Thứ Ba, 17 tháng 9, 2024

NHẬN DIỆN LUẬN ĐIỆU CỦA THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ CÁI GỌI LÀ “ĐẢNG VIÊN QUÁ ĐỘ”!

         Trước tình trạng không ít đảng viên, tổ chức đảng đã “nhúng tràm” đến mức phải xử lý, các học giả tư sản, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị ngụy biện rằng “Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) thì tiêu chuẩn người đảng viên cũng cần có tính quá độ”. Đây là luận điệu sai trái về góc độ lý luận và phản động về góc độ thực tiễn, cần được nhìn nhận đúng dưới góc nhìn khoa học, biện chứng!

Thực chất của luận điệu “đảng viên quá độ”
Lý luận về thời kỳ quá độ là thành tựu cơ bản, rất quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta. Từ quan điểm khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của thời kỳ quá độ trước đây: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”[1], các học giả tư sản, thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị hiện nay viện cớ vào đó đã tung ra luận điệu “Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì người đảng viên cũng cần có tính quá độ”! Vậy thực chất của luận điệu này là gì? Tính nguy hại của nó ra sao?

Thực chất của luận điệu “đảng viên quá độ” là hạ thấp tiêu chuẩn của người đảng viên, thừa nhận sự suy thoái về phẩm chất, chính trị, đạo đức, lối sống và coi tệ tham nhũng, tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên là tất yếu; từ đó, xuyên tạc bản chất tốt đẹp, tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên, làm cho Đảng ta không còn “là đạo đức, là văn minh”, tiến tới phủ nhận vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng. Luận điệu về cái gọi là “đảng viên quá độ” có thể nhận diện trên các mặt như sau:
Một là, sự quá độ về chính trị của người đảng viên. Theo đó, đảng viên có ý thức chính trị kém, không kiên định đối với con đường phát triển của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc và CNXH; thừa nhận khả năng quay trở lại con đường TBCN, phủ nhận tính tất yếu, đặc điểm, nội dung, tính chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; thừa nhận sự tồn tại kiến trúc thượng tầng TBCN và sự bóc lột theo phương thức cũ của CNTB ở Việt Nam là tất yếu; chấp nhận “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.

Hai là, sự quá độ về tư tưởng của người đảng viên. Là sự đầu hàng trước hệ tư tưởng tư sản, thậm chí là tàn dư của hệ tư tưởng phong kiến; phủ nhận hệ tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cổ xúy cho cái gọi là “tự do tư tưởng” vô hạn độ, phủ nhận tính giai cấp của nền tảng tư tưởng của Đảng ta; chấp nhận sự tồn tại của nhiều hệ tư tưởng khác nhau trong Đảng.

Ba là, sự quá độ về năng lực đảng viên. Là sự chấp nhận hạ thấp tiêu chuẩn trở thành đảng viên, chấp nhận thu nạp các quần chúng không phải là những người ưu tú nhất, thậm chí để các phần tử cơ hội, phản động trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; vì vậy, các tổ chức đảng trở thành “câu lạc bộ” của những người chỉ cần “đánh trống, ghi tên” không hơn không kém.

Bốn là, sự quá độ về đạo đức, lối sống của người đảng viên. Là thừa nhận sự tồn tại của đạo đức, lối sống cũ - đạo đức tư sản, tiểu tư sản, đạo đức phong kiến và tán dương thứ đạo đức “đầu đi xuống đất” và lối sống phi nhân văn và phản văn hóa này; trong khi đó, lại coi nhẹ, hạ thấp và phủ nhận đạo đức cách mạng của người đảng viên; hoặc thừa nhận sự tồn tại song song của cả đạo đức cũ và đạo đức cách mạng. Đồng thời, phủ nhận mọi nỗ lực của tổ chức đảng trong bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho quần chúng ưu tú chuẩn bị kết nạp Đảng và cho đội ngũ đảng viên.

Năm là, coi tệ tham nhũng, tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên là tất yếu. Đây chính là hệ quả của sự thừa nhận sự quá độ về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của đảng viên. Theo đó, họ cho rằng, thời kỳ quá độ phải “chấp nhận đau thương” - tức chấp nhận đảng viên tham nhũng, tiêu cực; rồi qui kết, tham nhũng, tiêu cực là thuộc tính, bản chất của một đảng độc tôn lãnh đạo; từ đó họ đưa ra thư ngỏ, thỉnh nguyện thư, kiến nghị, lời kêu gọi Đảng ta từ bỏ sự lãnh đạo với cuộc chiến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vì theo họ: Đảng độc tôn lãnh đạo làm triệt tiêu dân chủ, Đảng lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chẳng khác nào “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, hoặc cái gọi là “đấu đá, thanh trừng nội bộ”; xa hơn là phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng ta đối với toàn xã hội được hiến định ở Điều 4 Hiến pháp năm 2013…

Tính nguy hại của luận điệu “đảng viên quá độ”
Trước hết, nó làm nhụt ý chí phấn đấu của các quần chúng ưu tú muốn vào Đảng; làm phân rã về chính trị, làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào từng đảng viên và tổ chức đảng; làm suy thoái về đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là bước rất ngắn có thể chuyển sang “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và cả hệ thống chính trị.

Vì vậy, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta tự phê bình: “Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn lúng túng, hạn chế; công tác phát triển đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, vùng nông thôn còn nhiều khó khăn. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên ở một số nơi còn chưa thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”[2].

Về vấn đề này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục cảnh báo trong bài viết "Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng": “Việc tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, thực thi công vụ vẫn là khâu yếu; kỷ luật, kỷ cương ở nhiều nơi chưa nghiêm, thậm chí còn có hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; cái gì có lợi thì kéo về cho cơ quan, đơn vị và cá nhân mình; cái gì khó khăn thì đùn đẩy ra xã hội, cho cơ quan khác, người khác. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch, phản động tiếp tục lợi dụng tình hình này để đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ chúng ta nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta”[3].

Tình trạng trên nếu kéo dài và không kịp thời được khắc phục sẽ làm mất đi sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; Đảng mất bản chất cách mạng. Hệ quả là, làm cho Nhân dân giảm sút niềm tin vào Đảng và chế độ ta, thậm chí ngả theo các thế lực thù địch và phản động.

Nguy hiểm hơn nó sẽ biến thành nguy cơ làm cho một số tổ chức đảng phân rã cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, biến dạng theo chiều hướng tiêu cực cả về đạo đức và cán bộ. Báo cáo tại Hội nghị nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra giám sát của Đảng năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2024 chỉ rõ: Trong năm 2023, cấp ủy các cấp và chi bộ đã thi hành kỷ luật 423 tổ chức đảng (tăng 2,92% so với năm 2022); thi hành kỷ luật 18.130 đảng viên (tăng 10,64% so với năm 2022), có 3.073 cấp ủy viên (chiếm 16,94%). Ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã thi hành kỷ luật 183 tổ chức đảng và 6.302 đảng viên, có 1.975 cấp ủy viên (chiếm 31,34%); trong đó, UBKT các địa phương, đơn vị thi hành kỷ luật 154 tổ chức đảng và 6.237 đảng viên, UBKT Trung ương thi hành kỷ luật 29 tổ chức đảng và 65 đảng viên.

Cuối cùng, tính nguy hại này sẽ tạo ra một hệ quả tất yếu, Đảng sẽ tự làm mất vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội và cách mạng Việt Nam sẽ có nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Không những vậy, đối với công tác đối ngoại của Đảng, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vị thế, uy tín của Đảng ta cũng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Đảng đánh mất vị trí, vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình, dẫn đến diệt vong. Đây là nguy cơ không thể xem nhẹ, bởi vì, thực tiễn lịch sử cách mạng thế giới đã chứng minh, một đảng dày dặn kinh nghiệm như Đảng Cộng sản Liên Xô cùng các đảng cộng sản và công nhân khác đã suy vong bởi nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính là công tác xây dựng Đảng ở nhiều quốc gia đã bị vi phạm cơ bản, cụ thể:

Nhiều nước đã xa rời nguyên tắc trong xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác-Lênin, biến đảng cộng sản thành tổ chức độc quyền. Một số cán bộ lãnh đạo cao cấp trở thành kẻ quan liêu, từng bước xa rời hoặc phản bội lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt, có hai nguyên nhân cơ bản và trực tiếp liên quan chặt chẽ với nhau: (i) những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, về công tác xây dựng đảng, công tác tư tưởng và công tác tổ chức, cán bộ trong quá trình cải tổ; (ii) các thế lực thù địch, phản động thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tìm mọi cách tác động làm chệch hướng công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô, lợi dụng những sai lầm bên trong để thực hiện mục tiêu xóa bỏ chế độ XHCN.

Ở Liên Xô và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, vào những thập niên từ những năm 60-90 cuối thế kỷ XX, bộ máy Đảng Cộng sản đã không được xây dựng theo những nguyên tắc mác xít - lêninít. Nhà nước Xô viết đã từng bước biến chất, không còn thể hiện quyền lực của nhân dân mà chỉ là biểu hiện quyền lực của các phe nhóm trong Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng hoàn toàn bị rời bỏ, trở thành tập trung quan liêu, độc tài, độc quyền. Những nội dung xây dựng Đảng kiểu mới: về tư tưởng, chính trị, tổ chức, về đạo đức, lối sống của người đảng viên đã trở thành xa lạ trong Đảng Cộng sản Liên Xô và nhiều đảng cộng sản khác. Một số lãnh đạo cấp cao trong bộ máy Đảng, Nhà nước Xô viết đã thoái hóa, biến chất, trở thành những kẻ phản bội nhân danh “cải tổ”, “cải cách”. Đây là nguyên nhân rất trực tiếp đưa Đảng và chủ nghĩa xã hội hiện thực đến khủng hoảng, suy thoái./.
-----------------------
[1] C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.47
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2021, tr.91-92
[3] Dẫn theo: Nguyễn Phú Trọng, “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: LÒNG TỰ TRỌNG CỦA CÁN BỘ - TỪ QUY ĐỊNH SỐ 41-QĐ/TW ĐẾN QUY ĐỊNH SỐ 144-QĐ/TW!

     Việc Bộ Chính trị ban hành Quy định số 144-QĐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới cũng gắn kết chặt chẽ với Quy định số 41-QĐ/TW bằng quan điểm có tính hệ thống!

Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới nhấn mạnh tới tiêu chí "danh dự, lòng tự trọng."

Quy định mới cũng gắn kết chặt chẽ với Quy định số 41-QĐ/TW bằng quan điểm có tính hệ thống: Cán bộ phải từ chức khi không đủ khả năng, uy tín.

Không phạm “điều cấm” khi có lòng tự trọng
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa: Tự trọng là coi trọng và giữ gìn phẩm cách, danh dự của mình. Lòng tự trọng có được từ sự rèn luyện của con người trong cả một quá trình, thể hiện trách nhiệm cá nhân đối với công việc, gia đình và xã hội.

Lòng tự trọng luôn song hành với tính trung thực - người biết tự trọng thì có tính trung thực, người trung thực thì có lòng tự trọng. Một công dân bình thường cũng cần có lòng tự trọng. Cán bộ, đảng viên lại càng phải coi trọng và giữ gìn phẩm cách, danh dự của mình, vị trí càng quan trọng, trách nhiệm càng lớn thì lòng tự trọng càng cần được nêu cao.

Lòng tự trọng của cán bộ, đảng viên gắn liền với bản lĩnh chính trị và là một thành tố cấu thành đạo đức cách mạng. Ngày 25-10-2021, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm.

Trong số này có những “điều cấm” mà một đảng viên sẽ không phạm phải nếu có lòng tự trọng, sự trung thực, chưa cần đến ý thức chính trị và tầm hiểu biết cần thiết: đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh (Điều 3); viết bài sai sự thật, không đăng tải ý kiến cải chính theo quy định (Điều 5); tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt, trả thù người khiếu nại, tố cáo (Điều 6); kê khai lý lịch, tài sản, thu nhập không trung thực, sử dụng văn bằng giả (Điều 9); thực hiện không đúng quy định trong quản lý đầu tư, xây dựng, sử dụng nhà, đất, tài sản của Đảng, Nhà nước (Điều 10); vi phạm đạo đức công vụ, bao che, báo cáo sai sự thật (Điều 11); tham ô, đưa, nhận, môi giới hối lộ (Điều 14)…

Ngược lại, người thiếu lòng tự trọng, thiếu tính trung thực thì thường cơ hội, vụ lợi, không có ý thức phê bình và tự phê bình, trốn tránh trách nhiệm, tranh công -đổ lỗi, tham lam, vun vén cho bản thân, sẵn sàng chạy chức, chạy quyền, có chức vụ thì cao ngạo, chèn ép cấp dưới, nịnh bợ cấp trên… Thực tế cho thấy trong thời gian qua có không ít đảng viên, cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, do không thường xuyên tu dưỡng đạo đức, đánh mất lòng tự trọng và tính trung thực để mắc những sai phạm nghiêm trọng, bị kỷ luật, bị xử lý hình sự, trong đó có tội tham nhũng, cố ý làm trái để trục lợi.

“Tự lui” khi không còn uy tín
Hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng để phù hợp với các yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới; luôn luôn tu dưỡng, nêu cao danh dự, lòng tự trọng, tính trung thực là đòi hỏi thường xuyên của Đảng đối với cán bộ, đảng viên.

Đại hội XIII của Đảng đặt ra yêu cầu: “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày.

Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi,” “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên.”

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay được quy định tại Điều 1, Quy định số 144-QĐ/TW: Yêu nước, tôn trọng nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc; Điều 2: Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập; Điều 3: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Điều 4: Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; Điều 5: Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời.

Điều 3 đề cập tới các tiêu chí trung thực, tự trọng, danh dự, phẩm giá: “Trong sạch, không tham ô, tham nhũng, tiêu cực, không gây phiền hà, sách nhiễu. Trung thực, thẳng thắn, khách quan, công tâm, tích cực đấu tranh tự phê bình và phê bình, không giấu khuyết điểm, không nói sai sự thật; thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh.

Nêu cao lòng tự trọng, danh dự, không cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, giữ gìn phẩm giá của người cán bộ, đảng viên, không để tác động lôi kéo, cám dỗ tiêu cực. Không để gia đình, người thân và người khác lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi; bảo vệ uy tín, danh dự của bản thân và tổ chức đảng.”

Căn cứ vào nội dung được quy định tại Điều 3 của Quy định số 144-QĐ/TW, lòng tự trọng, phẩm giá của cán bộ, đảng viên được nêu cao là nhằm để “bảo vệ uy tín, danh dự của bản thân và tổ chức đảng.” Còn một biểu hiện cụ thể của việc bảo vệ danh dự của cá nhân người lãnh đạo và tập thể là “thực hiện văn hóa từ chức khi không đủ khả năng, uy tín.”

Trước đó, ngày 3-11-2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 41-QĐ/TW về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Theo Quy định số 41-QĐ/TW, từ chức là việc “cán bộ tự nguyện xin thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm và được cấp có thẩm quyền chấp thuận”.

Căn cứ để xem xét việc từ chức là cán bộ có “hạn chế về năng lực hoặc không còn đủ uy tín để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.” Như vậy, có thể nói rằng Quy định số 144-QĐ/TW là sự tiếp nối và hoàn thiện đối với Quy định số 41-QĐ/TW về quan điểm từ chức.

Căn cứ vào quy định mới, các cán bộ dù ở địa phương hay Trung ương, ở cấp thấp hay cấp cao, đều phải có ý thức tự nguyện rời khỏi vị trí khi không còn đủ khả năng, uy tín, tạo thành “văn hóa từ chức”. Đây là hành động cần thiết của những người có lòng tự trọng và cũng là giải pháp khả dĩ trong bối cảnh cụ thể để bảo toàn danh dự cho bản thân và tổ chức mà họ đang lãnh đạo./.
Yêu nước ST.

VẬN DỤNG BÀI VIẾT CỦA CỐ TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG VÀO ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG!

     Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài và phức tạp, việc vận dụng các nội dung trong bài viết của cố Tổng Bí thư như nguồn tài liệu quý cho mỗi cán bộ, đảng viên để giữ vững lập trường, tư tưởng, “tự đề kháng” trước sự tấn công của thông tin xấu, độc của thế lực thù địch!

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người kế tục và thực hành xuất sắc tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nhà lãnh đạo lỗi lạc, nhà lý luận uyên bác, tài ba của Đảng. 57 năm đứng trong hàng ngũ của Đảng, đồng chí để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng với nhiều bài viết, bài phát biểu, các công trình nghiên cứu, kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, thể hiện tầm cao lý luận, tư duy chiến lược, tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng đầu Đảng ta trên những vấn đề cốt lõi, hệ trọng nhất của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới. 

Một trong số đó có thể kể đến bài viết với tiêu đề “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng" được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết nhân dịp kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930- 3-2-2024). Bên cạnh mục đích, ý nghĩa của bài viết nhằm khơi dậy tinh thần tự hào, tin tưởng và quyết tâm cho cả dân tộc vào sự lãnh đạo của Đảng, bài viết cung cấp cho cán bộ, đảng viên nguồn lý luận phong phú để xây dựng các luận điểm, luận cứ để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

Khái quát về bài viết của cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
Có thể nói đây là một bài viết rất tâm huyết, sâu sắc, trí tuệ với tầm nhìn chiến lược, khoa học của cố Tổng Bí thư được toàn Đảng, toàn dân ủng hộ và được bạn bè quốc tế trân trọng, đánh giá cao. Toàn bộ đường lối chiến lược, sách lược của Đảng đã được thể hiện trong bài viết, có giá trị như kim chỉ nam trong quá trình phát triển tư duy và hoạt động thực tiễn của Đảng. 

Về kết cấu và nội dung của bài viết: Mở đầu tác phẩm, cố Tổng Bí thư đã nêu rõ mục đích của bài viết góp phần thiết thực kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 – 3-2-2024), góp phần khơi dậy niềm tự hào về Đảng, Bác Hồ và dân tộc Việt Nam; tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của đất nước. Tiếp đến, trong nội dung chính của tác phẩm đã tổng kết một cách khách quan toàn diện từ những kết quả, thành tựu, và các bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước thông qua ba phần lớn: 
Phần thứ nhất: Đảng ta ra đời, đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ từ khi Đảng ra đời, lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi vĩ đại trong các thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945); thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945- 1975) 

Phần thứ hai: Đảng lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Nội dung thể hiện sự lãnh đạo của Đảng sau năm 1975 để khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành thành công công cuộc đổi mới từ Đại hội VI (1986) nhưng với tư duy nhạy bén, thức thời, “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đồng thời tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.

Phần thứ ba: Phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước và cách mạng vẻ vang, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025 và năm 2030, xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng. Dựa trên dự đoán những khó khăn, thách thức từ bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước, Tổng Bí thư đã chỉ ra yêu cầu để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện thành công mục tiêu của Nghị quyết Đại Hội XIII bằng việc tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các bài học kinh nghiệm rút ra từ Đại hội XIII của Đảng, bài học kinh nghiệm về đổi mới phương thức và phong các lề lối làm việc rút ra từ Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kì đại hội XIII. Đồng thời chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nhất là làm tốt công tác cán bộ; chuẩn bị cho đại hội các cấp hướng tới Đại hội XIV của Đảng.

Tổng kết vấn đề, cố Tổng Bí thư một lần nữa khẳng định việc kiên định, tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố vô cùng quan trọng, nhờ đó nhân dân ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực, niềm tự hào, niềm tin, sự đồng lòng, quyết tâm của toàn dân tộc sẽ giúp chúng ta hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong tương lai.

Với kết cấu chặt chẽ, những nội dung cô đọng tác phẩm này vừa góp phần khơi dậy niềm tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, dân tộc Việt Nam anh hùng; vừa khích lệ, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Chắc chắn việc nghiên cứu tác phẩm sẽ giúp cho cán bộ, đảng viên vận dụng hiệu quả vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh hiện nay.

Vận dụng bài viết của cố Tổng Bí thư để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Trước tình hình ngày càng gia tăng các hoạt động chống phá, xuyên tạc về sự lãnh đạo của Đảng, để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, cần đẩy mạnh cả “xây” và “chống”. Trong đó, “xây” chính là tích cực tuyên truyền, nghiên cứu, quán triệt bài viết cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để có những kiến thức vững chắc về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và những chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng từ khi Đảng ra đời đến hiện nay. “Chống” là dựa vào việc sử dụng các nội dung trong tác phẩm để từ đó xây dựng các luận điểm, luận cứ bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch. Theo tác giả, các giá trị bài viết có thể vận dụng để làm tốt công tác này bao gồm:
Thứ nhất, bài viết đã khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tất yếu khách quan, từ mong muốn của nhân dân và đòi hỏi của lịch sử cách mạng Việt Nam, yêu cầu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Sự kết hợp thành công yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam còn là sáng tạo lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong hoàn cảnh thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, bài viết làm sáng tỏ đường lối, quan điểm của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng qua mỗi giai đoạn, thời kỳ, dựa trên căn cứ đặc điểm, bối cảnh, yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền bằng việc đề ra được quan điểm, chủ trương, đường lối, chiến lược, định hướng lớn đúng đắn để xây dựng và phát triển đất nước. Đảng đã lựa chọn những vấn đề thực sự quan trọng, cấp bách, trọng tâm, xuyên suốt để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tránh làm một cách dàn trải, tạo bước chuyển biến cụ thể, thực chất. Trong quá trình lãnh đạo ấy, Đảng đã từng bước nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn về lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, lý luận về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đường lối ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam”,...Tất cả những lý luận ấy cho thấy những quan điểm, đường lối của Đảng chính là sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp thực tiễn Việt Nam chứ không hề dập khuôn, máy móc. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều bắt nguồn từ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, phục vụ nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn. Chứng minh sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản hoàn toàn hợp hiến, hợp pháp, chính danh, đáp ứng mong muốn, nguyện vọng của nhân dân

Thứ ba, bài viết cung cấp những minh chứng thuyết phục, chứng minh cho những quan điểm, chủ trương của Đảng đã thực hiện hiệu quả trong thực tiễn. Những thành tựu nổi bật trong từng giai đoạn dưới sự lãnh đạo của Đảng không chỉ là những lập luận chung chung mà Tổng Bí thư đã đưa ra những số liệu rất rõ ràng, xác thực, dựa trên sự tổng kết, đánh giá thực tiễn một cách khoa học, khách quan. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã có những bước tiến vững chắc, không thể phủ nhận mà Đại hội XIII của Đảng ta đã đánh giá: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu trên các lĩnh vực từ kinh tế, đến chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... Tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học, công nghệ, tiềm lực con người đã không ngừng được nâng lên. Hơn bao giờ hết, những con số biết nói này chính là minh chứng khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đưa đất nước phát triển, là luận cứ thuyết phục nhất để mỗi cán bộ, đảng viên có thể phản biện, bác bỏ lại những xuyên tạc của các thế lực thù địch về sự lãnh đạo của Đảng. 

Thứ tư, bài viết đã chứng minh rằng trong quá trình lãnh đạo của mình, Đảng luôn bám sát tình hình thực tiễn và thường xuyên có sự tổng kết thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm qua mỗi giai đoạn. Trong bối cảnh mới hiện nay, Đảng ta xác định rõ những thuận lợi, khó khăn, những thời cơ, thách thức trong bối cảnh trong nước và quốc tế để từ đó xác định rõ các nhiệm vụ. Đặc biệt, chú trọng các bài học kinh nghiệm, đặc biệt là bài về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, hệ thống chính trị học được Đảng ta đặt hàng đầu. Đảng ta luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách làm việc, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài và phức tạp, việc vận dụng các nội dung trong bài viết của cố Tổng Bí thư như nguồn tài liệu quý cho mỗi cán bộ, đảng viên để giữ vững lập trường, tư tưởng, “tự đề kháng” trước sự tấn công của thông tin xấu, độc của thế lực thù địch. Bên cạnh những nội dung bài viết có thể vận dụng trên, mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò, trách nhiệm của mình là những tuyên truyền viên tích cực để lan tỏa những quan điểm chính thống, định hướng dư luận, xây dựng lòng tin, nền tảng vững chắc về tư tưởng cho nhân dân. Phối hợp hiệu quả, cùng các cơ quan, tổ chức xây dựng các phương pháp tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng và triển khai nhiều mô hình, cách thức để đấu tranh, phản bác một cách mạnh mẽ, quyết liệt, kịp thời ngăn chặn sự chống phá của các thế lực thù địch dưới bất cứ hình thức nào, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng./.
Yêu nước ST.

UY TÍN CỦA ĐẢNG VÀ NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN!

     Những thành tựu vô cùng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, là minh chứng cho năng lực lãnh đạo, cầm quyền và uy tín của Đảng ta. Bài viết đánh giá rõ hơn về vai trò và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó gợi mở những vấn đề trọng tâm để mỗi tổ chức cơ sở đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần triển khai thực hiện tốt góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước ta thực sự trong sạch, vững mạnh và uy tín, củng cố thêm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng ta trong giai đoạn hiện nay!

Từ ngày thành lập (3-2-1930) cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng nghiên cứu, tổng kết, đổi mới, đúc rút kinh nghiệm để ngày càng hoàn thiện hơn về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền trong quá trình giành độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước và trong giai đoạn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đồng thời, thể hiện quan điểm, lập trường, tư tưởng nhất quán, kiên định của Đảng ta trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng đã quy tụ được sức mạnh, tiềm năng, khát vọng, ý chí của Nhân dân và chuyển hóa thành sức mạnh quần chúng - sức mạnh tổng hợp để xây dựng xã hội và cuộc sống của người dân ngày một thịnh vượng… đó chính là “uy tín” của Đảng ta mà “niềm tin” của Nhân dân dành chọn, gửi gắm.

Vai trò và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trải qua 94 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, cầm quyền và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, ngoại giao… Đảng ta ngày càng vững mạnh là điều kiện quyết định nhất để chúng ta xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. 

Sau những năm tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986), Đảng ta đã đúc rút kinh nghiệm và nhấn mạnh: “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của mình”(1).

Thập niên 90 của thế kỷ trước, tình hình thế giới có nhiều biến động to lớn, đặc biệt là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; ở trong nước có một số cán bộ, đảng viên dao động, hoài nghi về sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam dưới nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm… hòng gây chia rẽ sự đoàn kết nội bộ trong Đảng và gây sự hoài nghi, dao động trong mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, nhờ kiên định đường lối đã chọn, sáng suốt, tài tình trong lãnh đạo của Đảng, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 nhấn mạnh: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Do đó, trong giai đoạn năm 1991-1995, đất nước ta dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái, nền kinh tế tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng; GDP bình quân tăng 8,2%/năm; hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đánh giá: “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(2). 

Những thành tựu vô cùng quan trọng mà đất nước ta đạt được trong giai đoạn năm 1991-1995 là thể hiện rõ vai trò và uy tín của Đảng ta đã ngày càng vững mạnh về bản lĩnh chính trị, về tính khoa học đúng đắn trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về tầm cao tư duy dám đổi mới, sáng tạo phù hợp với điều kiện ở trong nước cũng như bối cảnh thế giới, khu vực lúc bấy giờ. Mặt khác, trong Đảng đã dám nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá khách quan, khoa học những hạn chế, khuyết điểm, cả những việc chúng ta chưa làm được, chưa thành công… để rút kinh nghiệm, tìm tòi giải pháp để khắc phục, sửa chữa. Đồng thời, trong giai đoạn này Đảng ta tích cực, chủ động trong việc mở rộng quan hệ kinh tế, ngoại giao với các quốc gia, vùng lãnh thổ, với phương châm và quan điểm rõ ràng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(3).

Từ ngày 11-7-1995, giữa Mỹ và Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao, dỡ bỏ lệnh cấm vận về kinh tế đối với Việt Nam. Đây là điều kiện quan trọng để Việt Nam từng bước ký kết các hiệp định thương mại với các quốc gia, tổ chức trên thế giới, góp phần tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và là tiền đề để Đảng, Nhà nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (từ Đại hội IX của Đảng); từng bước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng lên.

Cụ thể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất hàng hóa với thị trường; Đảng và Nhà nước ta đẩy mạnh thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, mô hình các hợp tác xã, tổ chức phát triển kinh tế…). Trong đó, trọng tâm là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành, kinh tế vĩ mô đã cơ bản ổn định. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện cam kết về khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại thế giới (WTO). Đặc biệt, tính đến tháng 8-2023, Việt Nam đã ký kết các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với các quốc gia, tổ chức kinh tế trên thế giới đang còn hiệu lực (16 hiệp định) và tiếp tục đang đàm phán 3 hiệp định(4). Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, trong đó, Việt Nam đã nâng tầm quan hệ “Đối tác chiến lược toàn diện” với 7 quốc gia gồm: Trung Quốc (tháng 5-2008), Liên bang Nga (tháng 7-2012), Ấn Độ (tháng 9-2016), Hàn Quốc (tháng 12-2022), Hoa Kỳ (tháng 9-2023), Nhật Bản (tháng 11-2023), Ô-xtrây-li-a (tháng 3-2024) và 18 đối tác chiến lược, 12 đối tác toàn diện.

Trải qua 47 năm (từ ngày 20-9-1977) Việt Nam chính thức gia nhập Liên hiệp quốc, với những đóng góp của mình, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào nhiều vị trí, cơ quan quan trọng của Liên hiệp quốc và ghi được nhiều “dấu ấn” tại các cơ quan như Hội đồng Bảo an, Hội đồng Nhân quyền... Đặc biệt, ngày 9-4-2024, Hội đồng Kinh tế - xã hội (ECOSOC) đã nhất trí bầu Việt Nam vào Hội đồng Chấp hành cơ quan Liên hiệp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025-2027.

Với chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Tính đến ngày 30-6-2023, cả nước có 6.022/8.177 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn mới; 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Bình quân cả nước đạt 16,9 tiêu chí/xã; có 263/644 đơn vị cấp huyện (40,8%) thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới(5). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(6).

Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến phát triển toàn diện con người Việt Nam về sức khỏe, giáo dục và thu nhập cũng như những thụ hưởng về văn hóa, tinh thần… Theo Báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn cầu 2021/2022 được Chương trình Liên hiệp quốc tại Việt Nam công bố tháng 9-2022 cho biết: Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2021 là 0,703, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, từ 117/189 quốc gia vào năm 2019 lên 115/191 quốc gia trong năm 2021; HDI của Việt Nam xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á. Tính đến đầu năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều cả nước giảm còn 2,93% (giảm 1,1% so với cuối năm 2022), Việt Nam là 1 trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu và thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (6 chiều về việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin). Có thể khẳng định, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong công tác xóa đói, giảm nghèo.

Những thành tựu trên được các quốc gia và chính đảng các nước đánh giá cao. Ông Walter Sorrentino, Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Bra-xin khẳng định: “Từ thực tiễn của Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mà chính quyền phục vụ Nhân dân, lấy Nhân dân làm gốc. Kết quả xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam là minh chứng có giá trị hơn mọi lời nói. Điều này càng được thể hiện rõ ràng trong đại dịch COVID-19, cho thấy rõ tính ưu việt trong phòng, chống dịch bệnh của chính quyền các nước xã hội chủ nghĩa… Có được điều này là bởi chủ nghĩa xã hội là nhân văn, là động lực để nhân loại hướng tới một xã hội thịnh vượng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo vệ độc lập, tự chủ và môi trường thiên nhiên. Nó đòi hỏi phải có một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý mọi mặt đời sống xã hội, trong đó Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”(7).

Tại sự kiện “Người Việt Nam có tầm ảnh hưởng 2024” (VGLF) ở Pháp, ông Philipp Rösler - nguyên Phó Thủ tướng Đức đánh giá: “Việt Nam đang đứng trước cơ hội, thời điểm để tìm ra con đường hướng tới sự thịnh vượng. Bên cạnh đó, Việt Nam là đất nước trung lập trong nhiều thế kỷ và tìm ra các giải pháp hòa bình. Vì thế, Việt Nam có thể đóng vai trò lớn hơn vì lợi ích của nhân loại”(8). Khi phân tích, đánh giá bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông Petro Simonenko, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản U-crai-na nêu rõ: “Những thành tựu của Việt Nam hiện nay một lần nữa chứng minh ưu thế vượt trội của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản, đó là bảo đảm sự thỏa mãn tối đa các nhu cầu văn hóa và vật chất ngày càng tăng của cả xã hội bằng cách không ngừng nâng cao và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở các thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất… Một lần nữa chúng tôi tin tưởng rằng, những ưu việt của việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là rõ ràng và không thể bàn cãi”(9).

Đặc biệt, kết quả tích cực về cải cách thể chế và đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước làm cho Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có hệ thống chính trị phát triển, ổn định hàng đầu thế giới. Minh chứng rõ nhất là thành phố Hà Nội đã được lựa chọn là nơi tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần hai từ ngày 27 đến ngày 28-2-2019 giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và lãnh đạo Kim Jong-un; đồng thời lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã thăm cấp nhà nước tới Việt Nam (từ ngày 10 đến ngày 11-9-2023) theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đây là sự khẳng định cho một thể chế chính trị Việt Nam phát triển hài hòa và mô hình kinh tế hiệu quả; là thể hiện rõ nét nhất về vai trò và uy tín của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(10).

Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng
Để Đảng ta luôn thực sự là một đảng cầm quyền duy nhất, lãnh đạo toàn diện đất nước trong mọi hoàn cảnh, đòi hỏi Đảng phải thật sự “trí tuệ”, luôn đổi mới, sáng tạo phương thức cầm quyền và phải “tỉnh táo” trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Thực tế, từ ngày thành lập cho đến nay, Đảng ta đã hoàn thành tốt sứ mệnh mà nhân dân giao phó, ngày càng đem lại niềm tin vững chắc đối với nhân dân.

Có được niềm tin rất lớn ở Nhân dân là do Đảng ta đã thẳng thắn đánh giá, chỉ rõ những khuyết điểm, tồn tại trong lãnh đạo, chỉ đạo, để từ đó đề ra giải pháp phù hợp, quyết liệt nhằm sửa chữa, khắc phục. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt và thực hiện một số nghị quyết còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm”(11). Điều này cho thấy bản lĩnh chính trị của Đảng ta, dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, chứ không né tránh, “che đậy” những hạn chế, cũng chính từ sự “bản lĩnh” này mà Nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. 

Xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhiệm vụ lâu dài, nên Đảng ta luôn kiên quyết, kiên trì. Từ năm 2013, khi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được thực hiện quyết liệt, đạt được nhiều kết quả toàn diện. Từ tháng 9-2021, để công tác phòng, chống tham nhũng tiếp tục đi vào chiều sâu, toàn diện, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được Bộ Chính trị quyết định bổ sung chức năng, nhiệm vụ, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trọng tâm là chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta; đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng liêm chính, trong sạch, vững mạnh. 

Với quan điểm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là: “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” và “Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng”. Nhằm cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Bộ Chính trị đã quyết định cho tiến hành từng bước thành lập các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do đồng chí bí thư tỉnh ủy làm trưởng ban, đã góp phần gắn kết chặt chẽ hơn giữa phòng và chống theo đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng đề ra từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Từ khi thành lập đi vào hoạt động, các ban chỉ đạo cấp tỉnh đã có sự chuyển biến rõ rệt, với nhiều kết quả nổi bật trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Cụ thể, về công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng, trong năm 2023, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 606 tổ chức đảng, hơn 24.160 đảng viên (tăng 12% về số đảng viên bị kỷ luật so với năm 2022). Trong đó, thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng, 8.863 đảng viên do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Trong đó, lần đầu tiên có 6 cán bộ bị xử lý kỷ luật do vi phạm trong kê khai tài sản, thu nhập. Các cơ quan chức năng đã cho thôi giữ chức vụ, nghỉ công tác, bố trí công tác khác đối với 9 cán bộ diện Trung ương quản lý. Các địa phương đã cho từ chức, miễn nhiệm, bố trí công tác khác hơn 360 trường hợp sau khi bị kỷ luật, trong đó có 92 cán bộ thuộc diện tỉnh ủy, thành ủy quản lý. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng. Về công tác điều tra, truy tố, xét xử, năm 2023, các cơ quan tiến hành tố tụng trên cả nước đã khởi tố hơn 4.500 vụ, hơn 9.370 bị can về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 46% về số vụ án so với năm 2022). Riêng án tham nhũng tăng gần hai lần về số vụ và hơn hai lần về số bị can(12).

Bất kể cán bộ, đảng viên giữ vị trí công tác nào (dù đương chức hay đã nghỉ công tác) nếu vi phạm “những điều đảng viên không được làm” thì đều bị xử lý kỷ luật kể cả mặt đảng và chính quyền, điều này cho thấy công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta là “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, “bất kể người đó là ai”. Qua điều tra xã hội học về nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân khi được hỏi, thì đại đa số người dân rất đồng tình, ủng hộ cao cách làm quyết liệt, triệt để, khoa học, thận trọng từng bước khi phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các cá nhân, tổ chức có dấu hiệu vi phạm, để không bỏ sót, bỏ lọt đối tượng, tránh oan sai. Điều này cho thấy sự đồng thuận, đặt niềm tin rất lớn của người dân vào quyết tâm làm trong sạch bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; quyết tâm diệt trừ tận gốc tệ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Giữ vững niềm tin của Nhân dân đối với Đảng
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó dự đoán; ở trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đan xen; các thế lực thù địch, phản động vẫn tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam; sự phát triển của khoa học công nghệ, các nền tảng mạng xã hội khó kiểm soát… Đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục tăng cường bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng là những việc rất quan trọng, do đó trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để thực hiện tốt được điều này, trước hết mỗi tổ chức đảng phải thực hiện nghiêm những quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động cơ bản của Đảng ta là: 1) Tập trung dân chủ trong Đảng; 2) Tự phê bình và phê bình; 3) Đoàn kết thống nhất; 4) Gắn bó mật thiết với Nhân dân; 5) Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, phải hết sức chú trọng đến các nguyên tắc trong công tác tư tưởng như: nguyên tắc tính Đảng; nguyên tắc tính khoa học; nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Đặc biệt là “tính Đảng” cần hết sức coi trọng, trên cơ sở đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Vì vậy, phải tăng cường đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách thức làm công tác tư tưởng, mở rộng tính dân chủ, công khai, minh bạch, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử có thái độ hữu khuynh hoặc mơ hồ những vấn đề tư tưởng có tính nguyên tắc.

Tại Phiên họp đầu tiên của Tiểu ban nhân sự chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban chủ trì phiên họp có đề cập và nhấn mạnh đến những vấn đề có tính nguyên tắc của Đảng ta và cũng phù hợp với thể chế chính trị ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đó là: “Tập thể lãnh đạo”, “Lãnh đạo tập thể”, “Lãnh tụ tập thể”. Có thể nói, đây cũng là lần đầu tiên khái niệm “lãnh tụ tập thể” được nhấn mạnh trong công tác chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Bởi vì, tầm đặc biệt quan trọng của công tác chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIV của Đảng có ý nghĩa lịch sử, là trọng trách nặng nề; “Lãnh tụ tập thể” còn có hàm nghĩa quy tụ, hội tụ được những cán bộ, đảng viên thực sự có đức, có tài, trong đó đức là gốc. Cụ thể, là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, nhân sự trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng phải thực sự là một khối thống nhất, thông suốt trong hành động, trong lãnh đạo, chỉ đạo những vấn về quan trọng của đất nước.

Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, phong cách, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta phù hợp với xu thế thời đại và thực tiễn đất nước. Đảng ta là đảng cầm quyền, những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của cách mạng đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng tác động trực tiếp đến toàn bộ hệ thống để bảo đảm giữ vững quyền lực chính trị của nhân dân. Tính nhất quán tạo nên phong cách, sự kiên định tạo nên sức mạnh, nghĩa là nhất quán trong việc ban hành chỉ thị, nghị quyết với hành động; kiên trì, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn. Do đó, đổi mới nội dung, phong cách và phương thức lãnh đạo của Đảng không phải là để hạ thấp hay xóa bỏ vai trò lãnh đạo, mà chính là để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng; tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, cần phân rõ được đúng chức năng giữa Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là giữa Đảng với Nhà nước, có cơ chế và phương thức hoạt động khoa học, phù hợp, linh hoạt để phát huy dân chủ và đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng đất nước.

Ba là, quyết liệt, mạnh mẽ trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta sớm nhận diện và ngày càng xác định rõ hơn về nguy cơ, tác hại của tệ tham nhũng, tiêu cực đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng đất nước. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thẳng thắn đánh giá: “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc phát hiện xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi… Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt lúng túng”(13). Do đó, chúng ta phải quyết liệt, mạnh mẽ trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. 

Bốn là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý “có tâm”, “có tầm”. Trong công tác cán bộ, từ khâu tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm phải thận trọng, khách quan, công tâm, đặc biệt đối với những cán bộ cấp chiến lược, cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là người thực sự tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, lối sống, nổi trội về năng lực lãnh đạo, quản lý, có tầm nhìn chiến lược dài hạn; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để bảo vệ, khuyến khích những cán bộ có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; có tinh thần cống hiến, phụng sự Tổ quốc… Hiện nay, chúng ta đang chuẩn bị cho công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng (nhiệm kỳ 2026-2030), đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong chặng đường tiếp theo của cách mạng Việt Nam.

Năm là, tiếp tục thực hiện nghiêm, hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Trung ương về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Mỗi cơ quan, đơn vị cần xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu lực, hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Trung ương, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phải thực hiện nghiêm, hiệu quả Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Ban Chấp hành Trung ương về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. 

Sáu là, tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế với các chính đảng trên thế giới, đặc biệt là Đảng Cộng sản các nước. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(14). Với phương châm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, nhận được sự tin cậy của bạn bè thế giới và đem lại nhiều thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa xã hội. Tăng cường giao lưu, hợp tác với các chính đảng, các quốc gia trên thế giới còn nhằm tranh thủ sự ủng hộ, đồng thuận; làm cho các quốc gia, tổ chức hiểu rõ hơn về bản chất tốt đẹp của Đảng Cộng sản và con người Việt Nam; giảm bớt sự thù địch, chống phá của các thế lực phản động.

Có thể khẳng định, thực hiện hiệu quả những nội dung cơ bản nêu trên không chỉ góp phần tạo thêm uy tín của Đảng, củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân, mà còn thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Trọng tâm là những nhiệm vụ rất quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao; xây dựng một nước Việt Nam “giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, thể hiện sự nhất quán về quan điểm, chủ trương của Đảng ta về phát triển đất nước giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045, góp phần tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Không còn uy tín là mất niềm tin và mất niềm tin là mất tất cả, vì vậy đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng phải thực sự gương mẫu, thực sự liêm chính trong sạch, vững mạnh; đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải hợp lòng dân, vì lợi ích của nhân dân, đem lại cuộc sống khá giả cả về vật chất lẫn tinh thần cho người dân… Thực hiện được những điều đó, thì Nhân dân sẽ mãi một lòng sắt son đối với Đảng./.
------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H.1991, tr.53.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H.1996, tr.12.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2011, tr.23.
(4) Xem https://trungtamwto.vn. 
(5) Xem https://dangcongsan.vn/thoi-su/3-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-deu-giai-ngan-cham-650683.html.
(6),(10),(11),(13) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2021, tr.27-28, tr.25-26, tr.118, tr.90, tr.92-93, tr.187.
(7),(9) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với niềm tin của Nhân dân trong nước và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2023, tr.488-489, tr.481-482.(8) Xem https://vtcnews.vn.

(12) Xem https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/nam-2023-ky-luat-19-can-bo-dien-bo-chinh-tri-ban-bi-thu-quan-ly-658953.html.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2001, tr.119.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TRẦN PHÚ - TỔNG BÍ THƯ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG, NGƯỜI ĐÓNG GÓP TO LỚN TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG!

     Tổng Bí thư Trần Phú là tấm gương tận trung với nước, tận hiếu với dân, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc với ý chí, niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng cộng sản, thắng lợi cách mạng!

Chỉ với 27 năm tuổi đời, hơn 8 năm hoạt động cách mạng, gần một năm trên cương vị Tổng Bí thư (từ 10-1930 đến 4-1931), nhưng đồng chí Trần Phú đã có những đóng góp to lớn, quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ Đảng mới ra đời.

Những phẩm chất tốt đẹp, cùng tình yêu thương đồng chí, đồng bào, chí khí kiên cường, bất khuất trước kẻ thù và lời nhắn nhủ cuối cùng của đồng chí Trần Phú: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu” luôn sống mãi với thời gian, trường tồn cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Từ người thanh niên yêu nước trở thành người cộng sản mẫn tiệp, trí tuệ
Đồng chí Trần Phú sinh ngày 1-5-1904 tại thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên; quê gốc tại xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Đồng chí Trần Phú là tấm gương tiêu biểu cho lớp thanh niên yêu nước, khát khao lý tưởng và tràn đầy nhiệt huyết cách mạng. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, tuổi thơ Trần Phú đã tận mắt chứng kiến những nỗi thống khổ, bất công của các tầng lớp nhân dân lao động dưới ách áp bức, bóc lột của chính quyền thực dân, phong kiến.

Truyền thống lịch sử, văn hóa, tinh thần cách mạng của quê hương đã góp phần bồi đắp cho người thanh niên lòng yêu nước, căm giặc, hun đúc ý chí và tinh thần học hỏi, vươn lên tìm con đường cứu nước.

Thời gian học tập ở Trường Quốc học Huế, Trần Phú đã kết thân với nhiều bạn bè đồng hương, có cùng chí hướng như Hà Huy Tập, Hà Huy Lương, Trần Văn Tăng, Ngô Đức Diễn... Họ lập ra nhóm “Thanh niên tu tiến hội” để cùng nhau đọc sách, trao đổi giúp đỡ nhau trong cuộc sống.

Năm 1922, sau khi tốt nghiệp Trường Quốc học Huế, với mục đích góp phần đào tạo lớp người có chí hướng, làm lợi cho dân, cho nước, Trần Phú chọn nghề dạy học tại Trường Tiểu học Cao Xuân Dục (thành phố Vinh, Nghệ An).

Với tất cả nhiệt huyết của mình, Trần Phú đã truyền cho học sinh lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất của quê hương và dân tộc.

Trong những năm này cũng có những chuyển biến lớn, tác động đến các thanh niên yêu nước. Ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngày càng mạnh, đồng chí quyết định bỏ nghề dạy học để dấn thân vào con đường cách mạng chuyên nghiệp.

Bước ngoặt trong cuộc đời cách mạng của Trần Phú là vào cuối năm 1926, đồng chí được cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) bắt liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

Tại đây, đồng chí đã gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và tham gia lớp huấn luyện cán bộ do Người trực tiếp giảng dạy. Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại khóa huấn luyện đã trang bị cho Trần Phú những kiến thức cơ bản về cách mạng vô sản, về lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin để từ một thanh niên có tư tưởng cách mạng yêu nước, đồng chí đã chuyển sang lập trường cách mạng vô sản.

Tháng 1-1927, đồng chí Trần Phú được cử đi học tại Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Sau khi tốt nghiệp, tháng 11-1929, đồng chí được phân công nhiệm vụ về nước hoạt động với cương vị cán bộ chủ chốt của Đảng, chịu trách nhiệm trực tiếp dự thảo Bản Luận cương chính trị của Đảng.

Người dự thảo bản Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
Luận cương chính trị tháng 10-1930 của Đảng là một văn kiện quan trọng của Đảng, là cơ sở để Đảng đề ra sách lược, chiến lược trong suốt quá trình đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng. Luận cương chính trị là sản phẩm trí tuệ của tập thể Ban Chấp hành Trung ương, nhưng in đậm dấu ấn cá nhân đồng chí Trần Phú trong vai trò là người trực tiếp soạn thảo.

Từ cuối năm 1929, sau khi về nước hoạt động, cùng với các đồng chí trong Ban Chấp ủy lâm thời của Đảng, đồng chí Trần Phú đã trực tiếp sống cuộc đời thợ mỏ, thợ nề, thợ nhà máy xi măng... để thâm nhập, nghiên cứu, khảo sát thực tế phong trào cách mạng của công nhân, nông dân và các chi bộ cộng sản ở nhà máy, hầm mỏ tại Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai, Thái Bình.

Sau khi khảo sát tình hình thực tế và trao đổi với các đồng chí trong Ban Chấp ủy, đồng chí đã khởi thảo Văn kiện Luận cương chính trị của Đảng ngay trong tầng hầm ngôi nhà số 90 phố Thợ Nhuộm, Hà Nội.

Luận cương chính trị đã vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, cùng những luận điểm cơ bản trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng.

Nội dung chủ yếu của Luận cương chính trị là những vấn đề cơ bản về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Trong đó, mục tiêu đi tới chủ nghĩa cộng sản được nêu rõ sau khi hoàn thành cách mạng tư sản dân quyền.

Luận cương chính trị cũng chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa cuộc đấu tranh chống phong kiến và chống đế quốc, giữa hai mục tiêu - dân chủ "thổ địa cách mạng" và dân tộc "Đông Dương hoàn toàn độc lập" để đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đây là luận điểm xuyên suốt trong đường lối cách mạng của Đảng, thể hiện tính nhất quán về con đường, mục tiêu cách mạng của Đảng từ khi thành lập đến nay. Những luận điểm đó đã khẳng định tính đúng đắn ngay từ đầu trong đường lối cách mạng của Đảng - đó là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tháng 10-1930, tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Hương Cảng (Trung Quốc), đồng chí Trần Phú đã trình bày bản Dự thảo Luận cương chính trị của Đảng và đã được Hội nghị nhất trí thông qua.

Tại Hội nghị, với việc bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức, Đảng lần đầu tiên được kiện toàn về mặt tổ chức. Đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng.

Thành công của Hội nghị đã đánh dấu sự trưởng thành về nhiều mặt của Đảng với uy tín và sức hút mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng Đông Dương phát triển nhanh chóng.

Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng - người đóng góp to lớn trong công tác xây dựng Đảng
Trên cương vị Tổng Bí thư đầu tiên, đồng chí Trần Phú đã có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Trong hoàn cảnh bị địch khủng bố rất ác liệt, đồng chí Trần Phú - trên cương vị Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng đã cùng Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo thực hiện những Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ nhất với khối lượng công việc khổng lồ, quan trọng và chuẩn bị các văn kiện cho Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3-1931).

Án Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ hai là văn kiện in đậm những đóng góp của đồng chí Trần Phú về lý luận xây dựng Đảng.

Đồng chí Trần Phú đã lãnh đạo việc phát triển các tổ chức đảng, các tổ chức chính trị, đoàn thể, hội quần chúng nhằm tập hợp, đoàn kết thống nhất mọi lực lượng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hàng loạt văn kiện quan trọng được thông qua liên quan trực tiếp đến công tác tổ chức đảng, công tác dân vận, công tác mặt trận, đặt nền móng cho việc thành lập Hội Phản đế đồng minh, thành lập các tổ chức: Công hội, Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ, Hội Cứu tế đỏ. Chỉ sau một thời gian, tổ chức đảng, các đoàn thể, hội quần chúng đã có sự phát triển nhanh chóng.

Nhằm xây dựng khối đoàn kết nhất trí trên cơ sở cương lĩnh, đường lối của Đảng, Tổng Bí thư Trần Phú rất quan tâm đến vấn đề đấu tranh tư tưởng trong nội bộ Đảng, khắc phục những nhận thức lệch lạc, cơ hội, bè phái, chỉ ra những vấn đề nảy sinh từ chủ nghĩa cơ hội và khuynh hướng hòa hoãn trong Đảng.

Để xúc tiến công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, tháng 12-1930, đồng chí đã cùng với Ban Thường vụ Trung ương quyết định xuất bản báo Cờ vô sản và báo Cộng sản; lập Ban Tuyên truyền do một Uỷ viên Thường vụ Trung ương phụ trách.

Giữ vững nguyên tắc trong xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân về tư tưởng và tổ chức, việc đề xuất những vấn đề nhằm nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng thông qua việc tăng cường tính chất giai cấp công nhân, kiên quyết chống lại chủ nghĩa cơ hội là đóng góp có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn to lớn của đồng chí Trần Phú đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng ở một nước tiểu nông như nước ta. Ngày nay, những quan điểm này vẫn là vấn đề thời sự trong công tác xây dựng Đảng.

Đồng chí Trần Phú cùng Ban Chấp hành Trung ương đã xây dựng và củng cố tổ chức đảng các cấp từ Trung ương tới các xứ ủy, tỉnh ủy, huyện ủy và chi bộ cơ sở của Đảng.

Nhờ sự cố gắng không mệt mỏi của đồng chí và Ban Thường vụ Trung ương, trong khoảng từ tháng 12-1930 đến tháng 1-1931, các Xứ ủy Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ đã chính thức được thành lập và từng bước được củng cố. Theo sự chỉ đạo của Trung ương, các xứ ủy đã thành lập các ban cán sự và các bộ phận chuyên trách. Nhờ đó, Đảng đã được củng cố một bước khá vững chắc ngay trong hoàn cảnh bị kẻ thù khủng bố gắt gao, khốc liệt.

Nhiệm vụ xây dựng và phát huy vai trò của chi bộ đảng được đồng chí Trần Phú và Ban Chấp hành Trung ương rất chú trọng. Nhờ đó, số chi bộ và số đảng viên đã tăng lên đáng kể. Nếu như lúc Đảng mới thành lập, toàn Đảng có khoảng 30 chi bộ với 200 đảng viên thì đến trước Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (tháng 3-1931), số đảng viên trong toàn Đảng đã lên tới 2.400, hoạt động trong 250 chi bộ.

Đánh giá đóng góp to lớn của đồng chí Trần Phú trong công tác xây dựng Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã khẳng định: “Trên cương vị Tổng Bí thư đầu tiên, Trần Phú đã có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đồng chí tranh thủ mọi điều kiện để trang bị lý luận Mác-Lênin cho cán bộ, đảng viên, kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu hiện ấu trĩ tả khuynh, hữu khuynh trong Đảng.

Đồng chí dành nhiều công sức để xây dựng và củng cố tổ chức, kiện toàn các cơ quan từ Trung ương đến các xứ ủy và các đảng bộ, nhất là ở những vùng quan trọng, bị địch đàn áp”.

“Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”
Giữa lúc phong trào cách mạng Việt Nam đang có những bước phát triển mới, sáng ngày 18-4-1931, tại cơ quan ấn loát của Đảng, số nhà 66 đường Sampannho (nay là đường Lý Chính Thắng, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh) Tổng Bí thư Trần Phú sa lưới kẻ thù.

Đây là một tổn thất vô cùng lớn đối với Đảng và cách mạng Việt Nam đang trong thời kỳ phục hồi, củng cố và phát triển.

Bất chấp mọi thủ đoạn tra tấn tàn bạo và dụ dỗ của kẻ thù, Tổng Bí thư Trần Phú không hề khuất phục. Đòn roi tra tấn của bọn đao phủ, sự tàn bạo của chế độ nhà tù đế quốc đã làm sức khỏe của đồng chí Trần Phú suy kiệt, bệnh cũ tái phát, đồng chí đã hy sinh ngày 6-9-1931 tại Nhà thương Chợ Quán - Sài Gòn.

Trước lúc hy sinh, đồng chí Trần Phú đã nhắn nhủ các đồng chí của mình: "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!"

Lời nhắn gửi ấy đã trở thành một khẩu hiệu cách mạng, một mệnh lệnh chiến đấu, động viên, khích lệ lớp lớp đảng viên, đồng bào, đồng chí giữ vững niềm tin, vượt qua khó khăn, gian khổ và khốc liệt, kiên quyết tranh đấu đến thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

Anh dũng hy sinh khi mới 27 tuổi đời, gần một năm giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng, nhưng những cống hiến của đồng chí cho Đảng, cho dân tộc ta vô cùng to lớn, góp phần rất quan trọng xây dựng nền móng ban đầu về tư tưởng, chính trị và tổ chức của Đảng ta.

Đồng chí là tấm gương tận trung với nước, tận hiếu với dân, cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp với ý chí, niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng cộng sản, vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: VAI TRÒ CỦA VIỆC HỌC TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG!

         Để tạo "sức đề kháng" cho mỗi cán bộ, đảng viên trên mặt trận đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, việc trang bị những kiến thức sâu rộng về lý luận chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, lập trường tư tưởng vững vàng là việc làm hết sức cần thiết. Do đó gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên là yêu cầu khách quan trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay!

Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đã khẳng định: Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thực chất là cuộc đấu tranh với các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Để mỗi cán bộ, đảng viên là một chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh này, cần tạo “sức đề kháng” cho mỗi cán bộ, đảng viên, đó chính là những kiến thức sâu rộng về lý luận chính trị, là đạo đức cách mạng, lập trường tư tưởng vững vàng. Do đó gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên là yêu cầu khách quan trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Vai trò quan trọng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”[1]. Thực hiện lời dạy của Người, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị luôn được các cấp ủy đảng quan tâm, góp phần quan trọng làm cho lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng. Thông qua công tác giáo dục lý luận chính trị, từng cán bộ, đảng viên đã không ngừng nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, giữ vững niềm tin và khát vọng cống hiến, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng đất nước.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ rõ, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng thời gian qua vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nêu rõ: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” là một trong những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị. Đây chính là mầm mống của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”[2].

Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”[3].

Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XIII) tiếp tục khẳng định: “Một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ, trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu bản lĩnh chính trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu giảm sút; chưa gương mẫu, sống thực dụng; suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…”[4].

Như vậy, một trong những nguyên nhân dẫn tới sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là do nhận thức chưa đúng đắn vai trò, tầm quan trọng của học tập, nghiên cứu lý luận dẫn tới những biểu hiện xem nhẹ, coi thường và lười học lý luận chính trị. Đây là một trong những biểu hiện suy thoái rất nguy hiểm. Vì khi cán bộ, đảng viên không có đủ kiến thức lý luận sẽ dẫn tới việc có thái độ né tránh hoặc không dám bày tỏ quan điểm cá nhân trong tranh luận, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch. Thậm chí có thể dẫn đến nguy cơ rất lớn như Đảng ta nhiều lần cảnh báo: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.

Lười học, ngại học lý luận là căn bệnh cần phải chữa trị kịp thời mà liều thuốc hữu hiệu là thường xuyên học tập, nghiên cứu lý luận chính trị ở các môi trường khác nhau. Nghị quyết số 21-NQ/TW còn nhấn mạnh: “Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đảng viên. Chủ động nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước những vấn đề phát sinh; tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch… Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên”.

Học tập, nghiên cứu lý luận chính trị không những giúp cho người học có sự hiểu biết sâu sắc, đầy đủ, toàn diện hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn củng cố niềm tin và bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp và tinh thần yêu nước cho cán bộ, đảng viên. Mặt khác, việc học tập và nghiên cứu lý luận chính trị còn hình thành cho người học thế giới quan, phương pháp luận cách mạng, khoa học, từ đó vận dụng vào thực tiễn cuộc sống và giải quyết công việc hiệu quả.

Nâng cao năng lực đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, nhất là cuộc đấu tranh “không tiếng súng” trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, yếu tố con người luôn giữ vai trò quan trọng nhất. Khi lực lượng này hùng hậu, tinh nhuệ, nhạy bén, có trình độ, nghiệp vụ sẽ tạo nên sức mạnh như những “lá chắn”, “tấm phên dậu” mà các thế lực thù địch không thể, không dám tuyên truyền hay có những hành vi kích động, chống phá. Xác định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ, nhiệm vụ xây dựng lực lượng đấu tranh là việc làm mang tính cấp bách. Trong đó, lực lượng nòng cốt được xác định là ngành tuyên giáo các cấp, các cơ quan nghiên cứu khoa học, giảng dạy lý luận, các ban đảng, cơ quan truyền thông, thông tin các cấp, lực lượng Công an, Quân đội, hệ thống Ban Chỉ đạo 35, các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng hiện nay là nhiệm vụ trọng yếu trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ những khó khăn, thách thức; xây dựng bản lĩnh, trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Theo số liệu thống kê, đầu năm 2023, Việt Nam có 77,93 triệu người dùng in-tơ-net, chiếm 79,1% tổng dân số. Ngoài ra, số lượng người dùng mạng xã hội cũng đạt con số 70 triệu, tương đương với 71% tổng dân số. Các ứng dụng điển hình như Facebook có 66,2 triệu người dùng, YouTube có 63 triệu người dùng, Instagram có 10,35 triệu người dùng, TikTok có 49,86 triệu người dùng từ 18 tuổi trở lên tại Việt Nam[5]. Nếu không kiểm soát được luồng thông tin với số lượng người dùng lớn sẽ gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng. Do vậy việc học tập, nghiên cứu lý luận chính trị là việc làm mang tính bắt buộc, thường xuyên để mỗi người có kiến thức, kỹ năng, năng lực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Một số giải pháp
Để nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn hiện nay, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của việc học tập lý luận chính trị
Nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp là yếu tố hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến chất lượng học tập lý luận chính trị, khắc phục tình trạng lười học tập lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cần tăng cường công tác tuyên truyền, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên, bí thư, phó bí thư cấp uỷ trong việc học tập, truyền đạt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.

Thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về vai trò của việc học tập lý luận chính trị. Chú trọng công tác giáo dục lý luận chính trị, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảm bảo chặt chẽ, nghiêm túc, tránh tình trạng quán triệt, triển khai qua loa, hình thức, chiếu lệ, xem nhẹ việc học lý luận chính trị.

Người đứng đầu phải xem trọng việc chuẩn hóa và nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên thông qua các hình thức khác nhau: Tuyên truyền thông qua sinh hoạt chi bộ, họp cơ quan, cử đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá, lấy kết quả học tập, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nghiên cứu lý luận chính trị làm thước đo để phân loại, đánh giá cán bộ, đảng viên.

Hai là, tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ, sáng tạo khâu biên soạn giáo trình, tài liệu. Đào tạo, bồi dưỡng gắn với nhu cầu xã hội, bồi dưỡng theo các chức danh nghề nghiệp giúp người học nâng cao nhận thức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn, gắn liền với điều kiện tự nhiên, văn hoá vùng, miền, thường xuyên cập nhật những tri thức mới của nhân loại. Việc đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, tránh trùng lắp giữa các chương trình (sơ cấp, trung cấp, cao cấp lý luận chính trị…) sẽ giúp học viên hứng thú hơn trong học tập. Nội dung, chương trình lý luận chính trị phải đảm bảo vừa trang bị cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học và kiến thức mới, đảm bảo người học sau khi học xong chương trình lý luận chính trị có khả năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phòng, chống những quan điểm sai trái, thù địch.

Ba là, đổi mới công tác nghiên cứu lý luận chính trị
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để thiết lập hệ thống luận cứ, luận điểm đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chú ý nhận diện những vấn đề mà các thế lực thù địch tập trung chống phá. Tập trung bảo vệ và lan tỏa những nội dung mới, tầm nhìn, định hướng, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược của Đảng, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận; trong đó, chú trọng bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề lý luận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh trong tình hình mới... Nghiên cứu trên quan điểm khách quan, khoa học những tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, tiến bộ để chắt lọc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Đội ngũ các nhà nghiên cứu, giảng viên giảng dạy lý luận chính trị cần nâng cao năng lực dự báo, cập nhật, phân tích tình hình trong nước và quốc tế nhằm cung cấp nhanh chóng những thông tin khách quan cho Đảng, cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tránh tình trạng nhân dân không có hoặc chậm có thông tin chính thống dẫn đến hoang mang, dạo động trước những viện dẫn của các lực lượng thù địch.

Bốn là, nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị
Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị phải thường xuyên trau dồi, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nắm vững bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hiểu và phân tích lý giải được một cách khoa học biện chứng cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước gắn với thực tiễn cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên lý luận chính trị luôn phải cập nhật tri thức hiện đại về toàn cầu hóa, cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức; những mâu thuẫn và những đặc điểm mới của thời đại và những vấn đề toàn cầu; về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về những học thuyết (triết học, kinh tế, chính trị, tư tưởng, xã hội…) ngoài Mác xít.

Cùng với đó, giảng viên lý luận chính trị luôn phải bám sát thực tiễn để có vốn thực tiễn phong phú; thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm (cả thành công và thất bại) trong quá trình đổi mới đất nước. Có như vậy mới đáp ứng được trình độ hiểu biết ngày càng cao về văn hóa và chính trị của đông đảo người học.

Mặt khác, giảng viên lý luận chính trị cũng phải thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy. Những yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lý luận chính trị hiện nay là giảng viên phải thành thạo các kỹ năng giảng dạy. Tổ chức lớp học một cách khoa học, hợp lý, biết cách đặt vấn đề cho các tình huống và dẫn dắt thảo luận, phản biện đưa ra những nhận xét, đánh giá thỏa đáng. Giảng viên cần nghiên cứu tổ chức các hoạt động nhóm, thảo luận, tranh luận về lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, giúp học viên có thể liên hệ, vận dụng vào thực tiễn công việc tại cơ quan, đơn vị mà mục đích chính là làm cho nhận thức sát với thực tiễn trong quá trình giảng dạy, học tập, nghiên cứu lý luận chính trị./.
Yêu nước ST.