Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


MỘT SỐ VẤN ĐỀ  VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN  VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
ĐTM 015/2019
Nội dung cơ bản  của tư tưởng nhà nước pháp quyền là: nhà nước mà trong đó mọi chủ thể ( kể cả các cơ quan nhà nước ) đều phải nghiêm chỉnh phục tùng pháp luật, một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những  giá trị cao cả nhất  của xã hội,  của con người. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền, đã có từ lâu đời trong lịch sử phát triển  của xã hội loài người. Tuy nhiên, nhà nước và pháp luật đều là công cụ thống trị  của một giai cấp đối với toàn xã hội, do vậy tư tưởng nhà nước pháp quyền trong các chế độ xã hội không thể giống nhau. Do vậy, tìm hiểu tư tưởng nhà nước pháp quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, giúp chúng ta quán triệt tư tưởng  của Đảng, góp sức mình biến tư tưởng  của Đảng thành hiện thực. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà  tệ tham nhũng, quan liêu đang trở thành quốc nạn, thì tư tưởng nhà nước pháp quyền  của Đảng là cơ sở lý luận để xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, xứng đáng là nhà nước  của dân, do dân, vì dân.
 Cùng với những  thành tựu  to lớn về nhiều mặt của công cuộc đổi mới, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng nhà nước ngày càng sáng rõ, cho phép Đảng ta khẳng định quyết tâm xây dựng nhà nước pháp quyền  của dân, do dân, vì dân. Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo  của Đảng. Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân, là nhà nước pháp quyền  của dân, do dân, vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật.
 Những  luận điểm nêu trên thể hiện những  nội dung cơ bản nhất về: bản chất, đặc điểm, tổ chức  của nhà nước pháp quyền ở nước ta. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, vừa là tiếp thu có chọn lọc tư tưỏng và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền đã có trong lịch sử, phù hợp với đặc điểm và quá trình xây dựng nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
Xây dựng nhà nước thực sự  của dân, do vì dân là quan điểm nhất quán  của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam trong toàn bộ tiến trình cách mạng. Vì vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay  thực chất là xây dựng nhà nước thực sự  của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền mà chúng ta xây dựng là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bản chất giai cấp  của nhà nước pháp quyền ở nước ta vẫn là bản chất giai cấp công nhân, khác hẳn với bản chất  của nhà nước pháp quyền tư sản .
Trong nhà nước pháp quyền ở nước ta, nhân dân thực sự là chủ thể  của quyền lực nhà nước, là người tổ chức ra nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động  của nhà nước; nhà nước là hình thức quyền lực  của nhân dân, thông qua nhà nước mà quyền lực  của nhân dân mang tính quyền lực nhà nước và có hiệu lực trên thực tế ở phạm vi cả nước. Sức mạnh và quyền lực  của nhà nước đều bắt nguốn từ nhân dân, chứ không phải nhà nước là người ban quyền lực cho nhân dân. Nhân dân là người uỷ quyền cho nhà nước, nhà nước và cán bộ công chức  của nhà nước phải thực thi đúng quyền lực mà nhân dân giao  cho.
Hồ Chí Minh đã căn dặn: các cơ quan  của chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc  của dân, nghĩa là ngánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như thời kỳ dưới quyền thống trị  của Nhật, Pháp. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Thấu suốt tư tưởng  của Hồ Chí Minh,  Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.”[1]

Khi bàn về chế độ dân chủ Các Mác cho rằng: chế độ dân chủ thực chất là chế độ do dân tự quy định nhà nước. Vì vậy, với tư cách là công cụ thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải chủ động tạo môi trường, cơ chế và điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, thực hiện quyền làm chủ  của mình trong tất cả các phương diện  của đời sống xã hội.
Trước hết, nhà nước phải tổ chức tốt quá trình dân chủ hoá trên các phương diện: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Về hoạt động lập pháp: cần tổ chức lấy ý kiến  của nhân dân vào các dự án luật, tổ chức trưng cầu ý kiến nhân dân về các vấn đề quan trọng  của đất nước; tổ chức quá trình làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp. Về hoạt động hành pháp: tổ chức cho nhân dân đóng góp ý kiến vào kế hoạch phát triển  kinh tế xã hội, vào các quá trình qủan lý; thu hút nhân dân tham gia thực hiện quản lý theo ngành, theo lãnh thổ; tổ chức cho nhân tham gia giải quyết những  tranh chấp, khiếu nại, tố cáo  của công dân trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước.
Về hoạt động tư pháp: thu hút, huy động tối đa khả năng  của nhân dân,  của các tổ chức xã hội và tổ chức nghề nghiệp tham gia rộng rãi các hoạt động tư pháp, thông qua đó năng cao năng lực làm chủ nhà nước và trách nhiệm chính trị  của nhân dân đối với nhà nước; tạo điều kiện để nhân dân làm quen với công việc quản lý nhà nước.
Nhà nước pháp quyền  của dân, do dân, vì dân ở nước ta, tất cả quyền lực mà nhân dân uỷ thác cho nhà nước  phải được tổ chức phù hợp để phát huy sức mạnh  của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực sự làm chủ trong kiểm tra, giám sát hoạt động  của các cơ quan nhà nước, tránh sự lạm dụng quyền lực từ phía nhà nước. Do đó, quyền lực nhà nước là tập trung, thống nhất, không phân chia quyền lực cho các cơ quan nhà nước theo kiểu chế ước lẫn nhau như  nhà nước pháp quyền tư sản. Mặt khác tập trung quyền lực luôn gắn chặt với sự phân công quyền lực cho các cơ quan nhà nước, phối hợp thực thi các chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Để tạo khuôn khổ cho quá trình thực hiện quyền làm chủ  của nhân dân, nhà nước phải thường xuyên quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ nghiêm kỹ cương xã hội. Nhà nước thể chế hoá đướng lối, chủ trương lãnh đạo  của Đảng, thể chế hoá quyền, nghĩa vụ, lợi ích chính đáng  của nhân dân trong hệ thống pháp luật để khi ban hành nó có hiệu lực pháp lý cao, buộc mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ công chức và mọi công dân phải có nghĩa vụ chấp hành.
 Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh đó là nguyên tắc  của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồ Chí Minh đã dạy: giải quyết mọi công việc phải thấu lý  trọn tình, phải có lòng khoan dung độ lượng, nhưng pháp luật phải thẳng tay trừng trị những  kẻ bất liêm, bất kể kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, mặt trái  của cơ chế thị trường cũng đang thường xuyên tác động đến mọi mặt  của đời sống xã hội, đặc biệt là tệ quan liêu tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Không ít cán bộ, công chức nhà nước lợi dụng chức quyền để thực hiện hành vi tham nhũng, móc ngoặc tạo thành vây cánh để che chắn cho nhau trước pháp luật. 
Tệ tham nhũng đã trở thành một quốc nạn, là một trong bốn nguy cơ de doạ đến sự tồn vong  của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Để đấu tranh chống tệ quan liêu và tham nhũng thì một giải pháp có tính chất chiến lược là phải xây dựng được một nhà nước pháp quyền thực sự  của dân, do dân, vì dân.
 Muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự  của dân, do dân, vì dân thì vấn đề quan trọng hàng đầu là yếu tố con người. Phải lựa chọn, đào tạo những  con người có đủ phẩm chất và năng lực đứng vững trước những cám dỗ, cạm bẫy  của cơ chế thị trường. Mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, đòi hỏi phải có tiêu chuẩn khác nhau đối với những  cán bộ  của bộ máy nhà nước. Hơn bao giờ hết, hiện nay chúng ta càng thấm thía lời dạy  của Lê-nin: “ Trong vấn đề cải tiến bộ máy nhà nước, những  yêu cầu đối với con người không hoàn toàn giống như những  yêu cầu đối với thời chiến tranh” [2]. Muốn xây dựng bộ máy nhà nước thật sự có chất lượng, xứng đáng với với danh hiêụ nhà nước xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đầu tiên đối với con người  là phải có trình độ văn hoá cần thiết.
 Muốn có đủ trình dộ văn hoá cần thiết, cần phải học tập và chỉ có học tập, cứ không thể chỉ sử dụng bất cứ một trong những  đức tính tốt đẹp nhất  của con người; không thể thay thế kiến thức, học thức bằng sự sốt sắng, hấp tấp, vội vàng. Đồng thời việc học tập không phải nhằm mục đích tự thân; những  kiến thức đã học phải thực sự gắn với cuộc sống, phải trở thành một bộ phận khăng khít  của cuộc sống phục vụ đắc lực cho cuộc sống. Để phát huy hiệu quả  của đào tạo, phải bố trí sử dụng hợp lý, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và năng lực  của từng người.
Thực tế hiện nay ở nước ta còn có khoảng cách rất lớn giữa đào tạo và sử dụng trong toàn xã hội nói chung cũng như trong bộ máy nhà nước; nơi thừa, nơi thiếu, làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo, làm lãng phí thời gian và tiền bạc  của từng cá nhân cũng như toàn xã hội, hiệu quả công tác thấp. Để khắc phục được thực trạng nêu trên cân phải thực hiện nguyên tắc: xuất phát từ việc để bố trí người chứ không phải từ người mà bố trí việc.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự  của dân, do dân ,vì dân thì một nội dung không kém phần quan  trọng là: đội ngũ cán bộ công chức nhà nước phải được đãi ngộ một cách xứng đáng với lao động  của họ. Thu nhập  của cán bộ công chức nhà nước bảo đảm để họ có sống cao hơn mặt bằng chung  của xã hội. Tất nhiên, các khoản thu nhập phải được công khai hoá, tiền tệ hoá, chống các thu nhập có tính chất đặc quyền, đặc lợi. Với mức thu nhập như vậy, không cần tham nhũng cán bộ công chức  vẫn sống đàng hoàng.
Đi cùng với chế độ đãi ngộ xứng đáng thì cũng cần phải có những chế định về pháp luật và kinh tế, để cán bộ công chức nhà nước không dám tham nhũng. Trước hết về pháp luật cần quy định khung hình phạt nặng hơn đối với cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp luật; cùng một hành vi vi phạm, nhưng cán bộ giữ cương vị càng cao thì hình phạt càng nặng. Về kinh tế, nếu cán bộ công chức nhà nước tham nhũng gây thiệt hại về kinh tế thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về kinh tế; để tránh tẩu tán tài sản cho con, cháu, họ hàng, pháp luật cũng cần có quy định: con, cháu, họ hàng  của người tham nhũng phải chứng minh được tính hợp pháp tài sản  của mình, nếu không tài sản  của con, cháu, họ hàng sẽ bị tịch thu để bồi thường thiệt hại kinh tế  mà người tham nhũng đã gây ra.
Để chống tham nhũng có hiệu quả cần phải  tạo ra cơ chế để những  người muốn tham nhũng cũng không thể tham nhũng được. Muốn vậy phải thực hiện công khai, minh bạch mọi hoạt động  của bộ máy nhà nước: công khai công tác cán bộ; công khai thu nhập, quyền lợi và nghĩa vụ  của cán bộ, công chức nhà nước; công khai thu chi tài chính… Đồng thời với công khai phải phát huy được vai trò  của tổ chức Đảng, các tổ chức quần chúng trong việc giám sát mọi hoạt động  của cán  bộ và công chức nhà nước.
Đặc biệt là phải phải phát huy được vai trò giám sát  của nhân dân, vì  không có một hành vi nào có thể qua được tai mắt  của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, để nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cần phải có những  hình thức và biện pháp có hiệu quả để bảo vệ những  người  dũng cảm đứng ra tố cáo những  hành vi tham nhũng. Tham nhũng là quốc nạn, là giặc nội xâm, vì vậy những  người dũng cảm chống tham nhũng phải được khen thưởng xướng đáng kể cả vật chất và tinh thần, phải được tặng thưởng những  danh hiệu cao quý  của nhà nước. Thực hiện những nội dung trên đây chính là tạo ra một cơ chế để cán bộ, công chức nhà nước không cần, không dám, không thể tham nhũng.
Sự nghiệp đổi mới  của nước ta hiện nay, đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động  của bộ máy nhà nước theo định hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống tệ quan liêu tham nhũng. Quá trính đó đòi hỏi Đảng ta phải trung thành với học thuyết Mác- Lênin về nhà nước pháp luật; trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước  của dân, do dân, vì dân; tiếp thu có phê phán tư tưởng, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền và kinh nghiệm đấu tranh chống tham nhũng  của các nước trên thế giới. Trên cơ sở đó, phải không ngừng đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo, định ra phương hướng chủ trương giải pháp cụ thể để từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam  thực sự là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, đủ sức mạnh hoàn thành sứ mạnh vẻ vang xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000,T4, Tr.56,57
2. Lênin toàn tập, t45 Nxb tiến bộ M, tr  444







VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ CHỐNG ÂM MƯU LÔI KÉO THANH THIẾU NIÊN TRONG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY


VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ CHỐNG ÂM MƯU LÔI KÉO THANH THIẾU NIÊN TRONG  “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY
ĐTM 014/2019
 Thế hệ trẻ Việt Nam có vị trí, vai trò tầm quan trọng đối với tương lai của đất nước và dân tộc, đây là lực lượng có ý nghĩa quyết định sự phát triển của cách mạng nước ta, sự phồn thịnh của dân tộc. Trong suốt cuộc đời hoạt động Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã giành nhiều tâm huyết chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục sự nghiệp cách mạng. Người luôn coi đó là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này là một  công việc quan trọng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với công tác giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và mai sau. Nhất là trong công cuộc xây dựng đất nước trên con đường đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động và phức tạp, trước sự tấn công của các thế lực phản động vào thành trì cách mạng Việt Nam, lái cách mạng nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, làm lung lạc lòng tin cách mạng của thế hệ trẻ nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều lĩnh vực, trong đó về vai trò to lớn của thanh niên và thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ khi ở nước ngoài, năm 1925 trong bài gữi thanh niên An Nam, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở “Hở Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”. Với luận điểm đó đã mang lại nguồn gió mới thu hút nhiều thanh niên yêu nước đi theo con đường cách mạng của Người, lập nên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, một tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam  sau này.
Khi đất nước giành được độc lập, non sông thu về một mối, Người luôn đặt niềm tin vào thế hệ thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng. Ngay ngày khai trường đầu tiên sau cách mạng Tháng Tám thành công, Bác Hồ của chúng ta căn dặn thế hệ trẻ: “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đơị ở các em rất nhiều. Non song Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm Châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh luôn bận trăm công ngàn việc để chỉ đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi, nhưng Người đã giành thời gian quan tâm giáo dục thanh niên, thấy rõ vai trò to lớn của thanh niên, Người nói: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Người giành nhiều tình cảm đối với thanh niên vì đây là lớp người  tiếp sức mạnh, gánh vác công việc cho các thế hệ thanh niên già, thay thế đội ngũ cán bộ lão thành vì sự nghiệp cách mạng trong tương lai. Người không chỉ quan tâm thế hệ thanh niên, mà người còn luôn quan tâm giáo dưỡng lớp thiếu niên nhi đồng, đây là đội ngũ tiếp sức cho thanh niên, Người căn dặn: “Ngày nay, các cháu là nhi đồng. Ngày sau, các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới. Các cháu đoàn kết thì thế giới hoà bình và dân chủ, sẽ không có chiến tranh”. Bên cạnh tấm lòng yêu thương trìu mến của Hồ Chí Minh đối với thế hệ trẻ, Người còn quan tâm dìu dắc thế hệ trẻ bằng việc trực tiếp tổ chức đào tạo, rèn luyện, đồng thời tự mình nêu tấm gương sáng về mọi mặt để thế hệ thanh niên noi theo. Người cũng yêu cầu rất cao đối với thanh niên là phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá, đạo đức, thẩm mỹ… “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra sức làm việc để chuẩn bị cho cái tương lai đó”. Các thế hệ thanh niên phải vừa kế thừa phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp. Thanh niên phải xung phong tới nơi khó khăn, gian khổ, nơi nào cần thanh niên phải có mặt, nơi nào khó có thanh niên.
Hồ Chí Minh khẳng định, để thế hệ trẻ xứng đáng với tương lai thì thế hệ đi trước tức là những bậc cha anh phải có trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ. Đó cũng là trọng trách lớn lao của cách mạng, của Đảng. Bởi vậy, trong di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh Đảng ta trong mọi giai đoạn cách mạng luôn đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nhằm đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngay từ khi mới thành lập Đảng trong nghị  quyết về cộng sản thanh niên vận động, Đảng chỉ rõ “Thanh niên là một hạng người ít bị những cái ảnh hưởng của quốc gia, phong kiến, đế quốc trói buộc họ hơn người lớn, cho nên từ khi phong trào cách mạng nổ khắp trong xứ, chúng ta thấy quần chúng thanh niên tham gia rất hăng hái. Những cuộc công nhân bãi công và nông dân biểu tình trong năm nay tỏ ra rằng thanh niên lao động là một lực lượng cách mạng rất quan trọng không thể không kể tới được”.
Qua các kỳ Đại hội, qua các chặng đường cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm giáo dục, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ thanh niên vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đã có hàng vạn thanh niên tham gia vào trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ có người ngã xuống, hy sinh  để giành thắng lợi cho ngày hôm nay, đó là một minh chứng hùng hồn về vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp đó. Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, bảo vệ Tổ quốc vai trò thanh niên càng được Đảng ta đặt đúng vị trí, vai trò của nó. Tại hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá VII Đảng ta khẳng định: sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nqước ta bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không là tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên. Trên thực tế thanh niên hiện nay đang hăng hái xung kích đi đầu trong thực hiện các chương trình, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới với hai phong trào lớn: “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”. Bằng các chương trình hàng động “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”; “Bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an ninh”; “ Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển văn hoá-thể thao” ; “Công tác xã hội bảo vệ môi trường”; “thanh niên tình nguyệt”. Đối với trong quân đội  có các mô hình “Chi đoàn xung kích huấn luyện giỏi”; “Chi đoàn rèn luyện nghiêm, luyện giỏi, không vi phạm kỷ luật” v.v.
Các phong trào trên đã thu hút hàng triệu thanh niên hăng hái tham gia, chủ động, sáng tạo cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.  Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực của thanh niên chúng ta vẫn thấy ở một bộ phận thanh niên vẫn còn mơ hồ, ảo tưởng trước âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, có lối sống thực dụng làm nảy sinh ra nhiều hiên tượng tiêu cực. Đáng lo ngại là một bộ phận không nhỏ thanh niên còn chây lười trong học tập, rèn luyện và không tham gia vào các hoạt động của các đoàn thể và các tổ chức xã hội, nên đã từng bước bị thoái hoá, hư hỏng lao vào con đường cờ bạc, nghiện hút, ma tuý, mại dâm… gây ảnh hưởng không nhỏ cho bản thân và xã hội.
Trước tình hình như vậy đòi hỏi Đảng và Nhà nước cũng như các đoàn thể cần phải quan tâm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay đạt hiệu quả cao.  Coi trọng việc giáo dục và rèn luyện thanh niên một cách toàn diện, trong đó tập trung giáo dục mục tiêu lý tưởng cho thanh niên, về nhiệm vụ chính trị, bản lĩnh lập trường giai cấp giúp thanh niên hiểu sâu sắc về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin. tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, những yêu cầu nhiệm vụ mới về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo mọi điều kiên cho thanh niên phấn đấu trưởng thành, thật sự là con người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, con người có lý trưởng cao đẹp, có sức khoẻ và lao động giỏi, có tính nhân văn cao cả, ý thức tự lực tự cường vươn lên làm giàu cho bản thân và xã hội.
Đối với quân đội các cấp uỷ đảng luôn giáo dục sâu sắc về mục tiêu lý tưởng chiến đấu cho thanh niên, tăng cường ý chí  sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì nhân dân. Người chỉ huy và cấp uỷ ở đơn vị cần phải quan tâm xây dựng môi trường thuận lợi để thanh niên phát triển nhân cách và phát huy trí tuệ cũng như cống hiến công sức cho quân đội, cho đất nước. Đồng thời có chính sách đúng đắn cho thanh niên trong quân đội sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự để họ phát huy phẩm chất đạo đức, nhân cách anh bộ đội Cụ Hồ trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
Chăm sóc giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền và của toàn thể xã hội nói chung, trong đó ở các học viện nhà trường quân đội nói riêng làm tốt công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam, góp một phần to lớn đào tạo nên đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang có đủ đức và tài cống hiến ngày càng nhiều cho quân đội và xã hội.




         

           


TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI PHÒNG CHỐNG “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” Ở CÁC VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI


TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI PHÒNG CHỐNG
 “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” Ở CÁC VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
ĐTM 013/2019
Mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình tồn tại, phát triển hướng tới sự hưng thịnh bền vững của mình đều phải quan tâm đến việc tập hợp lực lượng, tạo dựng  nguồn động lực phù hợp với đặc thù của hoàn cảnh lịch sử. Đối với Việt Nam, đại đoàn kết toàn dân là một truyền thống quý báu, một giá trị tinh thần bền vững, một điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Để phát huy truyền thống quý báu đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm sâu sắc đến công tác vận động quần chúng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân, vì dân, ngay từ khi mới thành lập đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân công tác và lao động sản xuất, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, của Nhà nước và nhân dân. Do đó, tiến hành công tác dân vận (CTDV) là nhiệm vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu của quân đội, là vấn đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Thực tiễn hơn 60 năm qua, mỗi bước trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta đều luôn gắn liền với việc đẩy mạnh CTDV, đều được dựa chắc vào thế trận lòng dân.
Các dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số nhưng lại cư trú trên địa bàn rộng, chiếm phần lớn diện tích của cả nước, chủ yếu ở các vùng cao, trung du và ven biên giới, những vùng có vị trí rất quan trọng cả về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa.
Hiện nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang đẩy mạnh thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động ly khai, hòng chống phá cách mạng Việt Nam. Cuộc đấu tranh giữ đất, giữ dân ở các vùng đồng bào DTTS giai đoạn hiện nay vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân và bình yên đất nước là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị. Vì vậy, việc tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và tăng cường hơn nữa CTDV của quân đội ở các vùng DTTS là yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ trực tiếp đặt ra đối với quân đội ta hiện nay; đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu với nhiều nội dung, nhiều góc độ và vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Trong phạm vi chủ đề tiểu luận: “tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới”, tác giả tập trung làm rõ 2 vấn đề:
- Sự cần thiết phải tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới
- Giải pháp tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới

1. Sự cần thiết phải tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới
          1.1. Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng, nhiệm vụ, mục tiêu công tác dân vận của quân đội trong tình hình mới
          Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng; khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ nhân dân. Quan hệ mật thiết với nhân dân là mối liên hệ bản chất của Đảng, của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, CTDV luôn được coi là một công tác cơ bản của Đảng.
          Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một bộ phận trong CTDV của Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt động công tác chính trị trong quân đội, nhằm vận động cách mạng đối với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối quan hệ, đoàn kết quân dân.
          CTDV có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta. Tầm quan trọng đó được khẳng định dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quần chúng, công tác vận động quần chúng và bài học thực tiễn CTDV của quân đội.
          Các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, là người chủ chân chính của lịch sử, là lực lượng đông đảo của cách mạng. Do đó, phải tiến hành công tác tuyên truyền vận động quần chúng.
          Lênin cho rằng: “Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội ngũ tiên phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó không thể có ngay được và không phải do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành được”[1]. Người cũng chỉ rõ: sức mạnh của cách mạng là ở sự ủng hộ của quần chúng, chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; chỉ có tranh thủ quần chúng và chỉ có như thế chúng ta mới có cơ sở vững chắc cho thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp; chỉ có người nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân, mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền. “Một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phê phán được mọi cái và đi vào hành động một cách có ý thức”[2]. Vì vậy, khi đánh giá thành tích một Đảng, phải căn cứ vào cách đối xử đúng đắn với quần chúng, căn cứ vào cách vận động quần chúng của Đảng.
          Kế thừa những tư tưởng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến công tác vận động quần chúng. Người chỉ rõ: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải công việc của một, hai người. Lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng. Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra. Có lực lưọng dân chúng thì việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Vì vậy: “Cách mạng trước hết phải làm cho dân giác ngộ”[3], phải tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân, phải biết tôn trọng nhân dân và dựa vào dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sự cần thiết phải làm công tác vận động nhân dân và Đảng Cộng sản là người phải tiến hành vận động và tổ chức nhân dân. Theo Người: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc chính phủ và đoàn thể giao cho”[4]. Tiến hành CTDV là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị.
Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời và trưởng thành từ trong phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Quân đội ta vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân chính trị, có nhiệm vụ tiến hành công tác vận động quần chúng trong mọi điều kiện hoàn cảnh và mọi tình huống. Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội quân tuyên truyền”. Như vậy, ngay từ ngày đầu thành lập lực lượng vũ trang cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh  đã chỉ rõ CTDV của quân đội là một vấn đề thuộc chức năng, một nhiệm vụ chính trị của quân đội kiểu mới.
Qua các giai đoạn cách mạng, lúc khó khăn cũng như lúc thuận lợi, trong chiến tranh hay hoà bình, quân đội ta luôn dựa vào nhân dân, bảo vệ nhân dân, chia ngọt sẻ bùi với nhân dân, được nhân dân che chở, đùm bọc, tin cậy. Không có sự giúp đỡ của nhân dân, quân đội ta không thể thực hiện được nghệ thuật chiến tranh nhân dân, không thể giành thắng lợi vẻ vang. Dù ở Đồng bằng hay miền núi, quân đội ta luôn sống trong lòng dân, CTDV của quân đội luôn trở thành một kênh chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đến với đồng bào, vận động, hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào đưa đường lối chính sách vào cuộc sống. Vì vậy, nó góp phần quan trọng xây dựng lòng tin của dân đối với Đảng, tin vào thắng lợi của cách mạng. Dù ở những nơi xa xôi hẻo lánh nhất, những nơi khó khăn ác liệt nhất, nhờ có CTDV mà quân đội luôn sống trong dân, dân luôn bảo vệ quân đội. Đó là nền tảng chính trị tinh thần vững chắc cho mọi thắng lợi của quân đội, của cách mạng.
Làm tốt CTDV, quân đội ta không chỉ góp phần thực hiện có hiệu quả một trong ba chức năng của quân đội, mà còn thể hiện rõ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội kiểu mới, gắn bó máu thịt với nhân dân qua mọi thử thách.
Công tác dân vận là một trong những nội dung CTĐ, CTCT của quân đội, trực tiếp góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp phần giáo dục cho bộ đội về ý thức trách nhiệm của người quân nhân cách mạng, thực hiện quân với dân một ý chí. CTDV của quân đội do chính chủ thể CTĐ, CTCT tiến hành, đồng thời nó là trách nhiệm của mọi quân nhân. Dân vận tốt chính là góp phần giữ vững, tăng cường đoàn kết quân dân, quan hệ giữa Đảng với dân, khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần trực tiếp vào cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát huy bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.
Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ CTDV của quân đội là tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xẫ hội chủ nghĩa; thực sự là một mũi tiến công chính trị có hiệu quả trong phòng chống chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. CTDV tham gia tích cực xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện, trước hết là về chính trị; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, thực hiện chính sách dân tộc - tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tham gia có hiệu quả vào các phong trào, các cuộc vận động cách mạng, các chương trình phát triển kinh tế xẫ hội, giúp dân xoá đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định đời sống nhân dân nhất là ở các vùng trọng điểm chiến lược. Đồng thời, CTDV còn giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ về bản lĩnh chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác dân vận, giữ nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí.
          1.2. Xuất phát từ đặc điểm, vai trò của các DTTS và tình hình CTDV của quân đội ở các vùng DTTS hiện nay
          Các nhà nghiên cứu về Dân tộc đã chỉ rõ: trong quốc gia đa dân tộc, dân tộc chủ thể là dân tộc chiếm đa số hoặc tuyệt đại đa số dân cư. Dân tộc thiểu số là cộng đồng ít người, cùng sống trong một khu vực, có chung nguồn gốc huyết thống, chung ngôn ngữ, văn hoá, phong tục tập quán, tâm lý tư tưởng và trình độ phát triển. Trong tiếng Việt, từ “DTTS” chỉ có nghĩa để phân biệt số đôngsố ít, chứ hoàn toàn không có nghĩa là phân biệt đối xử trong quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng dân tộc, quốc gia.
          * Đặc điểm và vai trò của các DTTS nước ta
Nước ta là một quốc gia đa dân tộc. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm hơn 86%, còn lại 53 dân tộc anh em khác khoảng 10 triệu người, chỉ chiếm 14% dân số cả nước[5]. Với đặc điểm số dân như vậy, các dân tộc này được gọi chung theo khái niệm “Các DTTS”.
Mỗi dân tộc và mỗi vùng DTTS ở nước ta đều có những nét đặc thù riêng, song tựu trung lại có những đặc điểm chung nhất do hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa chính trị, kinh tế, văn hoá quy định. Những đặc điểm của các vùng DTTS nước ta gắn liền với CTDV của quân đội trong giai đoạn hiện nay được thể hiện nổi bật trên mấy vấn đề sau đây:
- Đặc điểm địa bàn, dân cư: Các DTTS nước ta có số dân ít, thậm chí rất ít, nhưng lại cư trú trên địa bàn rộng chiếm tới 3/4 diện tích của cả nước, chủ yếu ở miền núi, bao gồm các vùng cao và trung du, đồng thời tiếp giáp 3.000km biên giới, với nhiều cửa khẩu quan trọng.
Đồng bào thường cư trú tập trung thành từng cụm dân cư theo các buôn làng, bản làng, phum, sóc, trên các triền núi cao, trong thung lũng, ven rừng, trên các giồng đất, cát cao hoặc các vùng nông thôn ven biển. Nhìn chung, đây là các vùng có khí hậu khắc nghiệt, ảnh hưởng cả đến sản xuất và sức khoẻ, đời sống của đồng bào. Dân cư các vùng vừa tập trung tại các cụm, vừa phân tán giữa các cụm với cự ly rất xa, có nơi với cự li phải đi nhiều ngày đường. Điều kiện giao thông, đi lại hết sức khó khăn, nhiều dốc cao, vực thẳm. Thậm chí, có vùng việc đi lại không thể sử dụng phương tiện giao thông mà chủ yếu bằng đi bộ, đi ngựa. Vào các mùa mưa lũ, không ít vùng đồng bào bị cô lập trong nhiều ngày.
Do quá trình giao lưu, xâm nhập, quá trình di cư có tổ chức và di cư tự do, cũng đã tạo nên đặc điểm có sự chung sống xen kẽ giữa cư dân các dân tộc, chủ yếu là người Kinh với các DTTS khác. Đây vừa là đặc điểm thuận lợi vừa là những điều kiện nhạy cảm dễ phát sinh mâu thuẫn nội bộ các vùng đồng bào trong điều kiện hiện nay, khi mà kẻ thù lợi dụng xuyên tạc, kích động.
Đặc điểm chung nổi bật của các DTTS nước ta là thường cư trú ở các vùng địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về nhiều lĩnh vực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCHTW khoá IX đã nhận định: “Các DTTS nước ta cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái”.
- Đặc điểm văn hoá, tín ngưỡng tôn giáo: Một trong những điều kiện thuận lợi cho CTDV ở các vùng đồng bào DTTS là truyền thống văn hoá lâu đời của các dân tộc, biểu hiện ở sự đoàn kết gắn bó keo sơn trong nội tộc và với các dân tộc khác. Ý chí và tình cảm của mỗi tộc người, mỗi buôn, bản, phum sóc thường được biểu hiện tập trung ở các già làng, trưởng bản, ở các sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể được gìn giữ, lưu truyền và bổ sung, phát triển qua muôn đời. Tuy đời sống kinh tế chưa cao, chưa được ổn định, nhưng tình làng, nghĩa xóm, lòng trung thành với tín ngưỡng, tập quán tốt đẹp, truyền thống nội tộc được thể hiện rõ nét. Tín ngưỡng, tôn giáo là nét in đậm trong quá trình hình thành bản sắc văn hoá mỗi dân tộc. Tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trong các DTTS luôn gắn liền với nhau. Trong các vùng dân cư, tồn tại nhiều loại chùa triền, miếu thờ, đền thờ, nhiều loại hình lễ hội dân gian phong phú cả về nội dung, tính chất, quy mô, nghi thức...có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tâm linh của mỗi dân tộc.
Trong các vùng DTTS, tồn tại nhiều loại hình tôn giáo như Hoà Hảo, Cao Đài, Phật Giáo, Nho Giáo, Đạo Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo... Có những tôn giáo đông hàng trăm ngàn tín đồ, nhưng cũng có những tôn giáo số tín đồ chỉ tính bằng hàng chục hoặc hàng trăm người. Tôn giáo trong các vùng DTTS là vấn đề nhạy cảm trong các địa bàn nhạy cảm hiện nay mà kẻ thù đang triệt để lợi dụng để chống phá ta.
 Nhìn chung trên các địa bàn vùng DTTS còn ảnh hưởng nặng nề của tàn dư tư tưởng phong kiến, tập quán thói quen lạc hậu và cả những tệ nạn xã hội mới nảy sinh. Những tập quán như du canh, du cư, không dùng thuốc mà cúng ma để chữa bệnh, phân biệt đối xử, sinh hoạt khép kín trong các tộc người...là những tàn dư lạc hậu cần phải từng bước xoá bỏ.
Một số vùng dân tộc vừa có ngôn ngữ riêng, vừa biết sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt phổ thông. Tuy nhiên không ít dân tộc chỉ sử dụng ngôn ngữ riêng, thậm chí chỉ có tiếng nói mà không có chữ viết riêng. Đây là một đặc điểm lớn tác động đến công tác vận động quần chúng tại các vùng dân cư DTTS.
Trình độ dân trí thấp, văn hoá, giáo dục chậm phát triển, thiếu các trung tâm văn hoá; nhà trường, bệnh viện thưa thớt và chất lượng thấp. Tỷ lệ mù chữ, trẻ em thất học hoặc tái mù chữ còn cao. Các dịch vụ văn hoá báo chí, phát thanh, truyền hình, phim ảnh...còn không ít “vùng trắng”.
- Đặc điểm kinh tế, xã hội: Đại bộ phận đồng bào sống bằng nghề sản xuất nhỏ gắn với địa bàn cư trú, chủ yếu là nương rẫy, đánh bắt nhỏ, khai thác rừng tạp. Mức phát triển kinh tế và đời sống thấp, nhiều vùng sâu, vùng xa tụt hậu rất xa so với miền xuôi và các trung tâm đô thị. Những nhu cầu thiết yếu về ăn ở, đi lại, học hành, chữa bệnh còn gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng bệnh tật, trẻ em suy dinh dưỡng và số hộ thiếu đói còn nhiều. Một số vùng thiếu đất canh tác, thiếu vốn, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Nếu tính theo chuẩn nghèo mới nhất được công bố táng 12 năm 2005 thì tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng DTTS tăng lên rất cao.
Địa bàn cư trú rộng, dân cư thưa thớt, kinh tế chậm phát triển, giao thông, thông tin liên lạc khó khăn, trong khi đó, điều kiện và trình độ quản lý của các cấp chính quyền địa phương còn chưa chặt chẽ, chưa nắm chắc được đồng bào. Đội ngũ cán bộ, nhất là ở cơ sở còn yếu, chưa đủ trình độ tổ chức quản lý trong những điều kiện phức tạp. Đội ngũ cán bộ, đảng viên là người các DTTS có tỷ lệ rất thấp và nhìn chung trình độ còn bất cập.
Việc qua lại biên giới dễ dàng, tạo thuận lợi trong giao lưu về kinh tế, văn hoá, xã hội của đồng bào ta với nhân dân với các nước lánh giềng. Tuy nhiên, chính đặc điểm này tạo ra nhiều mâu thuẫn trong bảo vệ chính trị, quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội cho ta. Hàng năm, địch thường lợi dụng các điều kiện này để trà trộn với đồng bào dân tộc, xâm nhập trái phép qua biên giới, len lỏi, chui sâu vào nội địa nước ta để móc nối hoạt động chống phá cách mạng. Những năm qua đã xuất hiện nhiều điểm nóng do kẻ thù lợi dụng như ở vùng Tây Bắc, Tây Nghệ An, Tây Nguyên Và Tây Nam Bộ.
Từ những đặc điểm trên, chúng ta khẳng định, các DTTS có vai trò rất quan trọng, là những bộ phận hữu cơ, gắn bó máu thịt trong cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Lịch sử hình thành, tồn tại, phát triển của mỗi dân tộc và vùng DTTS luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam.
Quần cư trên một địa vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nên để tồn tại, con người Việt Nam phải nương tựa vào nhau, đùm bọc và đoàn kết với nhau. Hơn nữa, xét về địa - chính trị, đất nước Việt Nam là địa bàn rất quan trọng, có vị trí là đầu mối Bắc - Nam, Đông - Tây, đất liền và hải đảo, là khu vực thường diễn biến phức tạp của quá trình tộc người, luôn bị các cuộc thôn tính chinh phục của các đế chế phong kiến và các đế quốc thực dân. Toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên và chính trị đó khiến dân tộc Việt Nam thường xuyên phải đương đầu với các thế lực xâm lược hùng mạnh. Một dân tộc nhỏ, đứng trước hoạ xâm lăng, muốn không bị đồng hoá hoặc bị tiêu diệt tất yếu phải đứng lên tự bảo vệ với ý thức đoàn kết, tự lực, tự cường cao nhất. Chỉ có đoàn kết, tự cường mới có thể tồn tại và phát triển.
Trong suốt quá trình lịch sử đó, ý chí và tình cảm của đồng bào các vùng DTTS luôn hoà quyện chung vào tinh thần yêu nước, ý thức cố kết cộng đồng của toàn dân tộc Việt Nam.  Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các DTTS luôn kề vai sát cánh cùng cả nước chiến đấu chống kẻ thù chung, giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Mặc dù kẻ thù lợi dụng trình độ dân trí còn thấp dùng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tôn giáo để mua chuộc lôi kéo hoặc ra sức đàn  áp, gom dân, bắt lính nhưng đồng bào vẫn kiên cường chống lại âm mưu thâm độc đó.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, những cống hiến của đồng bào các vùng DTTS tiếp tục được giữ vững và phát huy; vẫn một lòng, một dạ tin theo Đảng, thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trước những tác động và diễn biến sâu sắc, mau lẹ của tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới và khu vực, đặc biệt là tình hình về vấn đề dân tộc, tôn giáo, kẻ thù lợi dụng chống phá, kích động, đã có một số vùng xảy ra điểm nóng, xảy ra bạo loạn chính trị.
* Tình hình CTDV của quân đội ở các vùng DTTS hiện nay
Trong những năm qua, Đảng Uỷ quân sự trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị trong toàn quân đẩy mạnh thực hiện chức năng đội quân công tác, coi CTDV là một nhiệm vụ chính trị cơ bản, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phòng chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận lòng dân.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 08b/ NQ-HN-TW của BCHTW khoá VI, Chỉ thị 137/ĐUQSTW, Chỉ thị 127/CT của Chủ nhiệm TCCT, CTDV của các đơn vị ở vùng đồng bào DTTS đã được tổ chức thực hiện đồng bộ với các nội dung, hình thức, biện pháp thiết thực, hiệu quả.
Trên cơ sở quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị, quán triệt nhiệm vụ cụ thể và thông qua hoạt động thực tiễn, nhận thức của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các đơn vị đóng quân trên vùng đồng bào DTTS đã có chuyển biến cơ bản, nêu cao ý thức và trách nhiệm trong CTDV, đã nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ và yêu cầu cấp bách phải tăng cường CTDV đối với đồng bào, đặc biệt là các địa bàn trọng điểm.
Do thống nhất được nhận thức, cấp uỷ và chỉ huy các đơn vị đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai CTDV một cách toàn diện, đồng bộ, theo một cơ chế thống nhất, chặt chẽ với nhiều nội dung, hình thức phong phú. CTDV ở các vùng DTTS đã có sự phát triển cả bề rộng và chiều sâu, chuyển mạnh xuống cơ sở. Nội dung CTDV đã bám sát và đi sâu vào thực tế các lĩnh vực đời sống xã hội, vận động mọi tầng lớp dân cư, nhất là đồng bào các dân tộc, tôn giáo trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng xung yếu và địa bàn trọng điểm chiến lược.
Bốn hình thức công tác có tính phổ biến cơ bản mà Hội nghị CTDV của quân đội đã tổng kết là: Kết nghĩa; hành quân dã ngoại, làm công tác dân vận; hoạt động của tổ, đội công tác và cử cán bộ tăng cường cho cơ sở, đã được vận dụng một cách linh hoạt, hiệu quả. Đã có 100% đơn vị cấp cơ sở tổ chức kết nghĩa với các đơn vị địa phương, phát huy tác dụng trong xây dựng cơ sở, vành đai an toàn. Đã tổ chức trên 11.000 lượt hành quân dã ngoại làm dân vận từ cấp đại đội, tiểu đoàn đến cấp trung, lữ đoàn; đã góp phần tham gia xây dựng 2.436 lượt xã, phường, cơ sở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc.
Từ năm 2002, thực hiện chỉ thị 123/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về “Củng cố, kiện toàn và hoạt động của các tổ đội công tác tăng cường trên các địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và biên giới Việt Lào”, các quân khu 2, 4, 5, 7, 9, và Quân đoàn 3 đã thành lập 216 đội công tác, với 1658 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và hạ sĩ quan chiến sĩ tham gia về 25 tỉnh, trên 100 huyện, 240 xã trọng điểm, tổ chức tuyên truyền tập trung 3.348 buổi, có 29 vạn đồng bào các dân tộc tham gia; góp phần củng cố 222 lượt tổ chức cơ sở đảng, 579 tổ chức chính quyền cấp xã, thôn, 1.118 lượt tổ chức quần chúng, xây dựng 1.027 lượt tổ an ninh nhân dân; củng cố huấn luyện quân sự cho 61 đơn vị dân quân tự vệ; tham gia cùng địa phương xoá đói giảm nghèo cho 245 hộ với 1.552 nhân khẩu, giúp địa phương giải quyết kịp thời, dứt điểm 715 vụ việc phức tạp phát sinh ở cơ sở[6].
 Đồng thời các đơn vị đã kết hợp tốt các hình thức mới như tham gia chương trình phổ cập tiểu học, chương trình quân - dân y, liên kết ứng dụng khoa học kỹ thuật, tạo nguồn cán bộ cơ sở, giao lưu văn nghệ, thể thao...
Các đoàn kinh tế quốc phòng trên các địa bàn trọng điểm chiến lược đã góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị cùng với bộ đội biên phòng bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, góp phần xoá đói giảm nghèo vùng đồng bào DTTS, vùng biên giới. Các đơn vị này đã thực sự trở thành chỗ dựa của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, được đồng bào các dân tộc tin cậy, yêu mến.
Những kết quả CTDV của quân đội ở các vùng DTTS đạt được là rất quan trọng. Song từ thực tiễn hoạt động và những diễn biến mới nảy sinh, CTDV ở các vùng DTTS cũng đặt ra nhiều vấn đề bất cập:
- Nhận thức vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung, yêu cầu nhiệm vụ CTDV ở các vùng DTTS của không ít cán bộ, chiến sĩ, thậm chí có cả cán bộ chủ trì đơn vị cơ sở còn thiếu sâu sắc, thiếu toàn diện.
- Một số đơn vị tiến hành các hình thức CTDV còn thiếu linh hoạt, thậm chí còn có biểu hiện hình thức, chạy theo thành tích, chưa coi trọng chất lượng, hiệu quả; một số ít trường hợp lợi dụng công tác dân vận để mưu lợi cá nhân.
- Năng lực tiến hành CTDV trong điều kiện tiếp xúc với đồng bào các DTTS của số không ít cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế, thiếu hiểu biết về đặc điểm văn hoá, truyền thống, phong tục, tập quán, những điều cấm kỵ riêng biệt...hiện tượng không biết, không hiểu ngôn ngữ dân tộc còn khá phổ biến, cản trở lớn đến công tác vận động, mặc dù đã có chủ trương thúc đẩy học tiếng dân tộc trong thời gian qua.
- Có không ít trường hợp biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác đối với âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, thiếu kiên định, vững vàng khi gặp phải những trường hợp phức tạp nảy sinh về chính trị, xã hội, tỏ ra lúng túng do không nắm vững chủ trương, chính sách, kiến thức công tác quần chúng.
- Các đơn vị còn thiếu thốn nhiều về cơ sở vật chất trong tiến hành CTDV ở các vùng DTTS, trang bị còn đơn điệu, không thiết thực.
Toàn bộ tình hình đó phản ảnh một tình trạng chung của CTDV của quân đội ở các vùng DTTS là còn biểu hiện thiếu tính hệ thống, còn tình trạng manh mún, kém hiệu quả, chưa thực sự vững chắc.
1.3. Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng nước ta
Đối với các DTTS, âm mưu xuyên suốt của kẻ thù là chia rẽ dân tộc, nhất là chia rẽ các DTTS với người Kinh, chia rẽ nhân dân các DTTS với Đảng, Nhà nước và chế độ, chia rẽ nội bộ nhân dân các dân tộc; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, kích động ly khai, xúi dục đòi tự trị dân tộc hòng chia rẽ, xé nhỏ nước ta, làm suy yếu rồi đi đến thôn tính Việt Nam.
Từ âm mưu đó, đối với từng vùng DTTS cụ thể, các thế lực thù địch lại có những âm mưu, thủ đoạn riêng mà chúng cho là thích hợp với từng vùng:
-  Đối với các DTTS khu vực phía Bắc: Chúng kích động đồng bào đòi thành lập “Vương quốc Hmông tự trị”, “Khu tự trị người Thái”, tuyên truyền tư tưởng “Đại Thái”, kích động gây phỉ, xưng vua, tổ chức đón rước gây bạo loạn.
- Đối với các DTTS vùng Tây nguyên: Âm mưu, thủ đoạn của chúng là nhằm tạo ra sự ly khai, chia rẽ. Để thực hiện âm mưu này, bọn đế quốc và các thế lực thù địch bên ngoài đã chỉ đạo, kích động các đối tượng trong nước đòi thành lập “Nhà nước Đề Ga độc lập”, lập ra “Tin lành Đề Ga” (tách khỏi Tin lành của người Kinh) để hoạt động chống phá ta. Chúng không ngừng phát triển thứ đạo Tin lành theo kiểu Mỹ.
- Đối với dân tộc chăm: Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề lịch sử, kích động đấu tranh đòi phục hồi “Vương quốc Chăm”.
- Đối với vùng Tây Nam Bộ: Thủ đoạn chủ yếu của chúng là gây thù hằn, chia rẽ người Khơme với người Kinh, giữa Việt Nam với Campuchia, tuyên truyền vận động theo một luận điệu phản động là đòi “trả” vùng Khơme Nam Bộ về Campuchia, lập “Nhà nước Khơme Campuchia Krôm độc lập”.
Trước đây, chúng thường hoạt động lén lút, bí mật, ta khó phát hiện. Nay chúng chuyển sang phương thức hoạt động mới, núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, vừa bí mật, vừa “công khai hoá”, “quốc tế hoá”, kêu gọi bên ngoài can thiệp khi bị xử lý.
 Hoạt động cụ thể đối với từng vùng DTTS có khác nhau và có sự thay đổi tuỳ theo tình hình, khả năng của chúng. Nhưng nổi lên trong giai đoạn hiện nay là các thủ đoạn sau:
+ Tăng cường tập hợp lực lượng phản động lưu vong ở bên ngoài vào các tổ chức, hội, nhóm, đẩy mạnh liên kết với nhau và câu kết với các phần tử chống đối trong nước hoạt động chống phá ta. Bọn phản động người Chăm lưu vong lập ra các tổ chức: “Văn phòng Chămpa quốc tế”, “Hội bảo tồn văn hoá Chămpa tại Hoa Kỳ”, “Hội văn hoá truyền thống Chămpa”...tại Hoa Kỳ và Pháp, trong đó chủ yếu là các phần tử chống đối cũ, gồm cả chức sắc bất mãn, bọn FULRO.
Bọn phản động người H mông, người Thái, người Dao lưu vong tại Mỹ, Pháp thành lập các tổ chức: “Hội người Hmông thế giới”, “Hội văn hoá cổ truyền người H mông”, “Liên hiệp những người Dao”, “Trung tâm nghiên cứu Thái học”...
+ Lợi dụng chính sách mở cửa của ta và sự phát triển khoa học kỹ thuật về mạng thông tin quốc tế toàn cầu, từ bên ngoài chúng tăng cường tác động vào các vùng DTTS nước ta. Ngoài việc đưa người trực tiếp móc nối, chỉ đạo lực lượng phản động trong nước, chúng đã và đang lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng (sách, báo, đài phát thanh...), phương tiện kỹ thuật hiện đại (điện thoại, Fax, Internet...) để tác động vào trong nước. Lợi dụng chính sách mở cửa, đa dạng hoá, đa phương hoá, thông qua hoạt động du lịch, thăm thân nhân, tài trợ, hợp tác, hoạt động từ thiện để đưa người, tài liệu vào hoạt động móc nối, gây cơ sở, lôi kéo, kích động tư tưởng chống đối vào số trí thức, cán bộ người DTTS.
          Thông qua đài phát thanh, báo chí bằng tiếng dân tộc để tuyên truyền, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chính sách, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, tư tưởng hướng ngoại, tuyên truyền phát triển đạo trái phép vào các vùng DTTS, đặc biệt là vùng Tây Bắc và Tây Nguyên.
          Thông qua việc gửi tiền, hàng, tài liệu phản động, các văn hoá phẩm độc hại vào các vùng DTTS trong nước để tuyên truyền cuộc sống phồn vinh ở nước ngoài, kích thích tư tưởng hướng ngại, gieo rắc tư tưởng hoài nghi trong nhân dân các dân tộc đối với Đảng, với chế độ. Chúng đặc biệt chú ý lợi dụng các hoạt động nghiên cứu văn hoá dân tộc để thâm nhập vào nội bộ, đi sâu xuống tận cơ sở thu thập tin tức, lôi kéo tranh thủ cán bộ, trí thức, chức sắc người DTTS, âm mưu tạo dựng “ngọn cờ” nhằm tập hợp quần chúng, hình thành tổ chức, lực lượng bên trong, tạo cớ can thiệp và bạo loạn khi có cơ hội.
          + Đẩy mạnh các hoạt động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc bằng các thủ đoạn: Khơi lại vấn đề lịch sử, sưu tầm tài liệu, thu thập “bằng chứng” về quá trình hình thành, phát triển và diệt vong của mỗi dân tộc nhằm mục đích lừa bịp các dân tộc thiêu số rằng họ bị dân tộc Kinh “xâm lược”, cai trị, đồng hoá nên các dân tộc nhỏ bé  bị mất nước, kích động đòi phục hồi các quốc gia xa xưa. Lợi dụng những khó khăn về đời sống, khuyết điểm và thiếu sót trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc, chúng tuyên truyền xuyên tạc, kích động chống đối trong đồng bào. Chúng khơi lại các mâu thuẫn, xung đột xảy ra giữa các dân tộc trong quá khứ nhằm kích động sự chống đối trong người DTTS đối với người Kinh. Đối với các DTTS phía Bắc: các thế lực thù địch tuyên truyền vấn đề “Vương quốc Hmông”. Đối với vùng Khơme Nam Bộ: Chúng tuyên truyền vùng đất Nam Bộ trước đây là của Campuchia  bị Việt Nam xâm chiếm, và rằng “ở đâu có cây thốt nốt, có chùa Khơme thì ở đó là đát Khơme...”. Chúng tuyên truyền luận điệu người Kinh phá chùa, giết sư sãi, cấm đạo, cấm học chữ Khơme, đồng hoá người Khơme. Đối với dân tộc Chăm: chúng tuyên truyền rằng lịch sử Chămpa đã từng có nhà nước hưng thịnh, quá trình diệt vong của Vương quốc Chămpa là do người Việt gây nên, kích động đòi phục hồi “Nhà nước Chămpa”. Đối với vùng Tây Nguyên: Chúng tuyên truyền luận điệu rằng người Kinh lên chiếm đất và tài nguyên của người dân tộc, phân biệt đối xử với người dân tộc.
          + Lợi dụng chính sách đổi mới và chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước ta để đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phát triển đạo vào các vùng DTTS với âm mưu “tôn giáo hoá dân tộc”.
          + Tác động, móc nối, lôi kéo cán bộ, trí thức người dân tộc; già làng, trưởng bản; người đã có thời gian tham gia tổ chức nguỵ, đảng phái phản động cũ; thân nhân các đối tượng bị ta xử lý.
          + Hoạt động nhen nhóm, lập tổ chức chính trị, tôn giáo để tập hợp lực lượng, khi có thời cơ điều kiện thì gây bạo loạn chính trị.
1.4. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Hội nghị TW8 khoá IX đã xác định mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là: Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết số 152/NQ-ĐUQSTW ngày 1-8-2003 của ĐUQSTW về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới, đã chỉ rõ: “Bảo vệ không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng cho mình mạnh lên, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ trong mỗi con người, mỗi cơ sở; việc gì có lợi cho dân, cho nước, có ích cho độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải quyết tâm làm”.
Công tác dân vận của quân đội ở các vùng DTTS  hơn lúc nào hết cần quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm đó trong toàn bộ mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ kế hoạch hoạt động. Chỉ có như vậy công tác dân vận ở các vùng DTTS mới không rơi vào tình trạng manh mún, thiếu hệ thống, kém hiệu quả; mới thực sự trở thành động lực tinh thần to lớn của mọi cán bộ, chiến sĩ, của toàn thể các cấp uỷ, chính quyền địa phương, đồng bào các DTTS, tạo nên sức mạnh tổng hợp và hiệu quả thực sự vững chắc trong thực tế.
          2. Giải pháp tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới
          Tăng cường CTDV của quân đội ở các vùng DTTS trong tình hình mới là tăng cường toàn diện cả về lãnh đạo, chỉ đạo, cả lực lượng, phương tiện, tăng cường về mức độ và hiệu quả tác động, phát triển cả bề rộng và chiều sâu, coi trọng chất lượng và bảo đảm tính hệ thống, biến CTDV của quân đội thành công tác tự vận động, tự xây dựng, tự bảo vệ của các DTTS, cùng cả dân tộc Việt Nam dựng nước và giữ nước. Trong những điều kiện mới, CTDV cuả quân đội ở các vùng DTTS cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
          2.1. Nâng cao nhận thức, phát huy trách nhiệm, bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác dân vận ở vùng dân tộc thiểu số cho mọi lực lượng trước hết là các cấp uỷ đảng, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị, các tổ đội công tác
Đây là giải pháp rất quan trọng, xuyên suốt và tạo cơ sở cho các giải pháp khác. Có nhận thức đúng đắn sẽ củng cố động cơ, định hướng và thúc đẩy hành động tích cực của cán bộ, chiến sĩ. Nhận thức càng sâu sắc, càng sát thực tiễn thì động cơ càng mạnh mẽ, vai trò định hướng và thúc đẩy hành động càng rõ rệt. Trong đó, đặc biệt là nhận thức của lãnh dạo, chỉ huy và cơ quan có vai trò rất quan trọng.
Nhưng nhận thức của cán bộ, chiến sĩ không phải tự phát hình thành mà phải thông qua hoạt động tư tưởng và tổ chức một cách đồng bộ, và phải thường xuyên, có kế hoạch, có mục đích, phương pháp cụ thể thiết thực, nghiêm túc, kiên trì, bền bỉ.
          Thực tiễn CTDV các vùng DTTS của các đơn vị cho thấy, ở đâu cấp uỷ và người chỉ huy có nhận thức đúng, trách nhiệm cao thì ở đó đội ngũ cán bộ, chiến sĩ được giáo dục quán triệt, bồi dưỡng phương pháp, tác phong chu đáo. Họ luôn có nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của CTDV đối với đồng bào các DTTS; phương pháp năng lực thực hành luôn được củng cố, đơn vị đó luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngược lại, hầu hết các khuyết điểm trong CTDV ở các vùng DTTS thời gian qua đều có nguyên nhân từ sự thiếu quan tâm, trách nhiệm không cao, nhận thức đơn giản của các cấp uỷ, người chỉ huy.
Để CTDV của quân đội ở các vùng DTTS phát triển cả bề rộng và chiều sâu, có hiệu quả cao, đòi hỏi phải làm tốt hơn nữa công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi tổ chức, mọi lực lượng tham gia. Trong tình hình hiện nay, công tác giáo dục, quán triệt cần đạt được các yêu cầu sau:
- Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính toàn diện, chuyên sâu, phù hợp với trình độ nhận thức, chức trách, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, lực lượng, sát với tình hình địa bàn và đối tượng tuyên truyền, vận động. Kết hợp giáo dục nhận thức với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức tác phong, trang bị kiến thức kinh nghiệm, phương pháp tiến hành CTDV cho bộ đội. Kết hợp giữa định hướng tư tưởng với hướng dẫn hành động, rèn luyện bản lĩnh, sự nhạy cảm, khả năng phát hiện và đấu tranh phê phán, loại bỏ những quan điểm tư tưởng, nhận thức, hành động sai trái.
- Hình thức, phương pháp giáo dục phải phong phú, đa dạng, chặt chẽ, bảo đảm tính thường xuyên, liên tục và gắn với các nhiệm vụ, hoạt động khác của đơn vị.
- Phát huy cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và chỉ huy các cấp; vai trò tham mưu và tổ chức thực hiện của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và các tổ chức quần chúng trong giáo dục, nâng cao nhận thức cho bộ đội.  
Để đạt được các yêu cầu đó, công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cần tập trung vào những nội dung sau:
- Giáo dục những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo, công tác vận động quần chúng của Đảng, của quân đội trong giai đoạn mới. Kết hợp giáo dục lý luận với việc bồi dưỡng cho bộ đội nắm vững những vấn đề cơ bản về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các chủ trương, chương trình kế hoạch phát triển, các phong trào cách mạng của địa phương nơi đóng quân trên các lĩnh vực đời sống xã hội; nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị hiện nay.
- Tăng cường bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn tiến hành CTDV đối với đồng bào DTTS cho cán bộ, chiến sĩ để họ nâng cao trách nhiệm và tự tin, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ.
Coi trọng việc giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao hiểu biết về phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào từng khu vực, từng dân tộc; bởi vì các tín ngưỡng, tôn giáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào. Mặc dù có nguồn gốc xuất xứ bản địa hay du nhập từ nước ngoài, ít nhiều đồng bào vẫn tìm thấy trong các tín ngưỡng, tôn giáo một chỗ dựa tinh thần nào đó khi trong cuộc sống, trong nhận thức, trong tình cảm gặp những khó khăn, rủi ro, bất trắc do tự nhiên hay xã hội đưa lại; họ đều muốn hướng tới sự yên ổn, tu tâm dưỡng tính, hướng thiện, chống lại cái ác; trừ các loại tà giáo hoặc âm mưu lợi dụng của các thế lực thù địch.
Trong tình hình hiện nay, hiểu biết và tôn trọng, có thái độ đúng đối với tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các DTTS là một yêu cầu rất cao của người làm CTDV nơi đây.
Bên cạnh đó, cần tập trung làm rõ âm mưu và những thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với các vùng dân tộc và trên từng địa bàn đóng quân của từng đơn vị.
- Bồi dưỡng xây dựng phương pháp, tác phong làm việc khoa học cho cán bộ, chiến sĩ trong CTDV. Đó là tác phong sâu sát thực tế, cụ thể tỷ mỷ, thực hiện phương châm nghe đồng bào nói, nói để đồng bào hiểu, hướng dẫn đồng bào, làm để đồng bào tin và rèn luyện phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân”, có trách nhiệm với đồng bào. Chống biểu hiện quan liêu, hách dịch, xa rời thực tế, thiếu sâu sát với đồng bào.
- Bồi dưỡng cho cán bộ chiến sĩ có phương pháp tiếp cận tốt với đồng bào, biết chào hỏi đồng bào theo đúng phong tục, thể hiện lòng thân ái, biết tránh các điều kiêng kỵ, biết giao lưu văn hoá văn nghệ, nhất là các điệu múa của đồng bào các dân tộc.
          2.2. Tăng cường giáo dục và duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân đối với mọi cán bộ, chiến sĩ.
          Các đơn vị quân đội dù ở đồng bằng hay miền núi đều thường dóng quân trong các khu vực dân cư, quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện SSCĐ, công tác đều thường xuyên tiếp xúc với đồng bào. Nếu không có nhận thức đúng và giữ nghiêm kỷ luật dân vận sẽ không những không vận động được đồng bào mà còn làm tổn hại đến uy tín đơn vị, quân đội đến lòng tin của nhân dân.
Trong thực tế thời gian qua, không ít trường hợp vi phạm kỷ luật dân vận, thiếu tôn trọng, quậy phá, lừa dối hoặc lợi dụng đồng bào để làm việc sai trái đã xảy ra, ảnh hưởng xấu đến CTDV, lòng tin và tình đoàn kết quân dân. Vì vậy, giáo dục và duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân là một nội dung biện pháp rất quan trọng, vừa cơ bản lâu dài vừa cấp bách hiện nay.
          Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Trong giáo dục phải quan tâm đến chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng; các quy định của điều lệnh, điều lệ quân đội, 12 điều kỷ luật trong quan hệ quân dân, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, truyền thống của đơn vị...làm cơ sở bồi dưỡng, rèn luyện tính tự giác, gương mẫu trong chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; có phương pháp tác phong khiêm tốn, giản dị, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân; thành khẩn tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm, tạo sự tự tin cho đồng bào.
Đặc biệt, với đồng bào các dân tộc thiểu số, do điều kiện ngôn ngữ và các tập tục, tín ngương riêng của từng dân tộc, việc giữ nghiêm kỷ luật không chỉ dừng lại ở các chế độ, nền nếp kỷ luật chung đã quy định, mà còn là ý thức và hành động đúng, phù hợp với lễ giáo, thuần phong, mỹ tục của từng vùng.
 Giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ gương mẫu chấp hành pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật dân vận, tôn trọng kỷ cương xã hội, tôn trong phong tục, tập quán của đồg bào các DTTS. Giáo dục phải đi đôi với tổ chức quản lý, duy trì kỷ luật vững chắc, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
          2.3. Nắm vững và vận dụng có hiệu quả các hình thức công tác dân vận của quan đội.
Có nhận thức đúng, nội dung chương trình công tác đúng muốn biến thành kết quả, hiệu quả thực tế phải có các hình thức CTDV đúng. Coi trọng rút kinh nghiệm và vận dụng, phát huy tốt hiệu quả của bốn hình thức công tác dân vận đã được tổng kết.
Trong thời kỳ mới, cơ cấu thành phần dân cư ở các vùng, miền tiếp tục biến đổi theo xu hướng ngày càng đa dạng, hoạt động kinh tế xẫ hội của các tầng lớp nhân dân trở nên phức tạp, điều này đòi hỏi CTDV phải luôn đổi mới hình thức phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn.
Để thực hiện tốt giải pháp này, cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
- Cấp uỷ và chỉ huy các cấp quan tâm giáo dục, bòi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực cho các tổ chức, các lực lượng, các tổ đội trực tiếp làm CTDV.
- Cần xây dựng nội dung, kế hoạch, chương trình dạy tiếng dân tộc cho cán bộ chiến sĩ; trước hết ưu tiên cho các dối tượng cán bộ dân vận chuyên trách, cán bộ tham gia cấc đội công tác 123, cán bộ và chiến sĩ đội vận động quần chúng của các đồn biên phòng.
Bồi dưỡng trình độ hiểu biết tiếng dân tộc cho lực lượng chuyên trách làm CTDV, bởi vì có trình độ chuyên môn giỏi nhưng chưa biết tiếng dân tộc, thì sẽ hết sức khó khăn. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cán bộ chuyên trách phải tích cực, chủ động tự học tiếng dân tộc, tối thiểu là những từ ngữ phổ biến trong giao tiếp; mặt khác các cơ quan đơn vị phải quan tâm gửi đội ngũ cán bộ này đi học tiếng dân tộc ở các trường trong và ngoài quân đội. Thành thạo tiếng dân tộc là cơ sở để người cán bộ nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào. Đồng thời với vấn đề học tiếng dân tộc, cần tập trung và phát huy lực lượng các quân nhân là người DTTS  cùng tham gia tiến hành CTDV.
- Quan tâm bảo đảm kinh phí, phương tiện cần thiết cho lực lượng chuyên trách làm công tác tuyên truyền vận động đồng bào.
- Đối với các tổ đội, các cán bộ tăng cường cho cơ sở thì phải có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc, động viên kết hợp nhắc nhở kịp thời, tránh khoán trắng cho các lực lượng này.
          2.4. Kết hợp tốt việc tuyên truyền, giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh.
          Hiệu quả CTDV xét cho cùng phụ thuộc vào chính kết quả đời sống mọi mặt của đồng bào. Vì vậy, kết hợp tốt việc tuyên truyền, giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh là yêu cầu tất yếu.
          Các đơn vị quân đội cần quan tâm, tham gia giúp đỡ đồng bào lao động sản xuất, cùng địa phương phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào. Điều đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
          Đẩy mạnh vận động đồng bào định canh, định cư, ổn định đời sống. Chú trọng giúp đỡ đồng bào biết tổ chức sản xuất, xoá đói, giảm nghèo. Đối với các vùng có điều kiện, động viên hướng dẫn đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, khai thác thế mạnh trong sản xuất của từng hộ, từng địa phương, phấn đấu làm giàu cho gia đình, đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình, tăng cường các hoạt động văn hoá - thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở...
          Tham mưu cho địa phương xây dựng các dự án, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp với quốc phòng ở các vùng đồng bào dân tộc; quan tâm đầu tư đồng bộ, có trọng điểm vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Giúp địa phương thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm, nước sạch. Phối hợp cùng các ban, ngành địa phương thực hiện chương trình xoá mù chữ, giảm tái mù chữ, phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ dân trí. Tiến hành các hoạt động văn hoá, duy trì các lễ hội truyền thống, giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc; đồng thời đấu tranh bài trừ các hủ tục văn hoá lạc hậu, đấu tranh phòng ngừa văn hoá xấu độc thâm nhập vào đồng bào các dân tộc.
          Đồng bào các DTTS thường sinh sống trên các địa bàn có điều kiện khí hậu thời tiết khắc nghiệt, thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt, lũ quét, động đất, bệnh tật đe doạ. Bên cạnh đó, kẻ thù lợi dụng khó khăn, tăng cường hoạt động phá hoại sản xuất, đời sống của đồng bào. Nhiều trường hợp ở nhiều vùng biên giới cửa khẩu, kẻ xấu đã lợi dụng đồng bào để làm ăn phi pháp, buôn lậu, phá rừng, vi phạm pháp luật.
Vì vậy, trong tiến hành CTDV của các đơn vị, phải hết sức coi trọng các biện pháp tích cực chủ động, kiên quyết bảo vệ đồng bào được an toàn cả về tính mạng, tài sản, sự bình yên cuộc sống trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi tình huống. Hướng dẫn, động viên đồng bào biết và có khả năng tự bảo vệ trước sự tàn phá của cả thiên nhiên khắc nghiệt và các thế lực thù địch, các đối tượng xấu.
          2.5. Phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền địa phương nhằm xây dựng cơ sở chính trị địa bàn vững mạnh; tham gia giải quyết có hiệu quả những yếu tố gây mất ổn định và xử lý các tình huống phức tạp ở các địa phương.
Xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện là một mục tiêu chủ yếu của CTDV, nhằm thực hiện tư tưởng chỉ đạo xây dựng chính là để phòng ngừa, là để bảo vệ tích cực, chủ động. Nội dung CTDV tham gia xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở phải hướng vào xây dựng thực lực chính trị, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý Nhà nước của các tổ chức trong hệ thống chính trị địa phương.
Trong điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội các vùng dân tộc thiểu số còn hết sức khó khăn, điều kiện cán bộ, cơ sở vật chất hoạt động của các tổ chức còn hạn chế, CTDV của quân đội tham gia xây dựng cơ sở phải nghiên cứu kỹ tình hình, xác định nội dung, chương trình phải thiết thực hiệu quả, tránh hình thức, hời hợt. Đặc biệt chú trọng việc tạo nguồn và giúp bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Hoạt động dân vận của các đơn vị phải góp phần xây dựng thế trận và tiềm lực quốc phòng - an ninh ở cơ sở, xây dựng khu vực phòng thủ và các phương án tác chiến trên từng địa bàn, từng cơ sở. Đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vụ việc nảy sinh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tôn giáo và dân tộc, gây chia rẽ đoàn kết quân dân của các thế lực thù địch.
Tham gia củng cố, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh là vấn đề cốt lõi để nâng cao hiệu lực thực tế của công tác dân vận. Khéo vận động đồng bào cùng tham gia xây dựng các tổ chức đảng, khắc phục những mặt yếu kém, các hiện tượng tiêu cực trong lãnh đạo, củng cố nâng cao uy tín của các tổ chức đảng với đồng bào.
Tích cực tham gia xây dựng, củng cố tổ chức chính quyền ở cơ sở vững mạnh đủ sức quản lý, điều hành mọi hoạt động của địa phương, bảo đảm chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Các tổ đội công tác kịp thời phát hiện và đánh giá đúng những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ đồng bào, tham mưu giúp chính quyền và cùng chính quyền giải quyết tốt các mâu thuẫn đó. Tăng cường xây dựng mối quan hệ mật thiết giữ cấp uỷ đảng, chính quyền, đơn vị và nhân dân, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của địch.
Tham gia xây dựng các tổ chức đoàn thể vững mạnh là một biện pháp rất quan trọng. Biết tổ chức giúp đỡ các tổ chức như: Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến binh, các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội chữ thập đỏ kiện toàn tổ chức, thu hút hội viên, hoạt động có hiệu quả theo chức năng của từng tổ chức.
Đẩy mạnh hoạt động kết nghĩa giữa đơn vị với các tổ chức địa phương nhằm trao đổi kinh nghiệm và có điều kiện giúp đỡ địa phương đẩy mạnh các phong trào quần chúng, góp phần tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân dân.
Tham gia xây dựng, vận động phát huy mặt tích cực của các thiết chế văn hoá xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc, cùng thực hiện tốt các chủ trương, kế hoạch, các phong trào, các cuộc vận động của địa phương.
Bằng những nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp, có lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức chặt chẽ, các đơn vị quân đội phải cùng với cấp uỷ chính quyền địa phương giải quyết tốt những vấn đề bức xúc nổi lên như: tranh chấp đất đai, khiếu kiện đặc biệt, vượt biên trái phép, buôn lậu qua cửa khẩu, tụ tập nghe truyền đạo trái phép; tụ tập kích động kỳ thị dân tộc, các tệ nạn xã hội, phá rẫy, khai thác rừng trái phép... Để đảm bảo hiệu quả, giải quyết vụ việc phải trên cơ sở phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến đồng bào, cùng đồng bào bàn bạc, thảo luận trước khi xử lý các vấn đề liên quan đến lợi ích đồng bào, lợi ích của từng buôn, bản, làng, phum sóc... theo đúng chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tạo niềm tin cậy của đồng bào với Đảng, Nhà nước, với chính quyền địa phương; bảo vệ đồng bào trong mọi điều kiện hoàn cảnh.
          Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một bộ phận trong CTDV của Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội, nhằm vận động cách mạng đối với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối quan hệ, đoàn kết quân dân. Tiến hành CTDV là nhiệm vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu của quân đội, là vấn đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. CTDV có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta.
          Các DTTS ở Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số nhưng là bộ phận hữu cơ, có vai trò cực kỳ quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân, trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước với mọi tiến trình lịch sử và cách mạng. Trách nhiệm và vinh dự của toàn Đảng, toàn quân, của cả hệ thống chính trị là phải không ngừng tiến hành vận động, thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc dựng xây vì sự nghiệp đại đoàn kết, đại thắng lợi của cả đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đó là nhiệm vụ cấp bách, là truyền thống, là đạo lý Việt Nam.
          Công tác dân vận của quân đội ở các vùng DTTS thời gian qua đã thu được những kết quả hết sức quan trọng, song cũng còn bộc lộ nhiều yếu kém bất cập do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan tác động. Trong khi đó, kẻ thù đang ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Do đó, thực hiện tốt và tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
 Để tăng cường CTDV của quân đội ở các vùng DTTS đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, cần vận dụng đồng bộ và có trọng điểm các giải pháp nêu trên. Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò riêng, có cơ sở lý luận và thực tiễn, yêu cầu và nội dung khác nhau, nhằm tác động trên từng mặt, từng mức độ, song các giải pháp là một hệ thống có quan hệ chặt chẽ.
Vì vậy, quá trình vận dụng tránh hiện tượng tách rời, hoặc cứng nhắc mà phải vận dụng đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm, linh hoạt, coi trọng chất lượng, hiệu quả, góp phần thúc đẩy CTDV của quân đội ở các vùng DTTS ngày càng được tăng cường và đi vào chiều sâu, vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.














[1] V.I.Lê nin: Toàn tp, Nxb tiến b, Mátxcơva, 1977, tp 39, tr. 251.
[2] V.I.Lê nin: Toàn tp, Nxb tiến b, Mátxcơva, 1976, tp 35, tr. 23.
[3] H Chí Minh: Toàn tp, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2000, tp 2, tr. 267.
[4] H Chí Minh: Toàn tp, Nxb Chính tr quc gia, Hà Ni, 2000, tp 5, tr. 698.
[5] TCCT, V vn đề dân tc Nam B và Tây Nguyên hin nay, Tài liu phc v lãnh đạo, H. 2003, tr. 8.
[6] Tóm lược s liu, theo Lê Văn Dũng, Xây dng QĐNDVN v chính tr, Nxb QĐND, H. 2004, tr. 394.