Thứ Hai, 2 tháng 9, 2024

Mỗi người dân Việt Nam luôn trân trọng những giá trị thiêng liêng của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”

79 năm qua kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2024) , mỗi người dân Việt Nam đều thấu hiểu hơn sự khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; đồng thời cũng càng trân trọng hơn những thành quả của sự nghiệp cách mạng và giá trị thiêng liêng của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” mà nhân dân ta đã kiên cường đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để giành được.

Tác phẩm ảnh : Cha con người Mông tại Sủng Là, Hà Giang dựng cờ tổ quốc để đón Tết cổ truyền của tác giả Dương Tiến Dũng (Bắc Giang) đạt giải Nhất ảnh đơn cuộc thi ảnh nghệ thuật “Tự hào một dải biên cương”.

Tác phẩm ảnh : Cha con người Mông tại Sủng Là, Hà Giang dựng cờ tổ quốc để đón Tết cổ truyền của tác giả Dương Tiến Dũng (Bắc Giang) đạt giải Nhất ảnh đơn cuộc thi ảnh nghệ thuật “Tự hào một dải biên cương”.

“ĐỘC LẬP- TỰ DO- HẠNH PHÚC” ĐƯỢC GHI DƯỚI QUỐC HIỆU CỦA NƯỚC VIỆT NAM TỪ 9/10/1945 ĐẾN NGÀY NAY

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” lần đầu tiên xuất hiện trong Sắc lệnh luật số 50 ngày 9/10/1945 (Sắc lệnh luật số 50). Văn bản luật ghi tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” dưới dòng chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” này chính là sự lựa chọn, là sự khẳng định chính thức của một quốc gia có chủ quyền (đã tuyên bố trước thế giới và mọi người dân Việt Nam). 7 thập niên qua, tiêu ngữ này không hề thay đổi dù thể chế chính trị Việt Nam là “dân chủ cộng hòa” khi xưa hay “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” hiện nay, có chăng thì chỉ là sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và quá trình thực hiện “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” cho các tầng lớp nhân dân ngày càng trọn vẹn, đầy đủ hơn mà thôi. Đây mới chính là sự thật, chứ không phải là “ở Việt Nam làm gì có Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” hay “người dân Việt Nam đâu có được Độc lập - Tự do - Hạnh phúc thực sự” như các thế lực thù địch suy diễn, kích động và xuyên tạc.

Thực tế, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người đã được khẳng định tại Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789; đồng thời cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh “suy rộng ra”, phát triển, khẳng định là quyền tự quyết của một dân tộc trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam ngày 2/9/1945. Để có được sự khẳng định đó cũng như để tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” xuất hiện trong Sắc lệnh luật số 50, nhân dân Việt Nam đã phải trải qua một hành trình đấu tranh đầy gian khổ theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) để lật đổ ách thống trị tàn bạo của phát xít Nhật, thực dân Pháp và chế độ phong kiến. Với mỗi người dân Việt Nam đã có hơn 80 năm trời đắm chìm trong đêm trường nô lệ, thì thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Tháng Tám năm 1945 và “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trở thành tiêu ngữ đặt dưới quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” không chỉ thiêng liêng, có ý nghĩa trọng đại, mà còn là sự khẳng định kết quả của sự đồng tâm, đồng chí, đồng lòng, kiên tâm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho nên, dù ai nói ngả, nói nghiêng, bẻ cong sự thật thì tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” vẫn luôn được khẳng định; luôn là đích đến và được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam hết lòng, hết sức bảo vệ 7 thập niên qua chắc chắn không phải là “chỉ để mị dân” như các thế lực thù địch bịa đặt, mà đó chính là sự trân trọng, là biết ơn sự hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước; đồng thời ghi dấu một thành quả lớn lao của hành trình đấu tranh cách mạng hướng đến tương lai tươi sáng theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Hơn nữa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tự do, Hạnh phúc trong một quốc gia độc lập không chỉ là khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là khát khao ngàn đời của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Vì thế, với một đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã không chỉ lãnh đạo nhân dân Việt Nam kiên cường đấu tranh cách mạng để đưa tên nước Việt Nam trở lại bản đồ chính trị thế giới; để tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được khẳng định dưới quốc hiệu của quốc gia Việt Nam, mà Người còn khẳng định: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém” và “chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” để mỗi người dân đều được thụ hưởng giá trị lớn lao của Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.

Thực tế cho thấy là, luôn lấy người dân làm trung tâm của mọi chiến lược phát triển; vì nhân dân phụng sự để nhân dân hiểu được, thấm được, thụ hưởng được giá trị cao quý của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, mọi đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng xuyên suốt trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng như cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng không ngoài mục đích lớn lao đó; cũng chính là nhằm để thực hiện lời căn dặn “đầu tiên là công việc đối với con người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc lịch sử. Đồng thời, minh chứng sinh động nhân dân Việt Nam được thụ hưởng “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự chính là những thành tựu hiển hiện trên thực tế như: Thắng lợi của cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài với những quyết sách đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng để tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, đoàn kết và bỏ phiếu kín đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ngày 6/1/1946 “dân chủ hơn hàng ngàn lần dân chủ tư sản”; soạn thảo và thông qua Hiến pháp năm 1946/bản Hiến pháp “dân chủ, công bình của các giai cấp”; thực hiện bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, cứu đói và thực thi các chính sách để phát triển văn hóa, xã hội; thực hiện chủ trương đối ngoại mềm dẻo để tránh cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù đang đe dọa nền độc lập vừa giành được trong những năm 1945-1946; là những thành tựu của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc (1946-1954) - vừa kháng chiến để bảo vệ nền độc lập dân tộc, vừa kiến quốc để xây dựng đất nước phát triển trong điều kiện có chiến tranh; với thắng lợi của sự nghiệp vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội… Đặc biệt, một Việt Nam ngày càng đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng từ 1986 đến nay đã không chỉ cho thấy “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” luôn là khát vọng, là đích đến của dân tộc trên hành trình xây dựng và phát triển, mà còn là sự khẳng định và làm sâu sắc hơn ý nghĩa lời của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay”.

Thăm khám bệnh cho đồng bào các dân tộc thiểu số _Ảnh: Tư liệu

Thăm khám bệnh cho đồng bào các dân tộc thiểu số _Ảnh: Tư liệu

Sự xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và hành trình đấu tranh cho “6 chữ vàng” đó hiển hiện sinh động qua sự khẳng định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” và “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; qua căn cứ để lựa chọn tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được ghi rõ trong Sắc lệnh luật số 50: “Xét vì bắt đầu từ ngày 2/9/1945 nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập cho toàn thể quốc dân và thế giới biết; Xét vì ngày 24/8/1945, Vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị và giao chính quyền lại cho Chính phủ dân chủ cộng hoà; Xét vì cần nêu cao một kỷ nguyên mới để đánh dấu vào lịch sử nước ta, nhưng độc lập, tự do và hạnh phúc mà chính thể dân chủ cộng hòa mang lại cho dân chúng”; qua Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945): “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” và lời phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (10/1/1946): “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”; qua tinh thần, ý chí “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) và tuyên bố “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước (17/7/1966)… vừa thiêng liêng, vừa có sức mạnh cổ vũ, truyền cảm hứng lớn lao đối với bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Cho nên, nếu cho rằng “thực chất của hạnh phúc” chính là việc con người phải được thụ hưởng quyền con người đúng nghĩa theo Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948 thì đúng là hạnh phúc thực sự đã được thực hiện ở Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo. Càng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dù phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách, thì mỗi người dân Việt Nam yêu nước càng thấy rõ hơn, sâu sắc hơn ý nghĩa thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và giá trị của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chương trình kinh tế - xã hội lớn nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng thụ hưởng các quyền con người của nhân dân. Ảnh: Tư liệu

Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chương trình kinh tế - xã hội lớn nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng thụ hưởng các quyền con người của nhân dân. Ảnh: Tư liệu

KIÊN ĐỊNH MỘT NƯỚC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA “ĐỘC LẬP- TỰ DO - HẠNH PHÚC”

Nhận thức sâu sắc rằng Tự do là “quyền của con người” và người dân chỉ có được Tự do, Hạnh phúc trong một quốc gia độc lập, thống nhất, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã kiên trì vượt mọi khó khăn, thách thức để chiến đấu và chiến thắng; đã không chỉ làm nên một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công (1930-1945) mà còn giành thắng lợi trong hành trình đấu tranh cho một Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, non sông liền một dải (1945-1975). Vì thế, kiên định, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng (từ 1986 đến nay) với một đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam để không chỉ xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước đi đến phồn vinh, mà còn nỗ lực thực thi trong từng quyết sách để đảm bảo mỗi người dân Việt Nam đều được sống trong “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự.

Hơn nữa, vì “tự do là sản phẩm tất yếu của sự phát triển lịch sử” nên Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ tại Điều 3: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”, song cũng hiến định rõ rằng “2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” tại Điều 15. Đồng thời, Điều 14 cũng ghi rõ: “2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Sự giới hạn này tùy thuộc điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, nhưng phải tuân theo nguyên tắc giới hạn quyền con người tại Điều 29: “1) Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ. 2) Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn” của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948. Cho nên, các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch cần phải hiểu rằng, ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo đảm; trong đó có các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,v.v.. thì “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự của mỗi người dân không phải là “tự do không giới hạn” như chiêu trò kích động, xuyên tạc, mà chính là đời sống vật chất và tinh thần ngày mỗi ngày được nâng cao hơn; quyền con người, quyền công dân ngày càng được đảm bảo hơn bởi đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và chính sách, pháp luật ngày càng hoàn thiện của Nhà nước.


Với một hệ thống pháp luật ngày càng được bổ sung, hoàn thiện góp phần đảm bảo, thực thi, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân (từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013; với các luật, bộ luật như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016; Luật Báo chí 2016; Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Bộ luật Lao động 2019; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019; Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022…) và với việc đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người (Công ước về các quyền dân sự và chính trị 1966; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966; Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc 1969; Công ước về quyền trẻ em 1989; Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người…) cùng sự nỗ lực thực hiện được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, có thể khẳng định rằng: Ở Việt Nam, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự đã hiện hữu, cho nên luận điệu Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thực hiện đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị thì người dân không có được “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” đúng nghĩa và quyền dân chủ, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận “chỉ có ở trên giấy” chỉ là sự suy diễn, xuyên tạc của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch luôn âm mưu chống phá Đảng và chế độ.

Đặc biệt, mới đây, từ 21-24/8/2024 tại Hà Nội, gần 600 đại biểu đã tham dự “Hội nghị người Việt Nam toàn thế giới lần thứ 4” và “Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024”, với chủ đề “Người Việt Nam ở nước ngoài chung tay hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước”. Đây chính là một diễn đàn, một không gian mở để kiều bào gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ ý tưởng và đóng góp vào quá trình phát triển đất nước. Đồng thời, đó cũng là một minh chứng khẳng định Việt Nam đang tiếp tục triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Chỉ thị 45/CT-TW năm 2015 tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới… để thúc đẩy hơn nữa công tác chăm lo, hỗ trợ kiều bào, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, việc Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn trân trọng từng ý kiến tâm huyết, đóng góp của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đội ngũ trí thức, bà con kiều bào để kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” là sự thật không thể phủ nhận/không thể bẻ cong. Và cũng vì thế, nếu một ai đó, một nhóm người nào đó nhân danh quyền tự do ngôn luận, quyền con người để tiến hành các hoạt động tung tin xấu độc, tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ bằng những luận điệu xảo trá… thì chính là vi phạm pháp luật theo Điều 117, 331 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và kêu gọi tụ tập biểu tình, kích động biểu tình trái phép gây rối trật tự, phá hoại an ninh quốc gia… thì chính là vi phạm Điều 118, 318 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đến dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đến dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4

Cuối cùng, phải khẳng định rằng, trước một đất nước Việt Nam ngày càng phát triển bền vững, hòa hiếu và rộng mở luôn là điểm đến, là sự lựa chọn của các nhà đầu tư nước ngoài, của du khách quốc tế bởi chính trị ổn định, môi trường hòa bình, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ,v.v.., với chỉ số hạnh phúc năm sau luôn được xếp cao hơn năm trước: “Năm 2024, Việt Nam đứng thứ 54 trong tổng số 143 quốc gia/vùng lãnh thổ được khảo sát/tăng 11 bậc so với xếp hạng năm 2023. Xét ở khu vực châu Á thì Việt Nam đứng vị trí thứ 6/sau Sinagpore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines … thì mọi luận điệu phản động, xuyên tạc sự thật cho rằng ở Việt Nam - người dân không có quyền con người/không được thực sự thụ hưởng giá trị của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” chỉ là chiêu trò "diễn biến hòa bình" của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch./.

ST.

Độc lập và đoàn kết

Ngày 2-9-1945, từ Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), "trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

79 mùa thu qua, lời tuyên bố đanh thép ấy đã nhận được sự đồng lòng, ủng hộ rộng rãi từ nhân dân trong nước cho tới bạn bè, lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Trong thời chiến, đó là nguồn sức mạnh to lớn làm nên những chiến thắng vang dội của quân và dân Việt Nam nhằm bảo vệ nền độc lập, tự do cho đất nước, thống nhất non sông, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong thời bình, đó là kim chỉ nam cho các cuộc đấu tranh chống mọi mưu đồ phá hoại, giữ vững thành quả cách mạng, đưa đất nước không ngừng phát triển, có cơ đồ, tiềm lực, uy tín, vị thế quốc tế ngày càng lớn. 

Trên hành trình đấu tranh giành và giữ tự do, độc lập, Việt Nam luôn nhận được sự đoàn kết, tương trợ vô cùng quý báu của bạn bè quốc tế. Sự đoàn kết, tương trợ ấy góp phần quan trọng vào mọi thành công của Việt Nam. Do vậy, Việt Nam luôn thấm thía bài học: Độc lập nhưng không để bị cô lập, đơn độc, độc lập nhưng phải giữ vững và ngày càng mở rộng quan hệ bạn bè, đối tác trong cộng đồng quốc tế để cùng nhau đoàn kết xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác, ổn định và phát triển.

Độc lập và đoàn kết
 Ảnh minh họa: qdnd.vn

Bởi vậy, cho đến nay, Việt Nam vẫn kiên định thực hiện đường lối đối ngoại "độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại", "là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế". Về chính trị-xã hội, Việt Nam nhất quán chủ trương tôn trọng quyền tự quyết dân tộc; kiên quyết phản đối và chống lại mọi sự can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Về kinh tế, Việt Nam thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế để tranh thủ mọi thời cơ phát triển kinh tế đất nước, tăng cường sức mạnh nội tại của nền kinh tế, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Về văn hóa, Việt Nam luôn nêu cao tinh thần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, "hòa nhập nhưng không hòa tan". Về quân sự, Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “4 không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đường lối, chính sách của Việt Nam trên tất cả trụ cột quan trọng ấy đều thể hiện rõ quyết tâm xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, tự chủ trên nền tảng đại đoàn kết toàn dân tộc và trong mối quan hệ đoàn kết với tất cả các nước bạn bè, đối tác trên thế giới.

Ngày nay, bối cảnh và tình hình quốc tế ngày càng biến đổi nhanh chóng, khó lường. Các mối đe dọa về độc lập, tự do, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ không chỉ tồn tại ở các lĩnh vực truyền thống mà còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực phi truyền thống, trong đó có không gian mạng, công nghệ vệ tinh... Do vậy, việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cũng ngày càng nặng nề hơn. Ở giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng; bảo đảm quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên.

Các nhiệm vụ này có mối quan hệ tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ và đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đến năm 2030, 2045 của đất nước mà Đảng ta đã nêu ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu ấy đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải tiếp tục phát huy tinh thần "không có gì quý hơn độc lập, tự do", "tất cả vì hạnh phúc của nhân dân"; nêu cao hơn nữa tinh thần đoàn kết trong nước và quốc tế, khơi dậy mạnh mẽ mọi nguồn lực; thổi bùng khát vọng chấn hưng văn hóa dân tộc, khát vọng phát triển, khát vọng cống hiến. Cùng với đó, chúng ta cần đẩy mạnh thực hiện và hoàn thành 3 đột phá chiến lược: Hoàn thiện đồng bộ thể chế; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Từ đó cộng hưởng thành sức mạnh tổng hợp to lớn hơn.

Đặc biệt, chúng ta cần đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện tiêu cực, làm việc cầm chừng, không dám nghĩ, không dám làm, ngại đổi mới, sợ trách nhiệm, kích động hận thù, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và gây chia rẽ Việt Nam với bạn bè, đối tác quốc tế, tạo ra các rào cản trong việc thực hiện những mục tiêu chung. Qua đó, khơi thông mọi điểm nghẽn cản trở sự phát triển.

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, toàn quân ta cần ra sức học tập, rèn luyện, công tác, thực hiện tốt các chức trách, nhiệm vụ, tích cực góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Trong đó, Quân đội ta cần thực hiện hiệu quả chủ trương kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế nhằm góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi hai mục tiêu chiến lược và các mục tiêu cụ thể mà Đảng đã đặt ra.

Nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề, trong đó có nhiều nhiệm vụ mới và khó. Tuy nhiên, với những truyền thống tốt đẹp của nhân dân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Quân đội nhân dân Việt Nam, tin rằng chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, 2045 mà Đảng đã đề ra. Khi đó, chúng ta sẽ có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để gia tăng tiềm lực về mọi mặt, qua đó càng củng cố vững chắc, "giữ vững nền tự do, độc lập" như lời Bác vang vọng non sông suốt 79 mùa thu qua!

ST.

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.

Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.

Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh
 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, ngày 2-9-1945. Ảnh tư liệu

Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.

2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...  

3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.

 Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).

Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.

Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.

Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.

Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam./.

ST.

NỐI TIẾP KỲ TÍCH CỦA NGÀNH ĐIỆN VIỆT NAM

* Dự án đường dây 500kV mạch 3 với khối lượng công việc khổng lồ đã về đích. Đây được xem là một kỳ tích của ngành điện, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, tư duy dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

  Sự nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, hoàn thành công trình đúng tiến độ, yêu cầu cũng là niềm vinh dự, tự hào, là hành động thiết thực chào mừng kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 và chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành điện lực Việt Nam (21-12-1954 / 21-12-2024).

St

TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN MỚI VỚI TINH THẦN ĐỘC LẬP, KHÁT VỌNG TỰ CƯỜNG

Hôm nay là ngày vẻ vang, là ngày Độc lập! 79 năm trước, cả dân tộc ta đã đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, đánh đổ ách xiềng xích của cả đế quốc, thực dân, phong kiến. Từ thời khắc Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc Bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2/9/1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đất nước Việt Nam đã có tên trên bản đồ thế giới, người dân Việt Nam ngẩng cao đầu tự hào là con dân một nước tự do, độc lập.

Từ mùa Thu ấy, trong tiềm thức người dân, ngoài cái Tết đón Xuân cổ truyền, còn có thêm ngày Tết Độc lập. Trong nhiều gia đình không câu nệ khác biệt bắc nam, phong tục, miền xuôi hay ngược, bên cạnh bàn thờ gia tiên mà còn có bàn thờ Tổ quốc với cờ đỏ sao vàng và ảnh Bác Hồ. Nước với Nhà, hai từ ấy đã quyện hòa làm một! Thù nhà, nợ nước, từ đó đã trộn hòa trong bổn phận và trách nhiệm công dân dâng hiến vì lẽ sống cao cả như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Hàng triệu người, từ ấy đã lên đường, đem xương máu mà trả nợ nước non, bảo vệ những giá trị của nền cộng hòa non trẻ, chiến đấu hy sinh dựng xây một nước Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bước ngoặt vĩ đại đó là thành quả của ý chí đấu tranh suốt nghìn năm của một dân tộc kiên cường chống xâm lược, đô hộ, đồng hóa, bóc lột của chủ nghĩa phong kiến, thực dân, đế quốc. Bước ngoặt vĩ đại đó ghi dấu vai trò lãnh đạo của một chính đảng Mác-Lênin chân chính ra đời từ tận cùng sẻ chia nỗi khổ đau của đời sống cần lao; trưởng thành từ đúc rút lý luận và tổng kết thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nghèo nàn lạc hậu; tồn tại nhờ sự gắn bó máu thịt với nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ, vì nhân dân mà xác lập được chính danh và uy tín của mình.

Bài học đầu tiên và là mãi mãi - rút ra từ bao thất bại của các phong trào yêu nước, xu hướng chính trị ở Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20; từ thất bại, đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới trong thế kỷ 20 - chính là bài học về đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp thực tiễn và lòng dân; về xây dựng đảng tiên phong của giai cấp và của dân tộc, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị.

Với phương châm “Dân là gốc” của cha ông, từ quá khứ hưng vong qua bao triều đại, càng thấm thía sức mạnh nhân dân trong những tháng năm chiến tranh, sáng tạo chung lưng vượt qua khủng hoảng kinh tế thời bao cấp, hậu chiến, để Đại hội lần thứ VI của Đảng kêu gọi “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, dũng cảm từ bỏ những giáo điều, trì trệ; tuân thủ quy luật khách quan mà xác quyết con đường Đổi mới.

Mỗi chặng đường đi, mỗi thành công và thất bại, sau những kỳ tích trong kháng chiến, kiến quốc, hội nhập quốc tế mà thế giới ngưỡng mộ, là kết tinh trí tuệ, mồ hôi, nước mắt và máu của bao thế hệ.

Đó còn là kết tinh của quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về đường lối song hành xây dựng và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; về tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trong hành trình ấy, không phải không có những khúc gian nan, khủng hoảng, “quanh co”; không phải không có những cọ xát, tranh luận, đấu tranh tư tưởng trong nội bộ; không phải không có những lúc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm, trả giá và sửa chữa.

Đã có lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh lau nước mắt khi nói về những sai lầm trong Cải cách ruộng đất; đã có lúc Báo cáo chính trị trình Đại hội VI phải viết lại căn bản vì xa rời thực tiễn, chưa thể hiện đúng, rõ tinh thần Đổi mới; đã có lúc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nghẹn ngào trước Hội nghị Trung ương vì những khuyết điểm của Đảng trong công tác cán bộ, trong chỉ đạo điều hành, để rồi vững bước, kiên trì cùng toàn Đảng thực hiện cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa từng có.

Từ “Tự chỉ trích” (1939) cho đến “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969), từ Di chúc, phần nói về Đảng (1969) cho đến Nghị quyết Trung ương 4 các khóa XI, XII; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong nỗ lực chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, cam kết phòng chống tham nhũng, tiêu cực quyết liệt của Đảng với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “xử lý một vụ cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”, “xử lý một người để cứu muôn người” là thông điệp xuyên suốt, nhất quán, bám sát thực tiễn, được cán bộ, đảng viên, nhân dân và bạn bè quốc tế ủng hộ, tin tưởng.

Từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến tháng 8/2024; đã có 18 ủy viên Trung ương Đảng bị thôi các chức vụ, trong đó có 7 ủy viên Bộ Chính trị, 1 ủy viên Ban Bí thư; có 8 ủy viên Trung ương Đảng bị xử lý hình sự. Chỉ 6 tháng đầu năm 2024, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ đã kỷ luật 165 tổ chức đảng và 7.858 đảng viên vi phạm, sai phạm. Đó là niềm tin từ kỷ luật nghiêm minh, nhưng những con số cũng đặt những câu hỏi lớn về công tác cán bộ, nguồn lực cán bộ, cần lý luận và thực tiễn tiếp tục soi rọi, trả lời.

Cuộc chiến đó là không ngừng không nghỉ, bởi giặc nội xâm đe dọa tồn vong của Đảng, của chế độ, của sự nghiệp cách mạng; là nguy cơ “tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ” (Bình Ngô đại cáo). Hơn lúc nào hết, ở những thời điểm sống còn, quyết định vận mệnh dân tộc, để vuột qua hay chớp được thời cơ phát triển sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi chúng ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu, nhưng uyển chuyển, linh hoạt ở giải pháp, bước đi, ở những chặng đường cụ thể, hoàn cảnh cụ thể, nằm lòng phương châm lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý.

Thực tiễn đó, không gì khác là sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân; sự giàu mạnh, cường thịnh của đất nước. Thực tiễn đó không gì khác là lợi ích quốc gia, dân tộc trên hết; uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, được cộng đồng quốc tế tôn trọng; là một xã hội ổn định, phát triển, văn minh. Thực tiễn đó là công cuộc đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà trong đó, con người và quyền con người được thừa nhận, tôn vinh, bảo vệ.

Trong cuộc gặp mặt lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước mới đây, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh: “Chưa bao giờ đất nước hội nhập sâu rộng, có đóng góp tích cực vào nền chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu và văn minh nhân loại như hiện nay, tuy nhiên, chúng ta không mất cảnh giác với 4 nguy cơ đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng mà các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã thống nhất nhận định từ năm 1994 đến nay; thậm chí xác định có mặt diễn biến phức tạp hơn khi đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng…, đòi hỏi chúng ta phải xử lý hài hòa quan hệ đối ngoại với các nước lớn, giảm thiểu sức ép chọn bên, trừng phạt kinh tế trong bối cảnh nền kinh tế có độ mở rất cao”.

Đón mừng Quốc khánh năm nay, nhớ lại Quốc khánh độc lập đầu tiên của dân tộc ta để thấy bước chuyển dài của lịch sử. Từ Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 tới Tạm ước 14/9/1946; từ Hội nghị Đà Lạt tới Hội nghị Fontainebleau; từ Hội nghị Geneva tới Hội nghị Paris; từ đàm phán vào Liên hợp quốc và gia nhập ASEAN; từ đàm phán gia nhập WTO tới ký kết hàng loạt các FTA thế hệ mới với các đối tác quan trọng trên thế giới,... công tác đối ngoại, ngoại giao, đã chứng tỏ sự trưởng thành, phát triển; đường lối đúng đắn và bản lĩnh trí tuệ Việt Nam.

Nhưng bên cạnh đó, lịch sử cũng nhắc nhở thấm thía bài học về Thế và Lực, về nội lực và ngoại lực, vị thế quốc gia từ đường lối đối ngoại, thực lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng an ninh. Thấy rõ cả khi nào, vì sao, nhờ đâu mà vị thế quốc gia mới trở nên mạnh mẽ.

Từ lúc thế nước mong manh trước thù trong giặc ngoài; rồi bị bao vây, cấm vận, cô lập, đến nay, Việt Nam với vị thế uy tín quốc tế cao, là bạn bè thủy chung, chân thành, đối tác tin cậy, thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã có quan hệ ngoại giao với 193 nước, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với tất cả 5 nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, với 6 trong số 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7).

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2025 đạt GDP bình quân đầu người ước khoảng 4.700-5.000 USD/năm. Tăng trưởng GDP cả nước, trong 6 tháng đầu năm 2024 đã đạt 6,42%. Số liệu tháng 6/2024 của tổ chức xếp hạng tín nhiệm của Mỹ S&P Global Ratings xếp hạng Việt Nam ở mức BB+/B với triển vọng ổn định và dự báo cuối 2024 có thể đạt GDP bình quân đầu người 4.500 USD/năm.

Thực tiễn cho thấy, những chính sách linh hoạt trong điều hành kinh tế vĩ mô, nhất là kiểm soát lạm phát, điều hành lãi suất, tỷ giá, cơ cấu lại, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là đột phá về xây dựng và hoàn thiện thể chế - là những gì mà người dân, cộng đồng doanh nghiệp mong mỏi.

Riêng lĩnh vực phòng chống tham nhũng, tiêu cực, qua tổng rà soát, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã phát hiện hơn 300 nội dung có mâu thuẫn, chồng chéo, vướng mắc, bất cập trong hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật cần khắc phục. Thực tiễn tiếp tục đòi hỏi đưa Luật Đất đai 2024 đi nhanh vào cuộc sống và Chính phủ đang ưu tiên tập trung xây dựng mới 1 luật, sửa đổi 7 luật thuộc lĩnh vực tài chính… phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội.

Hướng tới những dấu mốc: 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới với những bài học quý báu và thành tựu vĩ đại…, tinh thần của ngày Độc lập phải được hiện thực hóa từ mỗi việc hằng ngày.

Phương châm “tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc” phải trở thành sức mạnh vật chất trong hành trình đi tới. Đại đoàn kết toàn dân tộc, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng kết quả đạt được, chỉ rõ hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân, loại bỏ những điểm nghẽn, nút thắt phát triển, phải là bản chất của nhận thức và hành động.

Công cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng, phòng chống tham nhũng, tiêu cực quyết liệt - không phải là tạo ra sự nhụt chí, sự thúc thủ, trì trệ - mà là sự nghiệp lớn lao phải tiếp tục đẩy mạnh, dù khó khăn, gian khổ, để làm trong sạch bộ máy, lành mạnh môi trường đầu tư, củng cố niềm tin trong nhân dân; là động lực giải phóng sức sản xuất, cổ vũ đổi mới sáng tạo, phát hiện, vun đắp bảo vệ, tôn vinh những mầm, những nụ, cái tốt, cái tiên tiến, khẳng định những giá trị đã được thử thách, trui rèn qua thực tiễn.

Tinh thần ngày Quốc khánh bất diệt, cổ vũ, mở đường cho chúng ta đi tới kỷ nguyên mới vươn mình phát triển của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam, văn hóa Việt Nam!

St

Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2024

Truyền thông Nga đưa tin tích cực về cuộc chiến chống tham nhũng của Việt Nam

 Theo phóng viên TTXVN tại LB Nga, ngày 30/8, tạp chí của Trung tâm Dự báo địa chính trị, có địa chỉ trang web geofor.ru, đã đăng tải bài viết của tác giả Anton Bredikhin, chuyên gia cao cấp của Viện Trung Quốc và châu Á đương đại, đánh giá về cuộc chiến chống tham nhũng và những điều chỉnh nhân sự cấp cao ở Việt Nam.

 Bài viết đăng tải trên Tạp chí Khoa học của Trung tâm Dự báo địa chính trị. Ảnh: TTXVN phát

Bài viết trên geofor.ru có nhan đề “Việt Nam: Cuộc chiến chống tham nhũng và tính trung lập” nhấn mạnh cuộc chiến chống tham nhũng quy mô lớn ở Việt Nam, không những không gây mất ổn định tình hình chính trị trong nước, mà ngược lại, nhờ những hành động kiên quyết chống tham nhũng, lãnh đạo Việt Nam đã khẳng định đường lối xây dựng bộ máy chính quyền đủ năng lực, vững mạnh và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng tới xây dựng một môi trường kinh tế minh bạch, lành mạnh. Để thực hiện đường lối đó, Việt Nam đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo nhân sự có trình độ cao, đi đôi với việc kiểm tra, giám sát toàn diện.

Trong lĩnh vực kinh tế, tác giả Bredikhin khẳng định chính cuộc chiến chống tham nhũng tích cực và kiên quyết đã góp phần mang tới một nền kinh tế phát triển tích cực trong khu vực. Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và chi phí lao động tương đối thấp so với mức tiêu chuẩn của khu vực, Việt Nam thu hút ngày càng nhiều đầu tư nước ngoài mỗi năm. Trong 6 tháng đầu năm nay, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam tăng 6,42%, chỉ đứng sau mức tăng 6,58% của 6 tháng đầu năm 2022 trong cả giai đoạn 2020-2024. Trong đó, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,38%, đóng góp 5,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,51%, đóng góp 44,28%; khu vực dịch vụ tăng 6,64%, đóng góp 49,76%.

Trong định hướng phát triển nền kinh tế, năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã công bố chiến lược chuyển đổi kỹ thuật số quốc gia, nhằm mục đích tăng tỷ trọng của nền kinh tế kỹ thuật số từ 14% lên 20% vào năm 2025. Để đạt được mục tiêu này, các cơ quan chức năng đang nỗ lực tạo ra cơ sở hạ tầng phù hợp và đảm bảo an ninh mạng, cũng như xây dựng các cơ chế quản lý pháp lý và đào tạo nhân sự có trình độ. Hệ sinh thái công nghệ của Việt Nam đã có sự tăng trưởng theo cấp số nhân, biến đất nước thành một trung tâm năng động về đổi mới và phát triển phần mềm. Điển hình, lĩnh vực công nghệ tài chính ở Việt Nam đang phát triển do mức độ ứng dụng thông tin di động cao và việc áp dụng thanh toán kỹ thuật số ngày càng tăng. Lĩnh vực này dự kiến sẽ đạt giá trị 7,8 tỷ USD vào năm 2025 và sẽ tăng trưởng với tốc độ trung bình năm trên 30% trong khoảng thời gian từ năm 2020 đến năm 2025, mang đến cơ hội đáng kể cho các nhà đầu tư.

Trong bối cảnh như vậy, ngày 3/8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII đã bầu đồng chí Tô Lâm, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi phát biểu về những ưu tiên trên cương vị mới, Tân Tổng Bí thư Việt Nam nhấn mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ được thực hiện theo phương châm “không ngừng nghỉ, không có vùng cấm”. Quan điểm này mang đến sự kỳ vọng giúp môi trường đầu tư ở Việt Nam sẽ ngày càng minh bạch, lành mạnh và dễ dự đoán, mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư quốc tế, trong đó có nhà đầu tư Nga.

Liên quan đến quan hệ giữa LB Nga và Việt Nam, tác giả đánh giá cao chính sách nhất quán của Hà Nội là coi trọng và phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Moskva. Bài viết cũng trích dẫn đánh giá của một số chuyên gia Việt Nam học tại Nga cho biết việc đồng chí Tô Lâm được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của đất nước cũng như phát triển quan hệ giữa hai nước.

NGÀY QUỐC KHÁNH 2/9: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

 Nhân dịp Ngày Quốc khánh Việt Nam 2/9, trân trọng giới thiệu bài viết "Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945" của TS.Vũ Ngọc Am đăng trên báo điện tử Đảng Cộng sản:

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản ”Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử do chính Người chuẩn bị, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Thời gian đã qua đi hơn 2/3 thế kỷ, nhiều chi tiết nội dung trong Tuyên ngôn đã được nghiên cứu, làm sáng tỏ trên nhiều lĩnh vực. Chúng ta càng thấy rõ những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến lược của Người thể hiện trong Tuyên ngôn.

Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới.

Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển.

Nội dung của Tuyên ngôn Độc lập đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu, làm rõ, nhưng hiện vẫn còn những luận điệu xuyên tạc, đặt câu hỏi với dụng ý xấu: Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng những câu trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp?

Điều này cần phải hiểu và lý giải rõ.

Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã tôn vinh, Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà Cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã giành được. Đây là những thành quả văn hoá của nhân loại, là dấu mốc lớn của lịch sử loài người, trong đó đã khẳng đinh những quyền cơ bản của con người. Đó là "quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” … “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”… Đây là những tư tưởng rất tiến bộ đã được khẳng định trong hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp. Dẫn dắt từ sự kiện này để Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến kết luận nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế đối với cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam.

Hai là, trên nền tảng và tiền đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chính cuộc cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi tiếp trong sự phát triển của nhân loại, đồng thời cũng là cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đó là mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhỏ yếu thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã gương cao.

Ba là, đi sâu nghiên cứu hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy cả hai bản Tuyên ngôn đã đề cao và khẳng định quyền con người: “Mọi người đều sinh ra bình đẳng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư tưởng lớn, một luận điểm quan trọng thể hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trình bày trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một nội dung rất căn bản, có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với thời đại. Từ đó tới nay, các nước trên thế giới đã và đang liên tục đấu tranh để giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình.

Như vậy, có thể thấy, với vốn tiếng Anh cùng với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người và trên thực tế, tinh thần ấy đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay.

Đó chính là sự đóng góp về lý luận và thực tiễn về quyền con người, đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân loại.

Hơn 70 năm đã trôi qua, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời thề thiêng liêng trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Với tinh thần đó mà cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong suốt hơn 70 năm qua. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức.

Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng với quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập ,chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Không thể xuyên tạc chủ trương thành lập Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh

Việc thành lập Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh (QPAN) là chủ trương đúng đắn nhằm hỗ trợ ngân sách nhà nước phục vụ cho phát triển công nghiệp QPAN để chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Song, trên một vài trang mạng xã hội vẫn có thông tin cố tình xuyên tạc, bóp méo chủ trương này với âm mưu phá vỡ sự đồng thuận xã hội, gây mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, Quân đội hòng phục vụ mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động.

Theo quy định của Luật Công nghiệp QPAN và động viên công nghiệp (ĐVCN), Quỹ Công nghiệp QPAN là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, được thành lập ở Trung ương, do Chính phủ quản lý để hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách, có tính mới, rủi ro cao hoặc nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt.

Tuy nhiên, sau khi Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN được Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV thông qua thì trên một vài trang mạng xã hội đã xuất hiện luận điệu xuyên tạc, quy chụp, như: "Bộ Quốc phòng muốn lập Quỹ Công nghiệp QPAN để chiếm đoạt ngân sách quốc gia”; "quỹ này là hình thức lách luật để bòn rút ngân sách lâu dài, có tính toán của phía Quân đội”... Các đối tượng phản động cố tình bóp méo mục đích, cơ chế hoạt động của Quỹ Công nghiệp QPAN với luận điệu: “Sản phẩm "mật" có tính rủi ro cao, chẳng khác nào những sản phẩm không bảo đảm chất lượng nhưng vẫn phải bảo mật thông tin, nghĩa là quỹ này sẽ chế tạo ra sản phẩm "mật", người dân không được biết thông tin, và nếu sản phẩm không có chất lượng thì đó là rủi ro, người dân không được lên tiếng ý kiến”...

Không thể xuyên tạc chủ trương thành lập Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh
Không thể xuyên tạc chủ trương thành lập Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh.

Trước hết, cần khẳng định rõ, việc chuẩn bị Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN (trong đó có quy định thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN) được tiến hành rất kỹ lưỡng, trong suốt thời gian dài, bảo đảm sự bài bản, cẩn trọng, phát huy dân chủ trên cơ sở cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với các bộ luật có liên quan và tình hình thực tiễn đất nước.

Từ đầu năm 2022, Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo đã xác định: Công nghiệp quốc phòng là ngành đặc thù, phải được chăm lo, xây dựng và phát triển theo một cơ chế đặc thù, được ưu tiên trong đầu tư, phát triển và coi trọng phát triển nguồn lực khoa học, công nghệ, huy động tối đa thành tựu của nền công nghiệp quốc gia phục vụ công nghiệp quốc phòng.

Cuối tháng 3-2024, trong Chương trình Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ năm, Quốc hội khóa XV, khi thảo luận về dự thảo Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN, đại đa số các đại biểu tán thành việc thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN nhằm hỗ trợ ngân sách nhà nước phục vụ cho phát triển công nghiệp QPAN; coi đây là giải pháp, cơ chế đặc thù, vượt trội, có ý nghĩa chiến lược, nhất là trong triển khai các chương trình, dự án đầu tư có tính cấp bách, nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt, có tính rủi ro cao.

Tiếp đó, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV (tháng 5-2024), khi thảo luận về dự thảo Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN, một lần nữa, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội khẳng định, thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN là rất cần thiết để bảo đảm yêu cầu xây dựng nền công nghiệp QPAN chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại.

Thực tế những năm qua cho thấy, công nghiệp QPAN là lĩnh vực có tính đặc thù cao; trực tiếp liên quan đến khả năng tác chiến, sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Để đáp ứng yêu cầu tăng cường tiềm lực QPAN, bảo vệ Tổ quốc, cần có các cơ chế để huy động nguồn lực cho phát triển công nghiệp QPAN, nhất là các nhiệm vụ cấp bách hoặc nghiên cứu, chế tạo các sản phẩm mới, công nghệ cao, có tính rủi ro lớn. Trong khi đó, nguồn ngân sách QPAN của chúng ta thời gian qua chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm, nâng cấp vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ. Việc bố trí ngân sách cho hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm chưa được thường xuyên, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), để tiếp cận nhanh với nền khoa học, công nghệ tiên tiến trên thế giới, tiệm cận với các nước có nền công nghiệp QPAN phát triển, việc thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN sẽ giúp giảm “gánh nặng” cho ngân sách nhà nước, tăng tính chủ động, linh hoạt trong bố trí nguồn lực, để các chuyên gia, nhà khoa học tập trung nghiên cứu phát triển, sản xuất sản phẩm mới, công nghệ cao phục vụ nền công nghiệp QPAN, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt, tại phiên thảo luận ngày 30-5-2024 của Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã chia sẻ: Nếu chúng ta sử dụng ngân sách theo quy trình của sử dụng ngân sách nhà nước thì có những trường hợp không đáp ứng được tính thời sự của nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và độ bảo mật cũng hạn chế hơn rất nhiều. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, các quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng phát triển đều xây dựng các quỹ tài chính phục vụ cho lĩnh vực công nghiệp quốc phòng với nhiều tên gọi, hình thức khác nhau.

Mặt khác, Điều 22 Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN đã quy định rõ việc Chính phủ thành lập, quản lý, sử dụng Quỹ Công nghiệp QPAN. Đồng thời, các nội dung về nguồn hình thành quỹ này được Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN quy định rất cụ thể, rõ ràng và có tính khả thi, nhất là khoản trích lập từ lợi nhuận sau thuế theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 21; nguồn đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước; nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ Công nghiệp QPAN cũng được quy định rõ: Không vì mục đích lợi nhuận; quản lý, sử dụng đúng mục đích, đúng pháp luật, kịp thời, hiệu quả; hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách, có tính mới, rủi ro cao hoặc nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt. Đây chính là cơ sở pháp lý bảo đảm việc huy động, sử dụng Quỹ Công nghiệp QPAN được thực hiện đúng mục đích, công khai, minh bạch. Hoàn toàn không có cái gọi là “người dân không được lên tiếng ý kiến” như các thế lực thù địch đang cố tình xuyên tạc, bóp méo.

Như vậy, có thể thấy, việc thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN là rất cần thiết nhằm hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách hoặc nghiên cứu phát triển sản phẩm QPAN. Quỹ này chính là nguồn lực quan trọng để đẩy mạnh xây dựng nền công nghiệp QPAN chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đã được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy./.

ST.