Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

 Ngày 31-10-2024, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (lớp thứ 3). Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu nội dung trao đổi chuyên đề về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc của Tổng Bí thư Tô Lâm:

Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội - văn hóa - chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường. Ví dụ: Kỷ nguyên công nghiệp, kỷ nguyên thông tin, kỷ nguyên kỹ thuật số, kỷ nguyên vũ trụ. Còn trước đây là kỷ nguyên đồ đá, kỷ nguyên cổ đại, kỷ nguyên trung cổ…

Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại.

Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dâu giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.

Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Tổng Bí thư nhấn mạnh, những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích (kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Từ những vấn đề trên, có thể thấy, đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới.

7 định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc


1. Về cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng

Trong hơn 94 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Tổng Bí thư chỉ rõ, bên cạnh kết quả, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế: (i) Tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. (ii) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. (iii) Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. (iv) Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. (v) Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; hội họp vẫn nhiều.

Yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, bảo đảm Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ đang đặt ra cấp thiết, một số giải pháp chiến lược, sau đây: (i) Thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. (ii) Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Trong đó, nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. (iii) Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện, xác định đúng, trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện nghị quyết của Đảng. Xây dựng các chi bộ cơ sở vững mạnh, có tính chiến đấu cao, có năng lực đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống; đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ sở đảng, bảo đảm hoạt động sinh hoạt chi bộ thực chất, hiệu quả. (iv) Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực.

2. Về tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

Sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế: (i) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao; (ii) hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế. (iii) Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong nhân dân. Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, đặt ra yêu cầu cấp thiết phát huy tính đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Về quan điểm: Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Về giải pháp, đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, trong đó: (i) Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. (ii) Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành. Tuyệt đối không hành chính hóa hoạt động của Quốc hội; luật hóa các quy định của nghị định và thông tư. (iii) Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; vừa làm vừa rút kinh nghiệm; không nóng vội, nhưng cũng không cầu toàn, để mất thời cơ; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật. (iv) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. (v) Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”. (vi) Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo.

3. Về tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả

Nhiệm vụ này đang đặt ra rất cấp thiết: (i) Hiện nay 70% ngân sách dùng để nuôi bộ máy, trong khi đó công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác tinh giản biên chế gắn với vị trí việc làm, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức còn thiếu triệt để. (ii) Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến cản trở phát triển, tăng thủ tục hành chính, lãng phí thời gian công sức của doanh nghiệp, công dân, làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước.

Chủ trương chiến lược: (i) Tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. (ii) Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường của các địa phương. (iii) Sơ kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” trong toàn hệ thống chính trị trình Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII; làm cơ sở có những quyết sách mới đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức, cán bộ theo định hướng đã được Trung ương 10 thống nhất.

4. Chuyển đổi số

Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.

Quan hệ sản xuất chưa phù hợp đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất mới: (i) Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút các nguồn lực, nhất là nguồn lực trong dân. (ii) Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Vẫn tồn tại những thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu, qua nhiều khâu, nhiều cửa, mất nhiều thời gian, công sức của người dân và doanh nghiệp, dễ nảy sinh tham nhũng vặt, cản trở phát triển. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ người sử dụng chưa cao; việc tổ chức vận hành bộ phận “một cửa” các cấp ở nhiều nơi chưa hiệu quả.

Thực hiện cách mạng chuyển đổi số với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi do Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, đưa đất nước đi tắt đón đầu phát triển vượt bậc. Bộ Chính trị sẽ sớm nghiên cứu, ban hành nghị quyết về chuyển đổi số quốc gia để lãnh đạo thực hiện quyết liệt trong toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị.

Một số giải pháp chủ yếu: (i) Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới, như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... bảo đảm khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. (ii) Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. (iii) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. (iv) Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số.

5. Chống lãng phí

Thực tế cho thấy, “Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”(1), song lãng phí hiện nay diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng cho phát triển (gây suy giảm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí, gây cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo; gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước).

Một số dạng thức của lãng phí đang nổi lên gay gắt hiện nay, đó là: (i) Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn dẫn đến khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực. (ii) Lãng phí thời gian, công sức của doanh nghiệp, cá nhân khi thủ tục hành chính rườm rà, dịch vụ công trực tuyến chưa thuận tiện và thông suốt. (iii) Lãng phí cơ hội phát triển của địa phương, của đất nước do bộ máy nhà nước có nơi, có lúc hoạt động chưa hiệu quả, một bộ phận cán bộ thiếu năng lực, né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm; do chất lượng, năng suất lao động thấp. (iv) Lãng phí tài nguyên thiên nhiên; lãng phí tài sản công do quản lý, sử dụng chưa hiệu quả, trong đó giải ngân vốn đầu tư công; cổ phần hóa, xử lý thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước; sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước; thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia, các gói tín dụng hỗ trợ phát triển an sinh xã hội hầu hết rất chậm. (v) Lãng phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức. (vi) Lãng phí do hệ thống tiêu chuẩn, định mức, chế độ, một số chưa phù hợp thực tế nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Trong khi đó, xử lý lãng phí chưa được đề cao, thường gắn với xử lý tham nhũng như hệ lụy kéo theo; chưa tạo được phong trào thi đua rộng khắp về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cũng như dư luận xã hội mạnh mẽ để phê phán, lên án những hành vi gây lãng phí; việc xây dựng văn hóa tiết kiệm, không lãng phí trong xã hội chưa được quan tâm đúng mức.

Giải pháp chiến lược những năm tới đó là: (i) Đẩy mạnh phòng, chống lãng phí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Từ ban hành quy định của Đảng để nhận diện, chiến lược quốc gia, quy định của pháp luật và thực thi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể có hành vi, việc làm gây thất thoát, lãng phí tài sản công theo tinh thần “xử lý một vụ cảnh tỉnh cả vùng cả lĩnh vực”. (ii) Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Hoàn thiện các quy định xử lý hành vi lãng phí; các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; thể chế trong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tạo sự đồng bộ trong chuyển đổi để giảm thiểu lãng phí. (iii) Giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, dự án hiệu quả thấp, gây thất thoát, lãng phí lớn; các ngân hàng thương mại yếu kém. Sớm hoàn thành cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. (iv) Xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày”.

6. Cán bộ

Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết.

Về phẩm chất, yêu cầu đối với cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: (i) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. (ii) Có bản lĩnh, quyết tâm cao, sẵn sàng dấn thân, hy sinh lợi ích cá nhân. Dám đi đầu, đổi mới, loại bỏ cái cũ, cái lạc hậu; khơi thông điểm nghẽn, giải quyết vướng mắc, ách tắc trong thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; giải quyết những vấn đề sai sót tồn đọng, kéo dài hoặc đột phá đối với những vấn đề mới chưa có quy định hoặc quy định chồng chéo, thiếu thống nhất, khó thực hiện. (iii) Có năng lực cụ thể, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương chiến lược của Đảng vào thực tiễn từng ban, bộ, ngành, địa phương (chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng chiến lược, cải cách triệt để thủ tục hành chính…).

Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới: (i) Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được. (ii) Tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số. (iii) Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế; bảo vệ đối với những trường hợp nguy cơ rủi ro, sai sót từ sớm, ngay khi có kế hoạch, không để nhụt chí. (iv) Sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín. (v) Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, thử thách đối với các đồng chí là nhân sự được quy hoạch tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, bảo đảm lựa chọn ra được cấp ủy, nhất là người đứng đầu có năng lực lãnh đạo, có sức chiến đấu cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp chung, có năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống trên từng lĩnh vực, địa bàn.

7. Về kinh tế

Tổng thể kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng liên tục từ khi thực hiện Cương lĩnh 1991, thường xuyên ở trong nhóm những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, đưa Việt Nam từ nước thu nhập thấp trở thành nước thu nhập trung bình.

Tuy tốc độ tăng trưởng cao, song nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu, nguy cơ kinh tế Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình và khó tiệm cận với các nước đang phát triển, thể hiện trên 5 điểm: (i) Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam giảm dần, thấp hơn nhiều nước trong khu vực (giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt 4,8%, thấp hơn so với bình quân 3 năm 2016 - 2018 (6,1%), không đạt mục tiêu đề ra (6,5%), trong khi cùng xuất phát điểm với Việt Nam, Trung Quốc đầu những năm 1990 tăng liên tục mỗi năm đều đạt 9%. (ii) Năng suất các nhân tố tổng hợp - yếu tố quan trọng trong chất lượng tăng trưởng cũng có xu hướng giảm (giai đoạn 2015 - 2019 đạt 2,77%, đứng đầu khu vực ASEAN, năm 2022 là -1,36%, năm 2023 là -2%), cho thấy hiệu quả của nền kinh tế có xu hướng giảm. (iii) Tăng trưởng của Việt Nam từ năm 2021 đến nay chủ yếu phụ thuộc vào xuất khẩu, trong đó khối FDI chiếm trên 70% (tương đương 60% GDP); các doanh nghiệp này nhập khẩu trên 80% linh kiện, thiết bị, chỉ sử dụng những tư liệu sản xuất giản đơn của Việt Nam, như lao động, đất đai, nguyên vật liệu cơ bản, không giúp Việt Nam xây dựng công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp nội địa có năng lực cạnh tranh cao trong chuỗi giá trị toàn cầu (doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng chỉ là các sản phẩm giản đơn). Khi thời kỳ "dân số vàng" kết thúc (khoảng năm 2027 - 2037), giá nhân công tăng, lợi thế cạnh tranh không còn, FDI dịch chuyển sang nước khác hoặc sụt giảm, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế Việt Nam. (iv) Tình trạng nhiều cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh trong xử lý công việc, sợ đổi mới, không dám nghĩ, dám làm, ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội. (v) Các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế chưa phát huy hiệu quả (nguồn nhân lực còn hạn chế khi năng suất lao động, động lực làm việc của cán bộ quản lý nhà nước giảm sút; nguồn vật lực còn lãng phí, nguồn tài lực chưa được khai thông): Lãng phí trong sử dụng đất đai (trong khi xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai chậm), khoáng sản (chủ yếu khai thác, chế biến thô); chưa hiệu quả trong phát triển hạ tầng giao thông (quy hoạch phát triển hạ tầng sân bay, cảng biển dàn trải, đầu tư manh mún ở nhiều địa phương có vị trí địa lý gần nhau, không có lợi thế khác biệt); mất cân đối về hạ tầng năng lượng; thị trường tài chính, tiền tệ thiếu bền vững khi lượng vốn lớn bị đóng băng vào bất động sản.

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên do: (i) Điểm nghẽn về thể chế và hạn chế trong thực thi pháp luật. Tình trạng sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám làm, né tránh trách nhiệm, đùn đẩy công việc lên cơ quan quản lý cấp trên hoặc sang bộ, ngành khác. (ii) Chuyển đổi mô hình kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu chậm. Đầu tư công tiến độ chậm, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, còn dàn trải, nhiều lãng phí, chưa phát huy vai trò dẫn dắt, kích hoạt hiệu quả các nguồn lực ngoài nhà nước. Hoạt động cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém chậm; tình trạng “sử hữu chéo”, cho vay tín dụng đối với doanh nghiệp “nội bộ”, “sân sau” còn phức tạp và chưa có biện pháp giải quyết triệt để. Xác định các ngành hàng chiến lược, quốc gia giá trị cao chưa được quan tâm. (iii) Hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị thiếu tính kết nối; xây dựng hạ tầng số chậm. (iv) Kinh tế tư nhân chưa trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, chưa tận dụng tốt các nguồn lực đầu tư nước ngoài. (v) Ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ chưa đem lại kết quả rõ nét; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, thiếu lao động trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ cao, phục vụ phát triển số. (vi) Các yếu tố bên ngoài tác động tiêu cực, làm gia tăng nguy cơ tụt hậu về kinh tế.

Một số giải pháp, định hướng chiến lược phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình: (i) Đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, phát triển khoa học và công nghệ đồng bộ, thông suốt, tất cả vì sự phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội của đất nước và phát triển nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là ưu tiên cao nhất. (ii) Tập trung xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh của Đảng đã xác định (dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng Cộng sản lãnh đạo). (iii) Tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới (kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất. (iv) Khởi xướng và thực hiện cách mạng chuyển đổi số. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển./.

Công an nhân dân tu dưỡng rèn luyện, quyết tâm thực hiện lời căn dặn "Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất" của Tổng Bí thư Tô Lâm.

 Thực tiễn gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã khẳng định truyền thống tốt đẹp, bản chất cách mạng và sự chiến đấu kiên cường của lực lượng công an nhân dân - lực lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thấm nhuần sâu sắc và quyết tâm thực hiện lời căn dặn “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, lực lượng công an nhân dân đã lập những chiến công vẻ vang, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống.

1. “Danh dự” được hiểu là “sự coi trọng, đánh giá tốt đẹp; có tên, có tiếng tăm được đánh giá cao”(1)được coi như một thành tố thuộc phạm trù đạo đức. Danh dự có ý nghĩa, tác dụng như một “đòn bẩy” thúc đẩy con người làm điều thiện, điều tốt. Hiểu một cách khái quát, “danh dự” là sự coi trọng, tôn trọng của xã hội đối với một cá nhân, một tổ chức dựa trên giá trị tinh thần, đạo đức. Danh dự làm nên nhân cách của một con người, định hướng tư tưởng, hành động, giúp con người phân biệt được đúng sai, những việc nên làm và những việc nên tránh. Đó cũng là yếu tố giúp cho xã hội trở nên tốt đẹp, cuộc sống giàu ý nghĩa, cao quý và nhân văn hơn.

Danh dự là điều quan trọng và cao quý như vậy, nhưng không xa vời, trừu tượng, mà gần gũi, gắn với tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của mỗi con người; được xem là một trong những phẩm chất cao quý nhất của mỗi con người, là giá trị làm người. Danh dự không phải là điều tự nhiên mà có, mà phải do tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện miệt mài, dày công vun đắp và thử thách qua cuộc sống hằng ngày. Danh dự bị giảm sút, thậm chí mất đi nếu con người không biết giữ gìn, bảo vệ và bồi đắp.

Đối với mỗi con người, danh dự là điều thiêng liêng, cao quý như vậy, thì đối với người đảng viên, danh dự lại càng là điều thiêng liêng, cao quý.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cán bộ, đảng viên phải biết giữ “thanh danh của Đảng” và “danh giá của mình”(2); phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng và gìn giữ danh dự của người đảng viên. Người yêu cầu, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(3), do đó, mỗi đảng viên của Đảng phải tiêu biểu về trí tuệ và đạo đức. Người chỉ rõ: “Đảng là gì? Đảng là mỗi chúng ta. Đảng lớn lên là do mỗi chúng ta lớn lên... Đảng ta quang minh chính đại. Đảng ta như thế, đảng viên cũng phải như thế”(4). Theo Người, cách mạng “là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(5). Người chỉ rõ, để làm tròn sứ mệnh của mình, Đảng không chỉ có lý luận tiền phong dẫn đường là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà còn phải tiêu biểu cho đạo đức và văn hóa. Đạo đức cách mạng là nền tảng, gốc rễ làm cho bản chất của Đảng được giữ vững và phát huy, quyền lực của Đảng không bị biến dạng và tha hóa, nhân cách người đảng viên không bị suy thoái, hư hỏng; bảo đảm cho Đảng làm tròn sứ mệnh của đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc. Người nêu ra một mệnh đề quan trọng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(6). Đạo đức cách mạng giúp người cán bộ, đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu trước mọi nhiệm vụ, và vì thế “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”(7). Người chỉ rõ: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do đó, để vận động, tập hợp quần chúng, làm cho quần chúng tin tưởng, sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng thì người cán bộ, đảng viên của Đảng phải nêu gương. Người khẳng định: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(8). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người thuyết phục quần chúng nhân dân không chỉ bằng mục tiêu chân chính của cách mạng, bằng trí tuệ xuất chúng của một nhà tổ chức tài ba, mà còn bằng tấm gương đạo đức cao cả của mình. Được khích lệ bởi tấm gương đạo đức của Người, các tầng lớp nhân dân và lớp lớp cán bộ, đảng viên của Đảng đã tự nguyện chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng và góp phần làm nên “pho lịch sử bằng vàng” của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy, đối với người đảng viên, danh dự hay phẩm chất đạo đức cao đẹp là yếu tố quyết định, là nền tảng để hoàn thành sứ mệnh mà Đảng giao phó. Do đó, người đảng viên giữ vững danh dự của mình cũng là gìn giữ, bảo vệ thanh danh cho Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(9). Người đảng viên phải thực sự mẫu mực, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, vì nhân dân phục vụ thì mới nhận được sự ủng hộ, tín nhiệm của nhân dân, mới có điều kiện để thực hiện trách nhiệm của người đảng viên.

Danh dự “không phải trên trời sa xuống”, mà phải do “đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(10). Để gìn giữ, bảo vệ danh dự và nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đảng viên, trước hết, mỗi người cần không ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi bản lĩnh chính trị, nâng cao “sức đề kháng” trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đặc biệt là không sa ngã trước sự cám dỗ của vật chất; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của người đảng viên, làm những việc tốt để nêu gương cho quần chúng, “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”.

Thực tế, thời gian qua, một số đảng viên đã thoái hóa, biến chất, sa sút phẩm chất đạo đức, làm mất đi danh dự của bản thân và ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Trong số đó có cả những người từng giữ chức vụ lãnh đạo, nhưng đứng trước những “viên đạn bọc đường”, họ đã sa ngã, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có hành vi tham nhũng, tiêu cực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(11) . Do đó, trước yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, đòi hỏi người đảng viên phải tôi luyện, rèn giũa, có bản lĩnh chính trị vững vàng và phẩm chất đạo đức trong sáng; thực hiện tự phê bình và phê bình thường xuyên, như “mỗi ngày phải rửa mặt”(12) để không làm mất đi danh dự của người đảng viên trước Đảng và nhân dân.

2. Thấm nhuần sâu sắc những chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng và những nguy cơ của một đảng cầm quyền, trong nhiều bài viết và nhiều lần phát biểu, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở, phân tích sâu sắc về tư cách, phẩm chất đạo đức cách mạng, về liêm sỉ và danh dự của người cán bộ, đảng viên. Ngày 12-6-2021, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, bên cạnh việc khẳng định, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được tôi luyện và trưởng thành, Đảng ta sẽ ngày càng tăng cường được sức mạnh, sức chiến đấu và sự trong sáng, xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân, “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân”(13)Ngày 30-6-2022, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhấn mạnh: “Cán bộ, đảng viên, trước hết là người lãnh đạo phải biết trọng liêm sỉ, giữ danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân có hành vi tham nhũng, tiêu cực... Tránh tình trạng: “Chân mình còn lấm bê bê/Lại cầm bó đuốc đi rê chân người”; “Thượng bất chính, hạ tắc loạn!”; “Cấp trên ở chẳng chính ngôi/Cho nên ở dưới chúng tôi hỗn hào!””(14).

Với kinh nghiệm thực tiễn phong phú, sinh động, cùng tầm nhìn xa đối với các vấn đề xây dựng Đảng, người đứng đầu Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, coi đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích và chỉ rõ “nguyên nhân gốc rễ”, “cơ bản”, “trực tiếp” của tham nhũng “là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tiêu cực là môi trường làm nảy sinh tham nhũng; tham nhũng tác động trở lại làm trầm trọng hơn tình trạng tiêu cực”(15). Với quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”(16) và với mục đích là để “trị bệnh cứu người”, kỷ luật một vài người để cứu muôn người, truy tố một vụ để cảnh tỉnh cả một vùng, một lĩnh vực, từ đó nhằm cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa là chính”(17), công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua đã tạo được “đột phá”, được dư luận và nhân dân rất đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao.

Không phải ngẫu nhiên mà cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đau đáu về việc tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên. Từ thực trạng đau xót “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thậm chí suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”(18), cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, khi đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên hãy giữ liêm sỉ và danh dự - hãy khắc cốt ghi tâm: “Lời thề trước Đảng”; “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất”(19).

3. Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Trải qua gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được nhân dân hết lòng đùm bọc, giúp đỡ, lực lượng công an nhân dân luôn thể hiện sự trung thành tuyệt đối đối với sự nghiệp cách mạng; đoàn kết, tận tụy trong công tác; dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu; cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đánh thắng mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; luôn xứng đáng là “thanh bảo kiếm” sắc bén, “lá chắn thép” vững chắc bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Những chiến công to lớn của lực lượng công an nhân dân gần 80 năm qua đã khẳng định sâu sắc chân lý: “Bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải luôn kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với công an nhân dân. Đây là yêu cầu khách quan, tất yếu của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự”(20) và bài học kinh nghiệm: “Luôn phải bám sát sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; trung thành vô hạn đối với Đảng, Tổ quốc, đất nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ biết còn Đảng thì còn mình”(21). Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, thực hiện lời thề danh dự thiêng liêng(22), mỗi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân luôn nêu cao phẩm chất anh hùng cách mạng, bản lĩnh kiên cường, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, không quản ngại khó khăn, gian khổ, lập nên nhiều chiến công hiển hách, đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. “Trong thời bình, nhưng máu của nhiều cán bộ, chiến sĩ công an vẫn đổ vì sự bình yên và hạnh phúc của nhân dân, trở thành bản anh hùng ca bất tử; xây dựng nên cốt cách, biểu tượng cao đẹp của người chiến sĩ công an chân chính”(23).

Bối cảnh hiện nay đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao hơn, nhiệm vụ ngày càng nặng nề hơn đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Ở trong nước, trải qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” và “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(24). Tuy nhiên, nhiều vấn đề mới, nhiều khó khăn nảy sinh trong quá trình đổi mới đang đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải nỗ lực tìm tòi, giải quyết. Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tăng cường sử dụng các biện pháp “mềm”, tập trung làm chuyển hóa về chính trị, tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kích động chia rẽ, đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Đặc biệt, mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế tác động ngày càng mạnh mẽ đến đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân; không ít phần tử xấu, “nhóm lợi ích” luôn tìm mọi cách tác động, lôi kéo, mua chuộc, gài bẫy hòng khống chế, lung lạc ý chí, làm tha hóa phẩm chất, phai nhạt lý lưởng của đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân. Tình hình đó đòi hỏi mỗi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, giữ mình cho thật trong sạch, vững vàng để không bị sa ngã, suy thoái, biến chất. Tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn và nhất là không được mất cảnh giác.

Với tình cảm quý trọng và sự kỳ vọng to lớn dành cho lực lượng công an nhân dân, ngày 15-1-2018, phát biểu tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 73, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh và căn dặn: “Tôi tin tưởng và tha thiết mong rằng: Với những nỗ lực và quyết tâm cao, với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, với đội ngũ cán bộ trung thành, tận tụy, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực, lực lượng công an nhân dân sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, lập nhiều thành tích, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Hãy luôn luôn ghi nhớ, khắc sâu vào tâm trí mình và thực hiện cho bằng được chân lý: “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”; “Còn Đảng thì còn mình”; “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất””(25). Lời căn dặn sâu sắc đó của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trở thành mệnh lệnh từ trái tim, là nguồn cổ vũ to lớn để mỗi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân “tự soi”, “tự sửa”, luôn răn mình, giữ mình trong sạch, liêm chính, có bản lĩnh, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, cống hiến sao cho xứng đáng với danh dự, truyền thống vẻ vang của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam anh hùng, với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Phát huy truyền thống vẻ vang, quyết tâm thực hiện lời căn dặn sâu sắc, quý báu của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, lực lượng công an nhân dân quyết tâm giữ gìn “danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất”:

Một là, tiếp tục chăm lo xây dựng Đảng trong công an nhân dân cũng như xây dựng lực lượng công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh. Công an nhân dân phải luôn là lực lượng tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, tuyệt đối kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân phải là những người “trung thành nhất với Đảng, những người chỉ biết sống chết với Đảng, chỉ biết còn Đảng thì còn mình”(26). Đảng bộ Công an Trung ương phải gương mẫu đi đầu trong thực hiện các nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nghiêm túc, thẳng thắn đánh giá, nhận diện và đề ra các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và “Sáu điều Bác Hồ dạy công an nhân dân”. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, gắn với rèn luyện đạo đức, lối sống, giữ vững kỷ cương, kỷ luật công tác trong toàn lực lượng.

Hai là, đặc biệt quan tâm chăm lo công tác cán bộ, giữ gìn bản chất, truyền thống tốt đẹp của người đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân. Phát huy trách nhiệm nêu gương của đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị quyết tâm thực hiện “Sáu điều Bác Hồ dạy” bằng những hành động cụ thể, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, thực sự là tấm gương sáng, mệnh lệnh không lời có sức lan tỏa tích cực để cán bộ, chiến sĩ học tập, noi theo.

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, “Sáu điều Bác Hồ dạy” công an nhân dân và lời căn dặn “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với cán bộ, chiến sĩ để chủ động phát hiện, phòng ngừa sai phạm, tiêu cực. Đồng thời, phát huy tính chiến đấu, tinh thần tự giác của đảng viên, cán bộ, chiến sĩ trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thực dụng, chọn việc, chọn nơi công tác và các biểu hiện vi phạm kỷ luật, kỷ cương, quy trình, quy chế công tác, Điều lệnh Công an nhân dân.  

Bốn là, kịp thời biểu dương, khen thưởng gương người tốt, việc tốt”, tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, cũng như trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện “Sáu điều Bác Hồ dạy” công an nhân dân. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng những điển hình tiên tiến, mô hình, phần việc hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả trong công tác và chiến đấu. Chú trọng sơ kết, tổng kết việc xây dựng mô hình mới, cách làm hay, kinh nghiệm tốt để phát huy, nhân rộng; đồng thời, tạo môi trường thuận lợi để mỗi tập thể, cá nhân phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ./.

Công an nhân dân tu dưỡng rèn luyện, quyết tâm thực hiện lời căn dặn "Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất" của Tổng Bí thư Tô Lâm.

 Thực tiễn gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã khẳng định truyền thống tốt đẹp, bản chất cách mạng và sự chiến đấu kiên cường của lực lượng công an nhân dân - lực lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thấm nhuần sâu sắc và quyết tâm thực hiện lời căn dặn “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, lực lượng công an nhân dân đã lập những chiến công vẻ vang, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống.

1. “Danh dự” được hiểu là “sự coi trọng, đánh giá tốt đẹp; có tên, có tiếng tăm được đánh giá cao”(1)được coi như một thành tố thuộc phạm trù đạo đức. Danh dự có ý nghĩa, tác dụng như một “đòn bẩy” thúc đẩy con người làm điều thiện, điều tốt. Hiểu một cách khái quát, “danh dự” là sự coi trọng, tôn trọng của xã hội đối với một cá nhân, một tổ chức dựa trên giá trị tinh thần, đạo đức. Danh dự làm nên nhân cách của một con người, định hướng tư tưởng, hành động, giúp con người phân biệt được đúng sai, những việc nên làm và những việc nên tránh. Đó cũng là yếu tố giúp cho xã hội trở nên tốt đẹp, cuộc sống giàu ý nghĩa, cao quý và nhân văn hơn.

Danh dự là điều quan trọng và cao quý như vậy, nhưng không xa vời, trừu tượng, mà gần gũi, gắn với tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của mỗi con người; được xem là một trong những phẩm chất cao quý nhất của mỗi con người, là giá trị làm người. Danh dự không phải là điều tự nhiên mà có, mà phải do tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện miệt mài, dày công vun đắp và thử thách qua cuộc sống hằng ngày. Danh dự bị giảm sút, thậm chí mất đi nếu con người không biết giữ gìn, bảo vệ và bồi đắp.

Đối với mỗi con người, danh dự là điều thiêng liêng, cao quý như vậy, thì đối với người đảng viên, danh dự lại càng là điều thiêng liêng, cao quý.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cán bộ, đảng viên phải biết giữ “thanh danh của Đảng” và “danh giá của mình”(2); phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng và gìn giữ danh dự của người đảng viên. Người yêu cầu, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(3), do đó, mỗi đảng viên của Đảng phải tiêu biểu về trí tuệ và đạo đức. Người chỉ rõ: “Đảng là gì? Đảng là mỗi chúng ta. Đảng lớn lên là do mỗi chúng ta lớn lên... Đảng ta quang minh chính đại. Đảng ta như thế, đảng viên cũng phải như thế”(4). Theo Người, cách mạng “là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(5). Người chỉ rõ, để làm tròn sứ mệnh của mình, Đảng không chỉ có lý luận tiền phong dẫn đường là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà còn phải tiêu biểu cho đạo đức và văn hóa. Đạo đức cách mạng là nền tảng, gốc rễ làm cho bản chất của Đảng được giữ vững và phát huy, quyền lực của Đảng không bị biến dạng và tha hóa, nhân cách người đảng viên không bị suy thoái, hư hỏng; bảo đảm cho Đảng làm tròn sứ mệnh của đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc. Người nêu ra một mệnh đề quan trọng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(6). Đạo đức cách mạng giúp người cán bộ, đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu trước mọi nhiệm vụ, và vì thế “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”(7). Người chỉ rõ: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do đó, để vận động, tập hợp quần chúng, làm cho quần chúng tin tưởng, sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng thì người cán bộ, đảng viên của Đảng phải nêu gương. Người khẳng định: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(8). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người thuyết phục quần chúng nhân dân không chỉ bằng mục tiêu chân chính của cách mạng, bằng trí tuệ xuất chúng của một nhà tổ chức tài ba, mà còn bằng tấm gương đạo đức cao cả của mình. Được khích lệ bởi tấm gương đạo đức của Người, các tầng lớp nhân dân và lớp lớp cán bộ, đảng viên của Đảng đã tự nguyện chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng và góp phần làm nên “pho lịch sử bằng vàng” của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy, đối với người đảng viên, danh dự hay phẩm chất đạo đức cao đẹp là yếu tố quyết định, là nền tảng để hoàn thành sứ mệnh mà Đảng giao phó. Do đó, người đảng viên giữ vững danh dự của mình cũng là gìn giữ, bảo vệ thanh danh cho Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(9). Người đảng viên phải thực sự mẫu mực, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, vì nhân dân phục vụ thì mới nhận được sự ủng hộ, tín nhiệm của nhân dân, mới có điều kiện để thực hiện trách nhiệm của người đảng viên.

Danh dự “không phải trên trời sa xuống”, mà phải do “đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(10). Để gìn giữ, bảo vệ danh dự và nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đảng viên, trước hết, mỗi người cần không ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi bản lĩnh chính trị, nâng cao “sức đề kháng” trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đặc biệt là không sa ngã trước sự cám dỗ của vật chất; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của người đảng viên, làm những việc tốt để nêu gương cho quần chúng, “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”.

Thực tế, thời gian qua, một số đảng viên đã thoái hóa, biến chất, sa sút phẩm chất đạo đức, làm mất đi danh dự của bản thân và ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Trong số đó có cả những người từng giữ chức vụ lãnh đạo, nhưng đứng trước những “viên đạn bọc đường”, họ đã sa ngã, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có hành vi tham nhũng, tiêu cực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(11) . Do đó, trước yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, đòi hỏi người đảng viên phải tôi luyện, rèn giũa, có bản lĩnh chính trị vững vàng và phẩm chất đạo đức trong sáng; thực hiện tự phê bình và phê bình thường xuyên, như “mỗi ngày phải rửa mặt”(12) để không làm mất đi danh dự của người đảng viên trước Đảng và nhân dân.

2. Thấm nhuần sâu sắc những chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng và những nguy cơ của một đảng cầm quyền, trong nhiều bài viết và nhiều lần phát biểu, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở, phân tích sâu sắc về tư cách, phẩm chất đạo đức cách mạng, về liêm sỉ và danh dự của người cán bộ, đảng viên. Ngày 12-6-2021, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, bên cạnh việc khẳng định, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được tôi luyện và trưởng thành, Đảng ta sẽ ngày càng tăng cường được sức mạnh, sức chiến đấu và sự trong sáng, xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân, “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân”(13)Ngày 30-6-2022, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhấn mạnh: “Cán bộ, đảng viên, trước hết là người lãnh đạo phải biết trọng liêm sỉ, giữ danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân có hành vi tham nhũng, tiêu cực... Tránh tình trạng: “Chân mình còn lấm bê bê/Lại cầm bó đuốc đi rê chân người”; “Thượng bất chính, hạ tắc loạn!”; “Cấp trên ở chẳng chính ngôi/Cho nên ở dưới chúng tôi hỗn hào!””(14).

Với kinh nghiệm thực tiễn phong phú, sinh động, cùng tầm nhìn xa đối với các vấn đề xây dựng Đảng, người đứng đầu Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, coi đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích và chỉ rõ “nguyên nhân gốc rễ”, “cơ bản”, “trực tiếp” của tham nhũng “là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tiêu cực là môi trường làm nảy sinh tham nhũng; tham nhũng tác động trở lại làm trầm trọng hơn tình trạng tiêu cực”(15). Với quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”(16) và với mục đích là để “trị bệnh cứu người”, kỷ luật một vài người để cứu muôn người, truy tố một vụ để cảnh tỉnh cả một vùng, một lĩnh vực, từ đó nhằm cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa là chính”(17), công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua đã tạo được “đột phá”, được dư luận và nhân dân rất đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao.

Không phải ngẫu nhiên mà cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đau đáu về việc tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên. Từ thực trạng đau xót “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thậm chí suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”(18), cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, khi đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên hãy giữ liêm sỉ và danh dự - hãy khắc cốt ghi tâm: “Lời thề trước Đảng”; “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất”(19).

3. Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Trải qua gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được nhân dân hết lòng đùm bọc, giúp đỡ, lực lượng công an nhân dân luôn thể hiện sự trung thành tuyệt đối đối với sự nghiệp cách mạng; đoàn kết, tận tụy trong công tác; dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu; cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đánh thắng mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; luôn xứng đáng là “thanh bảo kiếm” sắc bén, “lá chắn thép” vững chắc bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Những chiến công to lớn của lực lượng công an nhân dân gần 80 năm qua đã khẳng định sâu sắc chân lý: “Bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải luôn kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với công an nhân dân. Đây là yêu cầu khách quan, tất yếu của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự”(20) và bài học kinh nghiệm: “Luôn phải bám sát sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; trung thành vô hạn đối với Đảng, Tổ quốc, đất nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ biết còn Đảng thì còn mình”(21). Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, thực hiện lời thề danh dự thiêng liêng(22), mỗi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân luôn nêu cao phẩm chất anh hùng cách mạng, bản lĩnh kiên cường, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, không quản ngại khó khăn, gian khổ, lập nên nhiều chiến công hiển hách, đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. “Trong thời bình, nhưng máu của nhiều cán bộ, chiến sĩ công an vẫn đổ vì sự bình yên và hạnh phúc của nhân dân, trở thành bản anh hùng ca bất tử; xây dựng nên cốt cách, biểu tượng cao đẹp của người chiến sĩ công an chân chính”(23).

Bối cảnh hiện nay đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao hơn, nhiệm vụ ngày càng nặng nề hơn đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Ở trong nước, trải qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” và “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(24). Tuy nhiên, nhiều vấn đề mới, nhiều khó khăn nảy sinh trong quá trình đổi mới đang đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải nỗ lực tìm tòi, giải quyết. Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tăng cường sử dụng các biện pháp “mềm”, tập trung làm chuyển hóa về chính trị, tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kích động chia rẽ, đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Đặc biệt, mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế tác động ngày càng mạnh mẽ đến đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân; không ít phần tử xấu, “nhóm lợi ích” luôn tìm mọi cách tác động, lôi kéo, mua chuộc, gài bẫy hòng khống chế, lung lạc ý chí, làm tha hóa phẩm chất, phai nhạt lý lưởng của đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân. Tình hình đó đòi hỏi mỗi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, giữ mình cho thật trong sạch, vững vàng để không bị sa ngã, suy thoái, biến chất. Tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn và nhất là không được mất cảnh giác.

Với tình cảm quý trọng và sự kỳ vọng to lớn dành cho lực lượng công an nhân dân, ngày 15-1-2018, phát biểu tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 73, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh và căn dặn: “Tôi tin tưởng và tha thiết mong rằng: Với những nỗ lực và quyết tâm cao, với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, với đội ngũ cán bộ trung thành, tận tụy, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực, lực lượng công an nhân dân sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, lập nhiều thành tích, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Hãy luôn luôn ghi nhớ, khắc sâu vào tâm trí mình và thực hiện cho bằng được chân lý: “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”; “Còn Đảng thì còn mình”; “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất””(25). Lời căn dặn sâu sắc đó của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trở thành mệnh lệnh từ trái tim, là nguồn cổ vũ to lớn để mỗi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân “tự soi”, “tự sửa”, luôn răn mình, giữ mình trong sạch, liêm chính, có bản lĩnh, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, cống hiến sao cho xứng đáng với danh dự, truyền thống vẻ vang của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam anh hùng, với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Phát huy truyền thống vẻ vang, quyết tâm thực hiện lời căn dặn sâu sắc, quý báu của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, lực lượng công an nhân dân quyết tâm giữ gìn “danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất”:

Một là, tiếp tục chăm lo xây dựng Đảng trong công an nhân dân cũng như xây dựng lực lượng công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh. Công an nhân dân phải luôn là lực lượng tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, tuyệt đối kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân phải là những người “trung thành nhất với Đảng, những người chỉ biết sống chết với Đảng, chỉ biết còn Đảng thì còn mình”(26). Đảng bộ Công an Trung ương phải gương mẫu đi đầu trong thực hiện các nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nghiêm túc, thẳng thắn đánh giá, nhận diện và đề ra các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và “Sáu điều Bác Hồ dạy công an nhân dân”. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, gắn với rèn luyện đạo đức, lối sống, giữ vững kỷ cương, kỷ luật công tác trong toàn lực lượng.

Hai là, đặc biệt quan tâm chăm lo công tác cán bộ, giữ gìn bản chất, truyền thống tốt đẹp của người đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân. Phát huy trách nhiệm nêu gương của đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị quyết tâm thực hiện “Sáu điều Bác Hồ dạy” bằng những hành động cụ thể, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, thực sự là tấm gương sáng, mệnh lệnh không lời có sức lan tỏa tích cực để cán bộ, chiến sĩ học tập, noi theo.

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, “Sáu điều Bác Hồ dạy” công an nhân dân và lời căn dặn “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với cán bộ, chiến sĩ để chủ động phát hiện, phòng ngừa sai phạm, tiêu cực. Đồng thời, phát huy tính chiến đấu, tinh thần tự giác của đảng viên, cán bộ, chiến sĩ trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thực dụng, chọn việc, chọn nơi công tác và các biểu hiện vi phạm kỷ luật, kỷ cương, quy trình, quy chế công tác, Điều lệnh Công an nhân dân.  

Bốn là, kịp thời biểu dương, khen thưởng gương người tốt, việc tốt”, tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, cũng như trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện “Sáu điều Bác Hồ dạy” công an nhân dân. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng những điển hình tiên tiến, mô hình, phần việc hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả trong công tác và chiến đấu. Chú trọng sơ kết, tổng kết việc xây dựng mô hình mới, cách làm hay, kinh nghiệm tốt để phát huy, nhân rộng; đồng thời, tạo môi trường thuận lợi để mỗi tập thể, cá nhân phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ./.