Thứ Ba, 24 tháng 9, 2024

Phát huy sức mạnh nhân dân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

 Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, Đảng cần phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân. Bài viết phân tích tính cấp bách của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay và sự cần thiết phát huy sức mạnh của nhân dân trong cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, qua đó xác định những vấn đề mới cần lưu ý để nâng cao sức mạnh, hiệu quả của cuộc đấu tranh.

Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm: Nhân dân là động lực và mục tiêu của cách mạng. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra chiến lược phát huy sức mạnh nhân dân để xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Để đạt mục tiêu đó, cách mạng Việt Nam nhất thiết phải đẩy lùi nguy cơ “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch gây ra. Đây là trận chiến cam go, muốn giành được thắng lợi thì phát huy tối đa lực lượng và sức sáng tạo của nhân dân vào cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là giải pháp trọng yếu.

1. Tính cấp bách của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và sự cần thiết phát huy sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta nhất quán thi hành chính sách ngoại giao hòa bình, hữu nghị và hợp tác, nhưng cách mạng Việt Nam vẫn luôn là mục tiêu tấn công của các thế lực thù địch. Bởi vì, sau khi chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, phong trào cộng sản rơi vào thoái trào, kẻ thù của CNXH đắc ý tuyên bố về “sự cáo chung” của học thuyết Mác và tương lai vĩnh hằng của CNTB. Thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam và ở một số nước theo định hướng XHCN đã phản bác lại luận điệu đó. Do đó, cách mạng Việt Nam đã trở thành “tâm điểm” chống phá của các thế lực thù địch.

Để xác định đâu là thế lực thù địch, cần dựa vào quan điểm của Hồ Chí Minh về “Bạn - Thù”: “ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù”(1). Do đó, tất cả những ai - cá nhân hay tổ chức, nhà nước hay phi chính phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ở ngoài nước, người Việt Nam hay người nước ngoài... nếu có âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” để chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam đều là thế lực thù địch.

Lực lượng này đa dạng về thành phần: đó là những kẻ có tư tưởng chống cộng quyết liệt, có mối thâm thù với chủ nghĩa cộng sản; là các tổ chức người Việt cực đoan, phản động như: Việt Tân, Việt Nam phục quốc, Triều đại Việt... có mưu đồ tạo phản; là một số cán bộ, đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chống Đảng, chống nhân dân. Với mục đích thâm độc là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thể chế chính trị ở nước ta, các thế lực thù địch đã tung ra vô vàn luận điệu sai trái, phản động: (1) Tấn công, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng - chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kêu gọi “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”; (2) Xuyên tạc, công kích quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao; (3) Phủ nhận mọi thành tựu của sự nghiệp đổi mới; (4) Xuyên tạc đời tư của các lãnh tụ và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước; (5) Xuyên tạc mục tiêu, bản chất cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng; (6) “Đánh đồng” sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên thành bản chất của Đảng; (7) “thổi phồng” những yếu kém trong lãnh đạo, quản lý thành “lỗi hệ thống”, không thể sửa chữa... Không đấu tranh, phản bác các quan điểm xấu độc đó, một bộ phận dân chúng, đặc biệt là lớp trẻ, có thể bị dẫn dụ đến các nhận thức và hành động sai lầm, gây hại cho bản thân nhân dân, Tổ quốc.

Luôn cảnh giác với âm mưu của các thế lực thù địch, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) của Đảng đã xác định “diễn biến hòa bình” là một trong bốn nguy cơ lớn mà cách mạng Việt Nam phải đấu tranh, phòng ngừa. Vì thế, nhiệm vụ “phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch” đã được Đại hội VIII đưa vào văn kiện Đại hội và nhấn mạnh trong các Đại hội IX, X, XI của Đảng. Đại hội XII của Đảng xác định, “chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”(2) là một nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng về tư tưởng.

Cụ thể hóa chủ trương đó, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết chỉ rõ, “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”.

Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”(3) để bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc XHCN. Ông cha ta từng đúc kết “Dân là dân nước, nước là nước dân”(4); sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là sức mạnh của lực lượng vũ trang mà trước hết là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh lòng dân, niềm tin của nhân dân dành cho Đảng. Do đó, phải phát huy sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ do mình là chủ. Tính tất yếu, đúng đắn của chủ trương này được quy định bởi những điều sau:

Trước hết, phát huy sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là tiếp tục truyền thống toàn dân đánh giặc, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam trong hoàn cảnh mới. Từ bao đời nay, nhân dân không chỉ là lực lượng bảo vệ Tổ quốc mà còn có sức mạnh, là nhân tố quyết định sự thịnh suy, tồn vong của một chế độ. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta trong thời kỳ đổi mới rút ra kinh nghiệm: “Lấy dân làm gốc” hay “Dân là gốc”. Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(5). Trong thời đại Hồ Chí Minh, yêu nước phải gắn liền với yêu CNXH, bảo vệ Tổ quốc thì phải bảo vệ Đảng. Các thế lực thù địch tấn công vào Đảng, vào chế độ tức là tấn công vào nhân dân, đe dọa cuộc sống yên bình của nhân dân nên nhân dân phải là lực lượng chủ đạo trong cuộc đấu tranh với chúng.

Thứ hai, phát huy sức mạnh của nhân dân vào việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chính là trung thành với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. V.I.Lênin khẳng định, “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”(6) nên một Đảng chân chính phải biết phát huy sức mạnh của nhân dân để giành thắng lợi trước mọi sự tấn công của các thế lực thù địch.

Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”(7). Tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân, Người đã đề ra và thực hiện tư tưởng khởi nghĩa toàn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân để phát huy sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Khẳng định lại quan điểm đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Ðảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(8). Nền tảng tư tưởng của Đảng là cơ sở lý luận khoa học để Đảng lãnh đạo đất nước, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân nên phát huy sức mạnh của nhân dân để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là việc làm hợp quy luật và thuận lòng dân.

Thứ ba, trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch tất yếu phải dựa vào dân bởi nhân dân chính là đối tượng tấn công, lôi kéo của các thế lực thù địch. Chúng biết rằng, sức mạnh của Đảng, của chế độ bắt nguồn từ sự ủng hộ của nhân dân; do đó, đưa ra các luồng tin xấu độc để ly gián dân và Đảng là mưu kế thâm độc của chúng. Nếu để lực lượng thù địch thao túng, “mị dân” thì vô cùng nguy hiểm vì mất dân là mất nước. Nhân dân chính là nền tảng dư luận xã hội, tạo dựng được dư luận xã hội đúng đắn chính là tạo xung lực cho sự phản bác, tạo tính áp đảo, “sự miễn dịch” trước các luận điệu xuyên tạc, thù địch.

Do đó, nhân dân là “bức tường thành” kiên cố để vô hiệu hóa âm mưu lôi kéo, ly gián của địch. Đúng như Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc chính là “Đại đoàn kết toàn dân” nên các tầng lớp nhân dân là cơ sở xã hội để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc - sức mạnh vô địch và “pháo đài kiên cố” nhất để ngăn chặn mọi sự tấn công của địch.

Thứ tư, sự cần thiết phải phát huy sức mạnh nhân dân vào cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn bắt nguồn từ việc nhân dân chính là lực lượng chính giúp Đảng phát hiện các âm mưu và các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, nhất là trên không gian mạng. Hồ Chí Minh từng nói: Lực lượng quân đội, công an rất nhỏ bé so với nhân dân nên muốn chống bọn xâm lược và bọn phá hoại thì phải dựa vào dân.

Việt Nam là đất nước có số lượng người dân sử dụng internet và mạng xã hội rất cao; người dân có mặt ở mọi nơi, mọi lúc nên dễ dàng phát hiện, nhận diện được đối tượng, nội dung, phương thức, thời điểm chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Bức xúc trước các chiêu trò kích động, bịa đặt, xuyên tạc của chúng, nhiều người dân đã dùng các trang mạng xã hội (facebook, youtube, twitter, zalo...) của mình để phản bác lại các kênh “truyền thông bẩn”. Đảng cần nâng cuộc đấu tranh mang tính “tự phát” của quần chúng lên trình độ “tự giác” và tổ chức toàn dân tham gia “chống giặc trên không gian mạng” để nâng cao sức mạnh của cuộc đấu tranh và qua đó, ý thức chính trị của người dân cũng được nâng cao.

Thứ năm, chủ trương huy động sức mạnh của nhân dân vào cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng sẽ khơi nguồn cho sức sáng tạo vô tận trong nhân dân để hình thành nên sự đa dạng, phong phú của các hình thức đấu tranh. Nói về trí tuệ vô tận của nhân dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(9). Ngày nay, khi trình độ dân trí không ngừng được nâng cao, mỗi người dân là một chủ thể tư duy, hành động với năng lực sáng tạo không giới hạn. Do đó, khơi nguồn và phát huy được sức sáng tạo đó thì cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng sẽ mang vóc dáng của cuộc chiến tranh nhân dân với sự đa diện, đa sắc thái, làm cho thế lực thù địch khó lòng chống đỡ.

Khi “Dân là gốc của nước” thì muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình”, Đảng phải dựa vào dân và phát huy sức mạnh vô địch của nhân dân.

2. Vấn đề mới trong phát huy sức mạnh của nhân dân vào cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

So với các cuộc kháng chiến trước đây, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, cần nhận thức rõ những điểm mới để tìm ra cách thức đấu tranh phù hợp. Bước đầu, có thể xác định một số vấn đề mới sau:

Thứ nhất, hoàn cảnh đấu tranh mới

Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng ngày nay diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp. Trên thế giới, sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã làm xuất hiện trong một bộ phận cán bộ và nhân dân tâm lý hoài nghi về tính chân xác trong nền tảng tư tưởng của Đảng và định hướng XHCN của đất nước. Đây chính là “mảnh đất màu mỡ” cho sự xâm nhập của các luận điệu sai trái, thù địch. Quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ trên thế giới đã tạo ra nhiều sự phát triển mới của các quốc gia nhưng đi kèm với nó là những âm mưu thâm độc do thế lực thù địch mang lại. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra một hình thức chiến tranh mới là chiến tranh mạng. Các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị đã triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội, các hình thức truyền thông mới để tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng tận dụng tối đa hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài, các kênh Facebook, Youtube... mà hầu hết máy chủ đặt ở nước ngoài để phát tán các tin, bài bình luận, video - clip có nội dung xấu độc, để lừa mị dân chúng. Chúng khai thác lỗ hổng bảo mật của các website, cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước để chèn thêm đường dẫn (link) đăng tải nội dung, thông tin giả mạo để làm sai lệch bản chất thông tin nhằm dẫn dắt dư luận, làm người đọc mơ hồ mất cảnh giác, từ đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trước sự tiện dụng của mạng xã hội, không ít cán bộ, đảng viên thường xuyên tiếp xúc với các nguồn tin, không được kiểm chứng và bị phân tâm trước những nguồn thông tin đó.

Ở trong nước, so với giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, việc đoàn kết lực lượng hiện nay khó khăn hơn. Về điều này, Hồ Chí Minh từng giải thích: “Trong việc phá hoại chống kẻ thù đòi độc lập thì dễ dàng kéo cả toàn dân. Trong việc kiến thiết thì khó kéo hơn, vì nó đụng chạm đến quyền lợi riêng của một đôi giai từng trong nước”(10). Công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu, không ngừng đặt ra những vấn đề rất mới, chưa thể giải quyết dứt điểm. Lợi dụng tình hình đó, thế lực phản động xuyên tạc về năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, mặt trái của kinh tế thị trường đã làm xuất hiện tâm lý “sùng bái đồng tiền” và chủ nghĩa cá nhân. Điều này dẫn tới sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, không còn là hiện tượng cá biệt, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào bộ máy công quyền và tạo cớ để kẻ thù kích động trong nhân dân tâm lý thù ghét, tẩy trừ cán bộ. Những đặc điểm mới trong đời sống thế giới và trong nước đã làm cho cuộc đấu tranh trên địa hạt tư tưởng trở nên rất cấp bách và cam go.

Thứ hai, lực lượng nhân dân tham gia đấu tranh

Khái niệm nhân dân hiện nay rất rộng. Nếu Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định đặc trưng thứ hai của CNXH ở Việt Nam là “Do nhân dân lao động làm chủ” thì đến Cương lĩnh (năm 2011) đã được mở rộng thành “Do nhân dân làm chủ”. Sự thay đổi này đã mở rộng nội hàm nhân dân và thể hiện chủ trương mới của Đảng là phải thu hút sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong cuộc đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, trí thức đóng vai trò quan trọng. Nếu các cán bộ lý luận, các nhà khoa học trực tiếp tham gia “bút chiến” thì đội ngũ giảng viên lý luận chính trị làm nhiệm vụ giáo dục lý tưởng, lập trường cách mạng cho sinh viên, cán bộ, đảng viên, trong đó có đội ngũ nhà báo, văn nghệ sỹ có uy tín góp phần lan tỏa những thông điệp chính trị của Đảng và Nhà nước.

Không chỉ nhân dân trong nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh với các luồng thông tin sai trái, thù địch. Với sự gắn bó với đất nước và sự thấu tỏ bản chất của các tổ chức phản động núp bóng “ngọn cờ yêu nước”, “phục quốc” ở quốc gia họ đang sống, sẽ tạo ra tiếng nói khách quan để bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Việt Nam đang là điểm đến của nhiều nhà đầu tư quốc tế nên cộng đồng người nước ngoài ở Việt Nam khi được tạo điều kiện sinh sống, làm việc tại Việt Nam cũng sẽ góp tiếng nói khách quan để phản bác các quan điểm cực đoan, bôi xấu Việt Nam. Vai trò của các “cộng đồng dân cư” đặc biệt này, nếu được phát huy, sẽ tạo ra xung lực mới để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Thứ ba, nội dung đấu tranh

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là công việc tất yếu của một đảng chính trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin từ khi ra đời, luôn phải đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa xét lại dưới nhiều hình thức. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đối với bọn tờrốtxkít, không thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”(11). Người khẳng định, “đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản”(12) và “tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm”(13).

Phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch là nội dung trọng yếu nhất của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng của Đảng bởi không chỉ thế lực chống CNXH đang ra sức tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng bằng những luồng thông tin thất thiệt mà ngay trong “hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội... Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa”(14).

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thì tất yếu phải phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch nhưng nội dung đấu tranh không được “bó hẹp” trong việc phản bác mà phải hết sức đa dạng.

Do “xây đi đôi với chống”, “xây” là cách “chống” lâu dài và hữu hiệu nhất nên nội dung đấu tranh phải hướng đến việc khẳng định, tuyên truyền cái tốt, cái đúng để củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về tính đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Chúng ta không thể thuyết phục kẻ thù thay đổi quan điểm, mục tiêu chống phá nhưng những thông tin chính thống, tích cực đến với người dân kịp thời, chuẩn xác thì nhân dân không bị các luồng tin độc hại xâm nhập, dẫn dụ.

Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Nếu không muốn để kẻ địch phản tuyên truyền, thì không gì hơn là tránh các khuyết điểm, sửa chữa khuyết điểm”(15). Do đó, chống “giặc ngoại xâm” phải đi đôi với chống “giặc nội xâm”, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vì nếu không có nhân tố bên trong làm “bệ đỡ”, âm mưu “diễn biến hòa bình” không thể thành công.

Để bác bỏ các luận điệu phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phải khẳng định sức sống trường tồn của các di sản đó trong thời đại ngày nay bằng cách chống các quan điểm bảo thủ, giáo điều và phát triển mạnh mẽ khoa học lý luận chính trị để làm sáng rõ hệ thống lý luận về CNXH ở Việt Nam và thực hiện thắng lợi nó trên thực tế.

Khi phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, điều quan trọng không chỉ là nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn của chúng mà cần phải tìm cách bác bỏ các luận điệu đó một cách thuyết phục ở góc độ lý luận và thực tiễn. Kẻ thù luôn ngụy biện, đánh tráo khái niệm khi xuyên tạc về nền tảng tư tưởng của Đảng và tình hình đất nước, nên lực lượng đấu tranh phải vạch trần những cái giả tạo, sai lầm được che đậy bên trong bằng những hệ thống luận điểm, luận chứng, luận cứ khoa học, thuyết phục chứ không áp đặt, võ đoán, quy kết, định kiến. Nội dung đấu tranh đòi hỏi ở lực lượng “bút chiến” sự thông tuệ về tri thức và sự nhạy cảm chính trị chứ không chỉ đơn thuần là nhiệt tình cách mạng.

Thứ tư, về giải pháp đấu tranh

Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong điều kiện Việt Nam phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đòi hỏi một số giải pháp mới, mang tính đặc thù.

Trước hết, đó là khai thác tối đa sức mạnh của công nghệ thông tin và truyền thông. Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ người dùng internet và dùng mạng xã hội rất lớn. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động tấn công mạnh trên không gian mạng. Thủ đoạn của chúng là “giật tít câu view” để đánh trúng tâm lý tò mò của nhiều người hay bước đầu đưa ra thông tin đúng để gây dựng niềm tin của công chúng rồi sau đó dẫn dắt vào “ma trận” thông tin độc hại, tiêm nhiễm những suy nghĩ lệch lạc, nhất là đối với lớp trẻ.

Mạng xã hội là “không gian ảo” nhưng sức mạnh và mặt trái của nó lại là thật. Do đó, tổ chức nhân dân đấu tranh trực tiếp, trực diện trên không gian mạng và thông qua các phương tiện truyền thông xã hội chính là sự đáp trả quyết liệt nhất. Nhận thức rõ điều này, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 25-7-2018 “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”. Lúc này, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, tăng cường “hàng rào kỹ thuật” hữu hiệu giúp nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin xấu độc trên mạng xã hội; phát hiện, sàng lọc các trang web, mạng xã hội thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, thù địch để ngăn chặn từ sớm, từ xa.

Để nhân dân tích cực tham gia cuộc đấu tranh trên không gian mạng, phải tiến hành tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, phương pháp đấu tranh, đào tạo họ thành “công dân số”, có khả năng hình thành các trang web cá nhân, mở rộng phát triển các blogger, ứng dụng hiệu quả các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại để kịp thời thu nhận và phản bác tức thời các thông tin độc hại. Cán bộ và nhân dân phải được giáo dục về Luật An ninh mạng, về kỷ luật phát ngôn, về trách nhiệm không phát tán, chia sẻ thông tin xấu độc, không nói trái chủ trương, chính sách, pháp luật trên mạng xã hội. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, ký kết các văn kiện hợp tác đa phương và song phương với các nền tảng mạng xã hội nước ngoài để giải quyết từ gốc các thông tin xuyên tạc, sai sự thật. Tóm lại, làm chủ thế trận tiến công, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là một phần của chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Hai là, cần phát huy cao độ vai trò của Ban Chỉ đạo 35 các cấp. Ngoài việc phát huy vai trò của người đứng đầu, cần có phương thức phối hợp hiệu quả giữa những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị với đội ngũ văn nghệ sỹ, chuyên gia kỹ thuật mạng, phóng viên... có nhiệt huyết và tầm cao về lý luận để trực tiếp “bút chiến” với kẻ thù. Cần quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận trẻ bởi cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng là cuộc đấu tranh vừa cấp bách, vừa lâu dài.

Ba là, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng phải được đặt trong chiến lược củng cố Đảng về mọi mặt và phát triển toàn diện đất nước. Nhân dân không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của cách mạng. Do đó, phải kiên trì làm tốt công tác dân vận, công tác tuyên truyền, giáo dục để chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu vào đời sống tinh thần xã hội. Muốn xây dựng “thế trận lòng dân” trong cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch thì Đảng và Nhà nước phải quyết tâm, quyết liệt chỉnh đốn Đảng, đẩy lùi tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường đối thoại với nhân dân để nhân dân thấy Đảng đúng là “Đảng ta”, là đối tượng xứng đáng được bảo vệ.

Cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân để tăng cường niềm tin của nhân dân vào chế độ và tương lai của đất nước; qua đó, tạo sự đồng thuận xã hội trong cuộc đấu tranh “không tiếng súng” mà rất cam go hiện nay.

Đảng chỉ có thể tự bảo vệ mình và được nhân dân bảo vệ, tin tưởng trao quyền lãnh đạo khi thực sự dựa vào dân để vì dân. Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, Đảng cần cụ thể hóa và vận dụng, phát triển sáng tạo nguyên tắc “Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” vào mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng phải thấm nhuần tinh thần ấy.

Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng chống tham nhũng để “bất tuân dân sự”.

 Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch lợi dụng tư tưởng “bất tuân dân sự” để xúi giục, lôi kéo, kích động nhân dân tham gia hoạt động chống phá chính quyền, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội ở nhiều nơi. Đây là hiện tượng phức tạp cần được nhận diện, đấu tranh quyết liệt để bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ hạnh phúc của nhân dân.

Ảnh minh họa: IT

1. Nhận diện “bất tuân dân sự”

“Bất tuân dân sự” là tư tưởng của Henry David Thoreau - nhà văn Mỹ, đề xuất năm 1849. Để biện minh cho việc trốn thuế và phải ngồi tù của mình, Thoreau cho rằng cá nhân trong xã hội không cần phải tuân thủ, phục tùng mệnh lệnh từ nhà nước, nếu thấy những điều luật đó không phù hợp.

Chủ thể thực hiện “bất tuân dân sự” là những cá nhân có tư tưởng cực đoan, bất mãn với chính quyền, phản kháng, bị pháp luật điều chỉnh. Đó có thể là cá nhân, tổ chức, hội nhóm, xuất hiện ở mọi thể chế chính trị.

Về bản chất, đây là tư tưởng cực đoan, vô chính phủ, là những tư tưởng sai trái, thù địch với hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.

Về phương thức, “bất tuân dân sự” thể hiện qua các hoạt động ôn hòa, bất bạo động. Ngày nay, “bất tuân dân sự” được các thế lực thù địch, phản cách mạng sử dụng hòng tiến hành các âm mưu thâm độc nhằm chuyển hóa tư tưởng, nhận thức, hành vi của cá nhân, những lực lượng chống phá cách mạng. Từ đó, gây ra tình trạng mất ổn định chính trị, xã hội, thậm chí bạo loạn lật đổ, chống phá chính quyền thông qua bạo động. Các thế lực đen tối triệt để lợi dụng những hạn chế, yếu kém, sai lầm của chính quyền, nhà nước để tạo ra mâu thuẫn xã hội, qua đó thực hiện đan cài các hành vi chống phá. Những phương thức chủ yếu được sử dụng là lôi kéo, kích động nhân dân tụ tập, tuần hành, biểu tình, tạo dựng phong trào phản kháng trong quần chúng, cản trở quá trình thực thi chính sách, luật pháp của nhà nước, yêu cầu nhà nước phải thay đổi chính sách, luật pháp, thậm chí gây bạo loạn, lật đổ.

Từ khi chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực đế quốc xuất hiện, tư tưởng “bất tuân dân sự” đã trở thành một phương thức, thủ đoạn nhằm lật đổ các phong trào cách mạng, các lực lượng chính trị ở các chế độ xã hội khác nhau, dưới danh nghĩa “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, “cách mạng dù”, “cách mạng nhung”, “cách mạng ca hát”, “cách mạng hoa nhài”… ở Ả Rập, Tiệp Khắc, một số nước Bắc Phi, Trung Đông, Vênêduêla, Hồng Kông (Trung Quốc)…

Ở Việt Nam, việc lan truyền, reo rắc tư tưởng “bất tuân dân sự” chính là âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hòng lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam. Những năm qua, một số nơi đã diễn ra nhiều hiện tượng thể hiện “bất tuân dân sự”, như: “bất tuân cưỡng chế” khi giải phóng mặt bằng, đòi lập các tổ chức xã hội dân sự, phản đối Luật An ninh mạng, phản đối trả phí BOT giao thông, vu khống vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo… Các đối tượng thường dùng thủ đoạn kêu gọi, gặp gỡ, xúi giục, lôi kéo, mua chuộc, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của nhân dân để kích động tâm lý đám đông vào những dịp có sự kiện chính trị quan trọng, ở phạm vi lớn.

2. Âm mưu lợi dụng đấu tranh chống tham nhũng để “bất tuân dân sự”

Thời gian gần đây, trước việc nhiều vụ án tham nhũng liên quan đến số lượng lớn cán bộ từ trung ương đến địa phương được đưa ra xử lý, các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền, xúi giục với tư tưởng “bất tuân dân sự”, nhằm nói xấu cán bộ, chống đối chính quyền, bóp méo bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, hạ thấp vai trò lãnh đạo và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước XHCN Việt Nam, gây ra những bất ổn về chính trị xã hội ở một số nơi, một số thời điểm.

Thực tế là, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã có hàng nghìn cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có những cán bộ chủ chốt đã bị khởi tố điều tra vì các tội lợi dụng chức vụ, tham nhũng. Điều này đã ảnh hưởng nhất định đến niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước. Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta” (1).

Tuy nhiên, cần phải nhận thức rằng, tham nhũng là “căn bệnh” của mọi nhà nước, mọi chế độ có giai cấp, không phải tham nhũng chỉ xuất hiện trong chế độ XHCN như các thế lực thù địch tuyên truyền, xuyên tạc. Trong tác phẩm Nguồn gốc gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước, Ph.Ăngghen viết: “Chính những lợi ích thấp hèn nhất - tính tham lam tầm thường, lòng khao khát hưởng lạc thô bạo, tính bủn xỉn bẩn thỉu, nguyện vọng ích kỷ muốn ăn cắp của công... đã làm suy yếu xã hội thị tộc không có giai cấp và đưa xã hội đó đến chỗ diệt vong”(2). V.I.Lênin cũng nhấn mạnh, tham nhũng do tư tưởng lạm dụng quyền lực của những người có chức có quyền, có đặc quyền đặc lợi gây ra. Hiện tượng này xuất hiện trong các chế độ chính trị đã có trong lịch sử, từ khi có nhà nước. Trải qua các giai đoạn lịch sử, từ chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, TBCN, hiện tượng tham nhũng luôn tồn tại ở những mức độ, tính chất khác nhau. Rất nhiều các thể chế chính trị, các hình thái nhà nước đã sụp đổ bởi hiện tượng tham nhũng trong bộ máy gây ra.

Ngay trong chế độ tư bản hiện đại, hiện tượng tham nhũng vẫn tồn tại và ngày càng phức tạp cả về mức độ, tính chất và hậu quả mà nó mang lại. Những vụ án tham nhũng lớn trên thế giới gần đây đã chứng minh rằng, tham nhũng luôn tồn tại ở các thể chế chính trị. Rất nhiều lãnh đạo của các nhà nước kể cả tổng thống đã bị luận tội, phế truất liên quan đến tham nhũng.

Nhìn vào bảng xếp hạng các quốc gia theo mức độ tham nhũng trong khu vực công của Tổ chức Minh bạch quốc tế tại 180 quốc gia/vùng lãnh thổ trên thế giới năm 2023 đã cho thấy tham nhũng có ở hầu hết các nước trên thế giới, với những mức độ khác nhau. Do vậy, không thể quy chụp, cho rằng chỉ có chế độ XHCN mới tồn tại tham nhũng.

Biểu 1. Bảng xếp hạng các quốc gia theo mức độ tham nhũng trong khu vực công.

Nguồn: www.transparency.org/cpi

Trong những năm qua, các thế lực thù địch lợi dụng sự thiếu thông tin của một bộ phận nhân dân để tuyên truyền, kích động, xúi giục những hành vi “bất tuân dân sự” đối với các cấp chính quyền, với lý do là chủ trương, kế hoạch, dự án đó có liên quan đến tham nhũng, tiêu cực. Những hành vi này gây nguy cơ mất ổn định chính trị, thậm chí là bạo loạn, làn sóng chống đối, lật đổ chính quyền. Cùng với đó, các thế lực thù địch lồng ghép, đan cài những thông tin không chính xác về những hiện tượng tiêu cực ở nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, liên quan đến công tác cán bộ để quy chụp, ngụy biện, làm sai bản chất của vấn đề, qua đó kêu gọi biểu tình, chống đối chính quyền bằng những hành vi vi phạm pháp luật.

Có thể khẳng định, từ khi lịch sử xã hội loài người xuất hiện nhà nước đến nay, không một nhà nước hay một thể chế chính trị nào cho phép “bất tuân dân sự”. Bởi lẽ, về nguyên tắc, hiến pháp, pháp luật là ý chí, nguyện vọng của đông đảo nhân dân, là “khế ước” nhằm duy trì trật tự xã hội và thực hiện những lợi ích xã hội phổ biến của nhân dân. Vì vậy, khi pháp luật đã được xác lập thì không một cá nhân nào được quyền chống đối, không thực hiện. Chỉ khi nhà nước của giai cấp áp bức bóc lột, độc tài, giai cấp thống trị không thực hiện những lợi ích cơ bản đã được ghi trong pháp luật đối với đại bộ phận nhân dân, không còn đại diện cho lợi ích của nhân dân, quốc gia - dân tộc, nhân dân đấu tranh để lật đổ chế độ đó hoặc thay đổi hệ thống pháp luật.

Tuy nhiên, nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, đó là nhà nước mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Pháp luật của nhà nước đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Nhân dân là chủ thể trực tiếp tham gia xây dựng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ xã hội, bảo vệ tính mạng và của cải của chính mình. Do vậy, không có sự đối kháng giữa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với lợi ích của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” (3). Nhà nước Việt Nam với bản chất là nhà nước XHCN nên tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mọi lợi ích đều vì nhân dân. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã xác định phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”. Phương châm này thể hiện rất rõ bản chất của Đảng, mục đích của Nhà nước XHCN Việt Nam. Nói cách khác, “bất tuân dân sự” là đi ngược lại bản chất của chế độ dân chủ, ngược lại lợi ích chung của toàn thể nhân dân.

Sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Điều đó đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, cũng như năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ.

Về kinh tế: “quy mô GDP của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 433,3 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á và là nền kinh tế lớn thứ 34 trên thế giới. Năm 2024, quy mô GDP của Việt Nam được dự báo đạt khoảng 469,67 tỷ USD”(4). “Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt ngưỡng 4.000 USD/người/năm; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 732 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới và duy trì xuất siêu năm thứ bảy liên tiếp”(5). Đặc biệt, giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam vào top 5 nước có quy mô kinh tế tăng trưởng nhiều nhất thế giới. Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2023 được xếp hạng 46/132 quốc gia nền kinh tế và được đánh giá là một trong 7 quốc gia thu nhập trung bình đạt được nhiều tiến bộ nhất về đổi mới sáng tạo trong thập kỷ qua”(6).

Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với những đối tác rộng lớn, như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam, Hiệp định đối tác toàn diện của ASEAN.... đã khẳng định tiềm lực ngày càng mạnh mẽ của đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Về chính trị: sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ XHCN tiếp tục phát huy được quyền làm chủ của nhân dân. Đảng Cộng sản cầm quyền đã ngày càng khẳng định được vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội; Nhà nước pháp quyền XHCN được xây dựng và ngày càng hoàn thiện, góp phần quan trọng trong bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị và đời sống xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Về xã hội: tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Con người đã trở thành mục tiêu, động lực của sự phát triển. Người dân được hưởng thụ những thành quả của sự nghiệp đổi mới, chất lượng cuộc sống được nâng cao rõ rệt. Tuổi thọ trung bình, giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe… đạt mức độ tương xứng với trình độ phát triển của nhiều nước trên thế giới.

“Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2023 là 73,7 tuổi (năm 2022 là 73,6 tuổi), trong đó nam là 71,1 tuổi và nữ là 76,5 tuổi”(7). Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam ngày càng tăng cao, “Từ năm 1990 đến năm 2022, giá trị HDI của Việt Nam thay đổi từ 0,492 lên 0,726, tăng gần 50%. Việt Nam liên tục đạt được tiến bộ trong 30 năm qua” (8).

Với những thành tựu to lớn đã đạt được, có thể khẳng định, những hành vi xúi giục nhân dân nói xấu cán bộ, chống đối chính quyền, “bất tuân dân sự” thực chất là những quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được trong sự nghiệp cách mạng.

3. Giải pháp đấu tranh, chống âm mưu “bất tuân dân sự”

Để chống lại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng “bất tuân dân sự” liên quan đến tham nhũng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ đòi hỏi phải thực hiện các biện pháp sau:

Thứ nhất, tuyên truyền để nhân dân hiểu đúng bản chất của chế độ chính trị, bản chất của Nhà nước XHCN Việt Nam, không để các thế lực lợi dụng sự thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, tuyên truyền xúi giục, gây kích động, chống phá trong nhân dân.

Thứ hai, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, mạnh mẽ và triệt để hơn. Chủ động phòng ngừa kết hợp với tích cực phát hiện, xử lý nghiêm những hành vi tham nhũng, nhất là tham nhũng chính sách ở mọi mức độ, tính chất. Cùng với đó, xây dựng chính phủ điện tử, minh bạch hóa thông tin, nhất là những thông tin liên quan đến tài sản quốc gia, thu nhập của cán bộ, công chức.

Thứ ba, chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc lại câu thành ngữ: “Dân dĩ thực vi thiên”(9) (tức là dân coi ăn như trời, dân đói thì lòng dân không yên, chính phủ cũng có lỗi). Do vậy, phải đặc biệt quan tâm đến quyền và lợi ích chính đáng, thiết thực của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Phải thực hiện tốt phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho mọi thắng lợi của cách mạng, là cơ sở để củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, cán bộ, mở rộng việc tập hợp, đoàn kết nhân dân. Đảng phải là biểu trưng cho trí tuệ, tình cảm cách mạng, nơi hội tụ mọi ước nguyện giải phóng của quần chúng nhân dân, “thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(10). Trong giai đoạn hiện nay, công tác cán bộ của Đảng có vị trí đặc biệt quan trọng. Vì vậy, phải coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, chỉnh huấn cán bộ, để cán bộ thực sự là “công bộc”, “đầy tớ” thật sự trung thành của nhân dân.

Thứ năm, cần nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội để vận động nhân dân xây dựng và tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng và hành động, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

4. Kết luận

Những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên đã chứng tỏ rằng, “bất tuân dân sự” về thực chất là những tư tưởng sai trái, thù địch, cần phải được nhận diện, lên án. Việc lợi dụng “bất tuân dân sự” để vi phạm pháp luật và các hành vi sai trái cần được đấu tranh quyết liệt và xử lý nghiêm minh. Điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của nhân dân mà còn giữ vững ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc về nền dân chủ ở Việt Nam.

 Trong xã hội hiện đại, dân chủ là một giá trị, một nhu cầu bức thiết của con người, là mục tiêu, động lực của phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định xây dựng một xã hội dân chủ, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy vậy, các thế lực thù địch, phản động đã thường xuyên sử dụng chiêu bài dân chủ để xuyên tạc tình hình đất nước, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Bài viết nhận diện những luận điệu xuyên tạc về tình hình dân chủ ở Việt Nam, từ đó đưa ra các luận cứ góp phần đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc này.

1. Mở đầu

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, một chính thể dân chủ ở Việt Nam đã đời - chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên được tiến hành (tháng 1-1946), một phương thức thực hiện dân chủ phổ biến trên thế giới để bầu ra một chính phủ dân chủ. Cuộc Tổng tuyển cử thành công và bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức được Quốc hội thông qua, đánh dấu sự khởi đầu cho một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trải qua quá trình xây dựng và đổi mới đất nước, nền dân chủ XHCN từng bước được Đảng ta nhận thức, hoàn thiện và phát triển. Dân chủ trở thành một giá trị, một nhu cầu bức thiết của con người, là mục tiêu, động lực của phát triển. Tuy vậy, với âm mưu thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động và cả những kẻ cơ hội chính trị đã sử dụng vấn đề dân chủ để xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Vì vậy, cần nhận diện các quan điểm sai trái, từ đó đấu tranh phản bác các thủ đoạn này.

2. Những luận điệu vu cáo, xuyên tạc về tình hình dân chủ ở Việt Nam

Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, các thế lực thù địch ngày càng ráo riết đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” hòng chống phá cách mạng nước ta. Các phần tử cơ hội chính trị trong nước liên kết với các phần tử phản động, thù địch bên ngoài để đưa ra các luận điệu vu khống, bịa đặt, xuyên tạc về tình hình dân chủ ở Việt Nam, hòng làm lung lay, xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước. Các “tổ chức dân chủ” phương Tây ra sức tìm mọi cách áp đặt các “tiêu chuẩn dân chủ, nhân quyền” kiểu phương Tây vào Việt Nam. Họ không đặt vấn đề dân chủ đứng riêng mà thường đan cài, lồng ghép với các vấn đề khác như nhân quyền, tôn giáo, dân tộc… hòng tạo hợp lực để chống phá.

Các thủ đoạn thường dùng là bóp méo, xuyên tạc những biểu hiện dân chủ trong đời sống; bịa đặt về tình trạng “không có dân chủ”; lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước của cấp ủy, chính quyền và khai thác các thông tin quốc tế liên quan để xuyên tạc. Các luận điệu họ đưa ra đều khoác vẻ bề ngoài khách quan, khoa học, vì nhân dân, nhưng thực chất đây là những chiêu bài thâm hiểm, với đích cuối cùng là âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới “đa nguyên, đa đảng” và cuối cùng là xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta.

Để vu cáo Việt Nam không có dân chủ, các thế lực thù địch, phản động thường nêu ra luận điệu: Việt Nam “thực hiện chế độ độc Đảng”. Các phần tử cơ hội chính trị hung hăng đòi bỏ Điều 4, Hiến pháp quy định sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội. Họ lặp đi lặp lại luận điệu vu khống: Một Đảng lãnh đạo đã dẫn tới chế độ “Đảng trị”, gây tai họa cho xã hội. Mô tả Đảng ta có “một bộ máy độc đoán, độc tài, toàn trị”, “đầy rẫy tham nhũng, phản dân chủ”… Những luận điệu trên còn được các nghị sĩ của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ liên tục đưa ra trong nhiều năm. “Dự thảo đạo luật nhân quyền Việt Nam” do Hạ viện Mỹ thông qua vào tháng 9 năm 2001 và năm 2004 ghi tại điều 1: “Việt Nam là một quốc gia độc đảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam cai trị và kiểm soát”(1).

Trên một trang website có tên gọi “Dân chủ”, họ trắng trợn vu cáo: “Do sự hiện hữu của độc quyền chuyên chế đảng trị, dân tộc Việt Nam không chỉ khó thực hiện lý tưởng dân chủ mà còn khó tận hưởng các quyền tự do căn bản”. Các phần tử cơ hội chính trị ra sức chứng minh rằng một đảng lãnh đạo là mâu thuẫn với triết học mácxít, bởi theo C.Mác, thượng tầng kiến trúc phản ánh cơ sở hạ tầng. Họ cho rằng, khi Việt Nam đã phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì đương nhiên thượng tầng kiến trúc phải chuyển sang chế độ đa đảng. Thậm chí “chỉ có chế độ đa đảng thì người lãnh đạo mới chính đáng”. Theo họ, nền dân chủ tư sản phương Tây mới là nền dân chủ lý tưởng. Họ nhấn mạnh: “Thật rõ ràng là có một bộ phận người nắm quyền lực thực hành chuyên chính với toàn xã hội… Trong khi ấy, mọi người chỉ cần được dân chủ bằng một nửa dân chủ tư sản”.

3. Tìm hiểu bản chất của nền dân chủ tư sản

Theo học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng - các quan hệ kinh tế - phản ánh vào thượng tầng kiến trúc và quyết định thượng tầng kiến trúc. Song, đó chắc chắn không phải là sự phản ánh máy móc, có bao nhiêu thành phần kinh tế thì có bấy nhiêu đảng phái và chính quyền tương ứng. Đối với nhà nước, cơ sở hạ tầng chỉ phản ánh vào thượng tầng kiến trúc các quan hệ thống trị, chi phối. Ở các nước tư bản, thành phần kinh tế tư nhân giữ vai trò chi phối thì thượng tầng kiến trúc phản ánh các quan hệ ấy bằng việc ra đời các đảng của giai cấp tư sản thống trị.

Dưới chế độ XHCN, do kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tất nhiên, cơ sở hạ tầng ấy quyết định, phản ánh vào thượng tầng kiến trúc thông qua Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo. Đó là điểm cơ bản trong lý luận hình thái kinh tế - xã hội.

Chế độ một đảng hay đa đảng là do các quan hệ kinh tế, chính trị và tương quan giữa các giai cấp của xã hội đó quy định, tuyệt đối không quyết định việc có dân chủ trong xã hội hay không. Dân chủ là nấc thang văn hóa của nhân loại. Dân chủ là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động; đạt được nhiều hay ít phụ thuộc vào giai cấp thống trị trong xã hội đó có đại diện cho lợi ích của sự phát triển tiến bộ hay không. Một giai cấp đã lỗi thời, lạc hậu, lợi ích không phù hợp với lợi ích của nhân dân thì dù có nhiều đảng hay một đảng vẫn không thể thực hiện được nền dân chủ thực sự. Lịch sử nhân loại chứng minh, phát xít Hítle đã cầm quyền thông qua một cuộc bầu cử dân chủ, nhưng không vì thế mà có dân chủ. Hoặc, các nước như Malaixia, Xinhgapo… là những nước có một đảng cầm quyền duy nhất và là những nước có nền dân chủ phát triển.

Nền dân chủ tư sản là một bước tiến lớn của nhân loại so với chế độ phong kiến. Ở nhiều nước tư bản hiện nay, do thành quả đấu tranh của nhân dân, giai cấp tư sản buộc phải điều chỉnh theo hướng cải cách dân chủ nhất định. Giai cấp tư sản phải công nhận các lực lượng đối lập, kể cả các đảng cộng sản trong đời sống chính trị. Song, bản chất của chế độ dân chủ đó vẫn là nền dân chủ của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Mặc dù đa đảng, nhưng quyền thống trị vẫn là đảng của giai cấp tư sản. “Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”(2).

Như vậy, vấn đề dân chủ không phải ở chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng hay một đảng; vì đa đảng ở các nước tư bản hiện nay thực chất không phải dân chủ đối với nhân dân mà chỉ là loại hình dân chủ tư sản mà thôi. Bởi lẽ, “Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”(3). Trong khi đó, ở Việt Nam, nhân dân ta khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội…, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(4).

4. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nơi mọi quyền lực thuộc về nhân dân

Dân chủ luôn là vấn đề lớn, được đề cập trong văn kiện của các kỳ đại hội của Đảng. Trong quá trình đổi mới đất nước, nhận thức về dân chủ của Đảng ta ngày càng hoàn thiện, trở thành chủ trương, chính sách và đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành động lực phát triển đất nước. “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”(5).

Trở thành Đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân đấu tranh, phấn đấu vì một nền dân chủ thực sự của nhân dân, gắn liền với công bằng xã hội, xóa bỏ áp bức, bất công. Từ thân phận nô lệ, nhân dân ta trở thành người chủ đất nước. Từ thân phận làm thuê, chịu bóc lột, nhân dân ta làm chủ cuộc sống của mình, từng bước xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Dân chủ trong chế độ ta thực hiện dưới nhiều hình thức, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và được pháp luật bảo đảm. Cơ chế vận hành nền dân chủ ở nước ta được xác định là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Để cụ thể hơn nữa, Đại hội XIII đã xác định rõ hơn cơ chế để thực thi dân chủ là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”(6). Đây là cơ chế đúng đắn, phù hợp với thực tế lịch sử và xu thế của thời đại.

Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam

Trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, bao gồm:

Một là, dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân(7).

Hai là, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc pháp quyền. Một nhà nước đủ năng lực, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực(8).

Ba là, mọi cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến cơ sở do nhân dân bầu ra bằng các cuộc bầu cử dân chủ, đại diện cho quyền lực của nhân dân, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương thông qua chức năng lập hiến, lập pháp, ra quyết định; thực hiện giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước(9).

Bốn là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. “Nhân dân là trung tâm”, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN(10).

Năm là, trong chế độ chính trị XHCN, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ(11).

Sáu là, các phương thức thực thi dân chủ cơ bản gồm: thông qua Nhà nước pháp quyền; thông qua Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên khác, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò nòng cốt chính trị để nhân dân làm chủ(12).

Bảy là, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng và của hệ thống chính trị(13).

Tám là, nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội(14).

Trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, nhân dân làm chủ không chỉ bằng Nhà nước pháp quyền, mà còn làm chủ thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đây là một hình thức dân chủ đại diện ngoài Nhà nước rất quan trọng mà thông qua đó, nhân dân có thể tham gia quản lý Nhà nước, phát huy được năng lực chủ động và sáng tạo trong đời sống chính trị - xã hội. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”(15).

Tuy nhiên, trong quá trình hoàn thiện nền dân chủ, chúng ta còn có thiếu sót, khuyết điểm. Ở một số nơi vẫn còn hiện tượng mất dân chủ hay dân chủ hình thức, hoặc có biểu hiện của “dân chủ quá trớn”, bất chất luật pháp, kỷ cương xã hội. Đảng đã nhìn nhận: quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Không ít trường hợp, việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; hoặc bị lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng tới trật tự, an toàn xã hội.

Mặc dù còn có khuyết điểm, song những thành tựu trong phát triển nền dân chủ XHCN ở nước ta là không thể phủ nhận.

Những luận điệu xuyên tạc của các phần tử phản động, thù địch rêu rao “độc đảng tất yếu dẫn đến độc đoán, độc quyền, độc tài, mất dân chủ” là một cách suy diễn đầy ác ý, cố tình phủ nhận sự thật. Bởi lẽ, Đảng ta luôn đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước. Kể từ Đại hội VI của Đảng, vai trò chủ thể quyền lực của người dân đã được tổng kết, cụ thể hóa thành luận điểm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đến Đại hội XIII, được bổ sung trở thành “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Sự bổ sung này tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể quyền lực, chủ thể xã hội là nhân dân.

Đảng ta xác định, cần “Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức”(16); “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(17).

Vu cáo Việt Nam “thực hiện chế độ độc đảng, độc tài” là sự vu cáo trắng trợn. Nhìn lại lịch sử, không phải ngay khi ra đời năm 1930, Đảng ta đã có được sự thừa nhận của toàn dân. Chính bằng đường lối cách mạng đúng đắn, tất cả vì đất nước, vì nhân dân, trong đó có sự tận tụy, trung thành và sự hy sinh quả cảm của hàng triệu đảng viên cộng sản mới được nhân dân tin yêu, trao sứ mệnh cao cả. Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 4 về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội không phải là sự áp đặt mà là ý nguyện của toàn dân.

Hiến pháp năm 2013 đã ghi rõ: Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật(18). Những người có ý kiến phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam từ độc đảng sinh ra độc đoán, độc tài thường bỏ qua thực tế là trong đường lối lãnh đạo của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn kiên trì giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, phấn đấu không mệt mỏi vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xã hội XHCN mà Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng là xã hội do nhân dân lao động làm chủ và thực sự làm chủ. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân(19).

Tại Đại hội XIII của Đảng, lần đầu tiên, “mối quan hệ giữa thực hành dân chủ  tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” được chính thức bổ sung vào các mối quan hệ lớn(20). Điều này phản ánh tầm quan trọng của vấn đề dân chủ khi được đặt vào những vấn đề lý luận cốt lõi của Đảng. Do đó, đòi hỏi phải được nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện hiệu quả.

Để thực sự phát huy quyền làm chủ của mỗi người dân, để mỗi công dân thể hiện đầy đủ nhất quyền và trách nhiệm làm chủ của mình, cần tiếp tục đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng và đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội. Cần khẳng định rõ, dân chủ hay không dân chủ, dân chủ nhiều hay ít, dân chủ thực sự hay dân chủ hình thức… không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay nhiều đảng. Không phải chỉ có “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mới có dân chủ. Dân chủ có hay không, xét đến cùng và quan trọng nhất, thể hiện ở nơi quyền lực và quyền lợi có thuộc về nhân dân hay không.

Cần khẳng định dứt khoát, trong khi phấn đấu để có dân chủ thực sự đối với nhân dân, Việt Nam không chấp nhận cái gọi là “dân chủ đa nguyên”, dân chủ với cả những thế lực chống lại nhân dân. Không thể để những cá nhân và tổ chức chống đối, phản cách mạng, có hành vi chống Đảng, Nhà nước, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân lại đòi hỏi được quyền dân chủ như những công dân, tổ chức sống và làm việc thượng tôn pháp luật. Không một quốc gia nào dung túng cho những hành vi vi phạm pháp luật, chống lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Dân chủ phải đi cùng với kỷ cương, kỷ luật, điều mà những kẻ chống phá xuyên tạc là “kiềm chế dân chủ”. Bởi, dân chủ muốn được thực thi nhất thiết phải có pháp luật bảo đảm vì pháp luật là công cụ để quản lý xã hội và thực thi quyền làm chủ của người dân. Pháp luật không cho phép bất cứ người nào lợi dụng quyền dân chủ để vi phạm luật pháp và vi phạm quyền làm chủ của người khác. Về bản chất, những người phê phán “Việt Nam không có dân chủ”, núp dưới khẩu hiệu đòi đa nguyên chính trị, đa đảng lãnh đạo thực chất muốn hợp pháp hóa vai trò của các lực lượng chính trị phản động.

6. Kết luận

Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, xây dựng chế độ dân chủ là sự nghiệp cách mạng, là quá trình đấu tranh không ngừng giữa thực thi dân chủ với vi phạm quyền làm chủ, giữa dân chủ thực sự với dân chủ hình thức, giữa thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp luật với các khuynh hướng vô chính phủ, dân chủ cực đoan… Trước những cá nhân và các thế lực muốn lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định chính trị, phá hoại chế độ dân chủ của nhân dân, nhân dân ta cần kiên quyết đấu tranh và vạch trần âm mưu của những kẻ lợi dụng dân chủ, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.