Thứ Năm, 2 tháng 7, 2020

Quyền có gắn với “tiền” và “lợi”?




“Để vực dậy nền kinh tế, các Bộ, ngành phải xắn tay áo vào cuộc, phải đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp. Không phải quyền anh, quyền tôi mà phải vì đất nước, dân tộc và 100 triệu dân Việt Nam”. Đây là yêu cầu, cũng là mệnh lệnh mà Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh tại Hội nghị trực tuyến Thủ tướng gặp gỡ doanh nghiệp diễn ra sau khi bỏ giãn cách xã hội.

Suy ngẫm về “Ai cũng gù, mình thẳng lưng sẽ thành khuyết tật”!?




Đã gần 2 năm trôi qua (7.2018) kể từ ngày xảy ra vụ việc, đã có hàng loạt cán bộ, đảng viên bị thi hành kỉ luật và cay đắng thay, trong vụ việc xấu hổ và đau xót này, xuất hiện hình ảnh tươi cười của một số bị cáo trước cửa tòa và câu nói “nổi tiếng” của một bị cáo khác.

Việt Nam trao công hàm phản đối Trung Quốc tập trận trái phép ở Hoàng Sa


Việt Nam trao công hàm phản đối Trung Quốc tập trận trái phép ở Hoàng Sa


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết phía Việt Nam đã trao công hàm phản đối việc Trung Quốc tiến hành tập trận trái phép ở quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Tại họp báo thường kỳ chiều 2/7, trả lời câu hỏi của phóng viên về việc Trung Quốc tiến hành tập trận ở gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết đây là hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Bà Hằng nhấn mạnh việc này "đã đi ngược lại tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây phức tạp tình hình, không có lợi cho quá trình đàm phán hiện nay giữa Trung Quốc và ASEAN về Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) và việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông".
"Việt Nam đã giao thiệp, trao công hàm phản đối và yêu cầu Trung Quốc không lặp lại những hành vi tương tự trong tương lai", bà Lê Thị Thu Hằng nói.
Vẫn liên quan đến tình hình ở Biển Đông, trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến thông tin tàu khảo sát Hải Dương 4 của Trung Quốc có hoạt động, đi vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông gần đây, người phát ngôn nhấn mạnh: "Chúng tôi cho rằng các hoạt động thăm dò, khảo sát và nghiên cứu khoa học tại các vùng biển của Việt Nam, được xác định theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (UCNLOS 1982) thì phải được sự đồng ý của Việt Nam theo đúng quy định của Công ước này".
"Việc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia và các quy định của UNCLOS 1982 có ý nghĩa quan trọng với việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển ở Biển Đông, ở khu vực cũng như trên thế giới", bà Hằng nhấn mạnh.

“Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ sau 25 năm là sự phi thường”


“Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ sau 25 năm là sự phi thường”


Chiều 2/7, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Daniel J.Kritenbrink đã có cuộc gặp gỡ báo chí để trao đổi, nói chuyện về 25 năm bình thường hoá quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ. Theo Đại sứ Daniel J.Kritenbrink, hợp tác giữa hai nước chưa bao giờ phát triển như bây giờ và đây là một tín hiệu đáng mừng. 
“Những gì mà Việt Nam và Hoa Kỳ đạt được trong 25 năm bình thường hoá quan hệ ngoại giao, là phi thường và to lớn. Đó không phải là ngẫu nhiên hay may mắn mà là kết quả của rất nhiều nỗ lực, sự dũng cảm và thiện chí của hai nước trong nhiều năm. Tôi có thể khẳng định rằng, Hoa Kỳ nói chung và Phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam luôn giữ cam kết mạnh mẽ trong thúc đẩy sự phát triển quan hệ, hợp tác giữa hai nước”, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Daniel J.Kritenbrink nhấn mạnh.
Đối tác và bạn bè chân thành
Chiều 2/7, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Daniel J.Kritenbrink đã có cuộc gặp gỡ báo chí để trao đổi, nói chuyện về 25 năm bình thường hoá quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ. Theo Đại sứ Daniel J.Kritenbrink, hợp tác giữa hai nước chưa bao giờ phát triển như bây giờ và đây là một tín hiệu đáng mừng.
“25 năm trước, Việt Nam và Hoa Kỳ hầu như không có quan hệ thương mại nhưng ngày nay, tổng kim ngạch thương mại hai chiều đã đạt tới 77 tỷ USD/năm. Quan hệ quốc phòng không ngừng phát triển, phản ánh lợi ích an ninh tương đồng giữa hai nước. Độ rộng trong quan hệ hợp tác hai nước rất ấn tượng, từ thương mại tới giáo dục, y tế, năng lượng đến an ninh. Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập”.
Đại sứ Hoa Kỳ cũng khẳng định, Hoa Kỳ giữ nguyên cam kết mạnh mẽ của mình trong việc xử lý hậu quả chiến tranh, chất độc da cam/dioxin; hỗ trợ người khuyết tật ở Việt Nam; tiếp tục hợp tác về nhân đạo; tìm kiếm người mất tích ở cả hai phía.
“Sự hợp tác trong tương lai, tôn trọng những gì diễn ra trong quá khứ sẽ góp phần xây dựng lòng tin. Cùng nhau, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu. Thành tựu lớn nhất là ngày nay chúng ta hoàn toàn gọi nhau là bạn bè và là đối tác một cách chân thành. Phái đoàn Hoa Kỳ ở đây để hỗ trợ Việt Nam phát triển và thành công. Thành công của các bạn là thành công của chúng tôi. Thịnh vượng của các bạn là thịnh vượng của chúng tôi. Chúng tôi lạc quan về những thành tựu sẽ đạt được giữa hai nước trong 25 năm tiếp theo”, Đại sứ Daniel J.Kritenbrink nói.
Chia sẻ thêm về quan hệ ngoại giao giữa hai nước, Đại sứ Hoa Kỳ nhấn mạnh, hợp tác giao lưu rất quan trọng. Trong hai năm qua, Tổng thống Donald Trump đã trở thành Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thăm Việt Nam 2 lần trong một nhiệm kỳ. “Điều này đóng góp lớn cho sự phát triển của hai nước.
Tại Hội nghị cấp cao APEC 2017 tại Đà Nẵng, Tổng thống Donald Trump đã tuyên bố tầm nhìn về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Những chuyến thăm của các Tổng thống Hoa Kỳ tới Việt Nam như Tổng thống Bill Clinton, Tổng thống George Bush, Tổng thống Barack Obama đều là những khoảnh khắc đáng nhớ…
Theo Đại sứ, ngày nay, có 30.000 sinh viên Việt Nam đang theo học tại Hoa Kỳ. 30.000 sinh viên này là 30.000 Đại sứ văn hoá giữa hai nước và trông đợi lớn nhất trong hợp tác hai quốc gia trong thời gian tới là thúc đẩy hợp tác nhân dân, hợp tác giáo dục.
Việt Nam là người bạn tốt
Trao đổi về hợp tác Việt Nam-Hoa Kỳ trong đối phó với đại dịch COVID-19 và trong năm Việt Nam đảm nhiệm trọng trách kép (làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và Chủ tịch ASEAN), Đại sứ Daniel J.Kritenbrink cho biết: “Chúng tôi ấn tượng với những gì Việt Nam đã làm được trong năm nay với vai trò Chủ tịch ASEAN, nhất là khi phải đối mặt với COVID-19. Việt Nam đã thành công khi đưa ra tầm nhìn cho những ưu tiên của mình và chúng tôi ủng hộ các ưu tiên đó.
Cuộc họp mới đây giữa Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo với những người đồng cấp ở 10 quốc gia thành viên ASEAN và các cuộc trao đổi khác với quan chức khu vực một lần nữa khẳng định Hoa Kỳ ủng hộ ưu tiên thúc đẩy kết nối ASEAN gồm hạ tầng phục vụ kết nối, thúc đẩy kinh tế khi đối mặt với đại dịch. Quan chức y tế Hoa Kỳ đã làm việc với các đối tác ASEAN để ứng phó đại dịch, hỗ trợ nhau bảo hộ công dân; và ngăn chặn việc ngưng trệ chuỗi cung ứng”.
Cũng theo đánh giá của Đại sứ Hoa Kỳ, việc ứng phó của Việt Nam với đại dịch COVID-19 là tốt nhất thế giới. “Chúng tôi tự hào là đối tác của Việt Nam trong hợp tác y tế hơn 20 năm qua. Chúng tôi vui mừng khi thấy hợp tác mở rộng trong những nỗ lực của Việt Nam ứng phó với COVID-19. Chúng tôi cũng biết ơn sự hỗ trợ của Việt Nam dành cho Hoa Kỳ.
Tiếng Anh có câu thành ngữ là “Những người bạn trong lúc khó khăn là bạn thực sự” và trong lúc khó khan, chúng tôi đã thấy rõ ai là bạn. Việt Nam là người bạn tốt. Trong bối cảnh Hoa Kỳ gặp khó khăn về ứng phó dịch bệnh, nhiều tổ chức, và hàng ngàn cá nhân Việt Nam đã tặng khẩu trang, thiết bị y tế cho chúng tôi. Chúng tôi có sự tôn trọng với Việt Nam”.
Kể lại câu chuyện về việc chọn địa điểm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ-Triều Tiên hồi năm ngoái, Đại sứ Daniel J.Kritenbrink nhấn mạnh: “Chúng tôi chọn  và tin tưởng Việt Nam dù trong bối cảnh chuẩn bị rất ngắn. Chúng tôi tin vào năng lực và khả năng của Việt Nam trong việc giúp tổ chức sự kiện quan trọng này. Chúng tôi chọn Việt Nam vì Việt Nam là một tấm gương, là minh chứng rõ nét cho sự phát triển để nhiều quốc gia học tập. VN có mối quan hệ “lạ” với Hoa Kỳ nhưng sau sau 25 năm, hai nước đã vượt qua tất cả để có sự hợp tác và tình hữu nghị. Việt Nam là quốc gia có trách nhiệm và vị trí ngày càng cao trong khu vực cũng như trên thế giới”.
Hoa Kỳ ủng hộ tự do hàng hải trên Biển Đông
Khi trả lời các câu hỏi của phóng viên liên quan đến những diễn biến mới nhất ở Biển Đông, Đại sứ Hoa Kỳ cho biết: “Mục tiêu của chúng tôi là đảm bảo hòa bình và ổn định lâu dài trên Biển Đông. Chúng tôi tin rằng, các quốc gia có chủ quyền trên Biển Đông dù lớn hơn nhỏ đều phải hành xử theo luật pháp quốc tế, đưa ra các tuyên bố chủ quyền dựa trên luật pháp quốc tế, phải thượng tôn pháp luật và không được dùng thế của nước lớn để áp chế nước nhỏ. Chúng tôi tin vào các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp Biển Đông, tin vào quyền tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông”.
Phân tích những hành động của Trung Quốc trong việc ngăn chặn các quốc gia khác khai thác dầu khí trên Biển Đông, trong đó có các hoạt động của Việt Nam, Đại sứ  Daniel J.Kritenbrink chỉ rõ: “Hoa Kỳ phản đối Trung Quốc cản trở các quốc gia thành viên ASEAN tiếp cận khai thác trữ lượng dầu khí ở Biển Đông; phản đối Trung Quốc ngăn cản hoạt động tự do trên vùng biển này cũng như ngăn cản các hoạt động kinh tế ở vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Chúng tôi lấy làm tiếc khi Trung Quốc có những hành động tác động tiêu cực ở Biển Đông trong những năm qua; nhất là việc Trung Quốc lợi dụng khủng hoảng COVID-19 để tăng cường hoạt động khiêu khích trên Biển Đông. Hoa Kỳ cũng phản đối việc Trung Quốc hay bất kỳ nước nào sử dụng các biện pháp ép buộc để tăng cường tuyên bố chủ quyền của họ ở Biển Đông”.
Đồng thời, Đại sứ Hoa Kỳ cũng kêu gọi Trung Quốc dừng các hoạt động mang tính khiêu khích làm ảnh hưởng đến ổn định khu vực.

Cảnh giác với luận điệu xuyên tạc mục tiêu CNXH trước thềm Đại hội Đảng các cấp


Cảnh giác với luận điệu xuyên tạc mục tiêu CNXH

trước thềm Đại hội Đảng các cấp

 

Vừa qua, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30-5-2019, Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Để công tác chuẩn bị chu đáo, việc tổ chức đại hội các cấp bảo đảm thành công tốt đẹp theo đúng tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã quán triệt: Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng. Tuy nhiên các thế lực phản động, phần tử cơ hội chính trị lợi dụng thời điểm này để công kích, chống phá, xuyên tạc mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên XHCN ở Việt Nam.
Cứ “đến hẹn lại lên”, nhằm vào thời điểm đất nước chuẩn bị có những sự kiện trọng đại, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng để đẩy mạnh các hoạt động công kích, chống phá cách mạng Việt Nam.
Lợi dụng thời điểm tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương đang có những chuẩn bị bước đầu để tiến tới đại hội Đảng các cấp, “lộng giả thành chân”, các đối tượng này bắt đầu gia tăng các hoạt động tuyên truyền, chống phá.
Trên các trang điện tử, blog hải ngoại, họ vờ vịt tỏ thái độ ngạc nhiên, ra vẻ thông thái dạy đời: “Vì sao đến giờ này mà Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH”. Họ cho rằng: “Ai cũng thấy là CNXH đã ở vào giờ thứ 25 trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện XHCN tại Việt Nam đã hoàn toàn thất bại sau 10 năm thực hiện triệt để (1975-1985) dù cố gắng “Đổi mới” 10 năm sau đó (1985-1995) theo gương “cải tổ” của Liên Xô vẫn không cứu vãn được.
Chúng xuyên tạc: Để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, đạt được nhiều thành tựu như hiện nay, thực tế Việt Nam đã thực hiện “Kinh tế thị trường, theo định hướng tư bản chủ nghĩa”; nhờ đó, Việt Nam mới phát triển nhiều mặt để có bộ mặt phồn vinh như hôm nay về kinh tế, đời sống người dân ngày một được cải thiện và nâng cao, chứ không phải kinh tế thị trường định hướng XHCN…”.
Đây thực chất là những luận điệu phi lịch sử, phản khoa học và phản động. Mục đích của những kẻ tung ra luận điều này rất rõ ràng là muốn xóa bỏ CNXH, thay đổi thể chế chính trị, hướng lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; bên cạnh đó là làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Nói như vậy, luận điệu mà chúng nêu trên liệu có cần tranh luận? Chắc hẳn là không. Tuy nhiên cũng nên nói rõ để không “thật, giả, vàng, thau lẫn lộn”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỷ XIX và ngót nửa đầu thế kỷ XX, đất nước không được độc lập, nhân dân không được tự do. Các phong trào từ “Cần Vương”, “Khởi nghĩa nông dân”, đến phong trào “Đông Du”, phong trào “Giải phóng dân tộc theo khuynh hướng tư sản dân tộc”… đều thất bại, cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng về con đường giải phóng dân tộc.
Trong điều kiện đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, cách mạng vô sản về Việt Nam. Từ khi có Đảng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đất nước theo con đường CNXH, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nói như thế để thấy, con đường cách mạng vô sản tiến bộ là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, CNXH là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Độc lập dân tộc là gắn liên với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân. Nhân dân là cội nguồn sức mạnh, chủ thể quyết định vận mệnh của dân tộc và non sông đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam một lòng phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Ngoài lợi ích của dộc tộc, nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Nhân dân một lòng theo Đảng. Lý tưởng cộng sản là sự lựa chọn của nhân dân. Kiên định con đường đi lên CNXH là sự kiên định con đường thực tiễn mà nhân dân ta đang đi, kiên định mục tiêu thực hiện mà chúng ta đang hướng tới, là tiếp nối thành quả cách mạng của nhân dân ta và nâng lên tầm cao mới phù hợp với điều kiện lịch sử.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta tiếp tục con đường đã lựa chọn, kiên định mục tiêu CNXH mà tính đúng đắn, khoa học, cách mạng đã được thực tiễn chứng minh để xây dựng nước ta thực sự giàu mạnh, dân chủ, văn minh, nhân dân ta thực sự có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Kiên định con đường đi lên CNXH là phù hợp với quy luật lịch sử, chứ không phải là “đi vào vết xe đổ của Liên Xô” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. CNXH hiện thực sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ có ảnh hưởng quốc tế sâu rộng mà còn làm thay đổi tiến trình lịch sử thế giới trong suốt thế kỷ XX và cho đến tận ngày nay.
CNXH từ lý luận khoa học đã trở thành hiện thực sinh động; từ một nước trở thành hệ thống XHCN thế giới, trở thành lực lượng cách mạng thúc đẩy nhân loại phát triển và phẩm giá con người trong lòng xã hội được thực thi… Liên Xô sụp đổ là sự kiện địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX làm đau đớn nhân loại tiến bộ. Song nó phản ánh sự sai lầm về một mô hình khi đã xa rời những vấn đề mang tính nguyên tắc của CNXH.
Bên cạnh đó cũng phải nói rõ, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đạt được trong hơn 30 đổi mới đến nay mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, là thành tựu của công cuộc đổi mới, thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải là “kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa” như các thế lực thù địch xuyên tạc.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" (Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, tr.102). Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, là thành quả phát triển, hoàn thiện về mặt tư duy lý luận của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có đặc trưng mang tính đặ c thù, khác căn bản về chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà đến những kẻ ngu ngơ nhất cũng không thể đánh đồng.
Thủ đoạn của thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động là xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên CNXH ở nước ta, xuyên tạc kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm mục đích hướng lái cách mạng Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa; tác động, tiêm nhiễm tạo nhận thức lệch lạc, hoài nghi, tư tưởng hoang mang, dao động, từ đó suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân cần nâng cao ý thức cảnh giác và tăng cường đấu tranh tranh phản bác, làm thất bại âm mưu phản cách mạng nguy hiểm này.

Làm thất bại âm mưu các thế lực thù địch chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng


Làm thất bại âm mưu các thế lực thù địch chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng


Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 sẽ được tổ chức trong năm 2020. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt là yếu tố, tiền đề hết sức quan trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh và yêu cầu phải chuẩn bị và tổ chức thật tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, đại hội đảng bộ các cấp cần chuẩn bị kỹ cả về nội dung báo cáo chính trị và công tác nhân sự. Đặc biệt, việc chuẩn bị nhân sự đại hội có vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm cho thành công của đại hội và triển khai thực hiện nghị quyết của đại hội.
Trong chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xác định và nhấn mạnh, công tác nhân sự cần thực hiện phương châm bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo và phát triển; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu. Cấp ủy nhiệm kỳ 2020-2025 phải đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Cùng với đó, báo cáo chính trị cần đánh giá đúng, trung thực, khách quan, toàn diện tình hình và kết quả thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ 2015-2020, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan và rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; đồng thời, xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ tới sát tình hình thực tế, có tính khả thi cao, làm cơ sở để tổ chức thực hiện hiệu quả. Thông qua đại hội đảng bộ các cấp, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; củng cố, tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Để chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng, từ đầu tháng 10-2018, các tiểu ban của đại hội (gồm: Tiểu ban Văn kiện; Tiểu ban Kinh tế-Xã hội; Tiểu ban Điều lệ Đảng; Tiểu ban Nhân sự và Tiểu ban Tổ chức phục vụ đại hội) đã được thành lập và sớm đi vào hoạt động, với tinh thần làm việc hết sức khẩn trương, nghiêm túc. Ngay sau khi được thành lập, từng tiểu ban đều do các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư trực tiếp chỉ đạo tiến hành khảo sát tình hình thực tế; tổ chức họp nhiều lần để thống nhất từng nội dung, nhất là những nội dung quan trọng.
Công tác quy hoạch nguồn cán bộ cho Đại hội XIII của Đảng và đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chuẩn bị từ các nhiệm kỳ trước, đặc biệt là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII. Đến nay, phần việc này về cơ bản được hoàn thiện. Trung ương cũng đã thống nhất danh sách giới thiệu dự bầu Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII do tổ chức đảng các cấp, các ban, ngành Trung ương và các địa phương giới thiệu quy hoạch. Căn cứ kế hoạch tổng thể, những cán bộ trong diện quy hoạch được Trung ương và các cấp ủy quan tâm, tạo điều kiện cho đi đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển công tác để rèn luyện, thử thách qua thực tiễn với nhiều cương vị công tác từ thấp đến cao. Đây thật sự là bước chuẩn bị chu đáo, chủ động từ sớm, từ xa của Trung ương, của các cấp ủy và hệ thống chính trị trong tiến hành công tác nhân sự khóa mới.
Như vậy, có thể khẳng định, công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng đã và đang được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chuẩn bị chu đáo, công phu, bài bản; được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, đánh giá cao; qua đó củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng; tạo không khí phấn khởi, đồng thuận trước thềm đại hội đảng các cấp.
Thế nhưng trên internet, mạng xã hội và một số “diễn đàn”, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội cố tình đưa nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc về đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là tuyên truyền xuyên tạc về công tác chuẩn bị đại hội. Họ dựng chuyện và “quy chụp” rằng, “việc chuẩn bị đại hội như là hoạt động thay cho đại hội, xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; rằng công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ cốt cán cho Đại hội XIII là Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội XIII”… Theo họ (thực chất là những nguồn tin thất thiệt trên internet, mạng xã hội) thì không chỉ là nội dung văn kiện, mà danh sách Ủy viên Trung ương của Đại hội XIII cũng đã có…?
Đặc biệt, vấn đề nhân sự bị một số thế lực bên ngoài can thiệp, chỉ đạo, xuyên tạc. Họ tự “dựng lên” danh sách lãnh đạo cấp cao, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng... như thể họ là người trong cuộc. Họ “tung hô”, ngụy tạo rằng, đại biểu dự Đại hội XIII của Đảng chỉ còn việc “giơ tay biểu quyết” đồng ý mà không thể có ý kiến gì khác. Đặc biệt, họ trắng trợn dựng chuyện, xuyên tạc: “Đại hội đảng là hình thức; là một dịp tái cơ cấu cán bộ theo lối phe cánh lợi ích nhóm”. Trước việc Đảng, Nhà nước Việt Nam kiên quyết xử lý nghiêm minh, không có “vùng cấm” mọi sai phạm của cán bộ, đảng viên thì họ lợi dụng xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ đội ngũ cán bộ chủ chốt, kích động, gây chia rẽ đoàn kết trong Đảng. Nguy hiểm hơn, họ vu cáo, xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã “đổi màu”, không còn kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường đi lên CNXH.
Vậy, thực chất những luận điệu đó như thế nào? Có phản ánh đúng đời sống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam? Và mục tiêu của chúng là gì?
Trước hết cần khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Tất nhiên, cũng như các đại hội đảng trước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc xem xét, vận dụng lý luận phù hợp với tình hình thực tiễn của từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; gắn kết giữa phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Cho đến nay, công tác chuẩn bị Đại hội XIII đã và đang được thực hiện tích cực, trách nhiệm, bảo đảm tiến độ ở đảng bộ các cấp, cả về nội dung các báo cáo và công tác nhân sự. Cũng như các đại hội trước, nhân sự Đại hội XIII đã được Ban Chấp hành Trung ương khóa XII chuẩn bị chu đáo, công phu. Quy hoạch cán bộ và công tác đào tạo cán bộ theo quy hoạch đã và đang được triển khai đồng thời với công tác chuẩn bị về nội dung. Việc triển khai công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ chủ chốt theo quy hoạch được thực hiện bài bản, công khai, dân chủ, có chất lượng.
Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong hệ thống chính trị các cấp. Công tác chuẩn bị đại hội được phổ biến sâu rộng đến Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội các cấp. Dự thảo Báo cáo Chính trị sẽ được công bố công khai và lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác nhân sự cấp ủy các cấp cũng là một trong những nội dung được lấy ý kiến.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở. Công tác chuẩn bị đại hội các cấp được triển khai theo hệ thống tổ chức của mình, là sinh hoạt chính trị bình thường trong Đảng. Tuy nhiên, như đã thành thông lệ, càng gần đến Đại hội XIII của Đảng, sự chống phá của các thế lực thù địch càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Vì vậy, mỗi chúng ta cần đề cao cảnh giác, nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh phản bác, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội…, góp phần bảo đảm sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng.

Cảnh giác trước những luận điệu chống phá Quân đội của các thế lực thù địch


Thời gian gần đây, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch tiếp tục diễn biến phức tạp; chúng triệt để lợi dụng các sự kiện chính trị; tình hình biên giới, biển đảo, dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… Đặc biệt, một số đối tượng phản động, cơ hội chính trị đã tán phát nhiều tài liệu có nội dung chống phá Quân đội.
 Đáng chú ý, một số hội, nhóm phản độngvà một số cá nhân cùng ký tên vào “Thư ngỏ” gửi Thủ tướng với nội dung gồm: Phản đối thái độ tham lam bất hợp tác của một số “nhóm lợi ích” và một số “thế lực” trong Quân đội... Những nội dung chống phá của chúng rất phản động, bóp méo sự thật; tung tin thất thiệt với hình ảnh phản cảm trên các trang mạng xã hội, gây tâm lý hoài nghi, hoang mang trong các tầng lớp nhân dân và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, làm ảnh hưởng xấu đến chính trị nội bộ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội và hình ảnh tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.
Để kịp thời đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan, đơn vị các cấp tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác bảo đảm an toàn thông tin, công tác bảo vệ chính trị nội bộ; quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ và các văn bản khác có liên quan đến công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ nâng cao bản lĩnh chính trị, tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, nhận thức sâu sắc nhiệm vụ của Quân đội; đồng thời nêu cao ý thức cảnh giác, nhận rõ và chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; tích cực bảo vệ mình, bảo vệ nội bộ cơ quan, đơn vị.Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng địa phương nắm chắc tình hình ANCT, TTATXH và âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các phần tử xấu trên địa bàn; chủ động xây dựng kế hoạch, phương án phối hợp xử lý tốt các vụ việc, tình huống phức tạp xảy ra, giữ vững đơn vị an toàn, địa bàn an toàn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao./.

Đấu tranh phản bácnhững quan điểm sai trái, phản động, thông tin xấu độc của các thế lực thù địch


Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng công nghệ thông tin để phát tán những quan điểm sai trái, phản động, thông tin xấu độc về các sự kiện chính trị, kinh tế - xã hội, những vụ việc xảy ra trong đời sống xã hội nói chung, hoạt động của Quân đội nói riêng lên không gian mạng, với tần suất ngày càng tăng.
Đó là những quan điểm, thông tin phản ánh sai lệch sự thật, bóp méo vấn đề, “đổi trắng, thay đen”, làm lẫn lộn đúng sai, thật giả…Không chỉ xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hạ thấp uy tín, danh dự của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội mà chúngcòn cố tình gây nhiễu loạn thông tin, gieo rắc sự hoài nghi, làm giảm sút lòng tin ở một bộ phận cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Việc tuyên truyền những quan điểm sai trái, phản động, thông tin xấu độc có tác hại rất lớn. Do đó, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động, thông tin xấu độc của các thế lực thù địch là một nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong hoạt động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa hiện nay; việc đấu tranh phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp, thiết thực, hiệu quả.
Để làm được điều đó, cần đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, không ngừng nâng cao nhận thức của cán bộ, chiến sĩ về bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cách mạng, của Quân đội.
Bên cạnh đó, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy phải tích cực, chủ động, nhạy bén phát hiện, kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi những quan điểm sai trái, phản động, thông tin xấu độc của các thế lực thù địch thâm nhập vào đơn vị; thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng, kịp thời định hướng nhận thức và hành động, nhằm xây dựng, củng cố cho cán bộ, chiến sĩ luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện; thường xuyên quan tâm bồi dưỡng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ năng lực, kỹ năng đấu tranh cho lực lượng nòng cốt, nhất là “lực lượng 47” trong đấu tranh, phản bác, đập tan những quan điểm sai trái, phản động, những thông tin xấu độc của các thế lực thù địch./.

TÌNH CẢM CỦA BÁC HỒ VỚI THƯƠNG BINH LIỆT SỸ

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thương đối với mọi tầng lớp nhân dân, trong đó phần dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ, những người từng chịu nhiều hy sinh, mất mát trong chiến tranh vẫn là mối quan tâm đặc biệt của Người.

Năm 1946, khi nước nhà vừa mới giành được độc lập, giữa bộn bề công việc và khó khăn chồng chất nhưng Người vẫn không quên các thương binh, thân nhân gia đình liệt sỹ: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ, cảm ơn những chiến sỹ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ đó và tôi nhận các con liệt sỹ làm con của tôi”.

Khi biết tin một chiến sỹ vệ quốc đoàn, con trai bác sỹ Vũ Đình Tụng hy sinh đầu năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư cho bác sỹ: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất đi một thanh niên là tôi mất đi một đoạn ruột”.

Tháng 6/1947, Người đề nghị Chính phủ chọn một ngày trong năm là Ngày Thương binh, Liệt sỹ để đồng bào cả nước tỏ lòng biết ơn và tri ân đến họ. Trong thư gửi Ban Tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc, Người viết: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.

Thực hiện lời huấn thị của Người, tại Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành, khối ở Trung ương và các tỉnh họp ở Phú Minh (Đại Từ - Thái Nguyên) đã chính thức chọn ngày 27/7 là “Ngày Thương binh” trong cả nước. Đến năm 1955, “Ngày Thương binh” được đổi thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” để toàn dân thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

Hằng năm, cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”.

Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sỹ còn được thể hiện ở những nghĩa cử cao đẹp, bình dị và rất đỗi tự nhiên trong đời sống thường ngày. Người thường trích một tháng lương, dùng tiền do các Việt Kiều biếu, dùng những bộ quần áo, khăn tay, các vật dụng khác để làm quà tặng cho anh em thương binh tại các trại điều dưỡng.

Ghi nhớ công lao của các liệt sỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đặt vòng hoa viếng tại Đài liệt sỹ Hà Nội vào các dịp lễ tết: “Ngày mai là năm mới.... Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sỹ”.

Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn ký và ban hành các sắc lệnh về chế độ: “Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sỹ”; thành lập sở, ty thương binh, cựu binh ở khu và tỉnh, đặt ra Bảng vàng danh dự, Bằng gia đình vẻ vang và truy trặng, phong tặng các danh hiệu anh hùng, huân, huy chương cho các liệt sỹ, thương binh.

Ngoài những việc làm nghĩa cử của bản thân, đối với thương binh, liệt sỹ, Người cũng nhấn mạnh: Để phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trở thành một phong trào có sức lan tỏa sâu rộng trong thực tiễn, có hiệu quả và thiết thực, toàn Đảng, toàn dân phải vinh danh, ghi nhận công lao to lớn của thương binh, liệt sỹ và làm tốt hơn nữa công tác “Đền ơn đáp nghĩa”.
Hải Đăng st

CẢNH GIÁC VỚI ÂM MƯU THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

       Một sự kiện thường xuyên bị các thế lực thù địch xuyên tạc là Đại thắng mùa Xuân 1975. Trên một số website, blog, tài khoản mạng xã hội cá nhân, bằng cách đưa ra những nguồn “sử liệu” không có kiểm chứng, họ đã nhào nặn một cách chủ quan để rồi đi đến những kết luận hết sức sai trái như: Trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, người Mỹ không hề muốn cai trị người Việt Nam, người Mỹ can thiệp là để giải phóng chứ không phải để cai trị; hay chiến tranh Việt Nam là cuộc “nội chiến” huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam - Bắc do sự khác biệt về lý tưởng cộng sản và không cộng sản. Từ đó, họ đi đến kết luận rằng: Cuộc chiến tranh Việt Nam thực chất là “không cần thiết” và hoàn toàn “có thể tránh khỏi”…

VẠCH MẶT BỌN XUYÊN TẠC LỊCH SỬ

      Hằng năm, cứ vào dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám 1945, trên các trang mạng, các thế lực thù địch lại tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc ý nghĩa của sự kiện này. Chúng tuyên truyền rằng: Cách mạng Tháng Tám 1945 với việc lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền chỉ là sự "ăn may" khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh... Nhưng sự thật đã khẳng định rằng, Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ sức mạnh của khối đại đoàn kết và truyền thống đoàn kết, yêu nước của dân tộc Việt Nam được hun đúc từ hàng nghìn năm lịch sử và khi thời cơ đến, đã bùng lên mạnh mẽ đấu tranh giành chính quyền cách mạng. VNĐ

Sự phát triển của đất nước trong tiến trình đổi mới, đẩy mạnh cong nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra những vấn đè mới đối với xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.

Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đời sống xã hội những nhân tố kinh tế, chính trị xã hội, giai cấp, tư tưởng đang biến đổi và tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trên các mặt chủ yếu sau đây:
Sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị
Sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của đất nước đã tác động tích cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang: lòng tin vào Đảng, vào chế độ được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, làm tăng thêm sức mạnh chính trị – tinh thần của lực lượng vũ trang.

Tình hình thế giới khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường đang tác động mạnh mẽ sâu sắc, nhiều mặt đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.



 Cục diện kinh tế, chính trị thế giới thay đổi sâu sắc, nhanh chóng, nhất là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu làm cho tương quan so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng thay đổi bất lợi cho chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra trong điều kiện mới, với những nội dung mới, hình thức phức tạp mới,  dưới những sắc thái mới, mà tính chất của chúng không kém phần gay go, quyết liệt
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển với tốc độ phi thường đưa tới những tiến bộ to lớn, làm xuất hiện nhiều nhân tố mới trong kinh tế và cả trên các mặt của đời sống xã hội … đồng thời, làm nảy sinh những khó khăn thánh thức mới cực kỳ gay gắt.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù định thay đổi chiến lược tiến công chủ nghĩa xã hội và các phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới, từ xâm lược bằng vũ trang là chủ yếu sang xâm lược bằng phi vũ trang, bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” là chủ yếu, kết hợp với răn đe quân sự, sẵn sàng tiến hành chiến tranh xâm lược, kể cả tiến hành chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao.TB

Thủ tướng thúc các tỉnh thành phải “nóng ruột lên”!

Định hướng thảo luận tại hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương hôm nay, 2/7, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu yêu cầu cấp thiết đó để cùng quyết tâm vượt qua thách thức của đại dịch Covid-19.

Không có chuyện người có giấy phép lái xe hạng B1 không được điều khiển ôtô


Không có chuyện người có giấy phép lái xe hạng B1

không được điều khiển ôtô


Thời gian gần đây nhiều người dân lo lắng cho rằng, theo dự thảo Luật GTĐB sửa đổi, người có bằng B1 không được lái ôtô và bằng A1 không được lái xe 150cc.
Về vấn đề này, mới đây ông Lương Duyên Thống, Vụ trưởng Vụ Quản lý phương tiện và người lái (Tổng cục Đường bộ Việt Nam) cho hay, việc thay đổi các hạng giấy phép lái xe (GPLXbằng) để phù hợp chuẩn quốc tế, tạo điều kiện cho việc sử dụng GPLX của Việt Nam ở nước ngoài và GPLX nước ngoài tại Việt Nam, đảm bảo thực hiện các cam kết của Chính phủ Việt Nam đã ký kết khi tham gia Công ước Viên 1968 về giao thông đường bộ.
Hạng GPLX theo Luật GTĐB năm 2008 được chuyển đổi sang hạng GPLX mới tương đương như việc chuyển đổi GPLX Việt Nam sang GPLX quốc tế đã được thực hiện từ năm 2015 theo quy định tại Thông tư số 29/2015/TT-BGTVT của Bộ GTVT quy định về cấp và sử dụng GPLX quốc tế. Việc điều chỉnh phân hạng GPLX không ảnh hưởng và phát sinh thủ tục, chi phí cho người dân.
Theo đó, đối với người đã được cấp GPLX: Tiếp tục sử dụng cho đến khi hết thời hạn sử dụng ghi trên GPLX (GPLX hạng A1 không thời hạn). Trường hợp hết hạn, thì đổi sang GPLX theo hạng mới (GPLX hạng A3 được đổi sang GPLX hạng B1, GPLX hạng B1 số tự động được đổi sang GPLX hạng B2, GPLX hạng B1, B2 số sàn được đổi sang GPLX hạng B…). Đối với người cấp mới, cấp đổi GPLX: Theo hạng GPLX mới.    

Ở Việt Nam đời sống tín ngưỡng, tôn giáo mang đậm nét cảm tính, tâm lý.



 Mang đậm nét cảm tính
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống lúa nước, tiểu nông. Từ lối sống mang đậm nét tiểu nông, nên nhiều tín đồ tôn giáo ở Việt Nam tuy khá sùng đạo nhưng lại không hiểu rõ giáo lý, thậm chí ra nhập đạo chỉ do sự lan truyền tâm lý, do sự lôi kéo(V/d: Không ít tín đồ phật chưa hiểu rõ nội dung tư tưởng cơ bản của nhà Phật. Không ít con chiên công giáo chưa hiểu thực chất các “bí tích” và tư tưởng chính của kinh tân ước và kinh cựu ước).
 Mang đậm nét tâm lý
 Đối với bộ phận khá lớn cư dân Việt nam, tôn giáo thuần tuý là lĩnh vực tình cảm, tâm lý, nó như cái gì bình thường tự nhiên, đây cũng là một nguyên nhân khiến người Việt Nam có thái độ dung hoà, cởi mở khi tiếp nhận các tôn giáo.

Ở Việt Nam các tôn giáo hoạt động ôn hòa, hòa quyện mà không hợp nhất.



Trong lịch sử các tôn giáo ở Việt Nam cũng có lúc chung sống không thật yên ả, nhất là trong giai đoạn chiến tranh cách mạng. Tuy nhiên về cơ bản tôn giáo ở Việt Nam luôn trọng lẫn nhau, không đối đầu, không có chiến tranh vì lý do tôn giáo tôn giáo, chỉ có các lực lượng chính trị lợi dụng vấn đề tôn giáo để hòng chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc ta, nhưng chúng đều thất bại.
Tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta có tính dung hợp, đan xen, hòa đồng, dễ chấp nhận sự hiện diện của các vị thần, thánh của các tôn giáo khác. Những người theo tôn giáo khác nhau không xa lánh người mình thờ phụng: tổ tiên, những người có công với quê hương, đất nước; những người theo tôn giáo khác nhau có thể sống chung trong một làng, 1 dòng họ, thậm chí một gia đình; tiếng trống Đình làng, tiếng chuông nhà thờ hoà quyện với tiếng mõ chùa, đây là nét đặc trưng nổi bật nhất của sự ôn hoà). Vì sao tôn giáo Việt nam ôn hoà, hoà quyện và đoàn kết. Bởi vì: Thứ nhất, dân tộc Việt Nam là một dân tộc đoàn kết. Đoàn kết đã trở thành truyền thống, thành sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Thứ hai, tôn giáo vào Việt Nam ít nhiều được Việt Nam hoá. (tính tiếp biến văn hóa Việt Nam của tôn giáo). Nó được biểu hiện trên các lĩnh vực, trong từng hoạt động, trong truyền thống văn hóa. Có rất nhiều biểu hiện tính hòa đồng của tôn giáo, xin nêu một vài ví dụ như: Các tôn giáo có ngôn ngữ riêng, tuy nhiên luôn lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chủ đạo trong hành lễ và giao tiếp; Các tôn giáo sống đan xen trên cộng đồng lãnh thổ, cùng chung sống, cùng hòa nhập với người không tôn giáo; Các tôn giáo hòa đồng theo bản sắc văn hóa Việt Nam.

Ở Việt Nam các tôn giáo hòa đồng, đoàn kết



Là quốc gia đa dân tộc và đa tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng Việt Nam là một quốc gia rất đoàn kết, bởi vì Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn trú trọng trong thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 90% dân số có tín ngưỡng. Các hình thức tín ngưỡng ở Việt Nam rất đa dạng phong phú như: Tín ngưỡng thờ cúng Việt Nam; Tín ngưỡng thờ thành Hoàng; Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc; Tín ngưỡng thờ Mẫu…Tín ngưỡng ở Việt Nam là những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam.
Tôn giáo ở Việt Nam cũng rất đa dạng, phong phú. Hiện nay ở Việt Nam có 43 tổ chức, hệ phái tôn giáo, với 16 tôn giáo, trong đó có 6 tôn giáo lớn, với trên 27 triệu tín đồ. Tôn giáo ở Việt Nam có 2 tôn giáo nội sinh là Phật giáo Hoà hảo và Đạo Cao đài. 6 Tôn giáo lớn nhất là: Phật giáo, hiện có hơn 11 triệu tín đồ; sau đến Thiên chúa giáo gần 7 triệu tín đồ; Cao đài trên 2,5 triệu; Tin lành: 1,5 triệu tín đồ; Phật giáo Hoà hảo: 1.3 triệu;; Hồi giáo 800.000. Tôn giáo của Việt Nam có tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập. ( Tôn giáo nội sinh như: Đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo); có tôn giáo lâu đời như Đạo phật, có tôn giáo mới xuất hiện như đạo Cao đài, Phật giáo Hòa hảo, Đạo Tin Lành…)
Là một đất nước đa tín ngưỡng, đa tôn giáo, nhưng ở Việt Nam các tôn giáo luôn ôn hòa, hòa đồng, đoàn kết, do vậy, qua các giai đoạn lịch sử ở Việt Nam không có chiến tranh tôn giáo, các tôn giáo đều tin theo Đảng, chấp hành tốt mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, thực hiện cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Mưu đồ của những đối tượng khoác áo dân chủ kích động biểu tình


Mưu đồ của những đối tượng khoác áo dân chủ kích động biểu tình


Nước Mỹ đang trải qua những ngày tháng thách thức khi biểu tình, bạo lực đã và đang xảy ra tại hàng chục thành phố lớn sau khi cảnh sát bắt giữ và làm một công dân da màu tử vong tại bang Minnesota ngày 25/5. Cái chết của George Floyb khi bị một cảnh sát đè cổ đã thổi bùng làn sóng đấu tranh với nạn phân biệt chủng tộc tại xứ cờ hoa nhiều thập kỷ qua.
Mâu thuẫn sắc tộc tại Mỹ như ngọn lửa ẩn giấu bên trong xã hội từ rất lâu và nay được dịp bùng phát chỉ với một mồi lửa nhỏ. Hậu quả của sự leo thang từ các vụ biểu tình chuyển biến thành bạo lực, cướp bóc, tiếng súng nổ khắp nơi, các cuộc biểu tình tiếp tục lan rộng khắp nước Mỹ, nhiều cửa hàng, trụ sở cảnh sát bị đập phá, thậm chí người biểu tình còn tấn công cả Nhà Trắng, buộc chính quyền phải ra lệnh giới nghiêm ở nhiều bang.
Chính quyền phải điều động quân đội và lực lượng vệ binh để đảm bảo an ninh, trật tự. Việc này mới chỉ phần nào chấm dứt các cuộc bạo động chứ chưa xoa dịu làn sóng biểu tình. Những gì đang xảy ra đã cho thấy một nước Mỹ thật khác đang bị phơi bày mà trước đó, những hình ảnh này chỉ thường được xem ở những bộ phim bom tấn Hollywood.
Xung quanh vấn đề nêu trên, một số nhà “dân chủ” tự xưng ở Việt Nam, các tờ báo như RFA, BBC, VOA… sau một thời gian tỏ ra thờ ơ, vô cảm với biểu tình ở Mỹ thì nay đã lên tiếng. Thay vì lên án nạn phân biệt chủng tộc và cách hành xử của một số cảnh sát Mỹ, họ lại tỏ ra hào hứng khi ca tụng các vụ biểu tình tại Mỹ và mơ tưởng về việc Việt Nam sẽ diễn ra biểu tình và bạo loạn phá hoại như ở Mỹ.
Âm mưu của các đối tượng là muốn Việt Nam sẽ có biểu tình, bạo loạn như Mỹ hiện nay, muốn tái hiện kịch bản phá hoại an ninh chính trị, môi trường đầu tư đã từng diễn ra tại một số nhà máy của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam khi số cực đoan được sự hỗ trợ của các thế lực thù địch lấy lý do phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng lãnh hải của Việt Nam (năm 2014) hay như các vụ biểu tình, gây rối an ninh, trật tự nhằm khiếu kiện nhà máy Formosa gây ô nhiễm môi trường biển tại một số tỉnh miền Trung (2016), đặc biệt là vụ bạo động tại Bình Thuận (2018) do các đối tượng xấu kích động với lý do phản đối Dự thảo Luật Đặc khu…
Tất cả các vụ việc phức tạp trên đều có bàn tay của các thế lực thù địch, số đối tượng phản động, cực đoan ở trong nước, mục tiêu đều hướng tới tập dượt cho cái gọi là “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” nhằm làm tê liệt hệ thống chính trị cơ sở và dần lan rộng ra khắp các thành phố lớn, đích cuối cùng của họ chính là nhằm lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.
Rõ ràng, những nhà “dân chủ” tự xưng đã và đang “vạch áo cho người xem lưng”, chứng minh bản chất trong việc ngấm ngầm tuyên truyền, kích động tâm lý tiêu cực tới một bộ phận quần chúng nhân dân, nhất là giới trẻ qua các vụ biểu tình tại Mỹ hay như tại Hồng Kông (năm 2019). Đây là tiền đề để khi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội nước ta có những biến động, các đối tượng này sẽ “thừa nước đục thả câu”, lợi dụng kích động, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động chống phá.
Bên cạnh đó, các đối tượng còn chứng tỏ sự cực đoan khi “khóc thuê cho người Mỹ”. Với họ, lâu nay hình mẫu nước Mỹ được xem là biểu tượng tiêu biểu về sự quy chuẩn của tự do, dân chủ, nhân quyền và họ luôn miệng rêu rao đòi Việt Nam phải học theo Mỹ. Không ít lần họ ca cẩm, lên án Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, đàn áp những người “bất đồng chính kiến”, quốc tế hóa các vấn đề trên và không quên “nhờ cậy” Mỹ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, thậm chí một số đối tượng tôn giáo cực đoan còn yêu cầu Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại nhóm CPC (nhóm các quốc gia đáng quan tâm về vấn đề tự do tôn giáo) vì cho rằng “Việt Nam đàn áp tôn giáo”, Việt Nam không có “tự do tôn giáo”…
Là những người luôn rêu rao đi đầu trong phong trào đấu tranh đòi “dân chủ”, “nhân quyền”, nhưng suốt thời gian qua, họ không có một động thái lên án, không bình luận và không phê phán bất kỳ một tin, hình ảnh nào về cuộc biểu tình bạo loạn của Mỹ đã chứng tỏ những gì họ vẫn khua môi, múa mép trước đây chỉ là diễn trò để mưu đồ gây bạo loạn ở Việt Nam. Điều này đã lật mặt những nhà “dân chủ” giả hiệu khi họ chính là những kẻ ăn bám Mỹ và các thế lực thù địch bên ngoài, cho nên đương nhiên họ không bao giờ nói xấu về nước Mỹ.
Hơn nữa, qua bức tranh tổng thể về hậu quả do cuộc biểu tình, bạo loạn tại nước Mỹ đã và đang rất nghiêm trọng sẽ là sự cảnh tỉnh cho những ai luôn mong muốn và lấy cảm hứng từ các cuộc biểu tình của nền dân chủ Mỹ để mong rằng Việt Nam sẽ có nhiều cuộc biểu tình tương tự với hy vọng “biểu tình để đất nước phát triển”.
Đây thực chất là âm mưu của những kẻ phá hoại đất nước. Giấc mơ về các cuộc biểu tình chẳng qua mong muốn biến đất nước ta thành bãi chiến trường của các cuộc cách mạng màu, cách mạng đường phố. Bài học từ những biểu hiện của cái gọi là cách mạng màu diễn ra ở các nước Đông Âu, Trung Đông và Bắc Phi dẫn tới việc các quốc gia này rơi vào khủng hoảng chính trị, nội chiến, chết chóc và sự bất ổn. Cho nên, biểu tình chỉ là cái cớ để dẫn đến các cuộc bạo loạn phá hoại làm suy yếu sức mạnh của chính quyền, làm giảm hiệu lực của pháp luật.
Người dân Việt Nam vốn yêu chuộng hòa bình, luôn mong muốn có một môi trường tốt đẹp, hòa bình, ổn định để sinh sống và lao động sản xuất. Cho nên, những gì đang diễn ra ở Mỹ, người Việt Nam sẽ chẳng bao giờ mơ ước một nền dân chủ vô pháp khi nó đang gây họa với nước Mỹ. Chỉ có những kẻ cực đoan mới mơ ước điều này xảy ra.
Đặc biệt, sau những biến cố từ các cuộc biểu tình, đình công, bạo động, cướp bóc tại một số khu công nghiệp và trụ sở các cơ quan công quyền tại Hà Tĩnh, Bình Dương, Bình Phước trước đây khi những người hám lợi, nhẹ dạ cả tin bị những đối tượng xấu kích động, mua chuộc tham gia các hoạt động gây rối an ninh trật tự, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng đã thức tỉnh nhận thức của mỗi người dân Việt Nam thấy được giá trị to lớn của hai chữ “bình yên”.

Ở Việt Nam đời sống của đồng bào tôn giáo không ngừng phát triển



Cùng với đồng bào không theo tôn giáo, đồng bào tôn giáo (phần lớn là người Kinh, trừ tín đồ là người dân tộc thiểu số có khoảng 1,8 triệu, ở phía Bắc có khoảng hơn 100.000 tín đồ; ở Tây nguyên có khoảng hơn 400.000 tín đồ; ở Nam bộ có khoảng 1.300.000 tín đồ),
Việc chăm lo đời sống tinh thần của nhân dân ở những vùng đồng bào theo tôn giáo được quan tâm và trú trọng, chức sắc và tín đồ đựợc tham gia các chương trình kinh tế- xã hội, các hoạt động tổ chức đoàn thể, xã hội. các tôn giáo được quan hệ về việc đạo với các tổ chức tôn giáo quốc tế và thực hiện hoạt động đối ngoại theo quy định của pháp luật… Qua khảo sát ở 166 cơ sở thuộc 42 tỉnh, thành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cho thấy, đã thu hút được 35% đoàn viên, hội viên là người có đạo ở cơ sở, trong đó Hội Nông dân, Liên đoàn Lao động, Hội Người cao tuổi, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội chữ thập đỏ là những tổ chức tập hợp hội viên là người có đạo tương đối khá. Phong trào yêu nước trong đồng bào có đạo tiếp tục phát triển. Các chức sắc tham gia cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp), ban chấp hành các đoàn thể nhân dân ở Trung ương và địa phương nhiều hơn. Công tác xây dựng tổ chức Đảng ở vùng có đạo được quan tâm hơn trước. Công tác phát triển đảng viên là người có đạo đã góp phần từng bước xoá dần tình trạng thôn, buôn “trắng” không có đảng viên, bước đầu đáp ứng vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc phát triển kinh tế- xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương đồng bào tôn giáo. Đời sống văn hoá xã hội của đồng bào có đạo ngày càng nâng cao.

Ở Việt Nam các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật



Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, ở Việt Nam các tôn giáo luôn thực hiện và hoạt động đúng pháp luật, luôn thực hiện tốt phần đạo và phần đời. Các tôn giáo đã xây dựng được đường hướng hành đạo tiến bộ, hoạt động đúng pháp luật, thực hiện nghiêm đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Thời gian qua, các tôn giáo được Nhà nước công nhận luôn gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia phát triển kinh tế xã hội, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo (các tôn giáo đã phát huy được tính hướng thiện, giúp cho con người ngăn ngừa tính xấu. Giáo hội Phật giáo Việt Nam với đường hướng hành đạo là: “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”; Công giáo “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc”; Cao Đài “Nước vinh, đạo sáng”; Phật giáo Hòa Hảo “Vì đạo pháp, vì dân tộc”; Tin Lành “Sống phúc âm phụng sự thiên chúa, phụng sự Tổ quốc”. Đây chính là sự chuyển biến rất tiêu biểu của tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới trong điều kiện toàn cầu hóa.

Việt nam là một đất nước thực sự quan tâm đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân



Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập cho đến nay đã có nhiều chủ trương, chính sách để không ngừng quan tâm đến đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo. Điều đó được thể hiện ở nhiều văn bản. trong đó có Nghị quyết Trung ương Bảy, Khóa IX, được khía quát ở một số quan điểm sau:
Quan điểm 1: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta
Quan điểm 2: Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc
Quan điểm 3: Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
Quan điểm 4: Công tác tôn giáo là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị
Quan điểm 5: Vấn đề theo đạo và truyền đạo
Từ năm quan điểm trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định và thực hiện tốt nhiều giải pháp, trong đó, có một số giải pháp cơ bản sau:
Giải pháp 1. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo
 Đây là giải pháp quan trọng, làm cơ sở để thực hiện các giải pháp còn lại, bởi vì có nhận thức đúng mới có hành động đúng. Giải pháp yêu cầu: Phải, nhận thức đúng về vị trí của tôn giáo ở nước ta hiện nay là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách hiện nay; Nhận thức đúng về quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo; Nhận thức về trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong thực hiện công tác tôn giáo. Để thực hiện tốt giải pháp, cần thực hiện các nội dung sau: Trước hết, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ đảng viên, nhân dân, nhất là đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo. Thứ hai, tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất tổ quốc, gắn bó với dân tộc và chế độ XHCN. Thứ ba, động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với tổ quốc, dân tộc và nhân dân; tạo sự thống nhất, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo để đấu tranh chống lại những hoạt động mê tín, lợi dụng tôn giáo gây mất ổn dịnh cơ sở. Thứ tư, phát huy vai trò của phương tiện thông tin đại chúng và lồng ghép trong hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức tôn giáo.
Giải pháp 2. Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo
Chăm lo phát triển kinh tế- văn hoá- xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân vùng đặc biệt khó khăn; quan tâm nâng cao đời sống đồng bào theo tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh nhất là trên các địa bàn chiến lược. Nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình, các dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh nhất là trên các địa bàn chiến lược.
Hướng dẫn tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghiêm pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã được uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 18/6/2004 và luật Tín ngường, tôn giáo đã được kỳ họp thứ hai quốc hội khoá XIV thông qua ngày 18/11/2016.
Xử lý nghiêm các hiện tượng lợi dụng vấn đề tôn giáo để phá thành quả cách mạng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Giải pháp 3. Tăng cường công tác vận động quần chúng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Tăng cường công tác vận động quần chúng, đổi mới nội dung phương thức công tác dân vận, tổ chức và hướng dẫn quần chúng tham gia mọi hoạt động ở cơ sở phù hợp đặc điểm các tôn giáo và nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các doàn thể nhân dân trong tuyên truyền, vận động tín đồ, chức sắc các tôn giáo chấp hành, thực hiện các chủ trương, chính sách của dảng và pháp luật của Nhà nước.
Tập trung củng cố và nâng cao hệ thống chất lượng chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn có dông đồng bào theo tôn giáo.
Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng.
Đấu tranh chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo là một bộ phận nằm trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ CNXH ở nước ta. Đây là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, phức tạp và lâu dài trên tất cả các mặt:
Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Thực hiện tuyên truyền vạch trần âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng; đồng thời làm cho đồng bào các dân tộc, các tôn giáo hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc, tôn giáo. Cần hiểu rõ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo là tôn trọng niềm tin, những sinh hoạt tôn giáo phù hợp với giáo lý, với truyền thống văn hóa dân tộc, phù hợp với triết lý “tốt đời, đẹp đạo”; kiên quyết đấu tranh bài trừ mê tín dị đoan và chủ động đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Tôn trọng quyền tự quyết dân tộc không có nghĩa là để cho địch lợi dụng để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Trên lĩnh vực kinh tế. Phải kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo với đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu. Bởi lẽ, một trong những nguyên nhân mà kẻ thù lợi dụng là do đời sống của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo còn khó khăn để dụ dỗ, kích động họ chống lại chính quyền. Vì vậy, đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để cản trở sự phá hoại các thế lực thù địch, phát huy mặt tốt, nâng cao đời sống của nhân dân.  Phải gắn chặt với việc động viên đồng bào, các tín đồ tích cực lao động sản xuất, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần.
Trên lĩnh vực đối ngoại. Đây là lĩnh vực hết sức phức tạp và nhạy cảm mà các thế lực thù địch lợi dụng để can thiệp, chống phá nước ta. Chúng dựng lên cái gọi là “tự do tôn giáo Việt Nam”, “nhân quyền Việt Nam”... để lừa bịp dự luận quốc tế, trắng trợn vu cáo Nhà nước ta vi phạm nhân quyền, đàn áp đồng bào các dân tộc thiểu số, đàn áp tôn giáo... Do đó, chúng ta cần quán triệt phương châm tích cực, chủ động, mềm dẻo, linh hoạt bác bỏ mọi luận điệu vu cáo, xuyên tạc, bóp méo sự thật về tình hình dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế. Vận dụng chủ trương, chính sách, pháp luật và thành quả đạt được của Đảng, Nhà nước trong thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật ngoại giao về tôn giáo.
Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Cuộc đấu tranh chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh được biểu hiện trực tiếp ở việc làm thất bại mọi mưu đồ kích động sự khác biệt, mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo trong cộng đồng người Việt; mưu đồ hỗ trợ chủ nghĩa cực đoan, cuồng tín, tạo nên những vụ gây rối, bạo loạn, ly khai; mưu đồ tạo dựng, hình thành những nhân tố chống đối từ bên trong, xây dựng lực lượng đối lập để lật đổ chính quyền của các thế lực phản động thù địch. Thực tế cho thấy, có lúc vấn đề dân tộc, tôn giáo đã tạo nên những “điểm nóng” như: Vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên 2/2001 và 4/2004 với cái gọi là “Nhà nước Đề Ga”, “Hội thánh Tin lành Đề ga”; Việc truyền đạo trái phép và “xưng vua”ở Mường Nhé (Điện Biên). Những vụ việc trên đã ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đến thế trận lòng dân và thế trận quốc phòng, an ninh.
Nhận rõ đâu là vấn đề nảy sinh từ những hạn chế, yếu kém của công tác dân tộc, tôn giáo; đâu là địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta; đâu là vấn đề chính trị và đâu là vấn đề nhận thức, tư tưởng; từ đó có những giải pháp phù hợp, hiệu quả.
Qua xử lý các vụ việc trên cho thấy, đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo phải kiên quyết, khôn khéo, dứt điểm không để lây lan kéo dài; phải phát huy được sức mạnh tổng hợp; đấu tranh trên lĩnh vực QP-AN phải kết hợp chặt chẽ với các lĩnh vực khác, đặc biệt là công tác tuyên truyền, vận động, giúp đỡ đồng bào, tín đồ tôn giáo lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, tạo sức đề kháng từ bên trong mỗi tín đồ, mỗi địa phương và cả nước.