Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử quan trọng, chỉ ra con đường phát triển cho dân tộc Việt Nam, đồng thời phản ánh niềm hy vọng của Người đối với đất nước và thế giới. Nhà nghiên cứu lịch sử và chính trị Việt Nam và đảng viên Đảng Cộng sản Anh, Kyril Whittaker, đưa ra nhận định trên.
Theo ông Kyril Whittaker, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh đạo đức cách mạng và mong muốn của Người xây dựng một đảng cầm quyền trong sạch, hết lòng phục vụ nhân dân.
Đánh giá việc thực hiện Di chúc Bác Hồ về thực hành dân chủ trong Đảng, giữ gìn Đảng trong sạch, mỗi đảng viên phải thấm nhuần tin thần “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”, ông Whittaker khẳng định những mục tiêu cao cả thấm nhuần đạo đức cách mạng này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam quán triệt sâu sắc.
Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng nhận thức sâu sắc dân là gốc, do đó, Đảng phải phục vụ nhân dân, theo sát những giá trị này và không ngừng thực hành hàng ngày. Học giả Anh cho rằng, cam kết phê bình và tự phê bình và thực hành dân chủ được thực hiện nghiêm minh qua các kỳ đại hội của Đảng và những đối tượng lợi dụng chức vụ, không sống đúng đạo đức cách mạng phải chịu kỷ luật.
Triển lãm “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - giá trị và sức sống trường tồn” tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch ngày 30-8.
Bàn về việc thực hiện Di chúc của Bác Hồ về nhân dân lao động “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”, ông Whittaker cho rằng, kể từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bằng cách tiến lên chủ nghĩa xã hội và tạo điều kiện để đạt được thành công về kinh tế. Đặc biệt, kể từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh. Tuy nhiên, ông lưu ý, không giống như ở một số quốc gia khác, nơi tăng trưởng kinh tế không có ý nghĩa nhiều đối với người dân, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam nhằm phục vụ người dân, vì vậy giúp cải thiện cuộc sống hằng ngày của người dân.
Trở lại Việt Nam sau vài năm, ông Whittaker thực sự bất ngờ trước những đổi thay ở những địa phương mà ông từng đến như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Cà Mau, với những tuyến đường sắt, những con đường, những cây cầu mới xây. Ông cho rằng, những thay đổi này là một phần trong sự phát triển đang diễn ra trên khắp Việt Nam, cho thấy đời sống của người dân đang liên tục được cải thiện. Các lĩnh vực khác như bảo vệ môi trường, phát triển giáo dục, xây nhà cho người nghèo, sửa đổi luật đất đai... đều cho thấy những hy vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đất nước đã được hiện thực hóa.
Nói về mong mỏi thống nhất đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người “Còn non, còn nước, còn người, thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”, ông Whittaker cho rằng Đảng và nhân dân Việt Nam không những quyết tâm thực hiện nguyện vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mà còn gìn giữ vẻ đẹp “non nước” và không ngừng phát triển nước nhà.
Theo ông, kể từ khi thống nhất, công cuộc xây dựng đất nước đang biến đổi Việt Nam từng ngày, từng giờ, với những nỗ lực gìn giữ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học thông qua việc triển khai hàng loạt các dự án công nghệ xanh và giao thông xanh; chống phá rừng bất hợp pháp; phát triển các vườn quốc gia, đồng thời bảo tồn văn hóa trong nhiều lĩnh vực từ âm nhạc, sân khấu tới trang phục truyền thống và ẩm thực và nhiều lĩnh vực khác.
Ông Whittaker cho rằng, mong muốn cuối cùng của Bác Hồ là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới", giờ đây đã trở thành hiện thực. Việt Nam đã thống nhất và trở thành một đất nước hòa bình, độc lập và dân chủ, và đóng góp lớn cho phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng mà mỗi người Cộng sản đều hết lòng, đã và đang đạt được nhiều thành tựu cho nhân dân Việt Nam cũng như thế giới.
Học giả Anh kết luận sự nghiệp cách mạng của Việt Nam dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã truyền cảm hứng cho những người dân yêu chuộng tự do và hòa bình trên toàn thế giới./.
Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên là một trong những nội dung lớn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong Bản Di chúc lịch sử.
Bác Hồ tại phòng làm việc nhà 54, tháng 4/1957. (Ảnh: Tư liệu do Bảo tàng Hồ Chí Minh cung cấp)
Thực hiện di huấn của Người, trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo, bồi dưỡng và đặt niềm tin vào thanh niên. Các thế hệ thanh niên Việt Nam cũng đã tiếp nối truyền thống, không ngại khó, ngại khổ, nỗ lực học tập, lao động và cống hiến; luôn phát huy vai trò xung kích, tình nguyện trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
"BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU LÀ MỘT VIỆC RẤT QUAN TRỌNG VÀ RẤT CẦN THIẾT"
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sáng lập, tổ chức và rèn luyện Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, từ trước khi thành lập Đảng cho đến lúc đặt bút viết bản Di chúc lịch sử, Người luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến các thế hệ thanh niên Việt Nam.
- Bác luôn yêu thương, tin tưởng và đánh giá đúng vai trò của đoàn viên thanh niên
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sớm nhận thức đúng vị trí vai trò của đoàn viên thanh niên trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925, Người đã viết: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại. Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”. Người chỉ ra rằng: Thanh niên là bộ phận trẻ, khỏe, dám nghĩ, dám làm, giàu ý chí, nghị lực và ước mơ; “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai… Thanh niên là người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội… Thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ…”.
Tại lễ kỷ niệm lần thứ 35 năm ngày thành lập Đoàn (3/1966), Người tin tưởng: “Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, Bác rất tự hào, sung sướng và thấy mình trẻ lại, thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang”.
Không chỉ chỉ ra khả năng cách mạng to lớn của tuổi trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra tiềm năng to lớn của họ trong công cuộc kiến thiết, xây dựng nước nhà. Đó là, “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” và “Non sông Việt Nam có trở lên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khen ngợi: “Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ”.
Lịch sử đã chứng minh, trong mọi giai đoạn cách mạng của dân tộc, dưới sự lãnh đạo và rèn luyện của Đảng và Bác Hồ, các thế hệ đoàn viên thanh niên Việt Nam đã luôn nêu cao tinh thần yêu nước, không ngừng phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần to lớn vào những chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Nhiều phong trào thanh niên đã trở thành niềm tự hào của tuổi trẻ Việt Nam như: “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”, “Ba xung kích”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Thanh niên tình nguyện”...
- Quan tâm, giáo dục, bồi dưỡng các thế hệ thanh niên
Trên cơ sở nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện vai trò, vị trí và khả năng cách mạng của thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi, đánh thức, giác ngộ và cổ vũ thanh niên tham gia cách mạng; đào tạo, bồi dưỡng, giao nhiệm vụ và tạo điều kiện để họ được học tập, lao động, cống hiến…
Để đưa thế hệ trẻ đến với cách mạng, ngay từ năm 1925, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên; ra báo Thanh niên; mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng và của phong trào cách mạng cả nước. Tháng 7/1926, Người gửi thư cho Ủy ban Trung ương thiếu nhi Liên Xô và đại diện đoàn Thanh niên cộng sản Pháp tại Quốc tế Thanh niên cộng sản đề nghị giúp đỡ, gửi một số thiếu niên Việt Nam ở Quảng Châu sang Liên Xô học tập, “để trở thành những chiến sĩ Lêninnít tí hon chân chính”, làm hạt nhân cho Đoàn Thanh niên cộng sản sau này.
Đặc biệt, sau khi Đảng ra đời, vấn đề bồi dưỡng lực lượng thanh niên đã được Đảng đặc biệt quan tâm.
Trên cương vị là lãnh tụ của dân tộc, Bác thường xuyên dành cho đoàn viên, thanh niên những lời dạy bảo ân cần, sâu sắc: “Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng thì thanh niên mới được tự do. Vì vậy, thanh niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân tộc...”. Và “Thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn. Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, chớ phô trương hình thức, chớ kiêu ngạo tự mãn. Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là học tập, lao động, sinh hoạt theo đúng đạo đức của thanh niên xã hội chủ nghĩa…”.
Bác còn nhấn mạnh: “… Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?”; “Ngày nay ta đã được độc lập, tự do, thanh niên mới thật là người chủ tương lai của nước nhà. Muốn xứng đáng vai trò người chủ thì phải học tập”.
Trước lúc đi xa, Bác không quên dặn Đảng ta về việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Bác khẳng định: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Bác chỉ rõ “Đảng cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
PHÁT HUY TINH THẦN THANH NIÊN XUNG KÍCH, XỨNG ĐÁNG VỚI LỜI DẶN CỦA NGƯỜI
Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm qua, Đảng ta luôn xác định thanh niên là người chủ của đất nước, là đội quân xung kích cách mạng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt đối với thanh niên thông qua việc tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hóa; tạo cơ hội cho mọi thanh niên được học tập, không ngừng nâng cao trình độ, tri thức và kỹ năng. Đồng thời, xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thực sự là đội dự bị tin cậy của Đảng, hạt nhân chính trị của phong trào và các tổ chức thanh niên Việt Nam.
Lễ xuất quân Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè năm 2024 tại tỉnh Bình Dương. (Ảnh: TTXVN)
Qua đó, đã hình thành một thế hệ thanh niên Việt Nam có đạo đức, nhân cách, tri thức, sức khỏe, tư duy và hành động, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới, tiếp nối được truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc. Đại đa số thanh niên đều nỗ lực học tập, lao động để trau dồi, nâng cao tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sống và làm việc trong bối cảnh toàn cầu hóa; tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào: “Thanh niên tình nguyện”, “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”, “Bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an ninh”, “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển văn hóa, thể thao”, “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”…
Tuy vậy, vẫn còn một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc... Thực tiễn đòi hỏi Đảng và cả hệ thống chính trị nhận thức đầy đủ tính cấp bách và tầm quan trọng của công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, tăng cường chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2022-2027, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh yêu cầu: “cần tăng cường và làm tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị, lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ, để thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước ta thực sự “vừa hồng vừa chuyên”, như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội”.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ: “Xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học - công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Có thể thấy, đến nay, những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vẫn có giá trị to lớn, là kim chỉ nam cho toàn Đảng, toàn dân ta trong công tác thanh niên. Những tình cảm, sự quan tâm, chăm lo, dìu dắt của Bác dành cho đoàn viên, thanh niên luôn là nguồn động lực, cổ vũ, khích lệ tuổi trẻ cả nước vươn lên và cống hiến, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu, đẹp../.
Bảo vật quốc gia cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại - bản Di chúc là một văn bản rất đặc biệt, là mẫu mực cho phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh. Như cách Người viết, Di chúc chỉ là “mấy lời để lại”, “tóm tắt vài việc” nhưng sự đơn giản ấy lại chứa đựng những điều lớn lao, vĩ đại của người Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất - “Một con người biết nói lên những lời cần nói vào mỗi giai đoạn lịch sử, để động viên nghị lực, tập hợp lực lượng... Những lời nói giản dị, đúng mức, không văn hoa nhưng khắc sâu vào trái tim, khối óc của từng người...”.
1. Phong cách diễn đạt của Hồ Chí Minh không phải chỉ là kết quả của việc sử dụng thành thạo các hình thức ngôn ngữ. Trước hết đó là sự phản ánh một trí tuệ mẫn tiệp, một vốn văn hóa phong phú, một thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng khoa học, biện chứng, một đạo đức cao cả, nhân văn, một quan điểm sâu sắc và toàn diện về ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ. Hồ Chí Minh đã sống ở nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều nền văn hoá, đã tự học và sử dụng nhiều thứ tiếng nước ngoài để hoạt động cách mạng. Dưới tác động của nhiều yếu tố phức tạp của hoàn cảnh, con người Việt Nam đó đã “lớn lên” trong truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình và hấp thụ tinh hoa của nhiều dân tộc khác trên thế giới.
Đối với Hồ Chí Minh, nói và viết không đơn thuần là một hành động thông tin mà còn là quá trình tác động lên người nghe, người đọc, nhằm thuyết phục, cảm hóa, nâng cao nhận thức, thay đổi quan niệm và hành vi, hướng mọi người vào các hoạt động thực tiễn cách mạng phù hợp xu hướng tiến bộ của xã hội, của thời đại. Chính vì vậy, Người luôn chú trọng cách nói và viết, coi đó là công cụ đắc lực không thể thiếu để tuyên truyền, giác ngộ ý thức cách mạng, củng cố niềm tin, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Học viết, học nói là một trong những điều mà Hồ Chí Minh mong muốn các cán bộ cách mạng phải thường xuyên học tập, rèn luyện. Học viết, học nói không chỉ nhằm “viết hay, nói giỏi”, mà phải xác định rõ chủ đề, đối tượng, mục đích để tìm cách nói, cách viết cho phù hợp nhất, đạt được mục đích đề ra, để cho dễ hiểu, dễ nhớ.
Hồ Chí Minh yêu cầu, mỗi bài nói, bài viết phải đúng sự thật, tức là phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sống với những con số, những sự kiện đã được xem xét kiểm tra, chọn lọc. Sự thiếu chân thực, giả dối trong nói và viết không chỉ làm quần chúng giảm lòng tin mà còn làm cho Đảng không thấy đúng tình hình, rõ người, rõ việc, để xác định những chủ trương đúng đắn, những giải pháp phù hợp hoặc sửa chữa kịp thời khi có sai lầm.
Theo đó, Người luôn rất kỹ lưỡng trong công việc cũng như trong quá trình chuẩn bị bài nói, bài viết của mình. Với Người: “Cách viết thế nào? Trước hết cần phải tránh cái lối viết "rau muống" nghĩa là lằng nhằng (…) Viết rồi phải thế nào? Viết rồi thì phải đọc đi, đọc lại. Thấy cái gì thừa câu nào, chữ nào thừa, thì bỏ bớt đi. Đọc đi đọc lại 4, 5 lần đã đủ chưa? Chưa đủ. Đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại”. Có như vậy thì báo chí “không chỉ thể hiện tính tiên phong” mà còn “góp phần định hướng” cho sự phát triển của cách mạng.
2. Là Di chúc của một lãnh tụ thiên tài, một nhà cách mạng lỗi lạc có tầm nhìn xa trông rộng, một chiến sĩ cộng sản suốt đời yêu thương, trân trọng con người, phấn đấu hy sinh vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, thì ngoài việc thể hiện những tình cảm đối với toàn Đảng, toàn dân tộc, Hồ Chí Minh còn gửi gắm, truyền đạt những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi. Như vậy, Di chúc của Người đã vượt ra ngoài khuôn khổ của “lời dặn lại trước lúc lâm chung” như cách hiểu thông thường.
Bản Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn đúng vào 9 giờ và chọn đúng những ngày tháng 5 từ 1965 đến năm 1969, nhân dịp ngày sinh của mình, khi sức khỏe còn tốt và trí tuệ minh mẫn để viết. Viết trong khoảng thời gian 4 năm nhưng về tổng thể bản Di chúc vẫn là một văn bản nhất quán, mạch lạc và có bố cục chặt chẽ, thể hiện rõ phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh.
Ngay phần mở đầu của Di chúc là đoạn mà Bác Hồ viết và sửa lại nhiều nhất, chủ yếu là để “cập nhật” cho phù hợp với diễn biến thời gian. Linh cảm đến ngày “đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác” ngay khi chuẩn bị mừng thọ 75 tuổi (1965), cho nên Bác đã chọn một cách “vào đề” phù hợp nhất để nói về cái lẽ tự nhiên của đời người. Ở bản Di chúc năm 1965, bằng việc dẫn thơ của Đỗ Phủ, Người muốn nhấn mạnh: thọ tới 79 tuổi (như Bác) thuộc diện “hiếm” đối với mọi người. Bác đã vượt “ngưỡng” của tuổi thọ (mốc 70 tuổi); bản thân Bác tuy tuổi cao những vẫn sáng suốt, minh mẫn (Đó là điều thật quý giá); Nhưng dù sao thì việc “ra đi bất thường” là rất có thể xảy ra; vì vậy, việc viết “mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác” là cần thiết… Một đoạn mở đầu đơn giản, độc đáo, đậm chất nhân văn và có sức thuyết phục cao, làm lay động lòng người. Ở phía trên, bên trái lề của bản viết, Bác ghi thêm hàng chữ: "Tuyệt đối bí mật". Bác không muốn cho nhiều người biết việc làm của một người "sắp đi xa", ngại dẫn đến những suy nghĩ không có lợi.
Nước nhà chưa được thống nhất, Bắc, Nam còn bị chia cắt luôn là nỗi canh cánh trong lòng Bác cho đến tận khi Người đi xa. Cho nên dễ hiểu vì sao ngay từ lời đầu tiên của bản Di chúc, Người đã nhắc đến cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc và khẳng định một niềm tin như chân lý: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn”.
Câu “Đó là một điều chắc chắn” được xuống dòng, đặt riêng một đoạn tạo nên một ấn tượng cảm nhận và giá trị khẳng định cao hơn hẳn. Hồ Chí Minh muốn truyền một sự tin tưởng tuyệt đối cho nhân dân. Vẫn với niềm tin tất thắng, ở phần tiếp theo của bản Di chúc viết năm 1965, Người có một lối diễn đạt điển hình, súc tích: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Vượt lên những câu chữ thuần tuý là niềm tin, khát vọng cháy bỏng, tình cảm thiêng liêng và chí hướng phấn đấu của toàn dân tộc. Bốn từ “nhất định” được lặp lại nhưng không thừa và không thể bỏ đi một từ nào cả; mỗi từ có vai trò, vị trí riêng; từ “phải” và từ “sẽ” được Người dùng hết sức “đắt giá”, chỉ thì tương lai của hai đối tượng nhưng đều hướng tới một kết quả duy nhất: Chiến thắng cuối cùng thuộc về nhân dân ta. Ta như thấy lại âm hưởng của Bản Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước (17/7/1966) - những lời hịch thiêng liêng, hiệu triệu tinh thần dân tộc, thôi thúc lên đường hành động, lan toả và gắn kết hàng triệu trái tim thành một nhịp đập, vững bước trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Bút tích Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
3.Di chúc là một văn bản chứa đựng những lời tâm sự cá nhân, những nguyện vọng và mong muốn của một vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, một người Cha già dân tộc đối với những vấn đề lớn của đất nước trước khi vĩnh biệt cuộc đời: Chỉnh đốn Đảng; bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; kế hoạch xây dựng lại thành phố, làng mạc, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân... Đó đều là những vấn đề “quốc gia đại sự”, song Hồ Chí Minh lại dùng lối viết rất bình dị, thoải mái, tự tin, hơn thế có chỗ còn dí dỏm; ngôn từ luôn tuân theo nguyên tắc: chính xác, giản dị, giàu ý nghĩa, có từ trong dân, nói để dân hiểu, dân mến, dân tin.
Có lẽ, điều mà Người quan tâm nhiều nhất, suy nghĩ nhiều nhất chính là vấn đề xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền. Người viết: "Trước hết nói về Đảng". Nhìn chữ viết bằng mực đỏ trong bút tích của Bác, lòng chúng ta dâng lên niềm xúc động lớn lao. Bác là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, cả đời chăm lo cho sự lớn mạnh của Đảng. Vì Bác biết: sự lớn mạnh của Đảng cũng chính là sự lớn mạnh của cách mạng, của dân tộc. Ở phần nói về Đảng, ta thấy nhiều đoạn được lặp có chú ý: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Đây thực sự là những áng văn thể hiện tư tưởng, cốt cách Hồ Chí Minh. Cách lặp tạo nên nhịp điệu hùng hồn, làm cho sức lan tỏa của văn bản rộng hơn, người đọc dễ nhập tâm và hiệu ứng ngữ nghĩa cũng cao hơn. Cũng ở đoạn này, năm 1966 Bác ghi thêm liền sau đó một câu: "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến các chi bộ chắc sẽ xúc động biết chừng nào khi biết rằng, sau một năm trời, Bác Hồ chỉ dặn thêm chúng ta một câu như thế. Chỉ một câu thôi, nhưng suy cho cùng đó là điểm cơ bản nhất của vấn đề đoàn kết. Bởi nếu không xuất phát từ “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” thì dù có “tự phê bình và phê bình” đến mấy, dù được gọi là “có tinh thần đấu tranh thẳng thắn” đến mấy, hiệu quả cũng chẳng được là bao....
Trong Di chúc, mỗi chữ, mỗi từ, mỗi câu, mỗi đoạn văn được viết ra là kết quả của sự nung nấu, suy tính, so sánh, chắt lọc, chưng cất, chứa đựng chiều sâu của tư tưởng, tình cảm, sự giàu có, phong phú của tâm hồn, nhân cách, chiều cao của trí tuệ Hồ Chí Minh. Có ngày, suốt một tiếng đồng hồ, Bác chỉ thay đổi một chữ. Có ngày Bác làm việc rất tập trung nhưng cuối cùng vẫn không bớt hoặc thêm một chữ nào. Như ngày 18/5/1969, Bác chữa hai chữ và thêm hai chữ, đứng về mặt ngữ pháp, có thể nói là một sự mẫu mực, đó là câu: "Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam bắc để thăm hỏi đồng bào, cán bộ và chiến sĩ". Bác gạch chữ "thăm hỏi" và thay vào chữ "chúc mừng". Đến ngày thắng lợi hoàn toàn thì đi "chúc mừng" là chính xác nhất. Nhưng ở câu tiếp theo: "Thăm hỏi cáccụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng" chữ "thăm hỏi" ở đây là đúng chỗ. Không chỉ chính xác về mặt ý nghĩa, mà nếu không thay chữ "chúcmừng" vào chữ "thăm hỏi" thì sẽ xảy ra trường hợp trùng lắp hai chữ "thăm hỏi" trong cùng một câu. Sau câu: "... để chúc mừng đồng bào, cán bộvà chiến sĩ". Bác thêm chữ "anh hùng". Do đó mà ngày nay chúng ta được thừa hưởng một câu văn vừa khoáng đạt, vừa thân tình trong Di chúc của Bác: "Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc để chúc mừngđồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháuthanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta...".
Như lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Bản Di chúc tuy ngắn gọn song nó chứa đựng biết bao giá trị tư tưởng và tình cảm, là sự kết tinh một đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đem lại sự đổi đời của dân tộc Việt Nam ta, đồng thời để lại những di sản bất hủ đối với những thế hệ mai sau”.
Du khách nước ngoài tham quan triển lãm cấp quốc gia “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - giá trị và sức sống trường tồn” nhân kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969-2024) và 55 năm ngày mất của Người (2/9/1969 - 2/9/2024).
Đã 55 năm trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩnh biệt chúng ta về với “thế giới người hiền”, song di sản tư tưởng, tinh thần lớn lao hàm chứa trong từng trước tác của Người vẫn luôn tỏa sáng, soi đường cho cách mạng Việt Nam vững bước và giành thắng lợi trên con đường đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với những cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những cán bộ tuyên giáo hay đang làm công tác tuyên truyền nói riêng, tìm hiểu học tập phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua bản Di chúc lịch sử sẽ giúp cho chúng ta nâng cao trình độ diễn đạt, hoàn thiện kỹ năng giao tiếp, tuyên truyền góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, xứng đáng là công bộc tận tụy của nhân dân như Bác Hồ mong muốn./.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Những tư tưởng lớn của bản Tuyên ngôn độc lập đến nay vẫn giữ nguyên những giá trị và tầm vóc thời đại.
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập - Ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
HÀNH TRÌNH ĐI TỚI TƯƠNG LAI TƯƠI SÁNG
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại cho cách mạng Việt Nam trên hành trình đi tới tương lai tươi sáng. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và nhân dân thế giới về nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và sự ra đời của nước Việt NamDân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tuyên ngôn độc lập là văn kiện lịch sử vô giá kết tinh thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta; hội tụ tầm nhìn, trí tuệ, tư tưởng Hồ Chí Minh, là bản hùng ca mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám với sự ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập là thành quả của cuộc đấu tranh vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt Nam, từ cao trào cách mạng 1930 - 1931; cao trào dân chủ 1936 - 1939, đến cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Đó là kết quả của 15 năm ròng đấu tranh đầy gian khổ hy sinh, với sự chuẩn bị chu đáo về đường lối, tổ chức, tinh thần và lực lượng, với nghệ thuật chuẩn bị thời cơ, thúc đẩy thời cơ và chớp thời cơ mau lẹ, với khát vọng và ý chí kiên quyết giành độc lập, tự do của toàn thể dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, “dù có phải hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”.
Ôn lại những chặng đường oanh liệt và vẻ vang của dân tộc Việt Nam, chúng ta càng thấy nổi bật những giá trị bất diệt, những tư tưởng lớn của Tuyên ngôn độc lập, của dân tộc ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và “Đó cũng là những tư tưởng lớn của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một trong những người đã làm nên lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã đánh giá về bản Tuyên ngôn độc lập của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả “vừa giành được độc lập bằng cuộc chiến đấu suốt tám mươi năm của dân tộc. Đây còn là những lời lẽ tâm huyết, đầy cảm kích của đội tiên phong giác ngộ nhất của giai cấp cách mạng nhất, có những con người tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc, trước máy chém, trước miệng súng quân thù, đã từng giật tấm băng đen bịt mắt, hô lớn: “Việt Nam độc lập muôn năm!... Bản án chế độ thực dân Pháp đã có từ ba mươi năm trước đây. Nhưng hôm nay mới chính thức là ngày chế độ thực dân Pháp bị đưa ra cho toàn dân Việt Nam công khai xét xử. Lịch sử đã sang trang. Một kỷ nguyên mới bắt đầu! Bản đồ thế giới phải sửa đổi lại vì sự ra đời của một Nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!”.
GIÁ TRỊ TẦM VÓC VÀ THỜI ĐẠI
Khi khởi thảo dòng đầu tiên của Tuyên ngôn độc lập, tại ngôi nhà số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong niềm sung sướng, tự hào tột độ. Sau này, Người kể lại rằng: Trong đời mình, chưa bao giờ Người lại cảm thấy xúc động và phấn khởi như trong những giờ phút ấy. Bởi lẽ, Người sẽ tuyên bố với quốc dân đồng bào và toàn thế giới biết rằng: sau bao nhiêu năm chiến đấu quên mình và bao nhiêu tính mạng của những người con ưu tú đã hy sinh, dân tộc Việt Nam cuối cùng đã đạt được mục đích thiêng liêng: “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm”. Tuyên ngôn độc lập đã nói lên ý chí của hàng triệu đồng bào cả nước, đã thể hiện thành quả của mấy mươi năm đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà đỉnh cao của cuộc đấu tranh đó là Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, đem lại cho dân tộc Việt Nam quyền độc lập, tự do.
Tuyên ngôn độc lập kết tinh tư tưởng Hồ Chí Minh; kết tinh những văn kiện của Đảng và “là kết quả của những tuyên ngôn của các bậc tiền bối khác như Thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và của nhiều người khác, của bao nhiêu sách báo, truyền đơn bí mật viết bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn tám mươi năm nay”, “là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường”, “là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”, “là một trang vẻ vang trong lịch sử Việt Nam. Nó chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức. Nó mở kỷ nguyên mới dân chủ cộng hòa”.
Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập trở thành mốc son trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam và trở thành động lực to lớn cho cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới vì tự do, độc lập. Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định với thế giới thành quả của cuộc cách mạng dân tộc điển hình trong thế kỷ XX, có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc. 79 năm trôi qua, thời gian càng lùi xa, thì những giá trị cao quý đó vẫn tiếp tục soi đường cho sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam ngày nay.
Giáo sư Aleksandr Sokolovsky, Trưởng Khoa nghiên cứu các nước Nam Á và Đông Nam Á, Trường Đại học Tổng hợp Viễn Đông, Giám đốc Trung tâm văn hóa Việt Nam ở Liên Bang Nga, đã phân tích: “Khi cuộc cách mạng thắng lợi, những từ chính yếu nhất trong bản Tuyên ngôn độc lập chính là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”… Tôi không hình dung điều gì sẽ đến với Việt Nam nếu không có cuộc cách mạng này, thậm chí khái niệm Việt Nam thống nhất cũng sẽ không tồn tại… Có thể nói, cách mạng Tháng Tám đã mở ra một trang sử mới, một kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam”.
Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập là điển hình thắng lợi ở một nước thuộc địa của đế quốc Pháp - Nhật, trong khi lực cách mạng vô sản ở chính quốc Pháp và Nhật chưa giành thắng lợi. Đặt trong bối cảnh thế giới năm 1945, cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập đã cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh; tăng cường lực lượng, mở rộng địa bàn cho cách mạng thế giới; chứng minh học thuyết Mác - Lê-nin có thể áp dụng thành công vào cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, đảng cộng sản ở một nước thuộc địa đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thắng lợi và nắm chính quyền trong cả nước.
Đánh giá về tầm vóc, ảnh hưởng của cuộc cách mạng này đối với phong trào cách mạng thế giới, Thomas Hodgkin đã nhận định: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời 15 năm. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền thuộc địa. Nó đã nổ ra trong một thời điểm lịch sử kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai... Như vậy, cuộc cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kỳ mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”.
Cuộc cách mạng này còn mang ý nghĩa quốc tế hết sức to lớn, vượt tầm ảnh hưởng ra khỏi biên giới quốc gia, khi đã có tác động to lớn đối với cuộc đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa Pháp lúc đó, trong đó có nhiều nước châu Phi. Khi cuộc cách mạng ở Việt Nam thành công, cũng là lúc các nước như: Cameroon, Algeria, Tanzania… đang chuẩn bị những cuộc cách mạng lớn. Nhờ có bài học từ Việt Nam, họ đã có những kinh nghiệm quý trong đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Với nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu và sử gia người Pháp, cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập là những sự kiện đặc biệt ấn tượng. Một trong những học giả nổi tiếng người Pháp - Nhà sử học Alain Ruscio - người đã có rất nhiều tác phẩm biên khảo về lịch sử Việt Nam, đã nhấn mạnh rằng: Việt Nam là dân tộc đầu tiên trong số các dân tộc trên thế giới bị thực dân Pháp đô hộ đã thành công trong cuộc kháng chiến của mình. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào đấu tranh đòi độc lập của các nước thuộc địa trên thế giới lúc bấy giờ, nhất là các nước ở châu Phi. Khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có vai trò quan trọng, là người đầu tiên tuyên bố độc lập của một nước thuộc địa”.Alain Ruscio còn phân tích, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa thực dân vẫn còn tồn tại, khi đó, 1/3 các dân tộc trên thế giới phải sống dưới sự chiếm đóng của thực dân Pháp, Anh và Bồ Đào Nha, trong bối cảnh như vậy, Việt Nam là một tấm gương, là biểu tượng của quá trình đấu tranh giành độc lập; các dân tộc bị đô hộ cần phải lên tiếng.
Tương đồng với quan điểm của các nhà sử học Pháp, nhà sử học Na-uy Stein Tonnesson đã viết: “Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam nằm trong những nguồn cảm hứng chủ yếu về một đường lối đấu tranh lớn khác sau chiến tranh: đó là quá trình phi thực dân hóa. Trong các cuộc cách mạng cộng sản, cuộc cách mạng của người Việt Nam nổi lên như là một trong những cuộc cách mạng có sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất”.
Chương trình giao lưu nghệ thuật "Lời Người để lại" do Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo thực hiện tối ngày 30/8/2024.
GIỮ VỮNG LỜI THỀ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi ngày càng to lớn trong các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Từ một dân tộc bị nô lệ, lầm than, Việt Nam đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (lời thơ Tố Hữu), đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội... Đó là những minh chứng hùng hồn về sức mạnh của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Trải qua gần 40 năm đổi mới toàn diện, phát huy tinh thần cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, “chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Âm hưởng hào hùng của Tuyên ngôn độc lậpnăm 1945 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên đọc trước Quảng trường Ba Đình: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”, vẫn vang vọng núi sông, vẫn tiếp lửa và thôi thúc dân tộc Việt Nam vươn mình trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng, toàn dân ta cần nắm vững thời cơ, tranh thủ và phát huy mọi thuận lợi, tỉnh táo, sáng suốt trong nhận diện và vượt qua nguy cơ, thách thức, phát huy truyền thống vinh quang, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực, tự cường, tự tin, tự tôn dân tộc, kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế, quyết chí phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì mục tiêu “xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”./.