Thứ Hai, 29 tháng 7, 2024

MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH TOÀN DIỆN

 Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện để cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ được vận hành thông suốt, là nhân tố quyết định việc hiện thực hóa khát vọng đi lên CNXH của nhân dân ta.

1. Những trở lực trong xây dựng CNXH ở Việt Nam

Trên con đường đi lên CNXH, bên cạnh những khó khăn, thách thức từ tác động của tình hình chính trị thế giới, của suy thoái kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh thương mại, quân sự giữa các quốc gia,… nội tại hệ thống chính trị nước ta tồn tại nhiều trở lực cần vượt qua:

Một là, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” chưa thực sự phát huy hết vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước mang tính tổ chức cao, bảo đảm tập trung thống nhất và phân công, phân cấp theo phạm vi không gian và nhiệm vụ chính trị. “Nhân dân” là lực lượng xã hội, bao hàm tất cả mọi người dân thuộc mọi giai tầng, có điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu lợi ích khác nhau. Để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, Đại hội XIII của Đảng đã xác định cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ(1). Tuy nhiên, về lý thuyết cũng như trên thực tế, nội dung, phương thức và hiệu quả “làm nòng cốt” của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn chưa thực sự rõ. Bởi như Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: “Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số nơi chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới”(2).

Hai là, vấn đề năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.

Năng lực lãnh đạo, cầm quyền là khả năng của Đảng cầm quyền trong ban hành các quyết định để lãnh đạo hệ thống chính trị, tổ chức các lực lượng thực hiện quyết định và kiểm tra, giám sát để kịp thời đánh giá, điều chỉnh, kiểm soát quyền lực và xử lý vấn đề phát sinh trong quá trình hiện thực hóa quyết định lãnh đạo; là khả năng nhận biết, đối diện và khắc phục khó khăn, thách thức, phòng tránh nguy cơ suy thoái, “tự diễn biến”, tự chuyển hóa” trong nội bộ và sự chống phá của các thế lực thù địch; là sức mạnh vượt lên, vượt qua rào cản của tư duy lạc hậu, trì trệ; là sự năng động, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung để tạo đột phá thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp đổi mới đất nước có nhân tố quyết định là năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Song, thực tế cũng còn nhiều mục tiêu chính trị của Đảng chưa đạt được. Nhiều vướng mắc, hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo hệ thống chính trị làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nguyên nhân được Đại hội XIII của Đảng chỉ ra là: Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp (…) tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu (…). Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(3). Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”(4).

Ba là, vai trò, trách nhiệm, quyết tâm chính trị của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong xây dựng Nhà nước chưa thực sự được phát huy.

Đại hội XIII của Đảng đánh giá việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian qua tuy có nhiều thành tựu, song “có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới”(5). Dù đã có Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, song bộ máy các cơ quan nhà nước vẫn còn tình trạng cồng kềnh, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương chưa thực sự quyết liệt, cơ chế kiểm soát quyền được phân cấp chưa thực sự rõ ràng, cần được hoàn thiện. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp được tiến hành qua nhiều giai đoạn, song đến nay, hệ thống thể chế còn thiếu đồng bộ, nhiều khoảng trống; cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được phát huy đầy đủ; đội ngũ cán bộ, công chức chưa “tinh”, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu hội nhập, một bộ phận cán bộ thoái hóa, biến chất; quản lý tài chính công ở một số cơ quan lỏng lẻo, tồn tại những thiếu sót, tạo mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, tiêu cực…

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” chỉ rõ: vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; “quyết tâm chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền… chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Những hạn chế, khuyết điểm trên là trở lực đối với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.

Bốn là, sự chống phá của các thế lực thù địch mọi lúc, mọi nơi, trên mọi phương diện.

Trên lĩnh vực tư tưởng, thông qua các phương tiện truyền thông, các tổ chức phản động, tuyên truyền xuyên tạc Cương lĩnh chính trị của Đảng, phủ định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, bóp méo, làm lệch lạc mô hình CNXH mà nhân dân ta đang hướng đến, phủ định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, đòi xây dựng mô hình nhà nước Việt Nam theo “tam quyền phân lập”, cổ xúy cho sự hình thành xã hội dân sự đặt ra ngoài sự lãnh đạo của Đảng…

Các thế lực phản động hô hào và tổ chức các “hành động thực tế”, nhen nhóm và duy trì các tổ chức phản động ở nước ngoài, rồi móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong nước, tổ chức hoạt động khủng bố, kích động bạo lực, khiếu kiện, biểu tình gây mất an ninh, trật tự xã hội, phá hoại chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Chúng “tôn vinh”, “cổ xúy” cho những cán bộ bất mãn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những người dân hạn chế về nhận thức chính trị, biến họ trở thành “nhân chứng sống”, thành “loa” tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước.

Trên thực tế, bằng những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, chúng hòng phá hoại công cuộc đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Nhà nước, lật ngược bản chất của cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực, khuếch đại nguy cơ mất độc lập, chủ quyền, khoét sâu những mâu thuẫn, hạn chế, tiêu cực, gây mất niềm tin của nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế đối với vai trò cầm quyền của Đảng.

2. Đề xuất một số giải pháp

Một là, nâng cao nhận thức về yêu cầu tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện trong tình hình mới

Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện là trách nhiệm, nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Trong giai đoạn hiện nay, trước những vấn đề hạn chế, vướng mắc, cản trở công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam có nguyên nhân từ năng lực, hiệu quả hoạt động của Đảng và cả hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, thì việc nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của các cấp chủ thể, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh toàn diện là giải pháp quan trọng và cần thiết.

Để nâng cao nhận thức, cần tăng cường công tác tư tưởng, bằng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để có đánh giá đúng về thực trạng, mức độ hiệu quả của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thời gian qua; xác định các tiêu chí đánh giá chất lượng của tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và điều kiện bảo đảm cho bộ máy, đội ngũ trên hoàn thành nhiệm vụ. Trên cơ sở đó, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đưa nội dung xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vào các cuộc sinh hoạt Đảng, sinh hoạt đoàn thể, vào hoạt động của cơ quan dân cử, tiếp dân, đối thoại với dân, vào quá trình xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách, vào công tác cán bộ, đảng viên, vào xây dựng phong trào hành động cách mạng ở cơ quan, địa phương.

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn kinh tế, văn hóa, chính trị; thông qua hoạt động của các cơ quan chuyên trách công tác tư tưởng của hệ thống chính trị, nòng cốt là Ban Tuyên giáo cấp ủy các cấp… để đưa chủ trương, định hướng chính sách xây dựng Đảng, hệ thống chính trị vào các lực lượng, chủ thể, động viên, khích lệ, bảo vệ những tập thể, cá nhân có sáng kiến giải pháp hợp lý, có bản lĩnh đấu tranh chống sự thờ ơ, vô trách nhiệm, chủ nghĩa cá nhân.

Thống nhất nhận thức về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”, để trong xây dựng thể chế vận hành hệ thống chính trị, thành tố tổ chức này không lấn át, hay xa rời, ức chế sự vận động của thành tố kia.

Đảng lãnh đạo bằng định hướng chính trị, nên xây dựng Đảng phải phòng tránh, loại trừ tình trạng bao biện, làm thay hay buông lỏng lãnh đạo đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.

Nhà nước quản lý bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước phải hướng đến tăng cường pháp chế, song pháp luật không phải để trói buộc, mà kiến tạo để phát triển, như “là một đối tác, là chất xúc tác và là người tạo điều kiện thuận lợi” cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vận động nhân dân thực hiện thành công đường lối của Đảng.

Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội xứng đáng là các tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích của quần chúng nhân dân, song mục tiêu lợi ích trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể không được trái với mục tiêu lợi ích của Đảng, Nhà nước và dân tộc. Đó cũng là cơ sở để cảnh giác và đấu tranh với luận điệu đòi xây dựng “xã hội dân sự” ở Việt Nam với tư cách là lực lượng đối lập với Đảng Cộng sản.

Song song với xây dựng, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền bảo vệ Đảng và hệ thống chính trị trước sự chống phá của các thế lực thù địch. Quán triệt trong các cấp ủy, chi bộ đảng các văn bản lãnh đạo của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 18-8-2014 của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay”; Kết luận số 72-KL/TW ngày 19-5-2020 của Bộ Chính trị “về tiếp tục tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay”; Quy định số 58-QĐ/TW ngày 08-02-2022 của Bộ Chính trị “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”.

Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo tinh thần Nghị quyết 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị, không để các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá, chia rẽ nội bộ. Xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ án chống Nhà nước; tuyên truyền rộng rãi kết quả xử lý để nhân dân thấy rõ bộ mặt của những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân, đến vai trò, vị thế của Đảng và cả hệ thống chính trị.

Hai là, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ

Trước hết, phải thống nhất nhận thức yêu cầu về tính toàn diện trong xây dựng Đảng: phải tạo cho Đảng có một nền tảng tư tưởng vững chắc; có đường lối lãnh đạo đúng, nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp để huy động được lực lượng toàn Đảng, toàn dân làm cách mạng; trong Đảng trên dưới đoàn kết, thống nhất; tổ chức bộ máy của Đảng hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ năng lực, trình độ, có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, có trách nhiệm, làm gương cho quần chúng noi theo; không tham nhũng, tiêu cực, vi phạm lợi ích của nhân dân và của dân tộc…

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(6). Muốn vậy, phải tổ chức quán triệt và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội của Đảng và các nghị quyết chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, chú trọng tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, bảo đảm mục tiêu, con đường, nền tảng tư tưởng, bản lĩnh chính trị của Đảng được giữ vững, các quyết sách chính trị trong từng giai đoạn, từng lĩnh vực được ban hành và tổ chức thực hiện hợp lý, thông suốt, phát huy dân chủ, bảo đảm tính đảng, tính khoa học, gắn lý luận với thực tiễn và mang lại thắng lợi chính trị rõ nét.

Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng bằng việc đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức thông qua công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức; quyết liệt đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức gây mất niềm tin của nhân dân.

Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết trong Đảng.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, nâng cao tính tích cực chính trị của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng Nhà nước theo hướng “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội(7).

Tổ chức thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”. Theo đó, tiến hành đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về bản chất, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cơ chế thực thi quyền lực của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội theo đúng tinh thần dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tổ chức các bộ, các cơ quan chuyên môn đa ngành, đa lĩnh vực. Tiếp tục cải cách hành chính đồng bộ trên cả 6 nội dung mục tiêu (thể chế, thủ tục hành chính, bộ máy, công vụ, tài chính công và hiện đại hóa), bảo đảm có được nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.

Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát tốt, để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Nhà nước. Phát huy dân chủ, tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, bảo đảm mọi hoạt động của Nhà nước đều phát huy vai trò của nhân dân theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Bốn là, xây dựng và phát huy vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội

Tăng cường xây dựng, đổi mới tổ chức bộ máy Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác trong từng tổ chức và giữa các tổ chức. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể theo hướng tập trung cho cơ sở, gắn bó với đoàn viên, hội viên, khắc phục tình trạng :hành chính hóa”, “công chức hóa”. Thực hiện nghiêm chủ trương rà soát, sắp xếp, tinh giản biên chế.

Tiếp tục quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực công tác của cán bộ chuyên trách, khắc phục tình trạng bố trí cán bộ yếu kém, hoặc vi phạm kỷ luật ở cơ quan Đảng, chính quyền sang giữ vị trí lãnh đạo các cơ quan thường trực khối mặt trận, đoàn thể. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp trong đầu tư, hỗ trợ điều kiện vật chất, trang thiết bị, kinh phí để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hoạt động thuận lợi. Rà soát, đổi mới cơ chế quản lý tài chính, phân bổ ngân sách nhà nước, nghiên cứu thực hiện khoán kinh phí để phát huy tính tự chủ, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình tự quản ở cộng đồng dân cư thôn, tổ dân phố dưới sự chủ trì của Mặt trận Tổ quốc và bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự quản lý của chính quyền.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng để phát huy vai trò tham mưu và nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong công tác dân vận. Tiếp tục lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể tổ chức triển khai và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, giám sát sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận và các đoàn thể xây dựng các phong trào hành động cách mạng để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN./.

 

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, MẠO DANH "LỜI CĂN DẶN" CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 Trong lúc cả nước đang tiếc thương về sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xuất hiện một số kẻ mượn cớ bôi nhọ xuyên tạc…

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút, ngày 19/7/2024 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, hưởng thọ 80 tuổi.

Đồng chí từ trần là tổn thất lớn của cách mạng Việt Nam; đồng thời để lại niềm tiếc thương vô hạn của gia đình, của toàn Đảng, toàn dân, quân ta và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Thế nhưng, trong lúc chúng ta biến đau thương thành hành động cách mạng thì vẫn có những kẻ “táng tận lương tâm” và những kẻ “nối giáo cho giặc” đã xuyên tạc trơ trẽn với thái độ bất kính, cay cú, thậm chí cay độc đối với Tổng Bí thư và tán phát lên không gian mạng. Nhận diện, bác bỏ có hiệu quả với những luận điệu xuyên tạc và hành vi lệch chuẩn này là hết sức cần thiết.

Những kẻ “táng tận lương tâm”. “Nghĩa tử là nghĩa tận” là cách ứng xử đầy tinh thần nhân văn cao đẹp của dân tộc Việt Nam với người quá cố, dù họ là ai, ở cương vị gì; càng những người có uy tín, có công với dân tộc, với cách mạng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại càng được sự quan tâm và tình cảm đặc biệt. Bất chấp tất cả và chà đạp lên đạo lý cao đẹp ấy, chúng buông những lời chướng tai, những hành vi gai mắt.

Đã thành bản chất xấu xa và phản động không thay đổi, tổ chức khủng bố luôn “cầm đèn chạy trước ô tô” ngay từ khi đồng chí ít xuất hiện ở những sự kiện quan trọng, tổ chức khủng bố Việt Tân tung ra “thuyết âm mưu” với những luận điệu hết sức nực cười và vô căn cứ. Đến khi có Thông cáo đặc biệt về Lễ tang Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và gia đình thì chúng tăng cường xuyên tạc đời tư và cố tình “chính trị hóa” sự kiện này để đặt điều gieo tiếng xấu về cuộc đời, sự nghiệp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mà người viết bài này mặc dù có rất nhiều tư liệu do Việt Tân tán phát trên các nền tảng mạng xã hội như: Việt Tân, Chân Trời Mới Media... nhưng không tiện trích dẫn hết, nhất là những luận điệu vì tính chất phi nhân văn, phản văn hóa của chúng; chỉ trích một luận điệu xuyên tạc về công tác nhân sự của Đảng khi chúng dẫn lại lời của tên luật sư biến chất Nguyễn Duy Bình tán phát trên trang Chân Trời Mới Media.

Có một sự thật là, Đảng ta đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn coi công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; vì vậy, căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khóa XIII, trước mắt Bộ Chính trị phân công đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, chủ trì công việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo trách nhiệm, quyền hạn được Bộ Chính trị quy định là việc làm bình thường và có sự đồng thuận cao. Do đó, không thể quy chụp “là thiếu khoa học, thiếu đủ thứ!” như Nguyễn Duy Bình đã võ đoán.

Những kẻ “nối giáo cho giặc”. Đa số chúng là những phần tử cơ hội chính trị cả trong và ngoài nước hoặc những người trước đây vi phạm kỷ luật, phát luật đã bị xử lý khi Đảng ta đẩy mạnh và quyết liệt công tác phòng, chống tham nhũng, theo đúng tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư là: “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ” thì chúng càng cay cú và xuyên tạc trắng trợn: “Mong muốn của ngài là "đánh chuột không để vỡ bình" như Hoàng Văn Tuấn đã rêu rao; không ít “trí thức trở cờ” như Mạc Văn Trang tỏ thái độ thiếu tôn trọng và cáo buộc vô căn cứ hay Hùng Nguyễn xuyên tạc những quyết sách chiến lược, thấu tình, đạt lý của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng… Thậm chí, tài khoản facebook có tên “Tien Loi” đã rất hỗn hào khi viết nhiều bài sai sự thật, hằn học, trong đó có bài ám chỉ người đã từ trần: “Trong từ điển chính trị không có cụm từ xót thương hay thương tiếc, kể cả cùng phe cánh và đảng phái chính trị”.

Cũng có văn nghệ sĩ, vì thiếu sự “nhạy cảm” về chính trị lại thiếu thông tin chính thống và nhẹ dạ, cả tin đã họa theo, chia sẻ, tán phát những thông tin bị nhào nặn, tin đồn thất thiệt, những hình ảnh, clip đã bị chỉnh sửa, cắt ghép về quá trình Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa làm việc, vừa chữa bệnh và cả công tác chuẩn bị chu đáo của Đảng, Nhà nước, Nhân dân ta cùng quê hương, gia đình khi Tổng Bí thư từ trần. Điển hình là chúng tán phát cái gọi là “Lời ông dặn trước lúc đi xa” trên không gian mạng và gán ghép bài thơ này do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “sáng tác”.

Chúng ta đều biết, lúc sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thường nghiên cứu và công bố những bài viết mang tầm tư duy chiến lược với thể loại văn chính luận là chủ yếu (những cuốn sách được xuất bản gần đây đã chứng minh điều đó) và tuyệt nhiên không xuất bản một tập thơ nào; nhưng sự am tường về thơ ca được Tổng Bí thư “vận” vào rất tài tình, uyển chuyển những tứ thơ đặc sắc của Bác Hồ, của nhà thơ Tố Hữu, Nguyễn Du cùng các nhà văn, nhà thơ của nền văn học cách mạng Việt Nam, hay những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ rất điển hình trong nền văn học dân gian Việt Nam trong các bài nói, bài viết của mình. Hơn nữa, một điều dễ nhận thấy trong bài “Lời ông dặn trước lúc đi xa” với những lời mỉa mai, hằn học mà chúng lấy từ luận điệu xuyên tạc mà chúng tôi đã dẫn ở trên để xào xáo thành bài thơ “có độc”, “sặc mùi phản động” này với dụng ý xấu xa để gán cho tác giả “bài thơ” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng! Hơn thế nữa, với bản lĩnh chính trị vững vàng và đạo đức trong sáng của mình, Tổng Bí thư tuyệt nhiên không viết “bài thơ” với ý tứ rất tiêu cực đó.

Những người lệch chuẩn về hành vi. Trong khi, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang gấp rút làm tốt mọi công tác chuẩn bị cho cả trước, trong và cả sau hai ngày Quốc tang với tình cảm chân thành, với thái độ, trách nhiệm cao và hành động thiết thực để tương xứng với những cống hiến to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bằng những việc làm ý nghĩa và thiết thực mặc dù chưa chính thức đến Ngày Quốc tang. Những việc làm có ý nghĩa đó là: Đặt hình ảnh đại diện, hình nền tài khoản các mạng xã hội, logo nhận dạng thương hiệu của các tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan truyền thông, báo chí… chỉ hai màu màu đen - trắng; treo rủ cờ Tổ quốc; tạm ngừng các hoạt động vui chơi, giải trí, sự kiện không cần thiết; thậm chí các đơn vị trong lực lượng vũ trang tạm dừng các cuộc kiểm tra bắn đạn thật, diễn tập có bắn đạn thật ở mọi cấp và hoạt động sản xuất gây tiếng ồn lớn mà tập trung cao độ vào nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu… để tỏ lòng tiếc thương, thành kính và tri ân Tổng Bí thư; nhưng cũng có không ít cá nhân có những lời bình luận phản cảm trên các nền tảng mạng xã hội như: Tài khoản Tik tok của một số “nổi tiếng” có nhiều lượt người theo dõi như Duy Muối hoặc để ảnh dung tục, phản cảm làm hình ảnh đại diện, hình nền tài khoản các mạng xã hội kèm những lời khiếm nhã; ngoài ra, một số nhà trường để cựu học sinh tổ chức gặp mặt kỷ niệm ngày trường ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) rồi phát trực tiếp (livestream)… Mặc dù không phạm pháp, không trái quy định, nhưng chưa phù hợp, là lệch chuẩn, dễ gây phản cảm. Về vấn đề này, lúc sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở: Có những việc pháp luật không cấm, nhưng đạo đức, lương tâm không cho phép thì không nên làm!

Thể hiện tình cảm, thái độ là quyền tự do của mọi công dân, song không được phép “đổi trắng thay đen”, sai sự thật, trái pháp luật, quy định và đi ngược lại các giá trị chuẩn mực đạo đức xã hội phổ biến; lại càng không thể nhằm vào những người đã từ trần để công kích cá nhân, tổ chức nhằm mục đích xấu xa vì “Nghĩa tử là nghĩa tận”, nhất là đối với người tài, đức vẹn toàn như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Với tình cảm và trách nhiệm với Đảng, Nhà nước, một mặt, chúng ta phải chủ động nhận diện và bác bỏ các hiệu quả với những luận điệu xuyên tạc và hành vi lệch chuẩn đó. Mặt khác, đặc biệt quan trọng hơn đó là, chúng ta hãy “biến đau thương thành hành động cách mạng” để đồng tâm, hiệp lực thực hiện lời hiệu triệu của Bộ Chính trị cũng là tâm nguyện của Tổng Bí thư: “Kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tăng cường đoàn kết, thống nhất, chung sức đồng lòng, tiếp tục phát huy những kết quả, thành tựu quan trọng, toàn diện mà đất nước ta đã đạt được, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành tốt các mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra; giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo tốt đời sống tinh thần, vật chất cho nhân dân”./.

 

NGƯỜI BẠN, NGƯỜI ĐỒNG CHÍ THỦY CHUNG CỦA CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN

 Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng ra đi đã để lại niềm tiếc thương vô hạn cho không chỉ nhân dân Việt Nam mà cả bạn bè quốc tế.

Từ các châu lục, lãnh đạo các Đảng Cộng sản trên thế giới đã bày tỏ lòng khâm phục đối với những đóng góp to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Tổng Bí thư Đảng Khối Ấn Độ tiến lên D.Devarajan đánh giá nhiệm kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tạo dấu ấn lớn với việc củng cố Đảng Cộng sản Việt Nam, thúc đẩy phát triển kinh tế, chống tham nhũng và nâng cao phúc lợi cho người dân.

Việt Nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng góp phần củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng. Tổng Bí thư đưa ra nhiều định hướng chiến lược và các chính sách tổng thể quan trọng về phát triển kinh tế, ủng hộ cải cách kinh tế nhằm duy trì tăng trưởng, đồng thời cân bằng giữa hiện đại hóa với các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Đảng Khối Ấn Độ tiến lên cho rằng, một trong những điểm đáng chú ý nhất trong nhiệm kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là chiến dịch chống tham nhũng không có vùng cấm.

Việc tập trung vào nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân Việt Nam, ưu tiên các sáng kiến nhằm giảm nghèo, cải thiện y tế và giáo dục, cũng như giải quyết các vấn đề về môi trường cũng phản ánh cam kết rộng rãi hơn đối với công bằng xã hội.

Một dấu ấn nữa là chính sách đối ngoại chủ động, đa dạng và đa phương hóa, nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các cường quốc trên thế giới. Việt Nam đóng vai trò tích cực trong các sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và là nước ủng hộ các chuẩn mực và hợp tác quốc tế trong các vấn đề như biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường quan hệ giữa các đảng, vun đắp mối quan hệ bền chặt với các Đảng Cộng sản trên toàn thế giới. Tổng Bí thư Đảng Khối Ấn Độ tiến lên nêu rõ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp to lớn trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam, sử dụng ngoại giao văn hóa để kết nối Việt Nam và thế giới, đồng thời thúc đẩy giao lưu nhân dân để vun đắp tình hữu nghị và hợp tác quốc tế.

Trong khi đó, trả lời phỏng vấn TTXVN, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Ai Cập Salah Adly Abdelhafiz, khẳng định, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp của Đảng, của đất nước cũng như cho hạnh phúc của nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn và tiếp tục nỗ lực phấn đấu vì hòa bình, ổn định và phát triển. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Ai Cập nhấn mạnh về những đóng góp to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công cuộc cải cách, bài trừ tham nhũng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn là người bạn, người đồng chí thủy chung của các Đảng Cộng sản Arab và nhân dân Arab.

Đối với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Uruguay Juan Castillo, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một nhà cách mạng đã cống hiến trọn đời mình cho cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì một Việt Nam tự do, phát triển và thịnh vượng. Tổng Bí thư Castillo khẳng định, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một trong những nhà lý luận hàng đầu của Việt Nam.

Trong sự nghiệp cách mạng của mình, đồng chí Nguyễn Phú Trọng có rất nhiều đóng góp trong công tác lý luận với nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu, bài phát biểu và nhiều cuốn sách quan trọng.

Ông Castillo nêu rõ bộ sách hai cuốn mang tên “Vững bước trên con đường đổi mới” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được dịch sang tiếng Tây Ban Nha là minh chứng cho thấy mức độ đóng góp trong công tác lý luận của đồng chí Nguyễn Phú Trọng với thế giới, đồng thời khẳng định sẽ tiếp tục lan tỏa các tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Mỹ Latin.

Trong công tác đối ngoại, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Uruguay khẳng định dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đối ngoại Việt Nam đã có một dấu ấn mới, ứng phó linh hoạt với những thách thức hiện tại và tương lai.

Với chính sách “ngoại giao cây tre Việt Nam”, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, phục vụ bảo vệ hòa bình, hội nhập quốc tế và thúc đẩy phát triển thương mại, trên nguyên tắc độc lập và tự chủ./.

 

SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN LĨNH VỰC TUYÊN GIÁO

 Dư luận xã hội là một trong những phương thức thể hiện tâm tư, ý chí và nguyện vọng của Nhân dân; luôn đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Nghiên cứu, nắm bắt đúng và trúng tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân, từ đó có những đề xuất về công tác tuyên truyền định hướng dư luận xã hội cũng như xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho sát với thực tiễn, hợp lòng dân sẽ góp phần củng cố sự đồng thuận, gắn bó vững chắc giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân; giữ vững ổn định chính trị để phát triển đất nước.

ĐẢNG TA COI TRỌNG VIỆC NẮM BẮT DƯ LUẬN XÃ HỘI

Ngay từ khi được thành lập, Đảng ta đã rất coi trọng việc nắm bắt dư luận xã hội, tâm tư, ý chí và nguyện vọng của Nhân dân. Đây được xem là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng cũng như của mỗi đảng viên. Trong những năm qua, tầm quan trọng của công tác này đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng:

Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã nêu ra nhiệm vụ đối với công tác tư tưởng, đó là: “Nâng cao chất lượng thông tin nội bộ và công tác tuyên truyền, coi trọng biện pháp điều tra dư luận xã hội”(1).

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII tiếp tục yêu cầu: “Tổ chức điều tra dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết cho công tác lãnh đạo, quản lý Nhà nước. Xây dựng luật về trưng cầu dân ý”(2). Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, cũng nhấn mạnh: "Chú trọng công tác nghiên cứu, điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội phục vụ công tác tư tưởng".

Để bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, ngày 29/9/2009, Ban Bí thư trung ương Đảng đã ra Thông báo Kết luận số 274-TB/TW về “Đề án tăng cường năng lực điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội” trong đó nhấn mạnh: “Điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội là nhiệm vụ quan trọng và rất cần thiết để các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước nắm được tình hình tư tưởng, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, có căn cứ khoa học chuẩn bị cho việc ban hành chỉ thị, nghị quyết, cơ chế, chính sách và đánh giá tình hình, kết quả thực hiện chỉ thị, nghị quyết, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước”.

Kế hoạch số 08-KH/TW, ngày 13/2/2012 của Ban Chấp hành Trung ương nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Khoá XI tiếp tục nêu nhiệm vụ: “Đổi mới và nâng cao chất lượng điều tra dư luận xã hội, tập hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân để tham khảo trước khi quyết định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”. Nhằm triển khai thực hiện Kế hoạch số 08-KH/TW, Ban Bí thư đã giao Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng điều tra dư luận xã hội, tập hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân để tham khảo trước khi quyết định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”.

Ngày 18/8/2014, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Kết luận số 100-KL/TW về “Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội”. Trong Kết luận này, Ban Bí thư nhấn mạnh: “Điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội là công việc quan trọng và rất cần thiết nhằm nắm bắt, tập hợp kịp thời, sát thực tâm tư, tình cảm, ý chí, nguyện vọng của Nhân dân về những vấn đề, sự kiện có tính thời sự trong nước và thế giới, đặc biệt là đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý có thêm thông tin tham khảo trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; là một khâu quan trọng, cần thiết trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước… Công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội phải bám sát thực tiễn xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực hiện theo yêu cầu, đề nghị của các cơ quan Đảng, Nhà nước hoặc về những vấn đề Nhân dân quan tâm để phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của các cấp uỷ, chính quyền các cấp. Đối với các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng có ảnh hưởng sâu rộng, trước khi xây dựng, ban hành, triển khai thực hiện và sau một thời gian tổ chức thực hiện phải tiến hành điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội”; yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội nhằm nâng cao tính xác thực, độ tin cậy, tính đại diện của thông tin dư luận xã hội; phát hiện, dự báo và đề xuất những kiến nghị, giải pháp có tính khả thi đối với việc ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, quyết định quan trọng của Đảng, Nhà nước, tạo sự đồng thuận xã hội.

Triển khai thực hiện Kết luận 100-KL/TW, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 167- HD/BTGTW ngày 26/12/2015 của Ban Tuyên giáo Trung ương về Hướng dẫn thực hiện Kết luận 100-KL/TW. Kể từ khi Ban Bí thư ban hành Kết luận số 100-KL/TW, việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội, tổ chức, bộ máy làm công tác dư luận xã hội trong hệ thống tuyên giáo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội ở Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương về cơ bản đã được triển khai đồng bộ, thống nhất, kiện toàn theo hướng tinh gọn, thiết thực; hoạt động công tác dư luận xã hội đã có bước chuyển biến mới về chất, được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm hơn.

Thực hiện sự chỉ đạo của Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương và lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các cấp, hệ thống tuyên giáo cả nước đã chú trọng đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả nắm bắt tình hình dư luận trong các tầng lớp nhân dân. Ban Tuyên giáo Trung ương và ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương ngày càng coi trọng tính kịp thời, khách quan, toàn diện, trung thực; phân tích, làm rõ căn cứ của những luồng dư luận; đưa ra những dự báo, đề xuất các giải pháp thông tin, tuyên truyền định hướng dư luận xã hội. Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành uỷ và một số cơ quan, đơn vị ở Trung ương hằng tháng đã gửi báo cáo tình hình dư luận về Ban Tuyên giáo Trung ương theo quy định. Chất lượng các báo cáo tình hình dư luận về cơ bản đã bảo đảm khách quan và có nhiều đề xuất, kiến nghị để giúp Ban Tuyên giáo Trung ương và cấp uỷ địa phương kịp thời chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, xử lý vụ việc phức tạp.

Mới đây nhất, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội. Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã nêu rõ: Nâng cao chất lượng công tác dư luận xã hội và đánh giá sự hài lòng của người dân; chủ động dự báo tình hình, xử lý kịp thời thông tin, định hướng dư luận xã hội. Những định hướng chỉ đạo trên đây, cùng với yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức công tác dư luận xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, đòi hỏi phải nhanh chóng kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và hoạt động của Viện Dư luận xã hội bảo đảm đáp ứng tình hình mới.

KHẲNG ĐỊNH VỊ TRÍ, VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG LĨNH VỰC CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Có thể khẳng định, quá trình xây dựng, phát triển của công tác nghiên cứu dư luận xã hội trong ngành tuyên giáo có sự gắn bó chặt chẽ, mật thiết với lịch sử xây dựng và phát triển của công tác tuyên giáo trong 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Mặc dù có những giai đoạn phát triển thăng trầm, với những tên gọi khác nhau, song công tác dư luận xã hội luôn gắn liền với yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi ngày càng cao trong lĩnh vực công tác tư tưởng của Đảng. Qua gần 40 năm xây dựng, phát triển, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đến nay, công tác dư luận xã hội đã có bước trưởng thành, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong lĩnh vực công tác tư tưởng của Đảng.

Việc nắm bắt dư luận xã hội trong thời chống Pháp, chống Mỹ và một thời gian dài sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước được tiến hành thuần túy theo các phương pháp truyền thống. Đó là sự phân công cán bộ, đảng viên thâm nhập vào quần chúng, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, phản ánh với tổ chức đảng. Trên cơ sở đó, tổ chức đảng có các báo cáo tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình tâm trạng, tư tưởng của quần chúng, đề ra các nhiệm vụ, việc làm cụ thể nhằm hiện thực hóa những suy nghĩ, nguyện vọng chính đáng của quần chúng hoặc đề ra các giải pháp thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận quần chúng trong trường hợp dư luận quần chúng thiếu chuẩn xác. Trong hoàn cảnh đặc biệt khi đất nước có chiến tranh hoặc chưa thống nhất, cả xã hội ta, nhất là cán bộ, đảng viên, sẵn sàng hy sinh mọi lợi ích cá nhân, cục bộ vì lợi ích quốc gia, dân tộc nên tình hình tâm trạng, tư tưởng trong xã hội có sự thống nhất rất cao. Mặt khác, do trong Đảng chưa xuất hiện (hoặc có nhưng cá biệt) các căn bệnh như “bệnh thành tích”, “lợi ích nhóm”, “suy thoái đạo đức, lối sống”... nên việc nắm bắt tâm trạng, tư tưởng, dư luận quần chúng theo phương pháp truyền thống nói trên hoàn toàn có hiệu quả, các báo cáo về tình hình tâm trạng, tư tưởng, dư luận quần chúng của các cấp ủy đảng về cơ bản là trung thực và đáng tin cậy.

Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, bước vào thời bình, thời xây dựng và phát triển đất nước, nhất là từ khi nền kinh tế nước ta phát triển theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN cùng với quá trình đẩy nhanh hội nhập khu vực và quốc tế, do nhiều nguyên nhân, ví dụ như xu hướng biến động ngày càng phong phú, đa dạng, phức tạp, khó nắm bắt của bức tranh tâm trạng, tư tưởng xã hội do tác động hai mặt của cơ chế kinh tế thị trường, định hướng XHCN, quá trình hội nhập khu vực và quốc tế; sự phát triển" của “bệnh thành tích, bệnh quan liêu, bệnh ngại nói thẳng, nói thật”... cùng với đó là sự yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ nắm bắt tâm trạng, tư tưởng các tầng lớp nhân dân của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo…, việc nắm bắt tâm trạng, tư tưởng, dư luận các tầng lớp Nhân dân theo phương pháp truyền thống của các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, nhiều khi không chỉ thiếu nhanh nhạy, thiếu kịp thời mà còn thiếu khách quan, trung thực. Và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng không ít quyết định của các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể đã ban hành, nhưng không đi được vào thực tiễn cuộc sống.

Năm 1982, xuất phát từ thực tiễn, đòi hỏi phải đổi mới công tác nắm bắt tâm trạng, tư tưởng, dư luận của các tầng lớp Nhân dân và qua nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước XHCN lúc bấy giờ, ngày 9/10/1982, Ban Bí thư đã quyết định thành lập Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội (gọi tắt là Viện Dư luận xã hội) trực thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng. Viện Dư luận xã hội có nhiệm vụ tổ chức việc nghiên cứu dư luận Nhân dân đối với những vấn đề cơ bản của đất nước và những vấn đề quan trọng có tính thời sự theo quan điểm Mác-Lê nin; tổng hợp, phân tích dư luận xã hội để báo cáo với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thông tin viên, cộng tác viên của Viện về lý luận, nghiệp vụ.

Năm 1997, Trung tâm nghiên cứu Dư luận xã hội nằm trong Vụ Tuyên truyền thuộc Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương được thành lập. Trung tâm nghiên cứu Dư luận xã hội ngoài nhiệm vụ tổ chức việc nghiên cứu dư luận Nhân dân được bổ sung thêm một nhiệm vụ mới: giúp Ban hướng dẫn, kiểm tra, tổng hợp khía cạnh tư tưởng, chính trị của các cuộc điều tra dư luận xã hội do các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tiến hành.

Năm 1998, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương ban hành Quyết định thành lập Trung tâm Nghiên cứu Dư luận xã hội với tư cách là một đơn vị độc lập của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Từ khi được thành lập, Trung tâm Nghiên cứu Dư luận xã hội đã từng bước khẳng định vai trò, vị trí, ưu thế của mình trong việc nắm bắt, phản ánh tâm trạng, tư tưởng, ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Để tăng cường hơn nữa hiệu quả của công tác nghiên cứu dư luận xã hội, năm 2007, Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành quyết định thành lập Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội với các chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Viện là: Nghiên cứu khoa học về dư luận xã hội, là cơ quan tham mưu giúp Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương nắm bắt, định hướng dư luận xã hội với 9 nhiệm vụ cụ thể để thực hiện chức năng này.

Kế thừa, phát huy những thành tích đã đạt được; thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên lĩnh vực công tác dư luận xã hội, nhất là Kết luận số 100-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá XI về “Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội”; bám sát định hướng chỉ đạo của đồng chí Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, Viện Dư luận xã hội không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, trở thành địa chỉ uy tín, tin cậy trong công tác nghiên cứu, điều tra, nắm bắt dư luận xã hội của cả nước. Các sản phẩm báo cáo nhanh, báo cáo điều tra dư luận xã hội, báo cáo chuyên đề đã trở thành “thương hiệu” của Viện, không chỉ phục vụ nhiệm vụ tham mưu của Ban Tuyên giáo Trung ương, phục vụ việc ban hành, sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, mà còn cung cấp nguồn thông tin tham khảo quan trọng để các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương nắm bắt được tâm tư, ý chí, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân.

Bên cạnh các kết quả đạt được của đất nước qua 40 năm đổi mới; đời sống vật chất, tinh thần của các giai tầng xã hội được nâng lên rõ rệt; vị thế của đất nước ngày càng được khẳng định và nâng cao, đất nước ta vẫn đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức như: Tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, nhất là căng thẳng trên Biển Đông, tiềm ẩn những yếu tố mới khó lường; kinh tế-xã hội tuy đã có bước phát triển nhưng chưa thực sự vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, chưa phát huy đầy đủ giá trị lịch sử, truyền thống văn hoá của dân tộc và con người Việt Nam; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn một số yếu kém, bất cập; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế; các thế lực thù địch không ngừng chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng. Những yếu tố đó đòi hỏi trong thời gian tới, hệ thống tuyên giáo cả nước phải chủ động hơn, nhạy bén hơn trong công tác nghiên cứu dư luận xã hội; dự báo xu hướng và đề xuất được các giải pháp hiệu quả góp phần định hướng dư luận xã hội tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội./.

 

Giúp dân thoát nghèo bằng sự trân trọng và cảm thông

 Tại Kỳ họp thứ 17 của HĐND tỉnh Bắc Ninh diễn ra mới đây, một trong những nội dung của kỳ họp được nhiều đại biểu thảo luận sâu kỹ, nhân dân rất đồng tình, đó là cần có chính sách đặc thù hỗ trợ đối tượng thuộc hộ không có khả năng thoát nghèo ổn định cuộc sống, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu đến năm 2025 tỉnh không còn hộ nghèo.

Để biến từ không có khả năng thành có khả năng thoát nghèo của các hộ dân, HĐND tỉnh Bắc Ninh thống nhất cao nêu ra yêu cầu: Các cấp, các ngành của tỉnh phải vào cuộc quyết liệt, ở bên dân, gắn bó với dân, giải quyết mọi vướng mắc, hỗ trợ người dân kịp thời.
Xác định chủ trương và giải pháp giúp đỡ, hỗ trợ hộ dân không có khả năng thoát nghèo tự tin phấn đấu vươn lên như ở tỉnh Bắc Ninh cũng đã được một số địa phương thực hiện với những tên gọi khác nhau nhưng có chung bản chất, như: “Hỗ trợ hộ dân rất khó khăn hòa nhập, phát triển”, “Giúp hộ dân nghèo tự tin đi lên”. Chủ trương và cách làm ở các địa phương đã đóng góp tích cực vào kết quả giảm nghèo của toàn quốc.
Hỗ trợ, giúp đỡ hộ dân không có khả năng thoát nghèo (thời điểm hiện tại) thoát được nghèo, phấn đấu trở thành hộ khá, hộ giàu thì công cuộc giảm nghèo của các tỉnh, thành phố bảo đảm sự bền vững lâu dài. Điều này đặt ra cho cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương phải xác định rõ được nguyên nhân đói nghèo của các hộ dân, đặc biệt là các hộ dân không và chưa có khả năng thoát nghèo, đề ra giải pháp thoát nghèo phù hợp, hiệu quả.
Tránh trường hợp chỉ tung hô khẩu hiệu, giúp dân chưa đến nơi đến chốn, giảm nghèo mang tính phong trào, thành tích chủ yếu “bốc thuốc”, huy động được 10 đồng, đến người nghèo 1 đồng, còn 9 đồng hao phí trên đường đi. Khi kết quả giảm nghèo không đạt kế hoạch đề ra thì đổ lỗi cho người dân “trông chờ, ỷ lại, không muốn thoát nghèo”.
Phải nói thật rằng, nhân dân ta không ai muốn nghèo. Chẳng qua, một phần vì người dân chưa nghĩ ra phương pháp, cách làm, một phần các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là ở cơ sở chưa có giải pháp phù hợp động viên, khuyến khích; cán bộ, đảng viên chưa nhiệt tình giúp đỡ người dân còn nghèo khó. Giải quyết vấn đề này thế nào, các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên phải sống với cuộc sống của người dân, đằm mình với phong trào của nhân dân; thật tâm, thật lòng giúp dân thoát nghèo hiệu quả.
Như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chia sẻ tại Lễ phát động "Cả nước chung tay vì người nghèo" năm 2022: "Chúng ta hãy ở bên cạnh, đặt mình vào hoàn cảnh của những người nghèo, của những số phận kém may mắn để giúp đỡ bằng tấm lòng, bằng trái tim, bằng sự thấu hiểu, bằng sự trân trọng và cảm thông".

Việt Nam chăm lo cho người lao động bằng chính thực lực

 Thời gian qua, trên không gian mạng xuất hiện quan điểm xuyên tạc, chống phá cho rằng: Việt Nam không có thực lực khi thực hiện chi trả lương mới cho người lao động; nguồn tiền chủ yếu đi vay của nước ngoài, bởi nền kinh tế đang suy thoái nghiêm trọng...

Cả về lý luận và thực tiễn đều minh chứng việc cải cách tiền lương, lộ trình tăng lương mà Việt Nam đang triển khai là chủ trương hết sức đúng đắn và nhân văn của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời, được triển khai theo đúng lộ trình và dựa trên thực lực của chính mình...
Chủ động tăng lương theo lộ trình
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã xác định lộ trình triển khai cải cách tiền lương cụ thể từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; nhấn mạnh yêu cầu cải cách chính sách tiền lương, xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước...
Sau thời gian chuẩn bị và bị trì hoãn cải cách tiền lương do dịch Covid-19, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã quyết nghị, thực hiện đầy đủ hai nội dung cải cách tiền lương khu vực doanh nghiệp theo đúng Nghị quyết 27.
Mức điều chỉnh tăng này đã được các cơ quan quản lý tính toán kỹ lưỡng trong bối cảnh chưa có đủ điều kiện bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay (chưa thực hiện các bảng lương và phụ cấp mới), tạo được sự thống nhất đồng thuận, hiệu ứng tâm lý tích cực và tác động kinh tế lan tỏa rất lớn trong xã hội do bảo đảm công bằng, hợp lý, hài hòa, có sự chia sẻ giữa người đang hưởng lương hưu và người đang đóng bảo hiểm xã hội, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa các thế hệ tham gia và thụ hưởng chính sách; đồng thời bảo đảm khả năng cân đối của ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm xã hội trong dài hạn; tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc, góp phần ổn định xã hội.
Bám sát sức khỏe nền kinh tế, hỗ trợ tổng cầu, tạo động lực phát triển
Nhìn chung, các mức tăng lương ở Việt Nam thời gian qua thấp hơn mức tăng năng suất lao động, quy mô và thu nhập bình quân đầu người của nền kinh tế, cũng như thấp hơn nhu cầu chi tiêu bảo đảm đời sống ngày càng tăng nhanh của người lao động.
Năng suất lao động của người Việt trong giai đoạn 2010-2020 tăng trưởng 64% theo giá hiện hành, cao hơn so với nhiều nước trong khu vực, chủ yếu nhờ sự cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn.
Từ năm 2007 đến giữa 2023, quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng khoảng 7,7 lần; trong khi tiền lương cơ sở chỉ tăng khoảng 4 lần, từ mức 540.000 đồng/tháng kể từ ngày 1-1-2008 lên 2,34 triệu đồng/tháng từ ngày 1-7-2024.
Trong thời gian diễn ra dịch Covid-19, Việt Nam đã trì hoãn một đợt tăng lương theo lộ trình và cũng mới triển khai gói hỗ trợ tài chính với quy mô khiêm tốn ước khoảng 0,5% GDP so với gói kích thích tài chính khổng lồ tới khoảng 20% GDP như của Mỹ và một số nước khác cùng thời gian này. Bởi vậy, đợt tăng lương tháng 7-2024 là sự tiếp nối lộ trình tăng lương theo kế hoạch nêu trên và sự tiếp tục các giải pháp hỗ trợ tăng cả tổng cung và tổng cầu của chính sách phục hồi kinh tế hậu Covid-19.
Trên thực tế, việc tăng lương lần này không chỉ góp phần cải thiện mức sống của người hưởng lương, bảo đảm nguyên tắc tiền lương phải đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động nhận lương và gia đình họ theo nguyên lý kinh tế thị trường; mà còn cho phép tăng tổng cầu có khả năng thanh toán của xã hội; từ đó, góp phần kích thích sản xuất và củng cố động lực tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh tổng cầu xã hội còn thấp và thị trường thế giới chưa có sự đột phá mạnh mẽ gắn với chu kỳ kinh tế đang chậm lại của nền kinh tế thế giới....
Mặt khác, cơ sở vật chất-tài chính cho tăng lương đã được chuẩn bị khá chu đáo. Theo đó, Chính phủ đã tích lũy cân đối được 913.000 tỷ đồng ngân sách nhà nước làm nguồn chi trả đáp ứng tổng nhu cầu kinh phí điều chỉnh lương cơ sở tăng 30%, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp lũy kế 3 năm 2024-2026 tăng thêm là hơn 900 nghìn tỷ đồng.
Đặc biệt, nền tảng tăng lương của Việt Nam ngày càng được củng cố. Suốt thời gian từ khi bắt đầu đại dịch Covid-19 đến nay, nền kinh tế vĩ mô luôn ổn định; lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm tốt. Việt Nam đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực, cải thiện vị thế quốc tế nhờ duy trì động lực tăng trưởng cân bằng cả trong và ngoài nước; sức mạnh nội lực và vị thế kinh tế quốc tế được thế giới ghi nhận và dự báo tiếp tục sự hồi phục và tăng trưởng tích cực...
Cụ thể, theo Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 có nhiều khởi sắc về sự đồng đều và chất lượng tăng trưởng, với GDP tăng 6,42%, vượt kịch bản đề ra và là mức cao của khu vực và thế giới. Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tháng 4-2024 cũng chỉ ra, Việt Nam là đại diện Đông Nam Á duy nhất lọt vào top 10 với dự báo tăng trưởng 6,4% từ năm 2024 đến 2029 và sẽ trải qua một giai đoạn tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đặt đất nước vào hàng ngũ các nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.
Theo ông Paulo Medas, Trưởng đoàn Tham vấn và giám sát kinh tế vĩ mô Việt Nam của IMF, Việt Nam tiếp tục hội nhập và nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhanh chóng trong nửa đầu năm 2024, sau giai đoạn khó khăn cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi nhanh hơn dự kiến, một phần nhờ vào xuất khẩu mạnh và đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như hiệu quả từ những hành động của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, như việc cắt giảm lãi suất, gia tăng đầu tư công, tăng lương...
Còn theo báo cáo công bố tháng 4-2024 của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam được giữ nguyên dự báo mà WB đã công bố đầu năm là sẽ tăng trưởng 5,5% GDP trong năm 2024 và tiếp tục nằm trong nhóm đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn, nằm trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao với tiềm năng tăng trưởng khoảng 8%.
Đặc biệt, những năm gần đây, cùng với duy trì tốc độ và động lực tăng trưởng ổn định, cân đối ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối có nhiều cải thiện, liên tục vượt dự toán kế hoạch thu ngân sách nhà nước hằng năm và duy trì mức dự trữ ngoại hối cao; kiểm soát tốt nợ công và thâm hụt ngân sách nhà nước dưới mức Quốc hội cho phép. Bởi vậy, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới liên tục duy trì mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba2 (Moody’s ) hoặc BB+ (Fitch Ratings) với triển vọng chung là “Ổn định”. Trong đó, tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings (Mỹ) xếp hạng tín nhiệm quốc gia đối với Việt Nam trong dài hạn ở mức BB+ và trong ngắn hạn ở mức B. Triển vọng về xếp hạng tín nhiệm trong dài hạn là “Ổn định”.
Những kết quả và triển vọng tăng trưởng kinh tế tích cực như nêu trên là minh chứng thuyết phục khẳng định và tiếp tục tạo nền tảng vững chắc cải thiện nguồn thu ngân sách nhà nước và thu nhập xã hội bảo đảm cho cuộc cải cách tiền lương thời gian tới ở Việt Nam thực sự dựa vào nguồn lực của chính mình và góp phần làm tăng nguồn nội lực đó...
Tiếp tục các giải pháp tăng lương bền vững
Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, chắc chắn, bài bản, khoa học để thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Năm 2024, Quốc hội giao Chính phủ triển khai thực hiện các nội dung đã rõ, đủ điều kiện để thực hiện, gồm: Hoàn thiện chế độ nâng lương; bổ sung chế độ tiền thưởng; quy định nguồn kinh phí thực hiện chế độ tiền lương; hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập. Mới đây, ngày 30-6, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó đã hướng dẫn cụ thể nguồn kinh phí thực hiện việc tăng lương cơ sở...
Về trung và dài hạn, Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ đề ra cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, tập trung vào việc xây dựng các bảng lương và chế độ phụ cấp mới, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về các chế độ, chính sách gắn với mức lương cơ sở, vị trí việc làm trong hệ thống chính trị và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, bảo đảm tính khả thi, công bằng, hợp lý, tổng thể, phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội và nguồn lực của đất nước.
Theo Bộ Nội vụ, tính đến nay, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và lãnh đạo các bộ, ngành đã ban hành 39 thông tư hướng dẫn và 100% bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành phê duyệt Đề án vị trí việc làm. Thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng danh mục vị trí việc làm xã hội; bản mô tả công việc và khung năng lực của vị trí việc làm; tiếp tục rà soát tổng thể tất cả bảng lương và nghiên cứu, tính toán hài hòa vấn đề phụ cấp, khen thưởng và một số chế độ đặc thù của lực lượng vũ trang và của cán bộ, công chức, viên chức một số chuyên ngành (đặc biệt là phụ cấp theo nghề) mà trong quá trình thực hiện có phát sinh bất hợp lý.... Trên cơ sở đó tính toán nguồn lực và có giải pháp thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tiền lương xã hội.
Tóm lại, việc tăng lương cho người lao động đang được triển khai theo chủ trương và lộ trình trung và dài hạn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ; đồng thời, bám sát sự phát triển chung của nền kinh tế, phù hợp với các nguồn lực tài chính hiện có của đất nước. Việc tăng lương hay cải cách tiền lương là một sự quan tâm đặc biệt đến đời sống nhân dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận được sự đồng thuận của nhân dân, đáp ứng được mong mỏi của người lao động, thể hiện tính nhất quán, tính ưu việt, nhân văn của chế độ ta...
Sưu tầm

LỢI DỤNG PHẬT GIÁO ĐỂ CHỐNG PHÁ - ÂM MƯU THÂM ĐỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Lợi dụng các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng để chống phá cách mạng là một trong những âm mưu, hoạt động thâm độc của các thế lực, thù địch, phản động. Bài viết: “Phật giáo Việt Nam và nguyên nhân gốc rễ của vấn đề” của Song Chi đăng trên “Bbc” là một trong số đó.

Lợi dụng việc một số chức sắc Phật giáo bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật, như: Thích Chân Quang, Thích Trúc Thái Minh, Thích Nhuận Đức, Song Chi đã xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam nói chung, Phật giáo nói riêng. Song Chi đã đánh đồng những người này với những tín đồ, chức sắc Phật giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”, vì họ đã “tích cực tham gia chính trị, hết lòng trung thành với đảng, với chế độ”. Từ đó, bài viết xuyên tạc Giáo hội Phật giáo Việt Nam “được nhà nước cộng sản lập ra để khống chế phật giáo trong nước, để đánh bóng bộ mặt nhà nước trên trường quốc tế” hay “phục vụ chế độ, phục vụ cho một số quan chức, chứ không phải để xiển dương đạo pháp đúng nghĩa”. Song Chi phiến diện cho rằng: “khi còn chế độ độc tài, khi chưa có tự do tôn giáo” thì tình trạng đó vẫn tiếp diễn, và đưa ra lời khuyên: “phải chấp nhận có những tổ chức Phật giáo khác nhau, nhiều hình thức tu khác nhau, chứ không phải bất cứ ai, tổ chức nào đứng bên ngoài hệ thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là ngăn cấm, đàn áp, tiêu diệt”. Thực chất của những luận điệu trên là xuyên tạc, hướng lái dư luận nhận thức sai lệch tự do tôn giáo ở Việt Nam. Thực tế đã bác bỏ những luận điệu trên.

Thứ nhất, những chức sắc Phật giáo bị kỷ luật vì họ đã vi phạm Hiến chương, giáo lý, giáo luật của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Bất kỳ tổ chức, dân tộc, quốc gia trên thế giới đều có luật lệ, pháp luật để quy định việc các tổ chức, cá nhân phải tuân thủ, thực hiện, nếu thành viên nào vi phạm đều bị tổ chức đó xử lý. Trong tôn giáo cũng vậy, mỗi một tôn giáo đều có giới luật, luật lệ riêng để quy định về những điều chức sắc, chức việc, tín đồ của mình được làm hay không được làm, qua đó khuyến khích con người làm lành, tránh dữ. Tại Điều 7, Chương II, Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam sửa đổi lần thứ VII tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX năm 2023 ghi rõ: “Mục đích của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là hoằng dương Phật pháp, phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, phục vụ dân tộc, góp phần xây dựng hòa bình, an lạc cho thế giới”. Điều 11, Chương III cũng nhấn mạnh: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc lấy Đạo pháp làm mục tiêu tối thượng; Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử làm trung tâm; các thành viên tham gia tự nguyện, đoàn kết, hòa hợp, kính ngưỡng, phụng hành Giáo pháp, Giới luật và tuân thủ pháp luật Nhà nước”. Tại Khoản 2, Điều 82, Chương XIII quy định: “Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam có hoạt động và hành vi làm tổn hại đến thanh danh, đến sự hòa hợp, đến quyền lợi của Giáo hội hoặc các thành viên của Giáo hội, phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đến hòa bình, độc lập, thống nhất của Tổ quốc, Giáo hội sẽ xử lý theo giáo luật và tùy mức độ vi phạm, Giáo hội sẽ đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý theo pháp luật”. Đối chiếu với các quy định trên, nếu chức sắc, tín đồ nào vi phạm, tùy theo mức độ mà sẽ bị tổ chức tôn giáo quản lý xử lý kỷ luật. Các chức sắc Phật giáo mà Song Chi đề cập trong bài viết đã vi phạm Hiến chương, giáo lý, giáo luật nên đã bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật, chứ hoàn toàn không phải họ bị “ngăn cấm, đàn áp, tiêu diệt”.

Thứ hai, Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện cho tăng ni, tín đồ phật tử Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước.

Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên. Trong quá trình du nhập và phát triển, Phật giáo đã chứng tỏ là một tôn giáo hòa bình, dung hợp với tín ngưỡng truyền thống của người Việt. Tinh thần Từ - Bi - Hỷ - Xả của Phật giáo đã giáo dục con người biết sống vị tha, hòa hợp, coi trọng bình đẳng và tiến bộ xã hội. Giáo lý của Phật giáo rất phù hợp với đạo đức xã hội ở Việt Nam. Phật giáo là môi trường hoặc tạo điều kiện cho các loại hình văn học, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc… phát triển. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, Phật giáo đều để lại những dấu ấn sâu đậm, thể hiện tinh thần gắn bó đồng hành cùng dân tộc, nhiều nhà sư đứng ra giúp đời, giúp nước được sử sách ghi nhận.

Tháng 11/1981, thể theo ý chí, nguyện vọng của tăng ni, tín đồ phật tử cả nước, Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 168 đại biểu tăng ni, cư sĩ đại diện cho 9 tổ chức, hệ phái trong cả nước. Đại hội đã thống nhất thành lập một tổ chức chung của Phật giáo cả nước lấy tên là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, thông qua Hiến chương và đường hướng hoạt động “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Tuyệt đại đa số tăng ni đã tích cực góp phần xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày một trưởng thành, khẳng định vị trí của mình trong lòng dân tộc. Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng nâng cao vị thế và uy tín thông qua việc mở rộng hoạt động giao lưu quốc tế, tích cực hỗ trợ hoạt động của Phật giáo Việt Nam ở nước ngoài, đăng cai và phối hợp tổ chức thành công 3 kì Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc VESAK tại Việt Nam (2008, 2014, 2019). Hoạt động từ thiện xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo, giảm bớt những khó khăn, gánh nặng cho cộng đồng, xã hội. Bên cạnh đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn tham gia nhiều hoạt động an sinh xã hội vì cộng đồng: xây cầu, đóng góp làm đường giao thông nông thôn, nuôi dưỡng và chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV - AIDS, hỗ trợ đồng bào bị thiên tai, dịch bệnh. Điều đó khẳng định những đóng góp xứng đáng của Phật giáo cho sự nghiệp cách mạng. Còn những tín đồ, chức sắc vi phạm Hiến chương, giáo lý, giáo luật chỉ là những “con sâu làm rầu nồi canh”, chứ không phải là bản chất, “biến tướng, biến chất” của Giáo hội Phật giáo Việt Nam như Song Chi và đồng bọn xuyên tạc.

Như vậy, bài viết “Phật giáo Việt Nam và nguyên nhân gốc rễ của vấn đề” đã xuyên tạc, hướng lái dư luận nhận thức sai lệch về Phật giáo nói riêng, tự do tôn giáo ở Việt Nam nói chung. Chúng ta cần tỉnh táo, cảnh giác vạch trần và đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của chúng./.

  

“DI SẢN NIỀM TIN”

 Có một di sản nữa mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để cho người ở lại, đó là niềm tin vững chắc vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào những giá trị tốt đẹp của chế độ, niềm tin vào những giá trị nhân văn của cuộc sống, vào danh dự của con người.

Là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, ở tuổi thượng thọ 80, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra đi, để lại cho đời một di sản đồ sộ về lý luận và thực tiễn về công tác xây dựng Đảng và con đường xây dựng, phát triển đất nước. Nhưng còn có một di sản khác mà Đồng chí - bằng chính đạo đức, nhân cách và lối sống thanh cao, giản dị, nhân văn tạo nên trong lòng dân. Di sản ấy không thể đong đếm bằng tiền bạc, vật chất.

Đó là niềm tin và ước vọng về những giá trị tốt đẹp của cuộc sống, của tình người và khát khao cống hiến…

Cả cuộc đời tận tâm, tận lực với nước, với dân, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã về miền mây trắng, về với thế giới người hiền trong niềm tiếc thương vô hạn của gia đình, người thân, đồng chí, bạn bè và triệu triệu trái tim người dân cả nước.

Có trông thấy hình ảnh những hàng người nối dài như vô tận trong đêm ở Hà Nội; những dòng người dầm mưa xếp hàng trước Hội trường Thống Nhất chờ đến lượt vào viếng vị lãnh đạo đáng kính của mình; có nhìn hàng vạn người đội nắng cầm hoa, ôm chân dung Tổng Bí thư đứng dọc những con đường mà đoàn linh xa đi qua để tiễn biệt Đồng chí… mới cảm nhận rõ, có một thứ cảm xúc rất đặc biệt, vượt lên trên tất cả niềm đau, nỗi nhớ về sự ra đi của một con người.

Nhìn về làng Lại Đà, quê hương Đồng chí, vẫn là những con đường rợp bóng cây với cổng làng quen thuộc ấy; vẫn là những người hàng xóm chân quê ấy, nhưng nay, cũng có cái gì đó rất khác. Họ buồn, vì từ nay đã mất đi một người hàng xóm thân thiện, đáng kính, dù khi là cán bộ lãnh đạo cấp cao, rồi sau này giữ cương vị đứng đầu Đảng, Nhà nước, về đến làng vẫn giữ lễ xuống xe, đi bộ vào nhà trong bộ quần áo đơn sơ giản dị. Tự lòng mình, họ hiểu được trong bước chân của người dân mọi miền Tổ quốc hướng về Lại Đà trong những ngày này, không có gì khác ngoài tấm chân tình, niềm tiếc thương với bác Trọng.

Không ai bảo ai, họ cố gắng làm vơi đi chút mệt nhọc cho người đến từ phương xa bằng những việc làm hết sức đời thường: Mở cửa mời khách vào nhà ngồi nghỉ trong khi chờ đợi, mang máy làm mát ra đường, chuyền tay nhau những chiếc quạt giấy giúp mọi người vơi đi nóng nực; tặng cho nhau những suất ăn nhẹ, chai nước lọc đỡ người ở xa dậy sớm, vội đi…

Không kể hàng nghìn đoàn viên, thanh niên, hội viên tình nguyện, anh xe ôm công nghệ cũng tỏ lòng khi lặng lẽ tắt ứng dụng đặt xe trên điện thoại, sẵn sàng “đưa đón miễn phí” người ở xa đi viếng Tổng Bí thư. Một việc làm nho nhỏ, giản đơn mà sao thật nặng lòng!

Đã không còn khoảng cách giữa những người yêu mến Đồng chí. Sự kính trọng, lòng tiếc thương mà người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế dành cho Đồng chí đã trở thành sợi dây gắn kết để mọi người thương yêu nhau hơn, đoàn kết hơn, đồng lòng hướng đến những điều lớn lao, ý nghĩa hơn.

Tiễn đưa một người, là lúc chúng ta bồi hồi nhớ lại những gì người ấy để lại cho đời. Với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đó là di sản chính trị đồ sộ về hệ thống lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của một nhà lãnh đạo có gần 20 năm giữ các chức vụ lãnh đạo chủ chốt của Đảng và đất nước. Ngần ấy thời gian, ngần ấy trọng trách với những đóng góp lớn lao, toàn diện đã đủ cho những gì Đồng chí làm được thực sự trở thành di sản cho người sau.

Nhưng còn một thứ di sản nữa mà Đồng chí đã để cho người ở lại, đó là niềm tin vững chắc vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào những giá trị tốt đẹp của chế độ, niềm tin vào những giá trị nhân văn của cuộc sống, vào danh dự của con người.

Đặt trong bối cảnh nạn tham nhũng còn hiện hữu; còn có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống, vì tham bả phù hoa mà bị tiền tài, địa vị quật ngã.., bằng tinh thần kiên quyết, đấu tranh đến cùng với nạn tham nhũng, Tổng Bí thư đã làm được một việc hết sức ý nghĩa là củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đúng với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:“Sức mạnh của Đảng ta là nằm ở sự ủng hộ của nhân dân”. Mà ai cũng biết, có được sự ủng hộ của nhân dân là có tất cả.

Cũng chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, bằng lối sống giản dị, chân tình, gần gũi, biết giữ mình, đã mang lại niềm tin cho nhân dân về tinh thần trọng danh dự con người - “điều thiêng liêng nhất” theo cách nói của Đồng chí. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ cống hiến bằng những việc đã làm, mà ngay cả khi “ra đi”, Đồng chí cũng khơi dậy nên những điều tốt đẹp cho đời với những cảm xúc chân thực nhất về hình ảnh một nhà lãnh đạo kiên trung, sắc sảo và bản lĩnh, vẹn lời thề với nước, với dân.

Là người thắp lửa, đồng thời cũng là người truyền lửa, Đồng chí đã sống một cuộc đời đáng sống, làm những việc đáng làm. Nhân cách ấy đã góp phần đánh thức trách nhiệm công dân, khát vọng cống hiến trong mỗi người Việt Nam vì tương lai đất nước thịnh vượng, hùng cường.

Dân thương là dân tin và lạc quan về con đường phía trước. Hãy bớt đi những toan tính thiệt hơn của cá nhân để cùng thắp lên ngọn lửa của những điều tốt đẹp, chân chính trong cuộc sống. Hãy biết hướng tới những giá trị lớn lao hơn thay vì bằng mọi giá thỏa mãn những ham muốn vật chất, địa vị tầm thường. Có vậy, chúng ta mới cùng nhau vượt qua những khó khăn, thử thách hiện tại để thực hiện tâm nguyện xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh; xây dựng một bộ máy công quyền gồm những cán bộ tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, vì nhân dân - điều mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dành hết tâm trí phấn đấu thực hiện đến hơi thở cuối cùng./.

 

QUÁN TRIỆT SÂU SẮC TƯ TƯỞNG, QUAN ĐIỂM CỦA ĐỒNG CHÍ TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG, TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC, GÓP PHẦN XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA NGÀY CÀNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH

 Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù ở bất cứ cương vị, lĩnh vực công tác nào, từ khi còn là một cán bộ trẻ cho đến khi giữ cương vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đau đáu, trăn trở với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Đặc biệt, với trọng trách là Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, với nhiều quan điểm, chủ trương hết sức quan trọng, có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ, nhân văn, nhân ái, đầy sức thuyết phục của người đứng đầu Đảng ta.

Với sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, nghiêm minh nhưng rất nhân văn và sự mẫu mực về đạo đức cách mạng, sự nhất quán giữa nói và làm, làm đi đôi với nói của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực đã được tiến hành rất quyết liệt, bài bản, toàn diện, đi vào chiều sâu, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, để lại dấu ấn sâu đậm trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và bạn bè quốc tế.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, tiêu biểu về phẩm chất, tài năng, trí tuệ, bản lĩnh của người chiến sĩ cộng sản kiên trung, suốt đời vì nước, vì dân đã vĩnh biệt chúng ta, nhưng những tư tưởng, quan điểm của đồng chí Tổng Bí thư mãi mãi là “kim chỉ nam” cho hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Hơn bao giờ hết, các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta cần quán triệt sâu sắc tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực; đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là việc làm cần thiết, tất yếu, là xu thế không thể đảo ngược; phải tiến hành thường xuyên, kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, với quyết tâm cao, hành động cụ thể, quyết liệt và “nếu ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm”

Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú, tư duy lý luận sắc bén, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, nó diễn ra trong nội bộ chúng ta, do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện; phòng chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình, liên quan đến lợi ích vật chất, tiền tài, chức vụ, danh dự, uy tín của tổ chức và cá nhân con người; đụng chạm đến những người có chức, có quyền.

Đảng, Nhà nước ta đã thấy sớm và đã chỉ đạo làm nhiều lần, làm quyết liệt, nhưng còn nhiều việc phải làm và còn phải làm lâu dài, quyết liệt hơn nữa, với quyết tâm cao hơn nữa, bền bỉ, kiên trì, không thể nóng vội. Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu không được chủ quan, nóng vội, nhưng cũng không được né tránh, cầm chừng, mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, không được chững lại, hay chùng xuống trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Ngay cả khi đã thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, đồng chí cũng lưu ý: Ban Chỉ đạo không phải là “một chiếc đũa thần” có thể xoay chuyển ngay được tình hình. Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư thường xuyên nhắc nhở chúng ta phải nhận thức sâu sắc về nguy cơ, tác hại của tham nhũng, nó làm tê liệt sức chiến đấu, tổn thương thanh danh, xói mòn uy tín của Đảng, làm biến chất Đảng, không chỉ làm mất tiền, mất của, mà còn mất người, mất chế độ.

Do đó, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực: một việc làm cần thiết, tất yếu; một xu thế không thể đảo ngược” (1), khó mấy cũng phải tìm mọi cách để làm, làm cho bằng được, làm đến cùng, “nếu ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm” (2).Đồng chí Tổng Bí thư tin tưởng rằng, nếu tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều có quyết tâm lớn, có sự thống nhất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại, thì tham nhũng, tiêu cực nhất định sẽ được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi. Và khi “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy” .

Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống - nguyên nhân cơ bản của tham nhũng; phải gắn phòng chống tham nhũng với phòng chống tiêu cực; gắn phòng chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phát triển kinh tế-xã hội

Cùng với nhận diện bản chất và tác hại của tham nhũng, đồng chí Tổng Bí thư cũng chỉ rõ các nguyên nhân khách quan, chủ quan nảy sinh tham nhũng và khẳng định chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta. Trong đó, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh, nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân.

Đây mới là cái gốc, cái nguy hiểm nhất dẫn đến tham nhũng; ngược lại tham nhũng tác động làm cho tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trầm trọng hơn. Vì vậy, phải gắn phòng chống tham nhũng với phòng chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; nếu chỉ phòng chống tham nhũng về tiền bạc, tài sản thôi thì chưa đủ; tiền bạc, tài sản có thể thu hồi được, nhưng nếu suy thoái về đạo đức, tư tưởng là mất tất cả; phòng, chống tiêu cực tức là trị tận gốc của tham nhũng.

Đồng thời, Tổng Bí thư yêu cầu, phải gắn phòng chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phát triển kinh tế-xã hội; không phải đóng cửa để chỉnh đốn Đảng; vấn đề căn cơ trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là phòng ngừa từ sớm, từ xa, mà trọng tâm là xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; phải đặc biệt quan tâm, chú trọng công tác cán bộ.

Nhất quán phương châm không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; rất nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn, trị bệnh cứu người

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, V.I.Lênin đã chỉ rõ phải “trừng trị một cách không thương xót, kể cả việc đem bắn” những đảng viên cộng sản tham nhũng, thậm chí phải “trừng phạt nặng hơn gấp ba lần” những người ngoài đảng(3); Chủ tịch Hồ Chí Minh đã y án tử hình đối với Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu là một điển hình về tính nghiêm minh trong xử lý tham nhũng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm quốc tế, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định:

Mục đích của việc xử lý tham nhũng, tiêu cực là để trị bệnh cứu người, kỷ luật một vài người để cứu muôn người, cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa là chính. Từ đó đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải kiên quyết xử lý nghiêm khắc những hành vi tham nhũng, tiêu cực, nhưng phải có lý, có tình, nhân văn, nhân ái, với nguyên tắc:

Mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức ở bất cứ cương vị công tác nào sai phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, nghiêm minh và công khai, làm nghiêm từ trên xuống dưới, không có vùng cấm, không có vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào; có vụ việc thì phải xác minh làm rõ; tích cực, khẩn trương, rõ đến đâu xử lý đến đó, có dấu hiệu tội phạm thì phải khởi tố điều tra và đã kết luận có tội thì phải truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật; vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì xử lý kỷ luật nghiêm minh theo quy định của Đảng, Nhà nước, đoàn thể.

Quá trình xử lý phải tiến hành đồng bộ giữa xử lý kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng thực hiện trước, tạo tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính, đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng nghiêm hơn xử lý theo pháp luật. Không chỉ xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, mà còn xử lý nghiêm cả những người dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực; người lợi dụng chống tham nhũng, tiêu cực để xuyên tạc, kích động, chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước. Đồng thời, trong chỉ đạo xử lý tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư luôn yêu cầu việc xử lý phải nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn:

Phải phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn; phải lấy giáo dục, răn đe, phòng ngừa làm chính, kết hợp giữa trừng trị với khoan hồng; trong xử lý phải quán triệt đúng đắn các quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, phân hóa giữa người sai phạm vì động cơ cá nhân, vụ lợi với người sai phạm không có động cơ cá nhân, vụ lợi; phải truy tố, xét xử vắng mặt những kẻ phạm tội đang bỏ trốn, theo pháp luật; việc xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, rất đau lòng, nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của Nhân dân, chúng ta phải làm, và kiên quyết làm.

Đây là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; được các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, mang lại hiệu quả rõ rệt trong thực tế, tạo bước đột phá mới, là điểm sáng, dấu ấn nổi bật trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua.

Gắn phòng chống tham nhũng, tiêu cực với kiểm soát quyền lực, “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” thể chế

Quyền lực luôn luôn có nguy cơ bị “tha hóa”, tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực. Do vậy, quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư là phải kiểm soát có hiệu quả việc thực thi quyền lực, để đảm bảo quyền lực được vận hành công khai, minh bạch, đúng đắn, theo đúng nguyên tắc: Mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao trách nhiệm càng lớn; lợi dụng, lạm dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý nghiêm minh.

Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu: Cán bộ lãnh đạo các cấp phải ghi nhớ, bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật; bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân và tự giác chịu sự giám sát của Nhân dân.

Công quỹ là của công, cho nên một xu, một hào cũng không được chi dùng bừa bãi; công quyền là vì dân cho nên không được mảy may vì riêng tư; phải thật sự chí công vô tư, công tư phân minh, công trước tư sau, vì công mà quên tư; mọi việc đều xuất phát từ dân, vì dân. Tuyệt đối không được lạm dụng, lợi dụng quyền lực, không được cậy có quyền, uốn thẳng thành cong.

Đối với người được giao chức vụ, quyền hạn phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, thường xuyên tự soi, tự sửa. Về phía cơ quan, tổ chức, phải quan tâm siết chặt kỷ cương, dùng kỷ luật nghiêm minh và giám sát nghiêm khắc để cán bộ, đảng viên biết giữ gìn, nhớ điều cấm, giữ giới hạn; phải tăng cường giám sát, kiểm soát có hiệu quả việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn; trong công tác cán bộ và các lĩnh vực chuyên môn sâu, khép kín, bí mật thì càng phải chú trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, nhất là kiểm tra, giám sát từ bên ngoài; đồng thời, phải công khai quy trình sử dụng, thực thi quyền lực theo pháp luật để cán bộ, nhân dân giám sát.

Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải khẩn trương hoàn thiện và thực hiện nghiêm các cơ chế về kiểm soát quyền lực; phải thiết lập cho được cơ chế để nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực thật sự có hiệu lực, hiệu quả; phải “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” cơ chế.

Kiểm soát quyền lực, thực hành liêm chính và phòng chống tham nhũng, tiêu cực trước hết phải được tiến hành nghiêm túc, có hiệu quả ngay trong các cơ quan phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Các cơ quan có chức năng phòng chống tham nhũng, tiêu cực là những cơ quan được giao nhiều quyền lực, hoạt động có nhiều đặc thù, tính chất phức tạp, bí mật; thường xuyên đối mặt với những tiêu cực trong xã hội, khiến cán bộ, công chức dễ bị sa ngã, mua chuộc. Vì thế, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu, hơn ai hết, các cơ quan chức năng phòng chống tham nhũng, tiêu cực và đội ngũ cán bộ làm công tác này phải liêm, phải sạch; không thể “Chân mình còn lấm bê bê, Lại cầm bó đuốc đi rê chân người” (4).

Do vậy, phòng chống tham nhũng, tiêu cực trước hết phải được tiến hành nghiêm túc, có hiệu quả ngay trong các cơ quan phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư đặt ra những đòi hỏi cao hơn về trách nhiệm, bản lĩnh, với lời dặn vô cùng thấm thía và hết sức sâu sắc:

“Phải có trái tim sục sôi bầu nhiệt huyết cách mạng, sẵn sàng hành động vì nước, vì dân; có cái đầu đầy bản lĩnh và trí tuệ để khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; có đôi chân vững chắc và bàn tay sạch để đứng vững, đứng thẳng và khước từ mọi sự cám dỗ tầm thường, giữ danh dự của người cán bộ…; “Còn Đảng thì còn mình”, xứng danh là “thanh bảo kiếm” sắc bén, “lá chắn” thép vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân”(5).

Ngay cả đối với các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư cũng yêu cầu phải đề cao trách nhiệm, là những tấm gương thật sự mẫu mực, quyết liệt đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trình độ, để xứng đáng với niềm tin, tình cảm và nguyện vọng của Nhân dân; nếu ai vướng vào tham nhũng, tiêu cực thì “Tôi” (Đảng, Nhà nước) sẽ xử lý trước.

Thực hiện nhất quán cơ chế “bốn không” trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực: “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng, tiêu cực

Để thực hiện mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư chỉ đạo: Phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể” tham nhũng, tiêu cực; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám” tham nhũng, tiêu cực; và một cơ chế bảo đảm để “không muốn”, “không cần” tham nhũng, tiêu cực.

Đây vừa là quan điểm, phương châm mang tính tổng thể trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng thời cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quý được đồng chí Tổng Bí thư đúc rút qua hơn 10 năm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Để thực hiện có hiệu quả phương châm “bốn không”, theo đồng chí Tổng Bí thư, phải hoàn thiện thể chế trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải rất chặt chẽ, không sơ hở, bất cập, để “không thể tham nhũng, tiêu cực”; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, để “không dám tham nhũng, tiêu cực”; xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, tiêu cực trở thành nếp sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân, để “không muốn tham nhũng, tiêu cực”; thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp với cống hiến và tài năng của cán bộ, công chức, viên chức, để “không cần tham nhũng, tiêu cực”.

Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, dựa vào dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Trong quá trình hoạt động, lãnh đạo cách mạng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn quán triệt sâu sắc bài học lịch sử vô giá “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ với nhân dân, biết lắng nghe ý kiến nhân dân, dựa vào nhân dân. Thực tiễn cho thấy, không có gì mà nhân dân không biết, không có gì có thể qua mắt được nhân dân; chỉ có phát huy đầy đủ sức mạnh của nhân dân mới có thể đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, tạo thành một “phong trào, xu thế” không thể đảo ngược.

Do vậy, đồng chí Tổng Bí thư nhiều lần nhấn mạnh: Sức mạnh và động lực to lớn của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là sự đồng tình, ủng hộ, hưởng ứng, tham gia tích cực của Nhân dân và cả hệ thống chính trị, báo chí, mà nòng cốt là các cơ quan có chức năng phòng chống tham nhũng, tiêu cực, như nội chính, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Nếu không dựa vào dân thì cuộc chiến chống tham nhũng khó có thể thành công.

Đồng chí Tổng Bí thư đã dẫn lại những lời chỉ dạy quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nhắc nhở các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên ghi nhớ sâu sắc và triển khai thực hiện: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng Nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì Nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”; phải “làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp” .

Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Từng bước mở rộng phòng chống tham nhũng, tiêu cực ra khu vực ngoài nhà nước và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng chống tham nhũng

Tham nhũng, tiêu cực không chỉ xảy ra trong khu vực nhà nước, mà còn có sự giúp sức, hỗ trợ đắc lực của các đối tượng hoạt động ngoài khu vực nhà nước. Mặt khác, tội phạm tham nhũng có tính quốc tế, là vấn nạn của các quốc gia.

Vì thế, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải triển khai có hiệu quả hoạt động phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở khu vực ngoài nhà nước, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế về phòng chống tham nhũng; các giải pháp phòng chống tham nhũng, tiêu cực phải phù hợp với truyền thống văn hóa của Dân tộc, với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp, các thỏa thuận về hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm với các nước; phối hợp chặt chẽ với cơ quan tư pháp của các nước, các tổ chức quốc tế để truy bắt, dẫn độ số đối tượng phạm tội tham nhũng lẩn trốn, chuyển giao tài liệu, chứng cứ và thu hồi tài sản tham nhũng tẩu tán ra nước ngoài.

Tích cực tham gia các sáng kiến, diễn đàn quốc tế, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong phòng chống tham nhũng. Nội luật hóa và thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng theo đúng lộ trình, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Thường xuyên tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, không ngừng đổi mới tư duy, hoàn thiện lý luận về phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam.

Phối hợp chặt chẽ, “đúng vai, thuộc bài”, “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”

Một trong những bài học kinh nghiệm mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc rút từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực là phải chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò nòng cốt và sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhịp nhàng, kịp thời, hiệu quả của các cơ quan có chức năng phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Trong quá trình hoạt động, nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan chức năng chuyển ngay hồ sơ vụ việc đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật; nếu vi phạm liên quan đến cán bộ diện cấp ủy quản lý thì báo cáo với Thường trực cấp ủy đó, đồng thời chuyển hồ sơ, tài liệu cho ủy ban kiểm tra cùng cấp để xử lý theo quy định của Đảng. Đồng chí yêu cầu, trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực tuyệt đối không được “quyền anh quyền tôi”, “cua cậy càng, cá cậy vây”; phải “đúng vai, thuộc bài”; “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.

Để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ đạo nghiên cứu, trình Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh. Nhờ đó, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương, cơ sở đã có sự chuyển biến rõ nét, từng bước khắc phục hiệu quả tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, khẳng định chủ trương đúng đắn, kịp thời của Trung ương, của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Với 80 năm tuổi đời, gần 60 năm hoạt động cách mạng phong phú, bền bỉ, Giáo sư, Tiến sĩ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với trí tuệ uyên bác, sắc sảo đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hệ thống tư tưởng và lý luận quý giá về con đường cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị chiếm vị trí đặc biệt quan trọng đối với đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh; thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc mà đồng chí Tổng Bí thư trọn đời ấp ủ, phấn đấu hy sinh./.