Thứ Năm, 26 tháng 11, 2020

 TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – Ý CHÍ VÀ KHÁT VỌNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

"Hỡi đồng bào cả nước! Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc..."
HỒ CHÍ MINH
Bản Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ."
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Bản Tuyên ngôn đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ."
Trải qua 75 năm, Tuyên ngôn Độc lập vẫn mang tính thời sự sâu sắc cả trên bình diện trong nước và quốc tế.
Quyền con người gắn liền với quyền dân tộc
Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó chứa đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc.
Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.
Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc.
"Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (1).
Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục, khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc.
Nghiên cứu về Tuyên ngôn Độc lập, giáo sư Singô Sibata (Nhật Bản) cho rằng "cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình” (2).
Bởi vậy, có thể nói Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người, quyền của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập"
Quyền độc lập dân tộc, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những giá trị cơ bản nhất của nhân quyền. Nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam, những quyền đó bị tước bỏ và chà đạp.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án đanh thép tội ác của thực dân Pháp “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa."
"Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào... Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước, thương nòi. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân trong những bể máu... Về kinh tế, chúng bóc lột công nhân, nông dân đến tận xương tủy... Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu... Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho nhân dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng...” (3).
Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đánh đuổi thực dân, phong kiến và đế quốc, giành lại độc lập, tự do và quyền con người. Như vậy, nhân quyền ở Việt Nam không phải là giá trị do ai ban phát mà là kết quả của cuộc đấu tranh trường kỳ của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh đó đã làm cho “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” (4).
Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam” (5); đồng thời nhấn mạnh, “các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam” (6).
Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” (7).
Với hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc bén, lời lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục gói gọn trong hơn 1.000 chữ, Tuyên ngôn Độc lập là một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, đặt cơ sở cho việc thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với mục tiêu Độc lập-Tự do-Hạnh phúc; soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mãi trường tồn với thời gian
75 năm đã trôi qua, nhưng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, vẫn vẹn nguyên tính thời sự, có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đặc biệt, những giá trị về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng trong Tuyên ngôn Độc lập là những giá trị bất hủ. Từ đó đến nay, nhân dân Việt Nam đã không ngừng phấn đấu cho quyền con người và đạt được nhiều kết quả tích cực, rất quan trọng.
Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và luật. Với những thành tựu về việc bảo đảm quyền con người (cả trên lĩnh vực đối nội và đối ngoại), Việt Nam được bầu làm thành viên của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016).
Kể từ ngày bản Tuyên ngôn Độc lập ra đời đến nay, vị thế đất nước đã có nhiều đổi thay, lời thề lịch sử “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” luôn rọi sáng mọi trái tim, khối óc của người Việt Nam yêu nước trên mọi vùng, miền của Tổ quốc và định cư ở nước ngoài.
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành sức mạnh tinh thần to lớn của toàn dân tộc, giúp toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong đấu tranh thống nhất đất nước, phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.
Đặc biệt, sau gần 35 năm tiến hành đổi mới, nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng lên; tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa và công cuộc xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực; Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam dần được cải thiện, hiện đang thuộc nhóm trung bình cao và đứng thứ 118/189 quốc gia (năm 2019); mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên...
Cùng với đó, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia trên thế giới; gia nhập và tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ...
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng tinh thần bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn luôn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam, không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn cao cả về quyền con người, quyền của dân tộc được sống trong độc lập, tự do như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ấp ủ và cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện.

 

ĐỪNG NGHE HỌ NÓI, HÃY XEM HỌ LÀM

Mỗi người Việt Nam yêu nước luôn có bóng hình Tổ quốc trong tim; đều có chung một khát vọng về một đất nước Việt Nam phát triển ngày càng phồn vinh và hạnh phúc. Ai cũng vậy, chứ không riêng gì những người lúc nào cũng nhân danh yêu nước, thương đồng bào, mượn cớ đòi dân chủ để "cào bàn phím" nói xấu chế độ, nói xấu Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đôi lời như vậy để những người chỉ biết yêu cầu, đòi hỏi mà không nhìn căn cốt vào bản chất của vấn đề, của thực trạng đất nước đã hồi sinh và ngày một phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 90 năm qua hiểu rằng: Hiểu đúng, nói đúng đã khó, song hành động đúng và hành động thực sự còn khó hơn nhiều, vì, kêu dễ, nói dễ và làm rất khó!

Thật ra, đọc  bài viết "Lũ lụt cuốn trôi dân chết đói, nghĩ về đảng trị vì" của Nguyễn Dân đăng trên Damlambao ngày 29/10/2020, bỗng cảm thấy Nguyễn Dân thật đáng thương. Nguyễn Dân đáng thương ở chỗ không chỉ y đi theo con đường của các thế lực thù địch; không chỉ làm nhiệm vụ bồi bút cho các thế lực cơ hội, phản động và thù địch đó mà Nguyễn Dân còn cam tâm xuyên tạc sự thật, bôi nhọ Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo  của Đảng, nhất là trong những ngày khúc ruột miền Trung đang dồn dập đối diện với thiên tai, bão lũ.

Một là, hằng năm những trận bão biển và gió mùa Đông Bắc thường gây nên những trận mưa lớn ở miền Trung. Đặc biệt, những biến đổi thời tiết trên toàn thế giới những năm gần đây như dòng nước El Nino và La Nina cũng khiến những trận bão biển, mưa lớn xảy ra khốc liệt hơn. Trong khi đó, bờ biển miền Trung nước ta dài 1200 km, gồm các tỉnh từ Thanh Hoá đến Bình Thuận, vốn có hệ thống sông ngòi chằng chịt: Sông Gianh ở Quảng Bình; sông Thạch Hãn ở Quảng Trị; sông Hương ở Thừa Thiên - Huế; sông Thu Bồn ở Quảng Nam; sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi và có dãy Trường Sơn chạy suốt theo bờ biển nên đồng bằng ở miền Trung rất hẹp...

Khu vực này, chiều dài các con sông, con suối đa số đều ngắn, có độ dốc lớn; lưu vực các sông thường là khu vực đồi núi cho nên lượng nước mưa đổ xuống rất nhanh, lại không có hệ thống đê để ngăn lũ, nên dễ gây ngập lụt. Hơn nữa, các cửa sông hay bị bồi lấp cũng là nguyên nhân gây cản trở lớn việc thoát lũ ở vùng đồng bằng… Vì thế, khi thiên tai dồn dập ập đến, cấp ủy, chính quyền, cả hệ thống chính trị và nhân dân các tỉnh miền Trung cùng phải oằn mình chống chọi với thiên tai.

Bao năm qua đã thế, nhưng năm nay, trong những ngày của tháng 10 và đầu tháng 11 này, nhiều cơn bão và mưa lũ đã và đang đổ ập về các tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên… Miền Trung tang thương vì bão, lũ lụt, song miền Trung cũng đã, đang và sẽ luôn nhận được sự quan tâm, sẻ chia Đảng, Chính phủ, Quốc hội, của đồng bào và chiến sĩ cả nước. Hơn bao giờ hết, tình yêu thương, cố kết, đoàn kết cộng đồng vốn được hình thành và bồi tụ suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của bao thế hệ con cháu Lạc Hồng tiếp tục được phát huy, được nhân lên để chia sẻ cùng đồng bào miền Trung.

Khúc ruột miền Trung lại thêm một lần phải gồng mình chống chọi với bão, lũ. Tiếng gọi vì miền Trung ruột thịt đã vang khắp mọi miền của Tổ quốc… Những chủ trương kịp thời của Đảng; chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ; các đợt quyên góp đầy tinh thần và trách nhiệm tại các cơ quan trong Đảng, Chính phủ, Quốc hội và cả hệ thống chính trị; những chuyến hàng cứu trợ bao gồm cả tiền, nhu yếu phẩm, thuốc men của các cơ quan, tổ chức và cả nhân - những tấm lòng yêu thương gửi theo từng chuyến xe hướng về người dân vùng lũ; sự lăn xả, không quản ngại hy sinh vất vả của những người lính "bộ đội cụ Hồ"… Là ai và tổ chức nào, dù dưới danh nghĩa nào thì mỗi suy nghĩ, mỗi việc làm, mỗi hành động thực chất, hữu hiệu đó cũng đều thể hiện tình thương yêu và trách nhiệm với khúc ruột miền Trung của Tổ quốc; cũng làm rạng rỡ hơn bản chất "thương người như thể thương thân" của dân tộc Việt.

Hai là, trong khi Đảng, nhà nước và các tầng lớp nhân dân trong nước đang hằng ngày, hằng giờ dõi theo tin tức về bão, lũ, lụt ở miền Trung; nén chặt trước mỗi đau thương, mất mát của người dân miền Trung; nỗ lực sẻ chia cùng miền Trung bằng những quyết sách, việc làm thiết thực thì Nguyễn Dân lại cố tình xuyên tạc sự thật: "Nhà cầm quyền họ đã làm gì? Trung ương đầu não thì các ông chú tâm lo cho kỳ đại hội đảng, và đang giành nhau chức vị. Ông chủ tịch tản lờ, và thủ tướng thì “xính vính” chiếu lệ trong sự bất lực, bất tài. Địa phuơng thì đang chờ… chỉ thị"...

Vô sỉ hơn, Nguyễn Dân còn dám quy kết vô căn cứ khi viết: "Con vật chăm lo chải chuốt bộ lông, một đảng chỉ biết có quyền lợi đảng. Dân đói, dân chết, cửa nhà tan tác tả tơi giữa cơn sóng dữ thì cứ mặc dân. Hầu như không thấy một phương cách cấp cứu khẩn cấp".

Nguyễn Dân cố tình hay bị hack não mà không biết rằng các thông tin lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ về cứu hộ, cứu nạn cho miền Trung được phát hằng ngày, hằng giờ trên các cơ quan truyền thông; được sẻ chia kịp thời, nhanh rộng trên mạng xã hội; được thực thi dưới nhiều biện pháp, hình thức… miễn là đến được với miền Trung, vì miền Trung ruột thịt.

Các địa phương như Thừa thiên - Huế, Quảng Bình… tạm hoãn Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 để tập trung khắc phục thiệt hại do bão, lũ gây ra. Các chuyến từ thiện của cá nhân, nhóm người hay tổ chức… đều có sự trợ giúp của chính quyền địa phương các tỉnh miền Trung để mỗi chuyến đi của những tổ chức và cá nhân đó được an toàn và hiệu quả. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc đã tiếp nhận số tiền quyên góp từ các địa phương để phân bổ, cân đối cho các địa phương bị thiệt hại, đảm bảo đúng yêu cầu… Rồi, vì nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn đã có 13 cán bộ, chiến sĩ hy sinh khi thực hiện công tác tìm kiếm cứu nạn tại công trình thủy điện Rào Trăng 3, trong đó có thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Phó tư lệnh Quân khu 4, đại biểu Quốc hội khóa XIV… tất cả, há không phải là vì miền Trung hay sao hả Nguyễn Dân?

Vây thì, trong khi Đảng, Chính phủ, Quốc hội và mỗi người dân Việt Nam yêu nước, thương nòi, đang thể hiện tấm lòng mình với miền Trung thì Nguyễn Dân đang làm gì? Y chỉ nói thương kiểu "chóp lưỡi đầu môi" với miền Trung, rồi viết, rồi lu loa nói xấu Đảng, nói xấu chế độ. Y chả làm gì ngoài mấy lời sáo rỗng, nhạt hơn nước ốc…

Đây là sự thật và sự thật này nói lên rằng: Nguyễn Dân mới chỉ nói mà chưa bao giờ làm, hơn nữa y lại còn không nói đúng. Y bôi nhọ Đảng nào là "bao nhiêu là lệnh truyền độc đoán, tư duy kém cõi, đầu óc tham tàn để ra sức bao biện, bao che, trấn áp trong vai trò nhẫn tâm đốn mạt của bao kẻ thế quyền... chứng minh cho sự lừa bịp, gian manh là rõ nhất"; là "cán bộ quyền uy mọi cấp không ngừng hút máu người chủ nhân dân để vinh sang sung sưóng, ngôi cao chễm chệ với tột đỉnh vinh sang, nhà cao cửa rộng, vật chất đủ đầy, thì “chủ” là đại đa số người dân trở nên khổ nghèo cơ cực"… trong khi y đang hưởng thụ những đồng tiền từ những bài viết sai sự thật này của các thế lực thù địch chống Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ.

Y mới là kẻ "khốn nạn" và đáng bị mọi người dân, nhất là những người dân miền Trung đau thương mà anh dũng lên án, phỉ nhổ.

Ba là, Nguyễn Dân lại càng tồi tệ hơn khi nói xấu Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và những cán bộ, đảng viên của Đảng khi "vơ đũa cả nắm" nói rằng: "Có bao giờ (chúng nó) bỏ ra “một đồng” để cứu giúp người dân? Lại rộng họng, to mồm cầu xin cứu giúp, để rồi cùng nhau chia chát lợi lộc của tiền. Chực chờ để rút rĩa tận hưởng"; "Ông đốt lò, diệt trừ tham nhũng, đem về bao nhiêu nghìn tỷ (của cướp đoạt từ dân). Cất đâu? Và để làm gì?"…

Đất nước Việt Nam hôm nay đúng là vốn được tạo dựng suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước; được giữ gìn, củng cố và ngày càng phát triển bởi sự hy sinh, phấn đấu của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước, trong đó có rất nhiều, rất nhiều cán bộ, đảng viên trung kiên, mẫu mực. Song đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam chỉ thật sự hồi sinh và phát triển từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, với một đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cơ đồ một nước Việt Nam ngày càng được khẳng định trong cộng đồng quốc tế chỉ có được khi nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng kiên cường vượt mọi khó khăn, thử thách, kiên tâm, kiên trung trên con đường đã chọn, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Không có một "Đảng cướp" như Nguyễn Dân vô sỉ viết, song chắc chắn có một Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trả lời câu hỏi "lên nắm trọn quyền từ trên 45 năm, đảng CSVN đã làm được gì?" của Nguyễn Dân thế này: Sau 45 năm năm cả nước cùng kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước Việt Nam ngày càng đổi mới, nhân dân Việt Nam ngày càng được thụ hưởng những giá trị cao quý của độc lập, tự do, hạnh phúc và đang cùng chung sức, đồng lòng xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam không bao giờ "chỉ biết lo cho lợi quyền riêng đảng" mà là vì nước, vì dân phụng sự; luôn là Đảng cầm quyền, độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam; luôn được nhân dân tin tưởng và ủng hộ, nên dù Nguyễn Dân có nức nở kêu gọi "đã đến lúc dân tộc này phải vùng lên đánh đổ" thì cũng chẳng ai tin y, chẳng ai vì cái miệng lưỡi của y mà phản bội lại Tổ quốc mình, nhân dân mình và Đảng Cộng sản Việt Nam như y từng làm!.

 

CẢNH GIÁC VIỆC LỢI DỤNG CÁC HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC, THAM NHŨNG, MÂU THUẪN TRONG XÃ HỘI ĐỂ KÍCH ĐỘNG NHÂN DÂN

 

 Thời gian gần đây chủ nghĩa đế quốc lợi dụng các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, mâu thuẫn xã hội để kích động nhân dân khiếu kiện tập thể, gây rối, phá vỡ nền tảng chính trị - xã hội để tạo cớ can thiệp.

Chủ nghĩa đế quốc triệt để lợi dụng các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, để vu cáo, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, kích động làn sóng ngầm chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Mục đích trên của chúng nhằm vẽ lên một bức tranh xám xịt về thực trạng xã hội Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ đó gây hoài nghi trong nhân dân vào các cấp lãnh đạo, hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, tạo “hoài nghi” về quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời, phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, chia rẽ cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội. Đi đôi với luận điệu xuyên tạc trên của các nhà hoạt động “dân chủ, nhân quyền” là những lời hô hào, xúi giục nhân dân “đoàn kết”, “đứng lên đấu tranh đòi tự do, dân chủ”; kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam phải thay đổi: “Cương lĩnh”, “thể chế chính trị”, “mô hình lãnh đạo”, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”...

Cùng với các hội, nhóm “xã hội dân sự”, nhà hoạt động “dân chủ, nhân quyền”, còn phải kể đến một số tổ chức mang danh quốc tế. Họ luôn tự cho mình cái quyền đi “phán xét” tình hình tham nhũng ở các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam và thường kỳ đưa ra cái gọi là “Báo cáo tham nhũng toàn cầu”. Đáng chú ý, khi đề cập đến thực trạng tham nhũng ở Việt Nam, các bản “báo cáo” này thường dựa trên những quan điểm chủ quan, thiếu cơ sở, mang tính phiến diện, phản ánh sai lệch tình hình; đưa ra những đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện “quyền tự do” cho người dân để “nâng cao hiệu quả” chống tham nhũng và kêu gọi “cho phép các tổ chức xã hội dân sự” tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng...

Chúng còn lợi dụng những điều kiện bất hợp lý làm phát sinh mâu thuẫn xã hội trong thực hiện các chính sách đất đai, nhà ở, thuế, gần đây là vấn đề lũ lụt ở miền Trung... kích động nhân dân khiếu kiện, chống đối chính quyền, gây rối trật tự xã hội kéo dài để tạo cớ trắng trợn can thiệp vào nước ta. Đồng thời, chúng dùng nhiều thủ đoạn tìm cách tiếp cận, móc nối, mua chuộc, khống chế những cán bộ có chức, có quyền nhưng thoái hóa biến chất, tham nhũng, làm ăn phi pháp bị Nhà nước ta xử lý, để tạo dựng “ngọn cờ” chống đối chế độ, thiết lập chế độ mới thân phương Tây phá hoại ta từ trong phá ra.

Nhận diện rõ những thủ đoạn chính của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng các vấn đề xã hội chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay là nhằm góp phần ngăn chặn sự phá hoại của các thế lực thù địch, các phần tử xấu chống phá cách mạng Việt Nam, bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống bình yên của đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng, của nhân dân Việt Nam nói chung trong tiến trình đổi mới đất nước, phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.  

N.V.T

 

AI LÀ NGƯỜI VI PHẠM
TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

                                                                         Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Nhân dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhân dân Việt Nam từ ngàn xưa đến nay luôn coi trọng truyền thống đạo đức, văn hóa của dân tộc, yêu nước thương nòi, tuy có đức tin khác nhau, nhưng không vì thế mà sinh ra hằn thù, chia rẽ. Tín đồ thuộc các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau luôn chung sống hòa hợp, cùng toàn dân đoàn kết trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Trong thời kỳ đất nước bị thực dân đế quốc đô hộ, các tôn giáo bị phân biệt đối xử, một số tôn giáo bị đàn áp. Trong chế độ cai trị của đế quốc thực dân, nhân dân ta không hề có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Có chăng chỉ là “tự do” cho một số ít người “ôm chân, nấp bóng” quân xâm lược. Nhưng ngay sau khi đất nước được độc lập, và trong suốt tiến trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đời sống đồng bào tôn giáo, đến việc bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua các thời kỳ cách mạng, tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là chủ trương nhất quán của Đảng, được Nhà nước thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật. Hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo đã đi vào cuộc sống, được các giáo hội, tu sĩ, chức sắc và tín đồ tôn giáo hoan nghênh. Hiện nay đã có hàng ngàn nơi thờ tự của các tôn giáo có hệ thống tổ chức đang sinh hoạt thường xuyên bình thường, nhiều nơi được sửa chữa hoặc xây mới. Đó là những biểu hiện rõ ràng nhất về quyền tự do sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta; là thực tế không ai có thể phủ nhận được.
Nhưng gần đây, các thế lực thù địch Việt Nam và những kẻ phản bội lưu vong liên tục tuyên truyền, vu khống, xuyên tạc tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Ở trong nước, một số người bất đồng chính kiến, một số kẻ cơ hội chính trị cũng a dua theo luận điệu của bọn phản động, đã tung tin, viết bài phản ánh sai sự thật về tình hình đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Đối chiếu những luận điệu “cáo buộc” của họ với sự thật lịch sử Việt Nam, chúng ta dễ nhận thấy đó là những lời vu khống trắng trợn! Họ cố tình quên những tội ác mà các thế lực ngoại bang đã gây ra cho dân tộc, cho đất nước, cho đồng bào các tôn giáo ở Việt Nam.
Ai đã biến nơi thờ tự thành đồn bốt, tháp canh, cưỡng ép giáo dân làm thành “hàng rào thịt” bao quanh các căn cứ quân sự, đẩy thanh niên tôn giáo ra làm bia đỡ đạn? Ai đã dội bom lên các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất... nhằm biến miền Nam Việt Nam thành vùng oanh kích tự do và âm mưu đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá.
Ai đã tác động tâm lý, tung tin thất thiệt, xô đẩy hàng chục vạn đồng bào công giáo bỏ quê cha đất tổ, bỏ lại ruộng vườn để theo “Chúa vào Nam”, gây ra cảnh gia đình ly tán, đàn chiên không có chủ chăn, các nơi thờ tự hương lạnh khói tàn? Ai đã khôi phục lại ruộng vườn, phục hồi sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, sửa chữa các nơi thờ tự, đảm bảo kinh nguyện bình thường, giúp cho nền đạo lành ngày càng phát triển?
Ai đã lên tiếng khi máu đổ sân chùa và các nơi thờ tự khác bị làm ô uế ở miền Nam trước đây, khi hàng loạt chức sắc, tín đồ các tôn giáo bị chế độ cũ bắt bớ giam cầm vì họ là người yêu nước?
Những thế lực thù địch ở nước ngoài luôn tìm cách kích động số ít người xấu trong các tôn giáo để gây rối, gây mất trật tự trị an, nhằm phá hoại sự ổn định xã hội, nhưng khi pháp luật trừng trị thì chúng mượn cớ kêu la hò hét, vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền và tự do tín ngưỡng. Đó là sự xuyên tạc thô bạo nhằm đổi trắng thay đen, che giấu âm mưu phản động mà sự thật đó là những hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam. Cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước những âm mưu, thủ đoạn đó để cùng chung tay bảo vệ đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ổn định, tiến bộ của đất nước ta hiện nay.

 

 

VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI

TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG CHIA RẼ DÂN TỘC

Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dàicấp bách của Cách mạng Việt Nam hiện nay. Mục đích cao nhất của đấu tranh chống chia rẽ dân tộc là để bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh của toàn dân thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn, lịch sử của dân tộc đã chỉ rõ; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc bao giờ cũng phải được kết hợp chặt chẽ đấu tranh không khoan nhượng loại trừ những tác nhân gây chia rẽ dân tộc.

Quân đội ta là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Với chức năng đội quân sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, lao động sản xuất và đội quân công tác, Quân đội nhân dân Việt Nam giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong phối hợp, vận động và tổ chức nhân dân tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ dân tộc, góp phần củng cố, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết quân dân, xây dựng thế trận quốc phòng, “thế trận lòng dân”, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị và môi trường hòa bình, thực hiện CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN.

Để phát huy vai trò to lớn của Quân đội trong đấu tranh chống chia rẽ dân tộc hiện nay phải nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng trước mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ dân tộc của kẻ thù cho cán bộ, chiến sĩ; nâng cao chất lượng công tác dân vận, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, chống âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trong hệ thống chính trị tham gia cùng đấu tranh. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Tăng cường xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh, toàn diện, từng bước tiến lên chính quy, hiện đại để sẵn sang nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

 

 

 

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA


“Độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa…” là đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đường lối đó đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Nhờ thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới, nhất là vấn đề Biển Đông, trên một số trang mạng xã hội facebook xuất hiện những quan điểm sai trái, thù địch nhằm phê phán, bác bỏ đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay. Họ cho rằng: Nếu Đảng, Nhà nước vẫn “khăng khăng” giữ chính sách quốc phòng “ba không” (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia) như thế là “dân đi một đường, Đảng đi một nẻo”(!)...

Vậy, bản chất những quan điểm, luận điệu đó thế nào? Đây có phải là sự nham hiểm, tinh vi, trắng trợn của các thế lực thù địch, phản động trong thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thực hiện mưu đồ chính trị đen tối, là biểu hiện của sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng chỉ ra? Như vậy, thực chất đây là những tư tưởng, quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Đáng lưu ý có người hồ đồ nói rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình... Lại có kẻ còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia... Bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, tán phát những thông tin sai lệch, bịa đặt, phủ nhận những thành tựu của công tác đối ngoại, xuyên tạc quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và quan hệ của Việt Nam với các nước đối tác; xuyên tạc đường lối, phương châm đối ngoại, hòng gây nghi kỵ quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...

Những động thái nói trên không có gì mới và không nhằm mục đích nào khác là tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam.

Dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng những năm qua, đặc biệt trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Những thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao, góp phần tạo nên môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước...

Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng. Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước - đó là duy trì hòa bình, ổn định. Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Như vậy có thể thấy, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là rất rõ ràng, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Những gì đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: Việt Nam không bao giờ liên minh với một nước khác để chống lại nước thứ ba. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

LỢI ÍCH QUỐC GIA VIỆT NAM

Trong xử lý các vấn đề mang tính chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy cần phải thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Như vậy, trước tiên phải đánh giá chính xác những yếu tố “bất biến” liên quan đến lợi ích quốc gia hiện nay là gì. Từ đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam, có thể nói trong thời điểm hiện nay nước ta có ít nhất ba lợi ích quốc gia cốt lõi như sau:

Thứ nhất, và quan trọng nhất, là đảm bảo được an ninh quốc gia. Ở đây an ninh quốc gia được hiểu là bảo vệ được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cùng sự bình an của các công dân Việt Nam. Trên thực tế, điều này cũng có nghĩa là chúng ta không bị quân đội nước khác tấn công xâm lược và chính quyền Việt Nam không bị thao túng bởi bất kì thế lực nào từ bên ngoài. Đây là lợi ích quốc gia cao nhất, nền tảng nhất vì nếu không đảm bảo được hai điều này thì đất nước và dân tộc Việt Nam không còn là chính mình và không còn khả năng tự quyết định vận mệnh của mình nữa.

Thực tế cho thấy, không có đạo quân xâm lược nào quan tâm, chăm lo cho cuộc của người dân nước họ chiếm đóng. Mọi cường quốc dù dưới bất kì hình thức hay màu cờ nào cũng đều chỉ muốn làm lợi cho riêng mình trên lưng nhân dân Việt Nam. Lịch sử ngàn năm Bắc thuộc cho thấy nếu chúng ta muốn một cuộc sống ấm no, hạnh phúc thì nhất định người Việt Nam phải làm chủ đất nước của mình và phải đảm bảo chiến tranh không xảy ra. Chỉ cần có chiến tranh nổ ra thì dù kết quả thế nào đi chăng nữa, người dân Việt Nam cũng sẽ luôn phải chịu vô cùng nhiều đau thương và mất mát. Một đất nước xảy ra chiến tranh triền miên sẽ không thể nào phát triển kinh tế và đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân được. Chính vì vậy mục tiêu số một luôn phải là đảm bảo an ninh quốc gia.

Thứ hai, là duy trì thể chế chính trị hiện nay và đảm bảo ổn định chính trị trong nước. Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam cho thấy, việc duy trì thể chế chính trị hiện nay có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định chính trị trong nước, bởi nếu có bất kì sự thay đổi đột ngột nào, bạo loạn gần như chắc chắn sẽ xảy ra. Tuy nội chiến không nhất thiết sẽ nổ ra nhưng nó sẽ là một nguy cơ chúng ta không thể loại trừ.

Lịch sử ngàn năm của Việt Nam cho thấy khi đất nước bị chia rẽ, các cường quốc ở bên ngoài sẽ luôn chớp lấy thời cơ thao túng nước ta để trục lợi. Nhìn vào lịch sử chúng ta thấy rõ, khi chính quyền trung ương suy yếu, các thế lực trong nước nổi dậy xưng hùng tranh bá, đồng thời các thế lực bên ngoài lập tức nhảy vào xâu xé, chia chác lợi ích là điều chắc chắn. Do đó, có thể nói rằng việc duy trì ổn định chính trị quốc nội và chính quyền vững mạnh là yếu tố mang tính then chốt để đảm bảo an ninh quốc gia.

Thứ ba, là đảm bảo môi trường hòa bình trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Khu vực càng ít biến động, các cường quốc càng hạn chế tranh giành quyền lực thì Việt Nam càng có thể tập trung nguồn lực phát triển kinh tế và đầu tư cho giáo dục, an sinh xã hội. Khi nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định chính trị sẽ đi theo.

Rất nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học chính trị đã cho thấy rằng sự thay đổi chế độ sẽ ít xảy ra hơn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển ổn định.  Khi người dân cảm thấy nhu cầu vật chất và tinh thần của mình được đáp ứng, họ sẽ sẵn lòng ủng hộ chính quyền hơn. Vì vậy nhiều học giả từ lâu đã nhận định rằng, tính chính danh của nhà cầm quyền chủ yếu dựa vào hai trụ cột chính là chủ nghĩa dân tộc và phát triển kinh tế. Nếu những nhà lãnh đạo muốn giành được sự ủng hộ của nhân dân, họ sẽ phải chứng minh được rằng chính phủ hiện nay có thể bảo vệ an ninh – chủ quyền quốc gia, không để các thế lực ngoại bang xâm phạm lợi ích và đảm bảo rằng kinh tế phát triển vững mạnh, bởi đây là yếu tố tiên quyết để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Những điều này hoàn toàn đúng với trường hợp của Việt Nam.

Mặc dù vậy, cần nói thêm rằng bên cạnh ba lợi ích cốt lõi trên, Việt Nam cũng muốn theo đuổi các mục tiêu khác, ví dụ như xây dựng sức mạnh mềm cho Việt Nam, tham gia vào nỗ lực bảo vệ Hòa bình của Liên hợp quốc, chống biến đổi khí hậu toàn cầu, phối hợp với các nước trong và ngoài khu vực Đông Nam Á xây dựng các cơ chế hợp tác đa phương, nâng cao vị thế của đất nước trong mắt bạn bè quốc tế, v.v… Tuy nhiên rõ ràng ba lợi ích trên là ba lợi ích cốt yếu nhất với Việt Nam bởi chúng là nền tảng để Việt Nam có thể theo đuổi các mục tiêu khác của mình.

THÉP ĐÃ TÔI THẾ ĐẤY

 "Tôi muốn nhắc lại, mô phỏng một câu nổi tiếng rất xúc động, sâu sắc của nhân vật Pa-ven Cooc-xa-ghin trong truyện "Thép đã tôi thế đấy" - một tác phẩm nổi tiếng, một cuốn sách “gối đầu giường” của thanh niên, thiếu niên hồi những năm 60 - 70 của nhà văn Liên Xô (cũ) - Nhicalai Axtơrốpxki: “Thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh, lúc đó thép trở nên không hề biết sợ”. Tôi được biết, các đồng chí ngồi đây hầu hết đều đã ít nhiều được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn và được học hành khá cơ bản. Tôi tin rằng các đồng chí có đủ trình độ, bản lĩnh, dũng khí để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, nói như Pa-ven: “Không hề biết sợ”. Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì, đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi phải hổ thẹn vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, mang tai, mang tiếng, mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt xuôi tay, có thể tự hào rằng: Ta đã sống có ích, đã mang tất cả đời ta, tất cả sức ta hiến dâng cho sự nghiệp cao quý nhất trên đời: Vì vinh quang của Tổ quốc, của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân, của con người; để con cháu chúng ta mai sau mãi mãi biết ơn, kính trọng, học tập và noi theo" - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.

Nhận thức đúng về việc Việt Nam tham gia sứ mệnh gìn giữ và kiến tạo hòa bình

 

 

Theo dõi vệt bài “Pháp luật về quốc phòng-hợp hiến, hợp lý và hợp lòng dân”, chúng tôi rất đồng tình với những thông tin và lập luận của các tác giả về những vấn đề được đề cập trong vệt bài. Đặc biệt là bài viết “Việt Nam tham gia lực lượng “mũ nồi xanh”-hoàn thiện luật pháp cho một chủ trương đúng” đã làm nổi bật những giá trị cốt lõi trong các hoạt động của Việt Nam khi tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc (GGHB LHQ); bài viết đã khái quát đúng và làm rõ được nhiều vấn đề cơ bản mà bấy lâu nay độc giả quan tâm về vấn đề này.

PHẢN BÁC NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI CHỐNG PHÁ ĐẢNG

Cần phải thấy rõ rằng, sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch là cuộc đấu tranh ý thức hệ, diễn ra lâu dài, với nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc. Cho dù trong thực tiễn, chúng ta làm tốt, chúng vẫn điên cuồng chống phá và không ngừng xuyên tạc.

Biện pháp phản bác hữu hiệu nhất là nỗ lực góp phần xây dựng đất nước ổn định, kinh tế phát triển, đời sống người dân không ngừng được nâng lên. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường, vị thế quốc gia ngày càng tăng trên trường quốc tế. Nhìn lại thực tiễn lịch sử nước ta, những thành tựu đất nước đã đạt được trong những năm qua, càng khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn là đúng đắn.

Thứ nhất, nhìn lại 75 năm ra đời nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch, sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng đất nước Việt Nam thống nhất, phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong quá trình đó, xét về bản chất, phải giải quyết nhiều vấn đề to lớn, trong đó có mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

Khi thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhờ có giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Việt Nam mới giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập trước các thế lực xâm lăng có sức mạnh hơn ta nhiều lần.

Khi đất nước đã thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ một nước có điểm xuất phát thấp, bị tàn phá sau chiến tranh, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, thực chất là một cuộc cách mạng mới, sâu sắc, toàn diện trong đó có đổi mới kinh tế, đồng thời với đổi mới chính trị với bước đi, hình thức phù hợp. Những thành tựu đạt được trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam được thế giới ghi nhận, đất nước “chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay”. Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ hai, trong việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trên thế giới, không có quốc gia nào không bị trả giá, bị sai lầm trong quá trình phát triển.

Chủ nghĩa tư bản có lịch sử ra đời và phát triển hàng trăm năm nay, làm giàu trên máu và nước mắt của biết bao quốc gia, dân tộc, và ngay người lao động trên đất nước của họ, nhưng với hơn 200 quốc gia trên thế giới, số nước giầu có, G7, G8 mới chỉ được vài nước. Hơn nữa, ngay trong những nước đó, sự bất công, phân biệt chủng tộc, kẻ reo rắc chiến tranh, phân hoá giầu nghèo rất lớn, đã có nhiều công trình nghiên cứu, công bố quốc tế ở chính ngay các nước tư bản chủ nghĩa nói lên điều này. Bởi vậy, những hạn chế, khuyết điểm của Việt Nam trong quá trình phát triển nói chung, trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nói riêng là điều có thể lý giải; những vướng mắc, sai lầm đó cũng không làm mất đi tính chính nghĩa, tính đúng đắn của sự lựa chọn mô hình phát triển, của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là xu thế phát triển của lịch sử loài người.

Thứ ba, quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là quá trình thận trọng, chắc chắn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý, được tổng kết từ thực tiễn để khái quát thành lý luận, vừa tránh giáo điều cũ, đồng thời không nóng vội, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan; nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết điểm, không né tránh. Điều này được thực tiễn kiểm nghiệm trong quá trình phát triển ở Việt Nam.

Khi mắc sai lầm, trước hết xem xét từ trong nội bộ Đảng, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước để tìm biện pháp khắc phục, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa “xây và chống”, trong đó xây là cơ bản, lâu dài; chống là kiên quyết, triệt để.

Thứ tư, về phương pháp luận giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và  đổi mới chính trị, trước hết được xem xét trong tính chỉnh thể, hệ thống, đó là nền tảng tư tưởng- chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, thấy rõ đâu là những nguyên lý còn nguyên giá trị nhưng các thế lực thù địch, cơ hội vẫn chống phá; đâu là những vấn đề cần bổ sung, phát triển và vấn đề nào thực tiễn cuộc sống đã vượt qua trong lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đây là điều hết sức quan trọng để đảm bảo tính khoa học, cách mạng, hơi thở cuộc sống, tiếp thu tinh hoa của nhân loại trong nền tảng tư tưởng của Đảng; nhận thức rõ hơn âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giúp chúng ta không bị mất phương hướng. Bên cạnh đó, cần phân loại đâu là những vấn đề sai lầm trong tổ chức thực hiện, những sai lầm khuyết điểm mắc phải do tác động của các yếu tố từ bên ngoài.

Thứ năm, những kết quả đạt được, tuy chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong tình hình mới, nhưng cần khẳng định, đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn hiện nay.

Hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng rõ hơn, nền tảng tư tưởng của Đảng tiếp tục được củng cố, bổ sung và phát triển, là cơ sở quan trọng để hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng một cách đúng đắn. Hệ thống tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tiếp tục được tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện: “Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn”, và “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị” “Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện”; “ Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực”. Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị: “Quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn”, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn. Nhờ đó, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn, được thế giới ghi nhận, nhân dân đồng tình ủng hộ.

Thứ sáu, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ và tìm cách khắc phục, như Đại hội XII đề cập: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”.

Một số vấn đề trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị còn chưa đồng bộ, làm ảnh hưởng, thậm chí là điểm nghẽn của sự phát triển, đó là: “Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉ và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu nền kinh tế, thực hiện ba đột phá”. Sự tác động trở lại của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế chưa tương xứng, nhiều khi còn chậm. Trong nhiều trường hợp, chủ trương, đường lối đúng nhưng vướng mắc trong tổ chức bộ máy, thể chế và tổ chức thực hiện dẫn đến hạn chế sự phát triển, như: “Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự thông thoáng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp.Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường”. Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt, như công tác xây dựng Đảng còn nhiều yếu kém chậm được khắc phục; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy, lực lượng sản xuất, sức sản xuất của xã hội chưa được giải phóng đầy đủ, môi trường dân chủ, sáng tạo chưa phát huy tốt: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ”.

Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị tác động đến sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được trong phát triển của đất nước là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển và những đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Việt Nam là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng./

Hoạt động chính danh, chính nghĩa, thực hiện thận trọng của lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt nam

 


Có một số ý kiến thắc mắc: Tại sao Việt Nam lại tham gia lực lượng GGHB LHQ để gây tốn kém ngân sách, mệt nhọc, rủi ro cho lực lượng vũ trang ở nơi đất khách quê người, trong khi ngay trong nước, bên cạnh nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm quốc phòng, an ninh thì vẫn còn nhiều nhiệm vụ cần huy động LLVT nhân dân, ví dụ như bão lũ, thiên tai, dịch bệnh ngày càng khắc nghiệt, nhiều vùng tại nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi di chứng chiến tranh như ô nhiễm bom mìn, chất độc dioxin... Cũng lại có ý kiến vu cáo rằng, việc Việt Nam đưa LLVT ra nước ngoài là tham gia liên minh quân sự, đi xâm lược nước khác. 

NHẬN DIỆN NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC

Sự chống phá điên cuồng, xuyên tạc sự thật của các thế lực cơ hội, thù địch về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là sự tiếp nối của cuộc đấu tranh ý thức hệ trong điều kiện mới nhằm phá hoại, làm mất ổn định, phát triển đất nước. Những luận điểm này tuy không có ý nghĩa gì về tri thức, lý luận, nhưng chúng ta không được coi nhẹ, phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phê phán.

Vấn đề đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam luôn bị các thế lực cơ hội, thù địch quan tâm, chống phá. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước, đặc biệt là vào những thời điểm khó khăn. Mục tiêu sâu xa của chúng là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta dày công xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng; thông qua việc chống phá, gây mất ổn định, mất lòng tin, làm cho kinh tế không phát triển, xã hội tất yếu dẫn tới rối loạn, khủng hoảng và sụp đổ; hoặc làm cho chính trị rối loạn, đất nước không ổn định, kinh tế không phát triển, tất yếu cũng dẫn tới xoá bỏ chế độ chính trị.

Về đổi mới kinh tế, chúng tấn công thẳng vào những vấn đề mang tính ý thức hệ, như quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng phủ định  quy luật này, “lớn tiếng” rằng, các nước tư bản chủ nghĩa không thừa nhận quy luật này nhưng vẫn phát triển, hay quy luật này chỉ đúng thời của Mác-Lênin, khi khoa học và công nghệ chưa phát triển; ngày nay người lao động gắn bó với tư bản, có cổ phần trong các doanh nghiệp tư bản, không bị bóc lột như trước đây, được quan tâm nhiều đến lợi ích, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều điều chỉnh, do đó không còn mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ đó, chúng cho rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lỗi thời.

Vấn đề sở hữu công cộng dưới hai hình thức toàn dân và tập thể vẫn là một trong những nội dung các thế lực xuyên tạc, chống phá. Lợi dụng một số yếu kém trong quản lý kinh tế ở một số nước đi lên chủ nghĩa xã hội; tình trạng tham nhũng, suy thoái đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tình hình một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thất thoát tài sản, tình trạng khiếu kiện đông người vẫn diễn biến phức tạp liên quan đến đất đai; đất nơi thờ tự, đất tôn giáo, đất quốc phòng, an ninh sử dụng lãng phí, tiêu cực…, các thế lực thù địch đưa ra luận điệu rằng, còn duy trì sở hữu công cộng, nguồn lực đất nước còn lãng phí, sẽ không chống được tham nhũng, lãng phí, kinh tế tiếp tục chậm phát triển.

Về các thành phần kinh tế, chúng nhấn mạnh rằng, cho dù đến nay, chế độ cộng sản đã có những đổi mới về kinh tế, các thành phần kinh tế, nhưng không căn bản, không thực chất, do vẫn giữ kinh tế nhà nước có vị trí chủ đạo. Lập luận của chúng là các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, nhưng trên thực tế, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vẫn bị phân biệt đối xử, không công bằng trong môi trường kinh doanh, trong tiếp cận nguồn lực. Cơ chế phân chia lợi ích chưa rõ ràng ngay trong doanh nghiệp nhà nước, trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng góp đối với xã hội của các thành phần kinh tế. Tuy coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất, nhưng kinh tế tư nhân vẫn bị phân biệt đối xử, chưa minh bạch trong chính sách, vẫn còn tình trạng “vỗ béo để thịt”, bị sách nhiễu, kiểm tra, vòi vĩnh vô lý.

Về chính trị và đổi mới chính trị, đây là vấn đề các thế lực thù địch thường xuyên chống phá, “một mất, một còn”. Ở Việt Nam, sự chống phá của các thế lực thù địch bên trong, bên ngoài vẫn tập trung vào phê phán chế độ một đảng, coi đó là “đảng trị”, mất dân chủ, đòi phải đa nguyên, đa đảng. Hệ thống tổ chức, bộ máy cồng kềnh, chính phủ, quốc hội, các tổ chức chính trị- xã hội chỉ là hình thức, theo đuôi đảng. Đảng đứng trên luật pháp, quyền lực xã hội tập trung vào một số ít người. Rằng chỉ có tam quyền phân lập mới giám sát được quyền lực, hoạt động của Nhà nước mới hiệu quả, mới chống được tham nhũng. Nói là xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng, nhiều vụ việc thực hiện theo sự chỉ đạo của đảng, “ đảng cử dân bầu”, “quân xanh quân đỏ”, “án bỏ túi”, đã có sự chỉ đạo từ trước.

Cho rằng, chủ nghĩa xã hội là mất dân chủ, tình trạng khiếu kiện, điểm nóng xảy ra thường xuyên; các tôn giáo, người dân tộc bị đàn áp; các tổ chức chính trị do đảng thành lập ra, hoạt động kém hiệu quả, là “sân sau” của quan chức, không có vai trò đại diện cho quần chúng, làm cho bộ máy cồng kềnh, tốn tiền thuế của người dân. Chúng bóp méo sự thật khi cho rằng có tình trạng bưng bít thông tin tràn lan, báo chí bị kiểm duyệt, không có báo tư nhân; những người bất đồng chính kiến thì bị bắt, bị tra tấn, đánh đập; vẫn còn phân biệt đối xử theo lý lịch, miền Bắc, miền Nam, trong và ngoài nước. Tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị đều do đảng chi phối, do vậy mất đi sự sáng tạo.

Bên cạnh đó, việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình phát triển đất nước cũng đặt ra nhiều vấn đề các thế lực thù địch, cơ hội chống phá. Quá trình nhận thức về sự phù hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam không phải đã có tiền lệ, nhiều vấn đề mới phải qua thực tiễn kiểm nghiệm; không ít những hạn chế, yếu kém do nhận thức và thực hiện của bộ máy hành chính trong quá trình chuyển đổi, dẫn đến sự trì trệ ở một số lĩnh vực, thiếu sáng tạo, khách quan, đôi khi có biểu hiện chính trị hoá một số vấn đề kinh tế cụ thể. Bởi vậy, các thế lực cơ hội, thù địch cho rằng, đó là sự nửa vời, đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị tương ứng, kinh tế nhiều thành phần nhưng chính trị lại độc đảng, đó là sự pha trộn giữa “nước với lửa”, chắc chắn sẽ kém hiệu quả. Rằng, phải từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, sử dụng các lý thuyết, trường phái kinh tế học mới tránh được sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào vận hành của nền kinh tế thị trường, tránh được sự can thiệp của chính trị vào kinh tế. Rằng, không có khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ là giống nhau, chỉ khác là cách thực hiện, vận dụng; dân chủ là phi chính trị, phi giai cấp, không đảng phái, là tự do tranh cử..

Chúng lập luận rằng, việc chấp nhận kinh tế thị trường đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn khiên cưỡng, nửa vời. Đã chấp nhận kinh tế thị trường, tuân thủ theo quy luật thị trường lại còn “ định hướng xã hội chủ nghĩa”, trên thực tế chưa rõ về mô hình, hoặc chỉ danh nghĩa, thực chất đã chuyển sang theo mô hình chủ nghĩa tư bản. Một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhìn chung đó là sự mâu thuẫn.

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN - MỘT DANH XƯNG BẤT HỦ

Quân đội ta, tính từ ngày thành lập, 22-12-1944, đến tháng 9-1954 đã 5 lần mang những tên gọi khác nhau. Nhưng từ tháng 9-1954 đến nay, qua 65 năm, danh xưng "Quân đội nhân dân" vẫn được giữ nguyên, không thay đổi.

Nhằm giải thích danh xưng này, một số người cho rằng “nhân dân” là một thuộc tính vĩnh hằng, bởi lẽ, Quân đội ta là quân đội của dân, do dân và vì dân, như “cá nằm trong nước”, nên Quân đội ta mang tên “Quân đội nhân dân” là duy nhất đúng, có gì mà phải bàn cãi. Cách giải thích như vậy tuy không sai nhưng chưa thật đầy đủ.

Về lý luận, phải hiểu “Quân đội nhân dân” là một danh xưng, thể hiện rõ bản chất của Quân đội ta. Đó chính là sự biểu hiện một cách cơ bản mối quan hệ biện chứng giữa tính dân tộc và tính giai cấp của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Để tìm hiểu vấn đề, chúng ta hãy quay trở về với lịch sử dân tộc. Ai cũng biết, sau khi thấy rõ sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, chứng tỏ rằng những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử. Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lặn lội sang phương Tây tìm đường cứu nước.

Sau khi tiếp cận lý luận của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. Như vậy, là vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với học thuyết cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn con đường cách mạng vô sản và quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.

Sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản, cũng như mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ cơ bản, có tác động mạnh mẽ đối với công cuộc giải phóng dân tộc và phát triển của toàn xã hội ở nước ta. Mối quan hệ, gắn bó không phải chỉ là để chứng minh cho sự đúng đắn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, nhạy bén, kịp thời, đáp ứng đúng những đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của sự nghiệp cách mạng nước ta trong suốt hơn bảy thập kỷ qua.

Chính những thực tế lịch sử sinh động của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa tới sự hình thành danh xưng “Quân đội nhân dân”. Chính cương và đường lối cách mạng của Đảng xác định “phải tổ chức ra đội quân công nông” nhưng trong những năm đầu tiên của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bên cạnh tầng lớp thanh niên công nông gia nhập quân đội còn có rất nhiều thanh niên yêu nước khác. Trong quân đội, bên cạnh yếu tố giai cấp là yếu tố dân tộc. Từ “nhân dân” trong danh xưng “Quân đội nhân dân” nhằm chỉ toàn dân, với ý nghĩa là thu hút hết thảy mọi lớp người, đoàn kết thành một khối thống nhất dân tộc xung quanh giai cấp công nhân, cùng tiến hành chiến tranh nhân dân, một loại hình chiến tranh toàn dân chống xâm lược truyền thống lâu đời của người Việt để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tóm lại, trong nội dung khái niệm “nhân dân” đã có tính giai cấp vì công nhân và nông dân là thành phần lao động cơ bản, chiếm đại đa số trong nhân dân và “nhân dân” cũng chính là bao gồm tất cả mọi người trong dân tộc.

Trong danh xưng "Quân đội nhân dân", “nhân dân” đã trở thành một tính chất khác lạ, độc đáo và trở thành một thuộc tính vĩnh hằng của Quân đội ta. Chính nhờ thuộc tính đó mà Quân đội ta tồn tại và trưởng thành, danh xưng "Quân đội nhân dân" lấp lánh, lung linh, tỏa sáng. Cũng từ đó mà mọi người dễ dàng nhận thức ra nó và phân biệt nó với các kiểu loại quân đội khác, kể cả các kiểu loại quân đội trên đất nước ta, do giai cấp phong kiến và giai cấp nông dân đã tổ chức ra.

Đối với chúng ta ngày nay, “nhân dân” là một khái niệm rất gần gũi, quen thuộc nhưng cũng mang một ý nghĩa thiêng liêng, cao quý và vĩ đại.

Ở Việt Nam, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản mà Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đã vạch ra. Mở đầu cho đường lối cách mạng đó là cuộc Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á và tiếp sau đó là tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và bước sang cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ khi ra đời, sống trong sức mạnh vĩ đại của nhân dân, quân đội đã trở thành một đội quân bách chiến bách thắng. Sở dĩ trở thành vô địch vì Quân đội nhân dân đã đi cùng nhân dân, biết dựa vào sức mạnh vô cùng của nhân dân, như đã nói, nhưng về phía khác chính là Quân đội nhân dân đã biết quên mình chiến đấu để bảo vệ “quyền làm người” (chữ NGƯỜI (NHÂN) viết hoa) mà Cách mạng Tháng Tám đã đem lại cho nhân dân.

st

MUỐN HÒA BÌNH PHẢI CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH

 Muốn hoà bình mãi mãi thì phải chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất cho chiến tranh! Mới nghe qua tưởng như phi lý nhưng thức tế đó lại là triết lý của thời đại. Lịch sử dân tộc đã chứng minh rõ nét điều đó. Khi nào đất nước ta hùng mạnh, trên dưới đồng lòng thì không kẻ thù nào dám dòm ngó và ngược lại. Lê Hoàn đánh Tống trên cơ sở "thực túc binh cường". Lý Thường Kiệt bắc đánh Tống, nam bình Chiêm Thành; Hưng Đạo Vương lột vó ngựa của quân Nguyên Mông, Lê Lợi diệt Minh khấu, Quang Trung bắc phạt đuổi quân Thanh, nam chinh trừ Xiêm La. Thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta đánh Pháp, đuổi Mỹ, Nhật, Tưởng, chinh phạt Pôn Pốt, đánh bại tập đoàn bành trướng Bắc Kinh. Tất cả những anh hùng kể trên, gắn với từng thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng có điểm chung là: TẬP HỢP ĐƯỢC NHÂN DÂN, TẠO RA SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT ĐỂ DIỆT GIẶC. 


Muốn giữ vững độc lập, chủ quyền thì cái cốt yếu là dựa vào sức mình chứ không phải là cậy sức người. Cụ Hồ dạy "lấy sức ta mà giải phóng ta" là thế! Tàu, Mỹ hay nước nào cũng chỉ vì lợi ích của họ. Chẳng ai giúp ta bảo vệ ta mà họ không được cái gì cả. Chẳng ai khờ khạo đến mức tin đám dân chủ cuội về cái gọi là bài trừ Trung Quốc, làm đồng minh Mỹ để được bảo vệ. Gương Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản đã rõ. Nhật, Hàn hàng năm phải nuôi báo cô quân đội Mỹ, Phillipines theo Mỹ kiện tàu và mất bãi cạn Scarborough. Ngụy Sài Gòn theo Mỹ mất Hoàng Sa và nhiều đảo thuộc Trường Sa vào tay Trung Quốc, Đài Loan, Phillipines, Malaysia, Campuchia. Mỹ chưa bao giờ từ bỏ mưu đồ xoá bỏ chế độ ta. Ta cũng chẳng lệ thuộc tàu vì suy cho cùng họ chỉ muốn những nước láng giềng như Triều Tiên ở bắc, chúng ta ở phía nam làm phên dậu cho họ, tạo vùng đệm an toàn chứ không muốn ta mạnh lên. Trung Quốc không muốn ta và Triều Tiên thống nhất là thế. Họ dùng chính sách "viễn giao cận công" để xâm chiếm, bành trướng đối với các nước lân cận, trong đó có biển, đảo của ta. 


Một quốc gia hùng mạnh thật sự khi và chỉ khi quốc gia đó đứng trên đôi chân của mình. Việt Nam không bài trừ ai, cũng chẳng lệ thuộc ai. Thời đại này không thể "bế quan tỏa cảng" nên ta vẫn là bạn với tất cả các nước nhưng cũng chẳng bao giờ cho phép bất kỳ nước nào xem thường, xâm phạm chủ quyền, lợi ích của quốc gia. Chúng ta tự lực, tự cường, tranh thủ sức mạnh của thời đại để phát triển đất nước. Chuẩn bị mọi phương án để sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Chỉ người Việt Nam mới có thể bảo vệ đất nước Việt Nam! Bài tàu theo Mỹ hay bài Mỹ theo tàu đều là lí luận của kẻ bất trí, vì như thế chẳng khác nào "đuổi hùm cửa trước, rước beo cửa sau".  Hãy tỉnh mộng đi hỡi các nhà "dân chủ"./.

Nhận diện và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực từ mạng xã hội

 

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người có thêm một phương thức để thu nhận thông tin mạng xã hội như facebook, twitter, instagram, zalo… giúp cho những thành viên trong cộng đồng dễ dàng nắm bắt các thông tin mới từ bạn bè hay xã hội. Tuy nhiên, đi kèm với những lợi ích là những tác động thay đổi đến thói quen, hành vi xã hội rất sâu sắc. Theo nghiên cứu mới nhất của các nhà tâm lý học cho rằng: khi nghiện mạng xã hội, người dùng dễ mắc các nguy giảm các hoạt động sống. Tốn quá nhiều thời gian trên mạng. Nguy cơ tiếp xúc với các thông tin không chính xác, không lành mạnh. Đối mặt với lừa đảo, bảo mật. Mong muốn gây chú ý, tăng ý thức vị kỷ. Xao lãng mục tiêu phấn đấu cá nhân. Giết chết sự sáng tạo của bản thân. Tình yêu, các mối quan hệ dễ đổ vỡ. Thường xuyên so sánh bản thân với người khác…. Những mặt trái này đang trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến xã hội nói chung trong đó có hoạt động quân sự nói riêng.

Trong thời gian gần đây có hiện tượng quân nhân đăng tải các thông tin, hình ảnh có nội dung mật, hoặc liên quan đến nội bộ cơ quan, đơn vị, hoặc “nhạy cảm” trong quan hệ gia đình, xã hội, hoặc tán đồng, ủng hộ các quan điểm, luận điệu tiêu cực, sai trái lên trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội. Tất cả điều này đều gây ra những tác động tiêu cực tới đạo đức, lối sống của quân nhân ẩn chứa những hệ lụy khó lường.

Internet trở thành một trong những nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, mang lại những tiện ích nhiều mặt cho con người trên toàn cầu, thúc đẩy sự phát triển xã hội trên nhiều lĩnh vực, đó là điều chúng ta không thể phủ nhận. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng thành tựu đó để mang lại những tác hại không hề nhỏ. Nếu những người sử dụng Internet không vững vàng trong nhận thức, thiếu nhãn quan chính trị đúng đắn, thiếu thông tin chính thống, khi tiếp xúc với những quan điểm sai trái, thù địch sẽ có những suy nghĩ lệch lạc, dẫn đến mơ hồ, mất niềm tin.

Phát triển của internet là một thành tựu, tạo sự phát triển nhanh trên tất cả các lĩnh vực, khi tham gia vào mạng xã hội cần phải nhận thức đúng đắn, biết sàng lọc thông tin và phải có bản lĩnh trước những thông tin sai trái, thù địch và cần phản bác một cách nhanh chóng góp phần làm sạch thông tin trên mạng đưa về đúng nghĩa với thông tin chính thống.

Nhận diện và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực từ mạng xã hội, làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”  trên mạng internet trong giai đoạn hiện nay là việc làm cần thiết đối với mỗi cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ trong Quân đội./.

Cần tỉnh táo Không để hình ảnh quân đội bị lợi dụng, xuyên tạc

             Cán bộ, chiến sĩ quân đội và các cựu chiến binh, cựu quân nhân là những ngời tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; luôn giữ gìn và phát huy truyền thống cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ.

Song vấn đề các lợi dụng hình ảnh sĩ quan cao cấp và các danh hiệu, nhiều tổ chức núp bóng viện nghiên cứu, tổ chức xã hội dân sự, dưới vỏ bọc yêu nước, bảo vệ chủ quyền biển, đảo đã lôi kéo những cựu quan chức tham gia hoạt động cùng với nhiều thành phần bất mãn, cơ hội chính trị. Đối tượng Lê Văn Thương từng là thượng úy nhưng do vi phạm kỷ luật, bị cho ra quân. Khi về địa phương, Thương mở cửa hàng gỗ mỹ nghệ, lẽ ra Thương có thể trở thành người dân làm ăn lương thiện nhưng Thương thường xuyên lên mạng giao du với các đối tượng phản động như Đào Minh Quân, Lisa Phạm… Chúng đã kích động khiến Thương ngộ nhận mình là “quân oan” nên dần dần Thương đã đi theo con đường chống phá đất nước và trốn ra nước ngoài. Thương đã bị cơ quan công an khởi tố, truy nã về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 2015

Trường hợp một cán bộ cao cấp quân đội nghỉ hưu có lời nói, việc làm sai trái gây bức xúc trong dư luận, đáng buồn là người này cũng đã có nhiều việc làm tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội. Một vài người như trên chỉ là cá biệt, "con sâu làm rầu nồi canh", chúng ta cần tỉnh táo Không để hình ảnh quân đội bị lợi dụng, xuyên tạc

 

Dù khó khăn đến mấy, Đảng ta, nhân dân ta luôn đoàn kết một lòng

Hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương, các tổ chức chính trị, xã hội… đã sát cánh cùng nhau chống "giặc dịch".

Trong đại dịch, không chỉ xuất hiện nhiều nhà từ thiện cùng góp công, góp sức, góp tiền của cho cuộc chiến chống dịch mà từ trong nhân dân cũng xuất hiện nhiều tấm gương, tấm lòng hướng về các y sĩ, bác sĩ nơi tuyến đầu chống dịch thật sự xúc động. Người có tiền giúp tiền, người có gạo giúp gạo, có người chỉ mớ rau, củ, quả cũng đem đến giúp đỡ người ở tuyến đầu… Những tấm lòng thơm thảo của đồng bào, đồng chí như tiếp thêm năng lượng cho các y sĩ, bác sĩ đang không quản ngại hy sinh.

Các đối tượng chính sách, người nghèo, người không nơi nương tựa, người bán vé số; người có kinh tế khó khăn… đều có quyền thụ hưởng. Giữa cơn đại dịch Covid-19, ở Việt Nam, tất cả mọi người đều được bình đẳng chữa trị, trong nước cũng như nước ngoài về. 

Có thể thấy rằng, dù khó khăn đến mấy, khi cả dân tộc đồng lòng, chung tay, chúng sức; Đảng và chính phủ, nhân dân cùng chí hướng thì mọi khó khăn đều vượt qua.

 

  

 

THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ ĐỂ TRƯỞNG THÀNH HƠN

 

Gần đây, lợi dụng các địa phương đang tổ chức sơ tuyển nghĩa vụ quân sự (NVQS) năm 2021, một số trang mạng xã hội xuất hiện những video clip chỉ dẫn, bày vẽ cách thức nhằm trốn tránh nhập ngũ. Nào là khai man lý lịch, sửa giấy khai sinh, làm giả giấy khám sức khỏe, giấy báo học tập tại các trường học, nào là đeo các loại kính cận thị, viễn thị, loạn thị cao độ, tự tạo ra cho mình các vết thương, xăm trổ trên các vị trí khác nhau của cơ thể, uống nước tăng lực rồi thức khuya để làm tăng huyết áp… Đối tượng đưa ra những lời chỉ dẫn trái pháp luật này thuộc nhiều thành phần khác nhau, nhưng chủ yếu là thanh niên đang độ tuổi nhập ngũ. Những người này đang đi ngược lại phẩm chất, ý chí kiên cường, dũng cảm vốn có của dân tộc ta và làm phai mờ vai trò xung kích của thanh niên.

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù là thời chiến hay thời bình, bảo vệ Tổ quốc luôn là nhiệm vụ tiên quyết, hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới vận mệnh của dân tộc. Thanh niên là lực lượng chính tham gia nhiệm vụ này chứ không phải ai khác. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, hàng triệu thanh niên ưu tú đã tự nguyện lên đường, không ngại gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Tuổi trẻ đang sống trong nền độc lập hôm nay là nhờ có sự hy sinh của lớp lớp cha anh đi trước. Mới đây, nhiều tấm gương cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn đã tô thắm thêm hình ảnh, phẩm chất cao đẹp của bộ đội Cụ Hồ, để đất nước ngày mai tươi sáng hơn.

Môi trường quân đội là nơi rèn luyện con người nghiêm túc nhất. Nhiều thanh niên, gia đình mong muốn bản thân và con em mình được vào quân đội để rèn luyện, thử thách và trưởng thành. Những quân nhân xuất ngũ trở về quê hương trưởng thành rất nhiều về nhận thức. Họ có phong cách chững chạc, nghiêm chỉnh, kỷ luật, giao tiếp ứng xử có văn hóa, sức khỏe tốt và được rèn luyện, tích lũy thêm rất nhiều thứ mà có thể trong cuộc sống bình thường không có được. Thực tế, các đơn vị, xí nghiệp cũng rất thích tuyển dụng những người đã từng là quân nhân.

Mỗi thanh niên hăng hái lên đường thực hiện NVQS không chỉ là mốc đánh dấu sự trưởng thành của bản thân, là vinh dự, trách nhiệm, nghĩa vụ góp phần tham gia bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân, mà cũng chính là bảo vệ gia đình, người thân và bảo vệ chính bản thân mình. Các cấp, các ngành cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục truyền thống, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ về niềm tự hào dân tộc, khơi dậy tinh thần, ý thức trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc; các chế độ, chính sách mà quân nhân, gia đình quân nhân được hưởng trong thời gian tại ngũ, khi xuất ngũ. Xử lý nghiêm những trường hợp trốn tránh NVQS để nâng cao hiệu quả giáo dục và răn đe. Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ có thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ; vai trò xung kích, tình nguyện, trách nhiệm của tuổi trẻ với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Mọi hành vi chỉ dẫn, bày vẽ cách thức nhằm trốn tránh NVQS là trái pháp luật, trái với đạo đức công dân sẽ không thể qua mặt các cơ quan chức năng và tai mắt của nhân dân. Hành vi này cần bị lên án mạnh mẽ và phải nghiêm trị.

C.T.M 

Giải pháp góp phần ngăn chặn tin giả trên mạng xã hội

 Nạn tin giả không phải là mới, song những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông, nhất là internet và mạng xã hội thì tin giả xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành vấn nạn với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.