai trò của hậu phương càng trở nên quan trọng. Hậu phương hậu thuẫn gián tiếp tạo nên thắng lợi ở mặt trận nhưng lại giữ vai trò có tính quyết định; là chỗ dựa, nơi cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến, cổ vũ niềm tin vào chiến thắng cho bộ đội. Hậu phương có vững mạnh, được giữ vững mọi mặt thì bộ đội ở chiến trường mới có thêm sức mạnh để đánh thắng giặc. Tư tưởng “Thực túc thì binh cường” của Hồ Chí Minh đã khẳng định một triết lý giản dị nhưng vô cùng sâu xa: muốn xây dựng được quân đội hùng mạnh, đủ sức chiến đấu lâu dài và giành chiến thắng, trước hết phải xây dựng được thực lực - tức là phải có được hậu phương vững chắc, mạnh về mọi mặt, nhất là về kinh tế - quốc phòng, là nguồn dự trữ dồi dào, to lớn về nhân lực, vật lực, đáp ứng mọi nhu cầu ngày càng cao của chiến trường.

1. Một số nội dung, quan điểm và biện pháp xây dựng hậu phương kháng chiến vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện trên tất cả các mặt, như: chính trị, tư tưởng, kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ vững chắc hậu phương cả trong thời bình và thời chiến. Trước hết, xây dựng hậu phương vững mạnh về chính trị - tư tưởng là vấn đề có tính cốt lõi và xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng. Hồ Chí Minh xác định rằng, muốn xây dựng hậu phương vững mạnh, vấn đề đầu tiên, nhiệm vụ then chốt là phải xây dựng lực lượng chính trị. Theo Người, chỗ dựa vững chắc nhất của cách mạng, của hậu phương kháng chiến là lòng yêu nước, lòng trung thành vô hạn của nhân dân đã giác ngộ đối với sự nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”. Trong quá trình chỉ đạo xây dựng hậu phương, Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng. Người yêu cầu tất cả các đơn vị, địa phương đều phải ra sức chăm lo, củng cố tổ chức đảng vững mạnh; mỗi chi bộ thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo, là “pháo đài thép” ở từng cơ sở. Trong xây dựng Đảng ở hậu phương, cần hết sức coi trọng bồi dưỡng cấp ủy, bí thư và cán bộ nòng cốt cả về nhận thức tư tưởng, phương pháp lãnh đạo, cách xây dựng nghị quyết về công tác xây dựng hậu phương quân đội, nhất là công tác quân sự địa phương ở từng cơ sở.

Đi đôi với xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ các cấp, nhất là ở các địa phương: “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Người yêu cầu chính quyền, đoàn thể, tổ chức chính trị các cấp phải thực sự làm tốt vai trò, chức năng của mình trong việc tổ chức quản lý và điều hành các hoạt động của xã hội, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện chính quyền của dân, do dân, vì dân. Đồng thời, Người luôn nhắc nhở các cấp chính quyền phải thường xuyên chấp hành và thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm động viên, khuyến khích phát triển sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở hậu phương, củng cố và bồi dưỡng sức dân trong chiến tranh.

Quan điểm xây dựng hậu phương vững mạnh về chính trị - tư tưởng của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở phương châm chỉ đạo các cấp bộ đảng và chính quyền cần tích cực bồi dưỡng và phát động các phong trào thi đua yêu nước, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang và nhân dân. Người nói: “Người người thi đua/ Ngành ngành thi đua/ Ta nhất định thắng/ Địch nhất định thua”. Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng ta đã phát động trong toàn dân, toàn quân nhiều cuộc vận động chính trị, thi đua xây dựng hậu phương thông qua các phong trào; tạo sự cổ vũ và động viên to lớn đối với toàn dân, toàn quân ở hậu phương và trên chiến trường cùng thi đua hoàn thành nhiệm vụ.

Xây dựng tiềm lực kinh tế là điều kiện thúc đẩy sự phát triển tiềm lực quốc phòng; kinh tế có phát triển, hậu phương mới có thể đáp ứng đầy đủ và kịp thời mọi nhu cầu ngày càng lớn của chiến tranh, mới đủ sức đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh để đi đến thắng lợi cuối cùng. Mặt khác, kinh tế có phát triển, mới có điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ở hậu phương, duy trì và bồi dưỡng được sức dân trong điều kiện chiến tranh ác liệt kéo dài. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Biết đánh là cái tốt, nhưng chỉ biết đánh mà coi nhẹ chính trị, kinh tế, tuyên truyền giáo dục nhân dân tức là chỉ biết có một mặt, vì đánh không thể tách rời được với chính trị và kinh tế”.

Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo, trình độ sản xuất thấp, cơ sở hạ tầng kém phát triển, lại bị chiến tranh ác liệt kéo dài tàn phá, với tinh thần tự lực, tự cường là chính, Hồ Chí Minh đề ra chính sách tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, coi đó là một “quốc sách” căn bản để nâng cao đời sống nhân dân, khôi phục và phát triển kinh tế, phục vụ yêu cầu của kháng chiến. Với chủ trương “thực túc binh cường”, coi ruộng đất là của cải, “tấc đất tấc vàng”, Người luôn kêu gọi toàn dân, toàn quân: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa” và luôn xem đó là phương châm thiết thực để xây dựng hậu phương không ngừng lớn mạnh, để phục vụ kháng chiến, kiến quốc thắng lợi.

Hồ Chí Minh còn hết sức coi trọng phát triển về văn hóa, giáo dục, y tế. Ngay từ khi chính quyền được thành lập và trong quá trình tiến hành kháng chiến, Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng nền văn hóa mới, chăm lo đời sống văn hóa - tinh thần, phát triển giáo dục, chăm lo sức khỏe cho nhân dân ở hậu phương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nạn mù chữ trên toàn quốc đã được đẩy lùi, xóa bỏ; giáo dục phổ thông từng bước phát triển. Trình độ học vấn của bộ đội và nhân dân được nâng lên làm cho việc nhận thức nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng hậu phương chiến tranh, nhận thức tình hình thế giới và trong nước đạt được kết quả rõ rệt. Nhờ đó, việc động viên tham gia kháng chiến, xây dựng và bảo vệ hậu phương, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ thêm thuận lợi. Đồng thời, Người chỉ rõ: “Xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc”.

Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ hậu phương kháng chiến, chăm lo xây dựng nâng cao đời sống và bồi dưỡng sức dân ở hậu phương là hai mặt của một vấn đề, thống nhất chặt chẽ với nhau, luôn hỗ trợ và tương tác lẫn nhau. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: nhiệm vụ bảo vệ là cực kỳ quan trọng, song quyết định nhất trong các nhiệm vụ của hậu phương, bảo đảm cho hậu phương ổn định và vững mạnh là nhiệm vụ xây dựng. Người đã từng nhắc nhở quân và dân ta trong xây dựng và bảo vệ hậu phương phải tích cực chuẩn bị sẵn sàng; luôn đề cao cảnh giác, kiên quyết đập tan mọi âm mưu thủ đoạn chống phá nổi loạn từ bên trong cũng như tiến công tập kích từ bên ngoài vào của kẻ địch.

2. Phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về hậu phương chiến tranh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình quốc tế và khu vực đang có nhiều diễn biến phức tạp; nhiều thuận lợi và nguy cơ, thách thức đan xen. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang, cùng với âm mưu bạo loạn lật đổ ở các mức độ khác nhau để chống phá cách mạng nước ta. Trong bối cảnh đó, việc quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện là vô cùng quan trọng và cấp thiết. Chúng ta cần xác định rõ những quan điểm và phương hướng chiến lược để xây dựng hậu phương ngay từ thời bình, phù hợp với yêu cầu và điều kiện của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, trên những nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng hậu phương chiến tranh ngay từ thời bình. Trong quá trình hoạch định đường lối lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung, xây dựng và củng cố quốc phòng, an ninh nói riêng, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định: “Trên cơ sở phát triển kinh tế, đáp ứng ngày càng đầy đủ và ổn định các nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của các lực lượng vũ trang, củng cố thế trận bảo vệ Tổ quốc cả về quốc phòng và an ninh”8. Trên thực tế, bước chuyển từ thời kỳ chiến tranh sang thời kỳ hòa bình diễn ra trên nhiều mặt, nhiều vấn đề, đặc biệt là trên lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thực tiễn đó đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, đổi mới cơ chế lãnh đạo và tổ chức thực hiện. Trên lĩnh vực xây dựng, củng cố hậu phương thời bình, cốt lõi là vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, Đảng ta vẫn thể hiện tính nhất quán và xuyên suốt, có sự kế thừa và phát triển. Có thể nói, việc sớm xác định đường lối xây dựng hậu phương chiến tranh trong thời bình, hay việc xác định nội dung, bước đi trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân thời kỳ hội nhập quốc tế luôn được thể hiện nhất quán, thể hiện tư duy nhạy bén, trí tuệ, bản lĩnh, tầm nhìn chiến lược của Đảng trước những vấn đề thực tiễn của đất nước, của thời đại mang tính xu thế toàn cầu hóa.

Thứ hai, xây dựng hậu phương chiến tranh thời bình theo hướng đồng bộ, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hậu phương chiến lược miền Bắc luôn được Đảng chú trọng xây dựng vững mạnh về mọi mặt, đứng vững trước mọi thử thách ác liệt của chiến tranh phá hoại của địch, trên cơ sở đó đã dốc toàn bộ sức người, sức của cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Kinh nghiệm đó cần được tiếp tục vận dụng và kế thừa đầy đủ, sâu sắc trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao, nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khoa học - kỹ thuật, công nghệ ngày càng phát triển. Ngày nay, với nhiều loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, phương thức tiến hành chiến tranh có nhiều điểm phát triển mới buộc chúng ta phải chú trọng quan tâm xây dựng, tổ chức hậu phương chiến tranh ngay trong thời bình với những nội dung mới phù hợp. Có như vậy, khi chiến tranh xảy ra, hậu phương mới có thể đứng vững trong mọi thử thách, tạo được sức mạnh và chỗ dựa vững chắc cho toàn quân, toàn dân đánh giặc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thứ ba, tăng cường tiềm lực quốc gia, sức mạnh của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị trong xây dựng hậu phương thời bình, kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong thời kỳ hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng, Đảng ta xác định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế,… tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”. Nhằm hiện thực hóa chủ trương trên, góp phần tạo ra sức mạnh quốc gia, xây dựng hậu phương chiến tranh vững mạnh ngay từ thời bình, Đảng ta đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,… Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”.

Như vậy, Đảng ta đã chỉ rõ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tuy đặc điểm tình hình có những bước phát triển mới, nhưng nhân tố quyết định thường xuyên đối với sức mạnh quân đội vẫn là nhân tố hậu phương, thắng lợi của chiến tranh vẫn là tiềm lực của hậu phương. Vì vậy, xây dựng hậu phương trong thời kỳ mới vẫn phải chú trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, quân sự. Phải kết hợp kinh tế với quốc phòng và ngoại giao, kinh tế với văn hóa, kết hợp sức mạnh trong nước với quốc tế, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế và nhân dân thế giới, tạo sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

ST.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bản lĩnh chính trị của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản lĩnh chính trị của Đảng là tài sản vô cùng quí báu, luôn soi sáng, chỉ đường cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta qua các thời kỳ cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, những chỉ dẫn của Người vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.



Toàn cảnh Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ảnh: xaydungdang.org.vn

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một Đảng cách mạng chân chính phải luôn nêu cao khát vọng mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Tổ quốc, cho nhân dân; tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tháng 7/1920, khi đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”, Người đã quyết định đi theo con đường của V.I.Lênin, gia nhập Quốc tế Cộng sản, bởi: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Suốt cuộc đời mình, Người đã tận tâm cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Để hiện thực hóa ham muốn, khát vọng: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, Người đã vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là minh chứng khẳng định tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thành lập Đảng cách mạng chân chính để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh: Quan điểm, đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, không “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”. Người chỉ rõ: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”.

Bản lĩnh chính trị của Đảng còn biểu hiện trong việc luôn nắm vững nguyên tắc cách mạng; đồng thời, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên quyết giữ vững nền độc lập, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, thể hiện quan điểm kết hợp nhuần nhuyễn giữa nguyên tắc, mục tiêu chiến lược với tính uyển chuyển, linh hoạt của sách lược; giữa chiến lược, đường lối lãnh đạo của Đảng và sách lược cách mạng. Thực tiễn cho thấy, bằng bản lĩnh của người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhận thức thấu đáo, giải quyết uyển chuyển, sáng tạo mối quan hệ giữa “bất biến” và “vạn biến” trong các giai đoạn lịch sử cách mạng, phù hợp với thực tiễn đất nước để đi đến thắng lợi.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, không thể tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm, song với bản lĩnh chính trị của một đảng cách mạng chân chính, Đảng ta đã thẳng thắn thừa nhận sai lầm, khuyết điểm với thái độ nghiêm túc, cầu thị và quyết tâm sửa chữa; xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Đảng, không ngừng củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa I, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng, Chính phủ thẳng thắn nhận khuyết điểm và xin lỗi nhân dân về những sai lầm trong cải cách ruộng đất và quyết tâm sửa sai. Người nói: “... một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Cùng với đó, Người luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và sớm nhận thấy nguy cơ dẫn đến sự suy yếu của Đảng khởi phát từ căn bệnh của quyền lực, chủ nghĩa cá nhân nên đã nghiêm khắc phê bình và yêu cầu sửa chữa. Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” và tác phẩm “Đời sống mới” nhằm giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên về phương pháp, phong cách lãnh đạo trên cơ sở thực hành đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Theo Người, kịp thời “sửa đổi” tức là “đổi mới” cách nghĩ, cách làm để mỗi cán bộ, đảng viên luôn xứng đáng là người đại biểu của nhân dân, của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh, nhờ có những cán bộ, đảng viên trung thành, tận tụy, ngay thẳng, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám nhận trách nhiệm trước sai lầm, không vì lợi ích cá nhân mà Đảng ngày một lớn mạnh, được nhân dân tin yêu, gọi tên trìu mến: “Đảng ta”.

Từ những chỉ dẫn của Người về bản lĩnh chính trị của Đảng và kinh nghiệm, bài học trong công tác xây dựng Đảng, để góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau.

Một làtăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thứcsức “đề kháng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, mầm mống của tham nhũng, tiêu cực. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, hết sức quan trọng của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và cả hệ thống chính trị. Cấp ủy đảng các cấp, trực tiếp là bí thư, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải nêu cao trách nhiệm, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhằm nâng cao nhận thức, đạo đức cách mạng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, phát hiện, đẩy lùi nguy cơ suy thoái của cán bộ, đảng viên. Tích cực nắm bắt tình hình, bám nắm địa bàn, cơ sở, kịp thời định hướng dư luận xã hội, giải quyết đúng đắn, hiệu quả những vấn đề bức xúc, tạo sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh, phê phán những tư tưởng lệch lạc, thông tin xấu độc, sai sự thật chưa được kiểm chứng và những biểu hiện suy thoái, tiêu cực, nhũng nhiễu của cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng. Để đạt hiệu quả cao, các cơ quan, đơn vị cần đa dạng hóa hình thức, phương thức tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, nhất là quyết tâm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, v.v. Khơi dậy truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực, tự cường, tạo sự thống nhất về ý chí, hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Cùng với đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng, bảo đảm thông tin khách quan, trung thực để định hướng nhận thức tư tưởng, hành động trong xã hội.

Hai làquán triệt, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Thực tiễn đã chỉ ra: giữ vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động Đảng sẽ tạo ra sức mạnh, bảo đảm cho Đảng lãnh đạo cách mạng thành công. Ngược lại, nếu mất cảnh giác, lơ là, buông lỏng, xa rời và lợi dụng nguyên tắc của Đảng nhằm hợp thức hóa mưu đồ cá nhân, lợi ích nhóm, tham ô, tham nhũng, tiêu cực,... sẽ làm suy yếu, mất vai trò lãnh đạo của Đảng, tồn vong của chế độ. Đảng ta đã khẳng định, sự chặt chẽ, khoa học về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và là đảm bảo quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng. Điều lệ Đảng quy định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Do đó, mọi tổ chức đảng, đảng viên phải quán triệt, nắm vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng để hành động đúng, đủ, kịp thời, thực hiện hiệu quả nội dung của từng nguyên tắc. Xây dựng ý thức tự nguyện, tự giác, tự chủ, tự trọng của cán bộ, đảng viên, nhất là trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu, luôn cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, xứng đáng “là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” như lời di huấn của Người.

Ba làhoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cựcĐây là giải pháp rất quan trọng, bởi khi hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước sẽ trực tiếp ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Chỉ khi nào quyền lực Nhà nước trao cho những cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tài năng, đức độ thì mới quy tụ, tập hợp, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết. Ngược lại, nếu để quyền lực vào tay người có tham vọng, ích kỷ sẽ rất nguy hiểm. Hiện nay, trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường, mỗi cán bộ, đảng viên cần quán triệt, thực hiện tốt Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị về “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”; thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống; xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, dám đương đầu với khó khăn thử thách, tiên phong, gương mẫu đi đầu trong mọi hoạt động; không bị tha hóa, mua chuộc, sa ngã, ảnh hưởng đến uy tín, thanh danh của Đảng. Các tổ chức đảng tiếp tục thực hiện nghiêm Kết luận số 34-KL/TW, ngày 18/4/2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Bốn làphát huy vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Theo đó, mọi công việc của Đảng phải luôn quán triệt, thực hiện nghiêm quan điểm “dân là gốc”, phát huy vai trò giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng;... thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân”; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia giám sát, phản biện các hoạt động lãnh đạo của Đảng, của cán bộ, đảng viên. Đây không những là chủ trương đúng đắn, phù hợp, bởi quyền lực của Nhà nước cần có sự kiểm tra, giám sát của nhân dân để đảm bảo mục đích của Đảng được thực hiện; mà còn góp phần rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng của đội ngũ cán bộ, đảng viên để dám dấn thân, đương đầu với những khó khăn, thách thức, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, hành động vì lợi ích chung, vì nước, vì dân. Bên cạnh đó, cần thực hiện nghiêm lời huấn thị của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bản lĩnh chính trị của Đảng đã để lại dấu ấn trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua, khẳng định quyết tâm của Đảng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” trong công tác này nhằm kiên quyết loại bỏ những sâu mọt, làm trong sạch bộ máy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, để Đảng ta mãi là đạo đức, là văn minh, thực hiện thắng lợi khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

ST.

Toàn quân đẩy mạnh công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trong tình hình mới

Tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ là nhiệm vụ chính trị thiêng liêng, cao cả, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, thể hiện truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, tri ân công lao to lớn đối với các anh hùng liệt sĩ, góp phần xoa dịu nỗi đau chiến tranh, đáp ứng tình cảm, nguyện vọng thiết tha của thân nhân, gia đình liệt sĩ và đồng bào, chiến sĩ cả nước. Công việc này cần được các cấp, ngành, địa phương, nòng cốt là Quân đội tiếp tục đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa.

Trong những năm qua, kế thừa, phát huy truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đề ra nhiều chủ trương, giải pháp tích cực, toàn diện trong thực hiện chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, hậu phương Quân đội và người có công với cách mạng, nhất là công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Đây không chỉ thể hiện bản chất của chế độ xã hội tốt đẹp, mà còn là tấm lòng thành kính, tình cảm thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhằm tri ân, biết ơn công lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ đã chiến đấu, hy sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, góp phần xoa dịu nỗi đau chiến tranh và đáp ứng nguyện vọng thiết tha của đồng bào cả nước.



Thượng tướng Võ Minh Lương phát biểu tại Hội nghị Tổng kết thực hiện các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách và công tác bảo đảm đối với tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Ảnh:mod.gov.vn

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, Ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin (Ban Chỉ đạo quốc gia 515), các ban, bộ, ngành Trung ương, cấp ủy, chính quyền các địa phương, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân và ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã tập trung triển khai nhiệm vụ quan trọng này bằng tình cảm, trách nhiệm chính trị cao nhất và đạt nhiều kết quả quan trọng. Nổi bật là, nhận thức, ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với sự hy sinh xương máu của các anh hùng liệt sĩ, gia đình người có công không ngừng được nâng cao. Các cơ quan, đơn vị, địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch, chỉ đạo định hướng nội dung, thường xuyên kiện toàn tổ chức, bổ sung phương tiện,... đối với lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ tiếp tục được triển khai sâu rộng, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân, thu hút sự quan tâm, đồng thuận của xã hội. Công tác phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương trong xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về liệt sĩ, kết luận địa bàn, lập bản đồ tìm kiếm, quy tập được triển khai toàn diện, sâu rộng, khoa học và chặt chẽ. Hiện nay, nhiều cơ quan, đơn vị đã hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu về liệt sĩ; tiến hành phân tách, chuyển giao danh sách liệt sĩ để từng địa phương xác minh, kết luận địa bàn, lập bản đồ và tổ chức tìm kiếm, quy tập. Hợp tác quốc tế về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được tiến hành bài bản, đồng bộ, thống nhất ở nhiều cấp độ, bước đầu đạt kết quả tích cực. Việc kiểm tra, sơ kết, tổng kết, bảo đảm các chế độ, chính sách, cơ sở vật chất cho nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được quan tâm và thực hiện có nền nếp, nghiêm túc, tạo sự thống nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ. Hoạt động đón nhận, truy điệu, an táng hài cốt liệt sĩ được các cấp, ngành, địa phương tổ chức chặt chẽ, chu đáo, trang trọng, phù hợp với phong tục tập quán của từng địa phương,... góp phần cổ vũ tinh thần yêu nước, củng cố lòng tin của nhân dân cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tuyên truyền, vận động cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ có thời điểm còn chưa thường xuyên, sâu rộng; việc rà soát, hoàn thiện hồ sơ danh sách liệt sĩ, kết luận địa bàn, lập bản đồ tìm kiếm, quy tập và thu thập, kết nối, xác minh, kết luận thông tin có lúc, có nơi còn chưa thật khoa học… Trong khi đó, số hài cốt liệt sĩ chưa tìm kiếm được vẫn còn nhiều (khoảng gần 180.000), thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ ngày càng ít, độ chính xác không cao, nhân chứng biết thông tin không còn nhiều, ngày càng già yếu, trí nhớ giảm; phạm vi rộng, địa hình phức tạp, có nhiều thay đổi, nhiều nơi còn sót lại bom, mìn, vật nổ,… ảnh hưởng rất lớn đến công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

Để nâng cao hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, các cấp, ngành, địa phương, nòng cốt là Quân đội nhân dân cần phối hợp triển khai đồng bộ các giải pháp, huy động mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này; trong đó, tập trung thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm sau:

Một làtiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, mang tính quyết định, đảm bảo cho nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ không chỉ tiến hành chặt chẽ, đúng hướng, đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, mà còn thể hiện giá trị nhân văn và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, trọng tâm là Quyết định số 1515/QĐ-TTg, ngày 14/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tìm kiếm, quy tập và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Trên cơ sở đó, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là trong xây dựng chương trình, kế hoạch cùng những giải pháp thực hiện cụ thể, khả thi, phù hợp với tình hình địa bàn, thực tiễn từng năm và từng giai đoạn. Cấp ủy, chỉ huy các cấp đề cao trách nhiệm, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của mọi người, mọi ngành, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong tổ chức thực hiện. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành các chế độ, chính sách, các văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, tạo sự đồng bộ, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.

Hai làđẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Các cơ quan, đơn vị, địa phương, nhất là cơ quan thông tấn, báo chí tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của các cấp, ngành, đơn vị, địa phương trong công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Chủ động, tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền; phát huy sức mạnh tổng hợp, hiệu quả các thiết chế, phương tiện truyền thông, mạng xã hội,… để tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các tầng lớp nhân dân cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ và phối hợp tham gia tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Phát huy hiệu quả Cổng Thông tin điện tử ngành Chính sách Quân đội và Cổng Thông tin điện tử về liệt sĩ, mộ liệt sĩ và nghĩa trang liệt sĩ; tăng cường tổ chức diễn đàn, trao đổi, chia sẻ thông tin; xuất bản, phát hành các ấn phẩm về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Các cơ quan, đơn vị, địa phương và từng lực lượng tiếp tục làm tốt công tác vận động, phát động toàn dân phát hiện, cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ; tích cực khai thác và sử dụng có hiệu quả kết quả giải mã ký hiệu, phiên hiệu đơn vị Quân đội; hồ sơ, danh sách, cơ sở dữ liệu quốc gia về liệt sĩ để kết nối thông tin, phục vụ cho công tác tìm kiếm, quy tập, nhất là các khu vực có mộ liệt sĩ tập thể. Đồng thời, tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ thông tin trong rà soát, hoàn thiện hồ sơ, danh sách liệt sĩ; kết luận địa bàn, lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở các cấp, xác định khu vực, địa bàn trọng điểm cần tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và xây dựng, tích hợp, vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về liệt sĩ trên địa bàn cả nước.

Ba làthường xuyên kiện toàn tổ chức, lực lượng, bổ sung phương tiện, trang bị, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ trên các địa bàn. Các cơ quan, đơn vị, địa phương phải thường xuyên bổ sung, kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 515 cấp mình và Cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo 515 cùng cấp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo các hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Căn cứ vào đặc điểm, thực tế của từng địa bàn, kịp thời tổ chức lực lượng lâm thời, liên ngành và lực lượng phối hợp thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ một cách phù hợp, hiệu quả. Trong đó, cần coi trọng việc tổ chức khảo sát các địa bàn, nhất là địa bàn trọng điểm còn nhiều hài cốt liệt sĩ để làm căn cứ xây dựng kế hoạch, bố trí lực lượng, phương tiện phù hợp, triển khai thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập chặt chẽ, hiệu quả, an toàn. Cùng với đó, cần chủ động làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho các lực lượng làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập; thường xuyên rà soát, thay thế, bổ sung phương tiện, trang bị cần thiết, phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ. Quá trình thực hiện, cần làm tốt công tác quản lý địa bàn, không để xảy ra hiện tượng tìm kiếm, quy tập trái quy định; đồng thời, thực hiện tốt việc di chuyển, đón nhận, bàn giao, truy điệu, an táng hài cốt liệt sĩ chặt chẽ, chu đáo, trang nghiêm, an toàn tuyệt đối. Tiếp tục phát huy nguồn lực của các cơ quan, đơn vị, địa phương đối với công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, góp phần vào sự ổn định chính trị - xã hội của địa phương, cơ sở.

Bốn làphát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, lực lượng; tiếp tục mở rộng quan hệ, tăng cường hợp tác quốc tế về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng tăng cường phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương tham gia hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ; phối hợp chặt chẽ với Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Ban Chỉ đạo 515 các tỉnh và Hội Cựu chiến binh cùng cấp,... tuyên truyền, vận động cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ, nâng cao hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ trong giai đoạn mới. Thường xuyên tham mưu với Đảng, Nhà nước triển khai các giải pháp mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường quan hệ với các nước, các tổ chức và cá nhân có liên quan, nhằm chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao ứng dụng khoa học, công nghệ, hỗ trợ trang bị, phương tiện và phối hợp đưa vấn đề trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến quân nhân Việt Nam hy sinh, mất tin, mất tích trong chiến tranh vào chương trình hoạt động ngoại giao cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Ban Công tác đặc biệt, Ủy ban Chuyên trách của Chính phủ Việt Nam với Ban Công tác đặc biệt Chính phủ Lào, Ủy ban Chuyên trách Chính phủ Campuchia, các cấp chính quyền của nước Bạn, nhằm đẩy nhanh tiến độ tìm kiếm, quy tập, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh trên đất bạn Lào, Campuchia với tinh thần chủ động, tích cực, khẩn trương, trách nhiệm cao. Đồng thời, xây dựng cơ chế, thực hiện các thỏa thuận hợp tác, nâng cao hiệu quả công tác nhân đạo cao cả này.

Năm làtăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; kịp thời biểu dương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích trong thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Định kỳ và hằng năm, Ban Chỉ đạo 515, Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo 515 các cấp, các cơ quan, đơn vị, địa phương chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra định kỳ, đột xuất, nhất là đối với những địa phương, địa bàn trọng điểm còn nhiều hài cốt liệt sĩ chưa được tìm kiếm, quy tập. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, các cơ quan, đơn vị nắm chắc tình hình, tiến độ, kết quả tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; kịp thời phát hiện, xử lý những bất cập, vướng mắc nảy sinh. Đồng thời, làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để kịp thời điều chỉnh, bổ sung các giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động, nâng cao hiệu quả trong tham mưu, tổ chức thực hiện. Cùng với đó, kịp thời biểu dương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có thành tích xuất sắc trong công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

Tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ là nhiệm vụ chính trị thiêng liêng, cao cả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, thể hiện truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, sự tôn kính, tri ân và biết ơn sâu sắc công lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Phát huy kết quả đạt được, các cấp, ngành, địa phương, nòng cốt là các cơ quan, đơn vị Quân đội tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, đáp ứng mong mỏi của thân nhân các liệt sĩ và nguyện vọng thiết tha của đồng bào, chiến sĩ cả nước, góp phần củng cố vững chắc “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

ST.