Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: SỰ KHỞI ĐẦU CHO MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM!

         Cách đây 95 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập. Sự ra đời của Đảng không chỉ đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử mà còn là mốc son chói lọi trong pho sử vàng của dân tộc Việt Nam; mang tầm vóc và giá trị thời đại sâu sắc!

Đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử
Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta đã chứng minh rằng, yêu nước và giữ nước, kiên quyết chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam. Nối tiếp truyền thống đó, từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858), không cam chịu làm thân phận nô lệ, nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên đấu tranh qua các phong trào yêu nước diễn ra liên tục và mạnh mẽ bằng nhiều con đường với nhiều khuynh hướng khác nhau. Từ con đường cứu nước của các sĩ phu cho đến các cuộc khởi nghĩa nông dân và con đường cách mạng tư sản... mặc dù đã đấu tranh rất kiên cường, đầy tâm huyết và chịu những hy sinh to lớn, song, do hạn chế lịch sử, nhất là thiếu một đường lối đúng, các phong trào đó đã không thành công. Lịch sử đòi hỏi phải tìm con đường mới.

Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước. Mang trong mình khát vọng lớn lao, cháy bỏng, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở học thuyết cách mạng này con đường cứu nước đúng đắn - Con đường cách mạng vô sản. Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Người đã kiên trì nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, dày công chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc thành lập một chính đảng cách mạng chân chính.

Ở trong nước, dựa trên các điều kiện đã chín muồi, từ tháng 6-1929 đến cuối tháng 12-1929, trên dải đất Việt Nam ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã nối tiếp nhau ra đời. Sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam là bước tiến nhảy vọt về chất của phong trào công nhân và phong yêu nước Việt Nam, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử cách mạng Việt Nam lúc đó.

Sau khi ra đời, cả ba tổ chức đều tự nhận là đảng chân chính và đều ra sức lôi kéo quần chúng, tranh thủ sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, trong quá trình tuyên truyền, vận động quần chúng, các tổ chức cộng sản không tránh khỏi sự tranh giành ảnh hưởng, công kích lẫn nhau. Trước tình hình đó, ngày 27-9-1929, Quốc tế Cộng sản đã gửi cho những người cộng sản Đông Dương một bức thư, yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau, đồng thời xúc tiến việc hợp nhất thành một chính đảng cộng sản duy nhất ở Đông Dương.

Thực hiện Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Đông Dương Cộng sản Đảng đã cử đại diện sang Hương Cảng tiếp xúc và bàn việc hợp nhất với An Nam Cộng sản Đảng. Trong các cuộc gặp gỡ, mỗi bên đã đưa ra những yêu cầu mà bên kia không thể chấp nhận được. Vì thế, kế hoạch hợp nhất do hai Đảng chủ động đề ra không đạt được kết quả. Đúng vào thời khắc khó khăn phức tạp ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện “như một vị cứu tinh” của phong trào cách mạng và phong trào cộng sản Việt Nam. Ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đã rời Xiêm đi sang Hồng Kông, Trung Quốc để chuẩn bị triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

Mốc son chói lọi
Sau một thời gian chuẩn bị tích cực, chu đáo về mọi mặt, từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, tại bán đảo Cửu Long, Hương Cảng nay thuộc Hồng Kông, Trung Quốc. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Tại hội nghị, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời, thông qua Chánh cương vắt tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh và Điều lệ đầu tiên của Đảng. Đến ngày 24-2-1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp thuận kết nạp tổ chức này vào Đảng. Việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam đến đây hoàn thành.

Về thời gian tiến hành Hội nghị thành lập Đảng, bản Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18-2-1930 của Nguyễn Ái Quốc, cho biết: “Tôi cố gắng đi lần thứ ba khi một đồng chí từ Hồng Kông tới Xiêm và tin cho tôi biết tình hình Hội An Nam Thanh niên cách mạng bị tan rã; những người cộng sản chia thành nhiều phái... Lập tức tôi đi Trung Quốc, tới đó vào ngày 23-12. Sau đó, tôi triệu tập các đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam). Chúng tôi họp vào ngày mồng 6-1... các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960, Quyết nghị: “Từ nay trở đi sẽ lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”.

Về lý do đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Hội nghị hợp nhất, Nguyễn Ái Quốc giải thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng, và theo nguyên lý chủ nghĩa Lênin, vấn đề dân tộc là một vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt các dân tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì hẹp, vì An Nam chỉ là miền Trung của nước Việt Nam mà thôi, và nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Do đó từ Việt Nam hợp với cả ba miền và không trái với nguyên lý chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”. Theo đồng chí Nguyễn Nghĩa (Nguyễn Thiệu) - đại diện An Nam Cộng sản Đảng tham gia Hội nghị hợp nhất, vấn đề đặt tên Đảng diễn ra hết sức phức tạp. Các đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng đề nghị giữ lại cái tên Đông Dương Cộng sản Đảng. Các đại biểu An Nam không đồng ý, cho rằng đó là cái tên của một nhóm cộng sản cũ không nên dùng lại… Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc phân tích: “Đông Dương là cái tên chỉ những nước ở trên bán đảo giữa Ấn Độ và Trung Quốc, như thế gồm có Miến Điện, Xiêm La, Mã Lai, Miên, Lào và ba kỳ của nước chúng ta; cho nên thường người ta muốn chỉ Miên, Lào và nước chúng ta thì dùng cái tên “Đông Dương thuộc Pháp”; nhưng không ai dại gì mà dùng cái tên “Đảng Cộng sản Đông Dương thuộc Pháp”.

An Nam là cái tên người Trung Quốc vẫn quen dùng từ lâu để gọi nước ta; nhưng hiện tại, đối với người Pháp và thế giới, trên bản đồ, An Nam chỉ là Trung Kỳ.

Rốt lại, chỉ có cái tên Việt Nam là đúng hơn hết và thích hợp nhất. Đối với người Trung Quốc, cái tên Việt Nam cũng quen chẳng kém gì cái tên An Nam; đối với thế giới thì rồi dần dần người ta cũng quen. Nước ta đang bị bọn đế quốc chiếm cứ, nhân dân ta phải có nhiều hành động quật khởi thì rồi người ta mới biết tên biết tuổi được. Cái tên Đảng Cộng sản Việt Nam không còn lẫn vào đâu được, mọi người sẽ không nghĩ đến một tổ chức cũ nào cả”.

Tầm vóc và ý nghĩa lớn lao
Thực tiễn lịch sử cho thấy, sau hơn một tháng họp không liên tục, trong điều kiện hết sức khó khăn, bảo đảm bí mật, Hội nghị hợp nhất lại không phải là một địa điểm ở trong nước, phải tránh sự theo dõi, khủng bố của kẻ thù, nhưng Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã thành công tốt đẹp. Thành công này có ý nghĩa, giá trị tầm vóc như một “Đại hội thành lập Đảng”; đặt nền tảng thống nhất về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức của các lực lượng cách mạng; mở ra một bước ngoặt vĩ đại trong dòng chảy lịch sử dân tộc Việt Nam. Đồng thời, thành công của Hội nghị hợp nhất còn là thắng lợi của ý thức giác ngộ vì lợi ích căn bản và lâu dài của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam.

Thành quả lớn nhất của hội nghị là đã quy tụ toàn bộ phong trào công nhân và phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó cũng là cái mốc đầu tiên xây dựng truyền thống đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đây chính là nguồn gốc sức mạnh mới, là tiền đề cho những cao trào mới của cách mạng Việt Nam sau này. Đúng như cố Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời bằng một hành động thống nhất, đại đoàn kết. Thống nhất lực lượng, đoàn kết đấu tranh là biểu tượng và cũng là bản chất của Đảng”.

Thắng lợi của Hội nghị hợp nhất đã thể hiện rõ vị trí, vai trò Nguyễn Ái Quốc. Bởi trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, mặc dù Quốc tế Cộng sản đã có sự chỉ đạo việc thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương, do giao thông liên lạc khó khăn, Nguyễn Ái Quốc không nhận được chỉ thị, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, luận điểm: Cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc nêu ra trước đây đã thành hiện thực. Đây là một thành công sáng tạo của Người trong việc sáng lập Đảng Cộng sản ở một nước vốn là thuộc địa. Trong tác phẩm Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương công bố năm 1933, tác giả Hồng Thế Công (Hà Huy Tập) đã trân trọng đánh giá cống liến to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Đông Dương được thể hiện trong sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: “… công lao to lớn của đồng chí là đã tập hợp được các lực lượng cộng sản phân tán lại thành một khối, nhờ đó mà đã đưa lại cho những người lao động Đông Dương một đội tiền phong chiến đấu và kiên quyết cách mạng”.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đảng ra đời là mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Đồng thời, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam trong mấy chục năm trước đó và là khâu chuẩn bị quan trọng đầu tiên cho một bước nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng còn đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới.

Đến nay, nhiều học giả, nhà nghiên cứu đã nêu ra giả thuyết rằng: “Nếu không có sự sáng tạo, chủ động, nhạy bén của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; nếu không có Hội nghị thành lập Đảng hoặc giả sử như Hội nghị đó diễn ra muộn hơn thì lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam sẽ như thế nào?”. Thiết nghĩ, lịch sử 95 Đảng Cộng sản Việt Nam là câu trả lời rõ nét nhất. Bởi ra đời từ sự sáng tạo, chủ động, kịp thời của những người cộng sản Việt Nam đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quy tụ, tập hợp mọi lực lượng vì mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã viết lên những trang sử hào hùng: Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945) (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu (7-5-1954); thắng lợi của Đại thắng mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975); tiếp đó là thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nhân dân Việt Nam đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng là tiền đề cần và đủ để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.

Báo QĐND
Yêu nước ST.

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ ĐỊNH 177 CHÍNH PHỦ

 Sĩ quan nghỉ công tác có thể được xét thăng quân hàm

Sĩ quan không đủ điều kiện về tuổi để tái cử khi nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu được xét thăng cấp bậc quân hàm, nâng bậc lương theo quy định.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 177/2024/NĐ-CP ngày 31.12.2024 quy định chế độ, chính sách đối với các trường hợp không tái cử, tái bổ nhiệm và cán bộ thôi việc, nghỉ hưu theo nguyện vọng.

Nghị định đã quy định cách xác định thời gian để tính hưởng trợ cấp.

Theo đó, thời gian nghỉ hưu trước tuổi để tính hưởng trợ cấp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này (được trợ cấp 5 tháng tiền lương hiện hưởng tại thời điểm nghỉ hưu cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi), nếu có tháng lẻ thì được tính tròn theo nguyên tắc: từ 1 tháng đến đủ 6 tháng tính là 1/2 năm; từ trên 6 tháng đến 12 tháng tính là 1 năm.

Thời gian công tác tính hưởng trợ cấp quy định tại điểm c khoản 2 Điều này (được trợ cấp 5 tháng tiền lương hiện hưởng đối với 20 năm đầu công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc) là tổng thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Thời hạn thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ không tái cử, tái bổ nhiệm quy định là trước ngày khai mạc đại hội hoặc trước ngày bầu cử cùng cấp không quá 12 tháng và chậm nhất sau khi kết thúc đại hội hoặc sau khi kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội, HĐND 1 tháng.

Về chế độ nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu, được hưởng nguyên mức lương chức vụ hoặc mức lương theo ngạch, bậc, phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề, mức chênh lệch bảo lưu lương, phụ cấp trách nhiệm đối với ủy viên các cấp (nếu có) cho đến khi đủ tuổi nghỉ hưu.

Người nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu và cơ quan nơi công tác tiếp tục thực hiện đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

Không thực hiện nâng ngạch, bậc lương trong thời gian nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu. Các chế độ khác như chế độ phục vụ, chế độ điện thoại (nếu có), các loại phụ cấp khác với phụ cấp quy định thôi hưởng kể từ tháng liền kề sau tháng có quyết định nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu.

Các chế độ, chính sách khác (nếu có) thực hiện theo nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị như đối với người đã nghỉ hưu.

Trường hợp người nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu khi đang công tác thuộc đối tượng được hưởng chế độ sử dụng thường xuyên xe ô tô thì cơ quan có trách nhiệm bố trí xe đưa đón nếu có yêu cầu để tham gia các cuộc họp, hội nghị hoặc đi khám chữa bệnh; nếu không bố trí được thì thanh toán theo quy định.

Không tính vào biên chế của cơ quan đối với các trường hợp trong thời gian nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu. Khi đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định, cơ quan nơi công tác thực hiện thủ tục để cán bộ hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này còn được xét thăng cấp bậc quân hàm, nâng bậc lương theo quy định (nếu có). Việc xác định thời điểm nghỉ hưu và thời điểm hưởng lương hưu thực hiện theo quy định của pháp luật.

Khoản 2 Điều 2 Nghị định này quy định: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, viên chức quốc phòng, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như quân nhân trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân giữ chức vụ, chức danh thuộc cơ cấu tham gia cấp ủy, ủy viên chuyên trách Ủy ban kiểm tra cùng cấp nhưng không đủ điều kiện về tuổi để tái cử cấp ủy cùng cấp.

Đối với trường hợp này, độ tuổi nghỉ hưu được tính theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Luật Công an nhân dân, Luật Cơ yếu và các văn bản hướng dẫn thi hành./.

VIỆT NAM ĐƯỢC VINH DANH LÀ MỘT TRONG NHỮNG QUỐC GIA ĐẸP NHẤT THẾ GIỚI 2024

 Việt Nam vừa được vinh danh trong danh sách 40 quốc gia đẹp nhất thế giới năm 2024 do tạp chí uy tín của Mỹ, US News & World Report, công bố.

Bảng xếp hạng được thực hiện dựa trên khảo sát ý kiến của hơn 17.000 du khách và đánh giá chuyên môn từ các chuyên gia trên toàn cầu. Các quốc gia được chấm điểm theo thang điểm 100, dựa trên nhiều tiêu chí.

Kết quả, Việt Nam xuất sắc xếp ở vị trí thứ 36, ghi điểm ở nhiều hạng mục quan trọng./.


Ngày xuân nghĩ về những quyết định lịch sử của Đảng và Bác Hồ

 Trong lịch sử 95 năm gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, trước những thời khắc cam go, Đảng ta và Bác Hồ luôn có những quyết định đúng đắn biến những thách thức cam go thành thời cơ thuận lợi để dân tộc ta vượt lên và đi tới.

Những thành quả to lớn mà đất nước và nhân dân ta đạt được kể từ khi có Đảng luôn gắn chặt với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, gắn chặt với tên tuổi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Trong lịch sử 95 năm gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, trước những thời khắc cam go, Đảng ta và Bác Hồ luôn có những quyết định đúng đắn biến những thách thức cam go thành thời cơ thuận lợi để dân tộc ta vượt lên và đi tới.

Từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc lãnh đạo phong trào cách mạng vào ngày 28.1.1941, nhiều quyết định lịch sử của Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sau này là Hồ Chí Minh đã có tác động trực tiếp, quyết định đến những thành công của cách mạng Việt Nam.

Năm 1941, chiến tranh thế giới lần thứ 2 lan rộng, cả châu Âu tràn ngập khói lửa chiến tranh. Tháng 9.1940, phát xít Nhật mở cuộc xâm lược Việt Nam.

Chẳng những không bảo vệ nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp ở Đông Dương còn câu kết với phát xít Nhật thống trị và đàn áp nhân dân ta; đặt nhân dân ta vào tình cảnh “một cổ hai tròng”. Lúc này, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với phát xít, thực dân trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã họp Hội nghị lần thứ 8 (tháng 5.1941) và quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tất cả các mục tiêu, lợi ích khác đều phải phục vụ cho mục tiêu cao nhất là giành độc lập dân tộc; quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp tất cả các lực lượng, giai tầng đoàn kết bên nhau cứu nước, cứu giống nòi.

Quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và xem đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta. Tất cả những quyết sách đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của toàn dân ấy đã thúc đẩy mạnh mẽ cao trào giải phóng dân tộc để khi thời cơ đến vào năm 1945, cả dân tộc Việt Nam theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” đã vùng lên với sức mạnh “chuyển núi, dời sông”, đập tan xích xiềng của hơn 80 năm nô lệ, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại hàng ngàn năm trên đất nước ta, giành chính quyền về tay nhân dân, thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh của chính mình, là người chủ thật sự của đất nước.

Ngay khi nước nhà vừa giành được độc lập, công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thử thách đó là nạn đói, nạn dốt, ngân quỹ trống rỗng, nền độc lập chưa được các nước công nhận...; thù trong, giặc ngoài.

Đặc biệt, 20 vạn quân Quốc Dân đảng Trung Hoa với danh nghĩa Đồng minh vào tước vũ khí quân Nhật tràn vào miền Bắc nhưng thực chất là để lật đổ chính quyền non trẻ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu lập chính quyền tay sai bù nhìn để cai trị dân ta. Ở miền Nam, được quân Anh hậu thuẫn, thực dân Pháp nổ súng quay trở lại xâm lược nước ta sau khi đồng bào ở miền Nam mới được hưởng độc lập vỏn vẹn 21 ngày.

Trong tình thế “nước sôi lửa bỏng”, vận nước “ngàn cân treo sợi tóc”; Hồ Chủ tịch cùng Chính phủ và Trung ương Đảng ta đã kịp thời đề ra những quyết sách đúng đắn: diệt giặc dốt, giặc đói; huy động tổng thể sức mạnh của nhân dân chống xâm lược.

Để tập trung lực lượng đánh đuổi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược ở miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tiếp ký các điều khoản tạm thời nhân nhượng khi thì với quân Tưởng, khi với Pháp để bảo vệ độc lập dân tộc.

Trong hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài bủa vây bốn phía, bằng thiên tài lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền độc lập của dân tộc đã được giữ vững. Ngày 6.1.1946, trước họng súng của quân thù, cử tri cả nước đã tham gia bầu cử Quốc hội khoá đầu tiên và sau đó là sự ra đời của Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định đầy đủ cơ sở pháp lý của chính quyền dân chủ nhân dân.

Những quyết sách đúng đắn đó đã bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức bước vào giai đoạn cách mạng mới với kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, giải phóng nửa nước, đưa miền Bắc tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược sau này.

Trước khi thực dân Pháp buộc phải ký kết hiệp định Genève (21.7.1954) về việc lập lại hoà bình ở Đông Dương thì từ ngày 15.7.1954, tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ kẻ thù trực tiếp của cách mạng Việt Nam là đế quốc Mỹ: “Mỹ là kẻ thù chính của hoà bình thế giới, ta phải tập trung lực lượng chống đế quốc Mỹ”.

Thực tế diễn ra không ngoài tiên đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Genève, hất cẳng Pháp, nhảy vào miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai tàn bạo ở miền Nam với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trước tình cảnh đồng bào và chiến sĩ ở miền Nam phải sống trong cảnh kìm kẹp, khủng bố gắt gao của chế độ phát xít bù nhìn; Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ yêu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam là phải tiến hành đấu tranh vũ trang chống lại sự đàn áp của kẻ thù.

Trước tình hình ấy, Trung ương Đảng ra Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) năm 1959 về con đường tiến lên của cách mạng miền Nam. Nghị quyết này là một bộ phận hữu cơ trong đường lối cách mạng, đường lối chống Mỹ cứu nước của Đảng ta được thông qua tại Đại hội lần thứ 3 năm 1960.

Đây là một tháo gỡ quan trọng nhất tìm hướng đi đúng đắn nhất, phù hợp nhất cho cách mạng miền Nam. Nghị quyết 15 đã chuyển chiến lược từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù, chuyển từ thế thụ động sang thế chủ động tấn công, tạo nên bước tiến nhảy vọt cho cách mạng miền Nam đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đến toàn thắng.

Vào những năm giữa thập kỷ tám mươi của thế kỷ XX, Đảng ta đã nhận ra những bất cập, hạn chế của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nên đã khởi xướng và lãnh đạo kiên trì công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước vượt qua những thử thách gay gắt nhất và thu được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước.

Nhìn lại lịch sử dân tộc suốt chặng đường từ khi có Đảng, điểm lại những thành quả vĩ đại mà dân tộc ta đạt được trong đấu tranh giải phóng đất nước cũng như xây dựng đất nước trong hoà bình đều mang những dấu ấn của những quyết sách trên tầm tư duy chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Những quyết sách là những bài học sâu sắc đối với Đảng và nhân dân ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hôm nay./.

St

CẢNH GIÁC TRƯỚC ÂM MƯU CHỐNG PHÁ CỦA TỔ CHỨC KHỦNG BỐ “CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI”

CGQGVNLT, tiền thân là tổ chức “Tân Dân Chủ”, được thành lập năm 1991 tại Mỹ bởi Đào Minh Quân (sinh năm 1952, cựu trung úy quân đội Việt Nam Cộng hòa) cùng một số đối tượng ngụy quân, ngụy quyền lưu vong. Trụ sở của tổ chức này đặt tại Santa Ana, California, Mỹ. Mục tiêu xuyên suốt của CGQGVNLT là lật đổ chính quyền Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khôi phục cái gọi là “Nền đệ tam cộng hòa”. Bộ Công an đã chính thức công bố CGQGVNLT là tổ chức khủng bố, do các hoạt động bạo lực, khủng bố mà chúng thực hiện hoặc xúi giục thực hiện.

Từ đầu năm 2024, đặc biệt là sau sự kiện Đào Minh Quân tự xưng là "hoàng đế" vào tháng 6/2024 và tiến hành cải tổ bộ máy theo mô hình quân chủ lập hiến, CGQGVNLT đã đẩy mạnh các hoạt động chống phá với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt như:

- Tuyên truyền xuyên tạc, kích động hận thù: CGQGVNLT sử dụng mạng xã hội (Facebook, YouTube, Twitter…), các trang web, đài phát thanh (như "Đài radio tiếng nói quốc dân", "Đài truyền thông công lý") để lan truyền thông tin sai lệch, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng đặc biệt lợi dụng các vấn đề nhạy cảm trong xã hội (tham nhũng, ô nhiễm môi trường, tranh chấp đất đai…) để thổi phồng, kích động người dân.

- Kêu gọi biểu tình, gây rối an ninh trật tự: CGQGVNLT kêu gọi “tổng biểu tình”, in ấn, phát tán truyền đơn kêu gọi người dân tham gia tuần hành, biểu tình trái phép tại các địa điểm công cộng, đặc biệt vào các dịp lễ lớn, sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, nhất là trước thềm Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Các khẩu hiệu thường được sử dụng như: "Nước Việt của người Việt", "Dân tộc Việt bất khuất", "Cương thổ Việt bất thân", "Nhân dân Việt bất ly".

- Tuyển mộ, lôi kéo, dụ dỗ: CGQGVNLT tìm cách móc nối, lôi kéo những người bất mãn, có tư tưởng lệch lạc, nhẹ dạ cả tin, hứa hẹn tiền bạc, chức tước để dụ dỗ họ tham gia vào các hoạt động chống phá. Chúng cũng lợi dụng tên tuổi của một số tướng lĩnh quân đội đã nghỉ hưu để "bổ nhiệm" chức danh, tạo dựng uy tín giả nhằm lừa bịp người dân.

- Xâm nhập, phá hoại trên không gian mạng: Bên cạnh các hoạt động tuyên truyền, kích động, CGQGVNLT còn có xu hướng gia tăng các hành động tấn công mạng, xâm nhập vào các trang web của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân để thu thập thông tin, gây rối loạn hoạt động.

CGQGVNLT tuy không có thực lực mạnh về quân sự, nhưng với bản chất cực đoan, thâm thù, chúng vẫn là một mối nguy hiểm tiềm tàng. Để phòng ngừa và ngăn chặn hiệu quả các hoạt động của tổ chức này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và toàn thể người dân cần hết sức nâng cao nhận thức, cảnh giác, tích cực tố giác tội phạm, tăng cường khối đoàn kết, thống nhất, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.


NHỮNG THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN LÀ CHỨNG CỨ KHÁCH QUAN THUYẾT PHỤC BÁC BỎ MỌI QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Chưa cần chỉ ra các cách thức chống phá, luận điệu sai trái, quy chụp vô nguyên tắc, gán ghép bừa bãi hiện tượng với bản chất, tính ngụy biện, lập lờ của các quan điểm sai trái, xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thực tiễn những thành quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là minh chứng, luận cứ khách quan, xác thực nhất nhằm phản bác không khoan nhượng các quan điểm sai trái, thù địch về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Việc chuyển thành công từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là luận cứ đanh thép nhất phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ một nền kinh tế đói nghèo, khủng hoảng, chịu thiệt hại nặng nề bởi chiến tranh do chủ nghĩa thực dân, đế quốc và tay sai bù nhìn gây ra, hiện nay trong nền kinh tế ở Việt Nam đã hiện diện đầy đủ yếu tố thị trường, các loại thị trường với biểu hiện phong phú, hiện thực sinh động và sự tham gia đa dạng các loại hình, các quan hệ kinh tế; số lượng hàng hóa, dịch vụ phong phú, đa dạng, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của mọi người, từ đô thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, từ nơi phát triển đến vùng sâu, vùng xa; hàng hóa, dịch vụ lan tỏa vào mọi khu vực địa lý, mọi loại địa hình. Thực tế này là gì nếu không phải là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và do đó, định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là đúng đắn, phù hợp. Đó là một thực tế về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà không một thế lực nào có thể bác bỏ được.

Chính những thành tựu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đem lại những kết quả vượt bậc về tăng trưởng kinh tế đi đôi thực hiện tiến bộ xã hội, giảm nghèo bền vững với tốc độ nhanh, hiệu quả, đang được các phương tiện thông tin đại chúng trên khắp thế giới ghi nhận và công bố khách quan, một lần nữa minh chứng cho tính hiện thực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những kết quả đó đã được thế giới công nhận. Đặc biệt, khi cả thế giới phải đương đầu với đại dịch COVID-19, thì tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lại càng được thể hiện rõ ràng, hiệu quả.

Bên cạnh những thành tựu về giảm nghèo, nhiều thành tựu khác về chỉ số phát triển con người, về mạng lưới an sinh xã hội, về tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người, về sự phát triển của giáo dục, y tế, các dịch vụ cơ bản khác trên tất cả lĩnh vực được thể hiện đậm nét trong các bảng thống kê của các tổ chức trên thế giới. Điều này cho thấy, những kết quả, thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội ở nước ta được thế giới tiến bộ thừa nhận và trở thành luận cứ sắc bén bóc trần âm mưu đen tối, thái độ hằn học của các thế lực thù địch, phản động.

Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng gắn bó với thị trường thế giới, khi hàng hóa của Việt Nam tham gia vào thị trường của hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên khắp hành tinh; và theo chiều ngược lại, chừng đó những dòng hàng hóa, dịch vụ của các thị trường ấy tham gia vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đó là gì, nếu không phải là do sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Những thành tựu có được chính là nhờ việc thực hiện kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta, nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Chính chế độ xã hội chủ nghĩa đã đem lại sự ổn định, phồn vinh của đất nước ta, sự tin tưởng của cộng đồng doanh nghiệp và các chính đảng, nhà nước, tổ chức quốc tế ở khắp nơi trên thế giới đối với Việt Nam.

Thực tế đã chứng minh tính đúng đắn của việc lựa chọn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời, thực tế còn cho thấy, khi đất nước ta càng đạt được nhiều thành tựu, thì các thế lực thù địch, phản động càng điên cuồng chống phá, phủ nhận, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thế nhưng, chính những thành tựu mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng là luận cứ đanh thép, thuyết phục nhất phản bác mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động; đồng thời, là cơ sở, động lực để thúc đẩy đất nước ta đạt được những thành tựu mới cao hơn, vững chắc hơn trong giai đoạn phát triển tiếp theo.


NHẬN DIỆN SỰ SAI TRÁI VỀ MẶT LÝ LUẬN TRONG CÁC QUAN ĐIỂM THÙ ĐỊCH XUYÊN TẠC ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Thời gian qua, các luận điệu sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang được các thế lực thù địch, phản động tích cực gieo rắc, truyền bá, len lỏi vào trong các bộ phận, giai tầng xã hội cũng như nhân dân dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, lúc công khai, khi ngấm ngầm, quyết liệt.

Về mặt lý luận, lập luận về sự không tương dung, sự mâu thuẫn, không có cơ sở lý thuyết vững chắc... của các quan điểm sai trái xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa đều không hề thuyết phục, chẳng qua chỉ là lập luận xuyên tạc, sai trái hòng phân tán, đánh lạc hướng dư luận. 

Một mặt, lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. Ở đâu có sự phân công lao động và có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa con người với con người, thì ở đó có sự thúc đẩy dẫn tới xuất hiện của quan hệ hàng hóa, ở đó có quan hệ thị trường. Sự phát triển cứ như vậy diễn ra một cách khách quan vượt ra ngoài mọi ý chí chủ quan của con người. Về bản chất, kinh tế thị trường là giá trị phổ quát, không phải là giá trị riêng có của chủ nghĩa tư bản. Do đó, việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn sai lầm; lấy sự hiểu biết không thấu đáo để lớn tiếng cho rằng, chỉ có trên nền tảng tư bản chủ nghĩa, chỉ có kinh tế tư nhân mới có kinh tế thị trường là quan điểm ấu trĩ!

Mặt khác, đến lượt nó, dù phát triển ở đâu, trong phạm vi quốc gia nào, ngoài những đặc trưng chung, những thành tố không thể thiếu là các yếu tố thị trường và các loại thị trường, thì kinh tế thị trường đều chịu sự quy định và phản ánh trình độ phát triển, điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị, thể chế ở quốc gia đó. Không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung, phi lịch sử. Thực tế cho thấy, mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ khác với kinh tế thị trường kiểu Đức, kinh tế thị trường kiểu Pháp khác với kinh tế thị trường kiểu Nhật Bản, kinh tế thị trường kiểu Anh khác với kinh tế thị trường kiểu Thụy Điển... Sở dĩ như vậy là vì, ngoài nền tảng chung là các yếu tố thị trường, các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay đều có vai trò của nhà nước, không có nền kinh tế thị trường nào chỉ nguyên nghĩa, tồn tại duy nhất vai trò của thị trường. Bởi lẽ, bản thân cơ chế thị trường cũng có những “khuyết tật” mà không thể tự khắc phục được. Vai trò của nhà nước trong việc khắc phục khuyết tật của thị trường là tất yếu khách quan. Khi đã có sự tham gia của nhà nước một cách khách quan, tất yếu có đặc trưng khác nhau trong các nền kinh tế thị trường đó ngoài những đặc điểm chung. Không có một nền kinh tế thị trường tự do vô chính phủ, lửng lơ. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng không nằm ngoài tính phổ biến đó. Vì vậy, các quan điểm sai trái, xuyên tạc, cố tình lập luận, dùng một tưởng tượng về nền kinh tế thị trường chung chung, trừu tượng, phi lịch sử để quy cho một mô hình kinh tế thị trường cụ thể, hiện hữu là phi lịch sử và phản khoa học.

Càng không đúng hơn khi xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường là đa nguyên, định hướng xã hội chủ nghĩa là nhất nguyên; kinh tế thị trường là tự do, định hướng xã hội chủ nghĩa là chuyên chế, độc đoán... Đây là những cách lập luận mang tính thù địch, cố tình không phân biệt giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, không phân biệt giữa chế độ xã hội với thể chế kinh tế thị trường, dùng biểu hiện bề ngoài và một vài khía cạnh của kinh tế thị trường để đánh đồng cho toàn bộ cấu trúc tổng thể của một mô hình kinh tế thị trường, cũng như không hiểu về bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa. Về mặt lý luận, không ở đâu có cái gọi là “kinh tế thị trường nhất nguyên”, càng không có “kinh tế thị trường tự do trừu tượng”, cũng không có “kinh tế thị trường nào là độc đoán, chuyên chế”. Sự cố tình lập lờ, tráo lộn các phạm trù kinh tế với các phạm trù chính trị là lập luận sai trái, âm mưu nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động.

Hơn nữa, việc sử dụng một số biểu hiện có tính chất hạn chế nhất thời, để từ đó thổi phồng như là bản chất của nền kinh tế thị trường càng hoàn toàn không phải là một cách lập luận thuyết phục, chẳng hạn việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo, là dung dưỡng cho tham nhũng, cho thất thoát lại một lần nữa cho thấy sự không trung thực, ý đồ xấu trong lập luận của các quan điểm sai trái nêu trên. Thực tế là, những biểu hiện nhất thời, những khiếm khuyết xảy ra không phải là bản chất xuyên suốt của một nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Như thế, xét về bản chất, thực hiện đầy đủ những giá trị đó chính là giá trị chung mà mỗi người Việt Nam chân chính đều mong muốn. Đó cũng là thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn phát triển của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa vì tự do, chủ nghĩa hướng đến khát vọng tự do của con người, mưu cầu sự giải phóng cho nhân loại; song, các thế lực thù địch, phản động lại xuyên tạc việc phát triển kinh tế dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tham nhũng, thất thoát, lãng phí không xuất phát từ bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; do đó, cố tình dùng hiện tượng đơn lẻ để quy chụp cho bản chất, dùng biểu hiện nhất thời, quy cho toàn bộ quá trình là cách lập luận hoàn toàn thiếu xác đáng. Tuy nhiên, việc cố tình lập lờ, đánh lận con đen dễ gây ngộ nhận, nhầm lẫn, nên các thế lực thù địch không ngần ngại sử dụng hòng xuyên tạc, phủ nhận mọi thành tựu mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 


SỰ TINH VI, PHỨC TẠP CỦA CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Hiện nay, các luận điệu sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang được các thế lực thù địch, phản động tích cực gieo rắc, truyền bá, len lỏi vào trong các bộ phận, giai tầng xã hội cũng như nhân dân dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, lúc công khai, khi ngấm ngầm, quyết liệt. Các luận điệu sai trái, thù địch có nhiều, nhưng có thể khái quát vào ba nhóm vấn đề chủ yếu sau đây:

Một là, nhóm quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận tính hiện thực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Các thế lực thù địch ráo riết lan truyền luận điệu rằng, sẽ không thể có được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều lý lẽ xuyên tạc được các thế lực thù địch sử dụng để biện hộ cho cách lập luận của họ. Chúng xuyên tạc rằng, chủ nghĩa xã hội còn chưa rõ là thế nào, thì việc định hướng xã hội chủ nghĩa là không rõ ràng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng tù mù hơn(?!); rằng, Việt Nam chưa có kinh tế thị trường đúng nghĩa trong khi lại định hướng đi tới một chế độ xã hội chưa rõ ràng nên đi từ cái “chưa có gì” đến cái “chưa biết gì” là không thể. Không dừng lại ở đó, các thế lực thù địch còn tiếp tục xuyên tạc rằng, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX rồi, làm gì còn chủ nghĩa xã hội mà định hướng; nào là hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội đã đi vào dĩ vãng, cáo chung, làm sao cứ bám quá khứ để định hướng đi đến tương lai (?!)... Nhiều quan điểm sai trái, thù địch kiểu như trên đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ, được cài cắm, len lỏi vào các diễn đàn trên mạng xã hội, các diễn đàn “hiến kế”, các diễn đàn “yêu nước”, vì “dân oan”... Đây là cách thức rất tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng hòng xuyên tạc, phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Hai là, nhóm quan điểm sai trái, xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là tự mâu thuẫn nhau, không thể tương dung trong nền kinh tế thị trường đúng nghĩa.

Để biện hộ cho quan điểm sai trái, tinh vi này, các thế lực thù địch, phản động tìm mọi luận cứ gán ghép xuyên tạc, hòng khiến người dân mơ hồ về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo chúng, kinh tế thị trường là tự do, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là chuyên chế; kinh tế thị trường là đa nguyên, trong khi chủ nghĩa xã hội là nhất nguyên; kinh tế thị trường là dân chủ, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là độc đoán; kinh tế thị trường là sở hữu tư nhân, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa là sở hữu toàn dân; kinh tế thị trường là cạnh tranh bình đẳng, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước... Do đó, tự bản thân kinh tế thị trường đã mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa, tự nội hàm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã mâu thuẫn nhau, nên sẽ không thể cùng tồn tại trong một mô hình kinh tế thị trường(?!).

Ba là, nhóm quan điểm xuyên tạc rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là không có cơ sở lý thuyết khoa học, có chăng chỉ là sự gán ghép khiên cưỡng lý thuyết kinh tế thị trường với lý luận Mác - Lê-nin.

Đưa ra quan điểm sai trái, lập luận phủ định, bác bỏ chưa đủ, các thế lực thù địch, phản động còn viện dẫn đến các phương thức xuyên tạc, vòng vo, lập lờ để hòng đánh lạc hướng thành viên trong xã hội. Chúng xuyên tạc rằng, chỉ có sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân mới là động lực của kinh tế thị trường; đồng thời, viện dẫn các quan điểm lý thuyết của các nhà kinh tế học phương Tây rằng, muốn có kinh tế thị trường thì tư nhân phải là chủ đạo. Theo đó, các quan điểm sai trái bám vào luận điệu cho rằng, cơ sở lý luận của sự phát triển kinh tế thị trường phải dựa trên sở hữu tư nhân; trong khi đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin lại chủ trương công hữu là là sự gán ghép khiên cưỡng vào nền kinh tế(?!). Tinh vi hơn, các quan điểm xuyên tạc định hướng xã hội chủ nghĩa còn thường xuyên nhấn mạnh rằng, kinh tế thị trường phải dựa trên nền tảng xã hội dân sự, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại dựa trên hệ thống chính trị độc đảng; kinh tế thị trường phải dựa trên các lý thuyết kinh tế tự do, trong khi định hướng xã hội chủ nghĩa lại dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin ngoại lai(?!). Không dừng lại ở đó, các quan điểm sai trái, thù địch còn viện dẫn các biểu hiện đơn lẻ để quy kết cho bản chất của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Chúng quy chụp rằng, vì sự khiên cưỡng này nên hàng loạt vụ tham nhũng lớn xảy ra ở Việt Nam là do nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không có cơ sở lý luận vững chắc... Có thể thấy, rất nhiều lập luận sai trái, xuyên tạc như vậy đang được đẩy mạnh truyền bá trong nhiều chương trình của hệ thống truyền thông của các thế lực thù địch, phản động.

Ba nhóm lập luận nêu trên là điển hình trong rất nhiều quan điểm xuyên tạc, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mà các thế lực thù địch, phản động ráo riết truyền bá dưới các màu sắc và cách thức tinh vi, xảo quyệt khác nhau. Âm mưu nguy hiểm của chúng là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường phát triển của đất nước ta. Các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc thực chất là truyền bá đắc lực cho các thế lực mưu đồ giành quyền lực chính trị. Các thế lực này đang khát khao tìm cách len lỏi vào đời sống xã hội; từ đó, từng bước gây chia rẽ, mâu thuẫn, mơ hồ trong nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân, tiến tới gây ảnh hưởng chính trị, làm rối loạn sự ổn định ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động nhận thức được rằng, nền tảng tư tưởng, lý luận của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ có thể được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; do đó, tìm mọi cách xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đồng nghĩa với việc gián tiếp bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, khi xuyên tạc, làm méo mó nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động muốn xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là thành tựu của gần 40 năm đổi mới.

Ý đồ sâu xa của các quan điểm sai trái, xuyên tạc, thù địch nêu trên là không thừa nhận con đường phát triển đúng đắn, phù hợp của Việt Nam; cố tình bôi nhọ, tìm mọi cách chống phá, trên mọi mặt trận, bằng mọi thủ đoạn hòng xóa bỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm chệch hướng con đường phát triển của Việt Nam dưới nhiều màu sắc khác nhau; gây mơ hồ trong các giai tầng xã hội, hòng làm dao động tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; gây hoài nghi, chia rẽ nội bộ, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân mất niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng từng bước làm tan rã định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.


NHẬN DIỆN VÀ CẢNH GIÁC TRƯỚC CÁC THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC ĐỂ KÍCH ĐỘNG "LY KHAI", "TỰ TRỊ"

Thời gian qua, nhằm thực hiện mưu đồ chống phá Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch, tổ chức phản động tăng cường các hoạt động tuyên truyền, kích động, vu cáo Ðảng, Nhà nước trên không gian mạng, với rất nhiều chiêu trò, thủ đoạn tinh vi.

Gần đây, xuất hiện các kênh mạng xã hội cổ xúy, ca ngợi những đối tượng là người H’Mông có hành vi vi phạm chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước Việt Nam hiện đã bỏ trốn ra nước ngoài hoặc đang thụ án tại các cơ sở giam giữ trong nước, coi họ là nạn nhân của chế độ trong nước, qua đó lôi kéo, kích động hận thù và chia rẽ trong đồng bào dân tộc thiểu số, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam... Nổi lên trong số này là những tổ chức phản động như Hmong United for Justice (Liên minh người H’Mông vì công lý - HUJ), Hmong Human Rights Coalition (Liên minh nhân quyền người H’Mông - HmongHRC), Against Religion Oppression (Chống lại sự đàn áp tôn giáo), Xaivcialis CMA..., tự xưng là các tổ chức độc lập, ôn hòa, không liên quan đến bất kỳ nhóm hoặc cá nhân nào xúi giục thúc đẩy, âm mưu hoặc tiếp tay cho việc sử dụng bạo lực vì bất kỳ mục đích gì, song trên thực tế đây đều là những "tổ chức ma" do Vàng Chỉnh Mình (là người dân tộc H’Mông, sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, hiện đang định cư tại Mỹ) và số đối tượng trong HUJ lập ra. Từ đó, tạo thành hệ thống "chân rết" với nhiều kênh tuyên truyền để tìm kiếm, lôi kéo người H’Mông nhẹ dạ, cả tin nhằm thực hiện những mưu đồ đen tối.

Chỉ trong 9 tháng năm 2024, các đối tượng hoạt động cho cái gọi là "Nhà nước H’Mông" ở hải ngoại đã sử dụng hàng trăm tài khoản mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter thường xuyên đăng tải tin, hình ảnh xuyên tạc tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở trong nước, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền. Ðồng thời, các nhóm do Vàng Chỉnh Mình và đồng bọn đẩy mạnh việc bắt liên lạc, tuyển mộ thành viên, nhất là các phần tử từng tham gia tổ chức bất hợp pháp "Nhà nước H’Mông" ở trong nước. Mục tiêu chính của chúng là tìm ra các đối tượng người H’Mông được học tập, đào tạo bài bản trong hệ thống giáo dục của nhà nước, được thụ hưởng những ưu đãi của chế độ dành cho người dân tộc thiểu số nhưng vì một lý do nào đó trở nên bất mãn, lầm lạc hoặc suy thoái, biến chất, cố tình lợi dụng quyền tự do, dân chủ để "trở cờ", xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Ðảng, Nhà nước, đưa thông tin sai sự thật về công tác tôn giáo, dân tộc. Sau đó, chúng tập hợp, tổ chức, hỗ trợ cho các phần tử chống phá này cùng gia đình vượt biên trái phép sang Thái Lan, lập hồ sơ xin tị nạn sang các nước thứ ba như Mỹ, Canada để gửi tới Văn phòng của Cao ủy về Người tị nạn của Liên hợp quốc (UNHCR).

Bên cạnh đó, lợi dụng tập quán du canh, du cư của một số đồng bào H’Mông tại các khu vực biên giới, các đối tượng đã thu nạp thành công một số người dân nhẹ dạ, thiếu hiểu biết, cực đoan nhằm củng cố vây cánh để cùng thực hiện những thủ đoạn chống phá mới, mà nổi lên là các chương trình phỏng vấn "nạn nhân người H’Mông của Nhà nước Việt Nam". Khách mời của loạt chương trình này tự xưng là đại diện cho những "người H’Mông không Tổ quốc", "tù nhân người H’Mông ở Việt Nam" nhằm che giấu danh tính thật là những thành viên, cộng tác viên mới được các tổ chức chống phá người H’Mông ở nước ngoài tuyển mộ. Qua sự mớm lời, dẫn dắt thông tin của người dẫn chương trình, nhóm đối tượng này sắm vai "nhân chứng sống" ra sức xuyên tạc sai sự thật về đời sống vật chất và tinh thần của người H’Mông ở Việt Nam.

Thông qua chương trình, những đối tượng này đề cập đến một số vụ án, vụ việc vi phạm an ninh, trật tự, hộ tịch, đất đai, tôn giáo trong quá khứ liên quan đến một số người H’Mông vốn đã được cơ quan chức năng xử lý công bằng, dân chủ, minh bạch theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, bằng thủ đoạn ngụy tạo nhân chứng, đánh tráo khái niệm, họ vu cáo Ðảng và Nhà nước Việt Nam đàn áp, bắt bớ, phân biệt đối xử với người H’Mông khiến dân tộc này "bị cô lập", "bức hại", "mất đất đai", "không được thực hành niềm tin tôn giáo", "không được thụ hưởng các chính sách an sinh, xã hội", "không được cấp giấy tờ tùy thân". Thậm chí, họ còn bịa đặt trắng trợn rằng bản thân và gia đình sẽ gặp nguy hiểm, có thể bị sát hại nếu quay về Việt Nam.

Chưa dừng lại ở đó, khi khoác lên mình tấm áo "nạn nhân", các đối tượng chống phá cũng tích cực tham gia phỏng vấn trên các kênh truyền hình, tờ báo mang khuynh hướng chống cộng cực đoan ở hải ngoại, thể hiện mối quan hệ hợp tác công khai giữa tổ chức bất hợp pháp "Nhà nước H’Mông" với các hội, nhóm chống phá khác ở nước ngoài khác như BPSOS, Người Thượng vì công lý để hình thành một liên minh chống, phá Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trên lĩnh vực nhân quyền, tôn giáo, dân tộc. Ðồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí để qua đó đánh bóng tên tuổi, gây sức ép nhằm can thiệp vào tình hình nội bộ của nước ta. Nghe theo sự xúi giục của kẻ xấu, một số người H’Mông đã tự ý rời khỏi địa phương, không khai báo thông tin về nơi cư trú mới, tham gia các hoạt động tẩy chay, phản đối, bất hợp tác trong quá trình làm thủ tục cấp, đổi thẻ căn cước mới. Một số thành phần cực đoan khi vượt biên trái phép sang các quốc gia khác còn bỏ lại, tiêu hủy giấy tờ tùy thân để không bị trục xuất về Việt Nam. Chính vì vậy, cơ quan chức năng ở Việt Nam và các nước láng giềng trong khu vực gặp nhiều thách thức trong việc hoàn thiện thủ tục, hồ sơ để cấp giấy tờ tùy thân cho những trường hợp này.

Trên thực tế, các "nạn nhân" nêu trên chỉ là hiện tượng cá biệt, không phản ánh toàn cảnh đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng người H’Mông cũng như đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước, công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào tại các tỉnh miền núi phía bắc nói riêng, vùng sâu, vùng cao, vùng xa trên địa bàn cả nước nói chung không ngừng được cải thiện, nâng cao với nhiều chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực.

Ðảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng có tính chất chỉ đạo hệ thống chính trị các cấp quan tâm hơn nữa đến công tác ở vùng đồng bào dân tộc. Trên cơ sở này, chính quyền tại các địa phương đã triển khai nhiều biện pháp, cách làm hiệu quả giúp đồng bào vươn lên thoát nghèo, phát huy tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trong đó, nhấn mạnh đến các chính sách đối thoại, gặp gỡ, giải đáp các khúc mắc của đồng bào đang sinh sống tại địa bàn trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở để cùng nhau tìm ra các chính sách tối ưu nhất phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và tình hình thực tế.


ĐẤU TRANH PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO “CÂY TRE VIỆT NAM”

Thời gian gần đây, các thế lực phản động, thù địch thường xuyên tung những chiêu bài mang danh “phân tích”, “phản biện”, “bình phẩm” xuyên tạc chủ trương, đường lối đối ngoại - ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung cụ thể sau:

Một là, trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” phù hợp với cách mạng Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn, thể hiện sự khoa học, ý chí, niềm tin và mong muốn của nhân dân Việt Nam. Người Việt Nam đã trải qua các cuộc chiến tranh với những mất mát và đau thương to lớn. Vì thế, càng hiểu và trân trọng giá trị của hòa bình, độc lập, tự do; hiểu và trân trọng tinh thần tự lực, tự cường “đem sức ta mà giải phóng cho ta” từ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Việt Nam luôn phấn đấu vì một nền hòa bình cho toàn nhân loại, không có chủ trương xâm phạm chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào; luôn lựa chọn đứng về hòa bình, lẽ phải, công lý, luật pháp Quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Thế nên, những luận điệu xuyên tạc rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “ngoại giao đu dây”, “không mang lại lợi ích cho nhân dân”... là phản khoa học, phiến diện, thấy cây mà không thấy rừng.

Hai là, ngoại giao “cây tre Việt Nam” thể hiện sự tiến bộ, phù hợp với dòng chảy của thời đại. Trên thực tế, trong xu thế toàn cầu hóa, hợp tác và cạnh tranh diễn ra đan xen, mối quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới cũng có nhiều biến đổi khó lường. Trong bối cảnh đó, ngoại giao “cây tre Việt Nam” xác định độc lập dân tộc, lợi ích Tổ quốc là “gốc”, là nguyên tắc “bất biến”; linh hoạt, uyển chuyển để cân bằng, giữ vững mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia trên thế giới, để không bị rơi vào “vòng xoáy” của bất cứ một quốc gia nào, để khẳng định vị thế quốc gia - dân tộc và khẳng định những giá trị của hòa bình, công lý... là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh và tình hình mới. Vì vậy, những giọng điệu xuyên tạc, phê phán trường phải ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “lạc hậu”, “không thức thời”.... là hết sức phi lý và phản động.

Ba là, ngoại giao “cây tre Việt Nam” luôn khẳng định sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, là “gốc vững” cho “thân” và “cành” lớn mạnh. Trong bất kỳ khó khăn, thử thách nào cũng luôn bản lĩnh, kiên định, can trường vì mục tiêu độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Củng cố các quan hệ đa phương một cách uyển chuyển, linh hoạt, sáng tạo, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Vì thế, chắc chắn không phải là những hoạt động “tầm gửi”, “ăn bám” - lợi dụng, phụ thuộc vào nước khác như các đối tượng phản động rêu rao.

Bốn là, ngoại giao “cây tre Việt Nam” mang bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam; được kế thừa, đúc rút và phát huy từ những giá trị truyền thống ngoại giao của dân tộc qua ngàn năm lịch sử, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, được lãnh đạo, sáng tập bởi lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại và được phát triển, hoàn thiện trong suốt quá trình cách mạng của đất nước. Điều đó thể hiện nét riêng có của dân tộc Việt Nam xuất phát từ mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân”. Hơn nữa, xét về nội hàm, đặc trưng, ngoại giao “cây tre Việt Nam” so với các trường phái ngoại giao của nhiều nước trên thế giới, trong đó có ngoại giao “cây sậy” của Thái Lan khác nhau hoàn toàn. Do đó, những gán ghép, ngụy biện rằng “ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “cóp nhặt” từ các nước khác” là hoàn toàn ấu trĩ, suy diễn thiếu căn cứ nhằm mục đích xấu.

Năm là, ngoại giao “cây tre Việt Nam” hoàn toàn nhất quán với quan điểm, đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhá nước, trong đó có chính sách quốc phòng “4 không”, hoàn toàn không có “mâu thuẫn” như giọng điệu xuyên tạc của các thành phần, thế lực phản động. Trên tinh thần tích cực triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, đảm bảo quyền lợi giữa các bên, ngoại giao “cây tre Việt Nam” luôn đảm bảo phương châm chủ động, tỉnh táo, không mơ hồ, mất cảnh giác, không bị áp đặt; hội nhập kinh tế, văn hóa gắn liền với bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền đất nước, giữ vững an ninh - quốc phòng. Đó là sự thống nhất giữa “độc lập, tự chủ” với “đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ”. Đó cũng chính là vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Chính sách quốc phòng “4 không” cũng thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là nhằm mục đích bảo vệ hòa bình, giữ gìn độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa... chứ hoàn toàn không phải là “theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi”.

Trong thời gian tới, chắc chắn các thế lực phản động và thành phần thù địch, bất mãn sẽ không ngừng tung ra những luận điệu xuyên tạc, chống phá tinh vi, nham hiểm hơn về đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Do vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cần khôn ngừng nâng cao nhận thức, tiếp tục phát huy mạnh mẽ bản sắc ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu về hoạt động đối ngoại là minh chứng rõ nhất củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước cũng như đập tan mọi luận điệu xuyên tạc. Chắc chắn, ngoại giao “cây tre Việt Nam” sẽ tiếp tục phát huy vai trò và đem lại những thành tựu quan trọng trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.


VỀ TRIẾT LÝ ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO “CÂY TRE VIỆT NAM”

Ngoại giao “Cây tre Việt Nam” được khái quát hóa từ biểu tượng cây tre “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”; thể hiện triết lý, phương pháp luận và phương châm chỉ đạo của ngoại giao Việt Nam.

Về mặt cơ sở lý luận, đường lối ngoại giao “Cây tre Việt Nam” dựa trên mối quan hệ biện chứng giữa đối nội và đối ngoại, xuất phát từ nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và truyền thống, bản sắc ngoại giao, văn hóa dân tộc. Đường lối đối ngoại của Việt Nam được Đại hội XIII của Đảng thống nhất về nhận thức và quyết tâm là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, kết hợp sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Theo đó, Đại hội XIII của Đảng đã xác định ngoại giao là một “mặt trận”, giữ vai trò “tiên phong”, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam; ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh, “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”... Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc của quan điểm và chính sách đối ngoại của Đảng ta, trong đó có trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Để giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, việc đứng vững trên lập trường của Chủ nghĩa Mác - Lênin là một yêu cầu có tính nguyên tắc. Cùng với nhận thức sâu sắc cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; ngoại giao là một trong những mặt trận quan trọng để giành và giữ hòa bình, nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại - ngoại giao là: Độc lập tự chủ, tự cường gắn với đoàn kết quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế. Theo đó, trí tuệ và đường lối sáng suốt của Đảng, nền tảng sức mạnh đoàn kết của toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại là cội nguồn tạo nên những thành tựu vẻ vang trên mặt trận đối ngoại.

Về cơ sở thực tiễn, đường lối ngoại giao “Cây tre Việt Nam” là phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong lịch sử cũng như giai đoạn hiện nay. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho thấy, các hoạt động đối ngoại - ngoại giao luôn được coi trọng và gắn kết chặt chẽ với hoạt động quân sự. Trong đó nổi bật là phương châm “đem đại nghĩa thắng hung tàn”, “công tâm” - “đánh vào lòng người, không đánh mà thắng”... Trong mọi giai đoạn lịch sử, hoạt động ngoại giao của Việt Nam, nhất là đối với các quốc gia láng giềng luôn được coi trọng nhằm giữ yên bờ cõi, tạo sự hòa hiếu. Truyền thống tốt đẹp của ngoại giao Việt Nam là hòa bình, hữu nghị, độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia, bản sắc văn hóa, danh dự dân tộc. Đó là nền ngoại giao linh hoạt, kết hợp hài hòa giữa tính nguyên tắc và sách lược mềm dẻo, kết hợp chặt chẽ giữa mặt trận ngoại giao, mặt trận chính trị và mặt trận quân sự. Những tinh hoa của ngoại giao Việt Nam bắt nguồn từ chiều sâu bản sắc văn hóa của dân tộc; đồng thời, là sản phẩm của một quốc gia có vị trí địa chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự đặc biệt quan trọng của khu vực. Với tư tưởng ngoại giao chủ động, linh hoạt, mềm dẻo, kết hợp “cương với nhu” trên cơ sở giữ vững tính nguyên tắc đã giúp dân tộc ta bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao; giữ đúng “lễ” với “binh”, “biết mình, biết người” cả trước và sau chiến tranh, nhằm đạt mục tiêu cao nhất trong công tác - hoạt động ngoại giao Việt Nam là: giành và giữ độc lập dân tộc, nâng cao vị thế của đất nước.


NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO “CÂY TRE VIỆT NAM”

Ngoại giao “Cây tre Việt Nam” là thuật ngữ thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt và bản lĩnh của đường lối đối ngoại Việt Nam, thể hiện đường lối ngoại giao khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi khó khăn, thử thách vì độc lập dân tộc, vì tự do, vì hạnh phúc của nhân dân. Khái quát biểu tượng cây tre “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” chính là triết lý, phương pháp luận và phương châm chỉ đạo của ngoại giao Việt Nam.

Song, các thế lực phản động, các phần tử cơ hội chính trị thường xuyên sử dụng những chiêu bài mang danh “phân tích”, “phản biện”, “bình phẩm” với cường độ cao, tần suất lớn nhất là trên không gian mạng, nhằm xuyên tạc chủ trương, đường lối đối ngoại - ngoại giao “cây tre Việt Nam”.

Chúng “lập luận” rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “ngoại giao đu dây”, “không dám thể hiện lập trường”, không có mục đích phục vụ lợi ích đất nước và dân tộc mà chỉ nhằm phục vụ cho Đảng. Cụ thể, trước quan điểm của Việt Nam về cuộc xung đột vũ trang Nga - Ukraine là kêu gọi các bên chấm dứt xung đột, khôi phục hòa bình, thì chúng lại rêu rao rằng hành động của Việt Nam là “mơ hồ, không rõ ràng”, “không đi theo số đông”, thậm chí có luận điệu cho rằng Việt Nam đang ngấm ngầm ủng hộ cho chiến tranh, quay lưng với hòa bình, “không kiên định”, “không dứt khoát”, “lạc lõng giữa thời cuộc”.

Chúng xuyên tạc rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là lạc hậu, đường lối bị động, do thiếu bản sắc nên bị hòa tan, cóp nhặt từ “ngoại giao cây sậy” của Thái Lan. Chúng cho rằng trong bối cảnh hiện nay, mỗi nước phải biết và chọn cho mình một nước lớn để dựa vào mới có thể bảo vệ đất nước khi cần thiết. Thế nên, chúng xuyên tạc rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” và chính sách quốc phòng “4 không” là không thức thời, là lạc hậu, hẹp hòi.

Chúng còn xuyên tạc rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là chính sách “tầm gửi”, “ăn bám”, chỉ nhằm củng cố quyền lực cho Đảng cầm quyền. Vì thế, trước mỗi chuyến thăm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đến các nước lớn, những giọng điệu “ngụy dân chủ” lại lớn tiếng rằng lãnh đạo Việt Nam đang “lợi dụng” những nước lớn “làm bình phong”, chỉ vì lợi ích của lãnh đạo chứ không phải vì lợi ích của nhân dân, không đại diện cho nhân dân.

Ngoài ra, chúng chỉ ra cái gọi là “mâu thuẫn” trong trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” hòng kích động nhân dân đòi đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng. Trước mỗi sự kiện ngoại giao quan trọng như các hội nghị đối ngoại, các chuyến thăm cấp cao... các phần tử phản động lại mượn danh “kiến nghị”, “thư ngỏ” để: một mặt, chúng “vờ” chỉ ra những mâu thuẫn như “Việt Nam không liên minh quân sự thì làm sao có thể hợp tác đa phương”, “đã độc lập tự chủ thì sao còn đòi hợp tác và phát triển”...; mặt khác, chúng hạ thấp vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế, đòi hỏi phải đổi mới đường lối đối ngoại, đòi Việt Nam phải “có lập trường rõ ràng, phải chọn bên hợp lý”, đòi “dân chủ hóa Việt Nam”... Sau những thành công của các sự kiện đối ngoại - ngoại giao thì chúng lại xuyên tạc rằng “Việt Nam làm màu, hình thức, tất cả chỉ là giả tạo”.

Những luận điệu xuyên tạc của các đối tượng phản động liên quan đến công tác đối ngoại - ngoại giao, trong đó có trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” không ngoài mục đích nhắm tới âm mưu cuối cùng của chúng là tạo ra sự hoang mang, “lèo lái” dư luận, gây chia rẽ, kích động từ bên trong đối với các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tiến tới thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”. “Hiệu ứng tức thời” mà chúng mong muốn là “nói đi nói lại, sai cũng thành đúng” nhằm gây ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ hữu nghị, hợp tác của Việt Nam đối với các quốc gia trên thế giới, hạ thấp uy tín và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.


CẢNH GIÁC TRƯỚC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC NGHỊ ĐỊNH 147

Nghị định 147/2024/NĐ-CP ngày 9-11-2024 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng (Nghị định 147) chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 25/12/2024. Nghị định 147 ra đời nhằm kiến tạo không gian mạng minh bạch, tin cậy và an toàn, khắc chế các tình trạng mạo danh, lừa đảo trực tuyến, lan truyền thông tin xấu, độc, chống phá Đảng, Nhà nước. Với những ưu việt đó, Nghị định 147 nhận được sự mong chờ và phản hồi tích cực của các chuyên gia, nhà nghiên cứu và cộng đồng.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại nhân cơ hội này tăng cường phát tán các thông tin bịa đặt, xuyên tạc nội dung nghị định này.

Một số trang mạng xã hội (MXH) chuyên đăng tải thông tin xấu, độc đã đăng tải nhiều dòng trạng thái thể hiện thái độ bất bình trước những quy định mới của Nghị định 147. Việc bất bình xuất phát từ nguyên nhân họ lo ngại những hành vi vi phạm trên không gian mạng sẽ bị xử lý và quản lý nghiêm, trong đó có việc lợi dụng live stream, phỏng vấn… để cài cắm tin giả, bình luận tiêu cực, phát tán những thông tin xấu, độc đến người dùng MXH. Trên trang MXH V., các thế lực thù địch, cơ hội chính trị bịa đặt thông tin cho rằng, với sự ra đời của Nghị định 147, chính quyền nước ta “bịt miệng, không cho dân bình luận”; còn trang t. thông tin xuyên tạc rằng Việt Nam “hạn chế quyền tự do thông tin và biểu đạt”… Thậm chí, một trang tin có trụ sở ở nước ngoài còn đăng bài viết với lập luận xuyên tạc rằng “Nghị định 147 sẽ như chiếc đinh đóng vào quan tài, đánh dấu thêm một bước thắt chặt đối với tự do ngôn luận  tại Việt Nam”, và “ngay cả túi tiền của người dân cũng nằm trong diện bị kiểm soát”... Các thế lực thù địch “mượn danh” quyền con người để đả phá chính sách mới của Nhà nước ta, nhưng thực chất chúng đang lo ngại các nội dung thông tin xấu độc, những thông tin gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bí mật nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân… mà chúng thường xuyên đăng tải trên MXH sẽ bị “bóp” tương tác. Điều này cũng đồng nghĩa các thông tin xấu độc không “phủ sóng” được trên môi trường mạng, làm thất bại ý đồ, mục đích chống phá cách mạng của các thế lực thù địch.

Thực tế, đây không phải lần đầu tiên và nội dung duy nhất mà các thế lực thù địch tạo cớ để chống phá. Nhân danh nhân quyền để nói về tự do ngôn luận nói riêng và các quyền khác nói chung, nhưng các thế lực thù địch chỉ nói những lời vô căn cứ, xuyên tạc hòng nhắm đến những người không vững về lập trường, tư tưởng dao động. Bởi bất kỳ ai khi nắm vững cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn về tự do ngôn luận thì sẽ thấy được ý đồ nham hiểm của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị này.


NGHỊ ĐỊNH 147 LÀ NỀN TẢNG KIẾN TẠO KHÔNG GIAN MẠNG MINH BẠCH, TIN CẬY VÀ AN TOÀN

Nghị định 147/2024/NĐ-CP ngày 9-11-2024 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhằm kiến tạo không gian mạng minh bạch, tin cậy và an toàn, khắc chế các tình trạng mạo danh, lừa đảo trực tuyến, lan truyền thông tin xấu, độc, chống phá Đảng, Nhà nước. Nghị định 147 có 84 điều, 6 chương, quy định biện pháp thi hành việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet, thông tin trên mạng, bao gồm: dịch vụ internet, tài nguyên internet; thông tin trên mạng; cung cấp dịch vụ nội dung thông tin trên mạng viễn thông di động; giám sát thông tin và ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin vi phạm pháp luật trên mạng.

Nghị định 147 có nhiều điểm mới, được cho là bước tiến mới trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và MXH ở Việt Nam, góp phần tích cực trong việc xây dựng môi trường internet, MXH lành mạnh, trách nhiệm, an toàn.

Trong đó, liên quan đến hoạt động cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam, nghị định bổ sung các quy định về chặn gỡ nội dung, dịch vụ vi phạm trong vòng 24 giờ, chặn gỡ kịp thời với nội dung, dịch vụ vi phạm an ninh quốc gia; khóa tạm thời hoặc vĩnh viễn tài khoản, trang, nhóm, kênh MXH thường xuyên vi phạm. Đặc biệt, nghị định này quy định việc xác thực và định danh tài khoản của người dùng bằng số điện thoại hoặc số định danh cá nhân, bảo đảm chỉ những tài khoản đã xác thực mới được đăng tải thông tin (viết bài, bình luận, live stream) và chia sẻ thông tin trên MXH...

Với việc quy định người sử dụng được bảo vệ thông tin theo quy định của pháp luật, đồng thời phải chịu trách nhiệm về nội dung do mình cung cấp, lưu trữ, truyền đưa, chia sẻ trên mạng sẽ hạn chế tình trạng “núp lùm”, vô danh để phát tán, chia sẻ thông tin xấu, độc trên MXH. Qua đó giảm thiểu tình trạng giả mạo, lừa đảo trực tuyến, tung tin giả và các hành vi vi phạm pháp luật khác... giải quyết được tình trạng vô danh nên vô trách nhiệm.

Với sự phát triển như vũ bão của internet, bên cạnh những lợi ích vô cùng thiết thực thì môi trường internet và MXH tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn vì tội phạm mạng hoạt động ngày càng tinh vi, các thế lực thù địch, chống phá cách mạng xem internet và MXH là mảnh đất màu mỡ để gieo rắc các thông tin xấu, độc… Trong khi đó, Việt Nam lại nằm trong tốp những quốc gia có số lượng người dùng MXH cao nhất thế giới. Tổng số tài khoản người Việt Nam sử dụng MXH nước ngoài khoảng 203 triệu, trong đó Facebook: 72 triệu, YouTube: 63 triệu và Tiktok: 67 triệu...

Do đó, việc Nhà nước ta ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật, cụ thể mới đây là Nghị định 147 để nhằm tiếp tục hoàn hiện hệ thống pháp luật Việt Nam, không chỉ thúc đẩy, đảm bảo quyền con người, mà còn tăng cường, củng cố thể chế để kiến tạo một môi trường mạng lành mạnh, an toàn, trách nhiệm.


NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG TRONG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, cần xác định rõ các phương thức đấu tranh để có hiệu quả cao:

Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm về cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. 

Đây là giải pháp, đồng thời là yêu cầu đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị, địa phương và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nhận thức rõ cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay là một trong những nhiệm vụ chính trị mang tính cấp bách, thường xuyên và lâu dài. Đây là cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận, quan điểm của Đảng, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ những giá trị tư tưởng, lý luận đúng đắn, bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã dày công xây dựng. 

Hai là, chủ động bám sát và cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng cho toàn xã hội.

Công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu; không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu biên soạn các tài liệu để phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng đấu tranh cho các lực lượng.

Làm tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, chủ động trao đổi với các cán bộ có quan điểm chưa thống nhất để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận về nhận thức và hành động.

Ba là, thường xuyên đổi mới phương thức, huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong đấu tranh.

Đây là giải pháp cơ bản nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu thù địch, sai trái của các thế lực thù địch. Đa dạng hóa hoạt động đấu tranh, nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, tính thuyết phục cao. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp; giữa xây và chống, trong đó lấy xây là chính; chủ động cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan báo chí để đấu tranh, ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả.

Bốn là, tăng cường quản lý, chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách hiệu quả.

Các cơ quan chức năng cần sử dụng có hiệu quả các giải pháp về công nghệ thông tin để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu, độc trên các trang mạng, vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung “độc hại” trong một thời gian nhất định. Các tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ, lọt bí mật của Đảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc phát tán những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Thực hiện tốt những định hướng cơ bản trên sẽ góp phần ngăn chặn hiệu quả những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hoạt động trên mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch./.


ĐÁU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ QUÂN ĐỘI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Hiện nay, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch tiếp tục diễn biến phức tạp; chúng triệt để lợi dụng các sự kiện chính trị, một số “điểm nóng” xảy ra trong nước liên quan đến đời sống sinh hoạt, quyền lợi chính trị, kinh tế của các tầng lớp nhân dân; tình hình biên giới, biển đảo, dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… Đặc biệt, một số đối tượng phản động, cơ hội chính trị đã tán phát nhiều tài liệu có nội dung chống phá Quân đội.

          Những nội dung chống phá của chúng rất phản động như: bóp méo sự thật; tung tin thất thiệt với hình ảnh phản cảm trên các trang mạng xã hội, gây tâm lý hoài nghi, hoang mang trong các tầng lớp nhân dân và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, làm ảnh hưởng xấu đến chính trị nội bộ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội. Để kịp thời đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan đơn vị các cấp tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Thực hiện tốt về công tác bảo đảm an toàn thông tin, công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Thực hiện nghiêm Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về tăng cường công tác bảo đảm thông tin và một số vấn đề tổ chức hoạt động tác chiến không gian mạng.

Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ nâng cao bản lĩnh chính trị, tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, nhận thức sâu sắc nhiệm vụ của Quân đội, nêu cao ý thức cảnh giác, nhận rõ và chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; tích cực bảo vệ mình, bảo vệ nội bộ cơ quan, đơn vị.

Quản lý chặt chẽ tình hình của cơ quan, đơn vị, các mối quan hệ quân nhân, việc sử dụng các thiết bị điện tử thông minh của các đối tượng trong cơ quan, đơn vị. Chủ động nắm, quản lý, dự báo, thông tin định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trước các thông tin xấu độc, ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội.

Chỉ đạo, phát huy vai trò các cơ quan chức năng, cơ quan nghiên cứu, cơ quan báo chí, và “Lực lượng 47” trong Quân đội đẩy mạnh đấu tranh chuyên sâu; mở rộng chia sẻ, bình luận, lan tỏa thông tin tích cực trên không gian mạng; tăng cường đấu tranh trước các luận điệu chống phá Quân đội của các thế lực thù địch.

Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương nắm chắc tình hình; chủ động xây dựng kế hoạch, phương án phối hợp xử lý tốt các vụ việc, tình huống phức tạp xảy ra, giữ vững đơn vị an toàn, địa bàn an toàn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao./.