TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – Ý CHÍ VÀ KHÁT VỌNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Thứ Năm, 26 tháng 11, 2020
ĐỪNG NGHE HỌ NÓI, HÃY XEM HỌ LÀM
Mỗi người Việt Nam yêu nước luôn có bóng hình Tổ quốc trong tim; đều có chung một khát vọng về một đất nước Việt Nam phát triển ngày càng phồn vinh và hạnh phúc. Ai cũng vậy, chứ không riêng gì những người lúc nào cũng nhân danh yêu nước, thương đồng bào, mượn cớ đòi dân chủ để "cào bàn phím" nói xấu chế độ, nói xấu Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đôi lời như vậy để những người chỉ biết yêu cầu,
đòi hỏi mà không nhìn căn cốt vào bản chất của vấn đề, của thực trạng đất nước
đã hồi sinh và ngày một phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong hơn 90 năm qua hiểu rằng: Hiểu đúng, nói đúng đã khó, song hành động đúng
và hành động thực sự còn khó hơn nhiều, vì, kêu dễ, nói dễ và làm rất khó!
Thật ra, đọc
bài viết "Lũ lụt cuốn trôi dân chết đói, nghĩ về đảng trị vì"
của Nguyễn Dân đăng trên Damlambao ngày 29/10/2020, bỗng cảm thấy Nguyễn Dân thật
đáng thương. Nguyễn Dân đáng thương ở chỗ không chỉ y đi theo con đường của các
thế lực thù địch; không chỉ làm nhiệm vụ bồi bút cho các thế lực cơ hội, phản động
và thù địch đó mà Nguyễn Dân còn cam tâm xuyên tạc sự thật, bôi nhọ Đảng Cộng sản
Việt Nam, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, nhất là trong những ngày khúc ruột miền Trung đang dồn dập đối diện với
thiên tai, bão lũ.
Một là, hằng năm những trận bão biển và gió
mùa Đông Bắc thường gây nên những trận mưa lớn ở miền Trung. Đặc biệt, những biến
đổi thời tiết trên toàn thế giới những năm gần đây như dòng nước El Nino và La
Nina cũng khiến những trận bão biển, mưa lớn xảy ra khốc liệt hơn. Trong khi
đó, bờ biển miền Trung nước ta dài 1200 km, gồm các tỉnh từ Thanh Hoá đến Bình
Thuận, vốn có hệ thống sông ngòi chằng chịt: Sông Gianh ở Quảng Bình; sông Thạch
Hãn ở Quảng Trị; sông Hương ở Thừa Thiên - Huế; sông Thu Bồn ở Quảng Nam; sông
Trà Khúc ở Quảng Ngãi và có dãy Trường Sơn chạy suốt theo bờ biển nên đồng bằng
ở miền Trung rất hẹp...
Khu vực này, chiều dài các con sông, con suối
đa số đều ngắn, có độ dốc lớn; lưu vực các sông thường là khu vực đồi núi cho
nên lượng nước mưa đổ xuống rất nhanh, lại không có hệ thống đê để ngăn lũ, nên
dễ gây ngập lụt. Hơn nữa, các cửa sông hay bị bồi lấp cũng là nguyên nhân gây cản
trở lớn việc thoát lũ ở vùng đồng bằng… Vì thế, khi thiên tai dồn dập ập đến, cấp
ủy, chính quyền, cả hệ thống chính trị và nhân dân các tỉnh miền Trung cùng phải
oằn mình chống chọi với thiên tai.
Bao năm qua đã thế, nhưng năm nay, trong những
ngày của tháng 10 và đầu tháng 11 này, nhiều cơn bão và mưa lũ đã và đang đổ ập
về các tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên… Miền Trung tang thương vì bão, lũ lụt, song miền
Trung cũng đã, đang và sẽ luôn nhận được sự quan tâm, sẻ chia Đảng, Chính phủ,
Quốc hội, của đồng bào và chiến sĩ cả nước. Hơn bao giờ hết, tình yêu thương, cố
kết, đoàn kết cộng đồng vốn được hình thành và bồi tụ suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước của bao thế hệ con cháu Lạc Hồng tiếp tục được phát huy, được
nhân lên để chia sẻ cùng đồng bào miền Trung.
Khúc ruột miền Trung lại thêm một lần phải gồng
mình chống chọi với bão, lũ. Tiếng gọi vì miền Trung ruột thịt đã vang khắp mọi
miền của Tổ quốc… Những chủ trương kịp thời của Đảng; chỉ đạo quyết liệt của
Chính phủ; các đợt quyên góp đầy tinh thần và trách nhiệm tại các cơ quan trong
Đảng, Chính phủ, Quốc hội và cả hệ thống chính trị; những chuyến hàng cứu trợ
bao gồm cả tiền, nhu yếu phẩm, thuốc men của các cơ quan, tổ chức và cả nhân -
những tấm lòng yêu thương gửi theo từng chuyến xe hướng về người dân vùng lũ; sự
lăn xả, không quản ngại hy sinh vất vả của những người lính "bộ đội cụ Hồ"…
Là ai và tổ chức nào, dù dưới danh nghĩa nào thì mỗi suy nghĩ, mỗi việc làm, mỗi
hành động thực chất, hữu hiệu đó cũng đều thể hiện tình thương yêu và trách nhiệm
với khúc ruột miền Trung của Tổ quốc; cũng làm rạng rỡ hơn bản chất
"thương người như thể thương thân" của dân tộc Việt.
Hai là, trong khi Đảng, nhà nước và các tầng lớp
nhân dân trong nước đang hằng ngày, hằng giờ dõi theo tin tức về bão, lũ, lụt ở
miền Trung; nén chặt trước mỗi đau thương, mất mát của người dân miền Trung; nỗ
lực sẻ chia cùng miền Trung bằng những quyết sách, việc làm thiết thực thì Nguyễn
Dân lại cố tình xuyên tạc sự thật: "Nhà cầm quyền họ đã làm gì? Trung ương
đầu não thì các ông chú tâm lo cho kỳ đại hội đảng, và đang giành nhau chức vị.
Ông chủ tịch tản lờ, và thủ tướng thì “xính vính” chiếu lệ trong sự bất lực, bất
tài. Địa phuơng thì đang chờ… chỉ thị"...
Vô sỉ hơn, Nguyễn Dân còn dám quy kết vô căn cứ
khi viết: "Con vật chăm lo chải chuốt bộ lông, một đảng chỉ biết có quyền
lợi đảng. Dân đói, dân chết, cửa nhà tan tác tả tơi giữa cơn sóng dữ thì cứ mặc
dân. Hầu như không thấy một phương cách cấp cứu khẩn cấp".
Nguyễn Dân cố tình hay bị hack não mà không biết
rằng các thông tin lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ về cứu hộ, cứu nạn cho
miền Trung được phát hằng ngày, hằng giờ trên các cơ quan truyền thông; được sẻ
chia kịp thời, nhanh rộng trên mạng xã hội; được thực thi dưới nhiều biện pháp,
hình thức… miễn là đến được với miền Trung, vì miền Trung ruột thịt.
Các địa phương như Thừa thiên - Huế, Quảng
Bình… tạm hoãn Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 để tập trung khắc phục
thiệt hại do bão, lũ gây ra. Các chuyến từ thiện của cá nhân, nhóm người hay tổ
chức… đều có sự trợ giúp của chính quyền địa phương các tỉnh miền Trung để mỗi
chuyến đi của những tổ chức và cá nhân đó được an toàn và hiệu quả. Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc đã tiếp nhận số tiền quyên góp từ các địa phương để
phân bổ, cân đối cho các địa phương bị thiệt hại, đảm bảo đúng yêu cầu… Rồi, vì
nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn đã có 13 cán bộ, chiến sĩ hy sinh khi thực hiện công
tác tìm kiếm cứu nạn tại công trình thủy điện Rào Trăng 3, trong đó có thiếu tướng
Nguyễn Văn Man, Phó tư lệnh Quân khu 4, đại biểu Quốc hội khóa XIV… tất cả, há
không phải là vì miền Trung hay sao hả Nguyễn Dân?
Vây thì, trong khi Đảng, Chính phủ, Quốc hội
và mỗi người dân Việt Nam yêu nước, thương nòi, đang thể hiện tấm lòng mình với
miền Trung thì Nguyễn Dân đang làm gì? Y chỉ nói thương kiểu "chóp lưỡi đầu
môi" với miền Trung, rồi viết, rồi lu loa nói xấu Đảng, nói xấu chế độ. Y
chả làm gì ngoài mấy lời sáo rỗng, nhạt hơn nước ốc…
Đây là sự thật và sự thật này nói lên rằng:
Nguyễn Dân mới chỉ nói mà chưa bao giờ làm, hơn nữa y lại còn không nói đúng. Y
bôi nhọ Đảng nào là "bao nhiêu là lệnh truyền độc đoán, tư duy kém cõi, đầu
óc tham tàn để ra sức bao biện, bao che, trấn áp trong vai trò nhẫn tâm đốn mạt
của bao kẻ thế quyền... chứng minh cho sự lừa bịp, gian manh là rõ nhất";
là "cán bộ quyền uy mọi cấp không ngừng hút máu người chủ nhân dân để vinh
sang sung sưóng, ngôi cao chễm chệ với tột đỉnh vinh sang, nhà cao cửa rộng, vật
chất đủ đầy, thì “chủ” là đại đa số người dân trở nên khổ nghèo cơ cực"…
trong khi y đang hưởng thụ những đồng tiền từ những bài viết sai sự thật này của
các thế lực thù địch chống Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ.
Y mới là kẻ "khốn nạn" và đáng bị mọi
người dân, nhất là những người dân miền Trung đau thương mà anh dũng lên án, phỉ
nhổ.
Ba là, Nguyễn Dân lại càng tồi tệ hơn khi nói
xấu Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và những cán bộ, đảng viên của
Đảng khi "vơ đũa cả nắm" nói rằng: "Có bao giờ (chúng nó) bỏ ra
“một đồng” để cứu giúp người dân? Lại rộng họng, to mồm cầu xin cứu giúp, để rồi
cùng nhau chia chát lợi lộc của tiền. Chực chờ để rút rĩa tận hưởng";
"Ông đốt lò, diệt trừ tham nhũng, đem về bao nhiêu nghìn tỷ (của cướp đoạt
từ dân). Cất đâu? Và để làm gì?"…
Đất nước Việt Nam hôm nay đúng là vốn được tạo
dựng suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước; được giữ gìn,
củng cố và ngày càng phát triển bởi sự hy sinh, phấn đấu của bao thế hệ người
Việt Nam yêu nước, trong đó có rất nhiều, rất nhiều cán bộ, đảng viên trung
kiên, mẫu mực. Song đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam chỉ thật sự hồi sinh và
phát triển từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, với một đường lối chính
trị đúng đắn, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cơ đồ một nước Việt Nam
ngày càng được khẳng định trong cộng đồng quốc tế chỉ có được khi nhân dân Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng kiên cường vượt mọi khó khăn, thử thách, kiên
tâm, kiên trung trên con đường đã chọn, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Không có một "Đảng cướp" như Nguyễn
Dân vô sỉ viết, song chắc chắn có một Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân
Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành
công, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành
thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trả lời câu hỏi "lên nắm trọn quyền từ
trên 45 năm, đảng CSVN đã làm được gì?" của Nguyễn Dân thế này: Sau 45 năm
năm cả nước cùng kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước Việt Nam ngày càng
đổi mới, nhân dân Việt Nam ngày càng được thụ hưởng những giá trị cao quý của độc
lập, tự do, hạnh phúc và đang cùng chung sức, đồng lòng xây dựng một nước Việt
Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam không bao giờ "chỉ
biết lo cho lợi quyền riêng đảng" mà là vì nước, vì dân phụng sự; luôn là
Đảng cầm quyền, độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam; luôn được nhân dân tin
tưởng và ủng hộ, nên dù Nguyễn Dân có nức nở kêu gọi "đã đến lúc dân tộc
này phải vùng lên đánh đổ" thì cũng chẳng ai tin y, chẳng ai vì cái miệng
lưỡi của y mà phản bội lại Tổ quốc mình, nhân dân mình và Đảng Cộng sản Việt
Nam như y từng làm!.
CẢNH GIÁC VIỆC LỢI DỤNG CÁC HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC, THAM NHŨNG, MÂU THUẪN TRONG XÃ HỘI ĐỂ KÍCH ĐỘNG
NHÂN DÂN
Thời gian gần đây chủ nghĩa đế quốc lợi dụng các
hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, mâu thuẫn xã hội để kích động nhân dân khiếu
kiện tập thể, gây rối, phá vỡ nền tảng chính trị - xã hội để tạo cớ can thiệp.
Chủ
nghĩa đế quốc triệt để lợi dụng các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, để vu
cáo, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, kích động làn sóng ngầm chống đối chế độ xã hội chủ
nghĩa và sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Mục đích trên của chúng nhằm vẽ lên một bức
tranh xám xịt về thực trạng xã hội Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ đó gây hoài nghi trong nhân dân vào các cấp lãnh
đạo, hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, làm mất niềm tin của nhân
dân vào Đảng và chế độ, tạo “hoài nghi” về quyết tâm chống tham nhũng của Đảng
và Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời, phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, chia rẽ
cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội. Đi đôi
với luận điệu xuyên tạc trên của các nhà hoạt động “dân chủ, nhân quyền” là những
lời hô hào, xúi giục nhân dân “đoàn kết”, “đứng lên đấu tranh đòi tự do, dân chủ”;
kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam phải thay đổi: “Cương lĩnh”, “thể chế chính trị”,
“mô hình lãnh đạo”, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”...
Cùng
với các hội, nhóm “xã hội dân sự”, nhà hoạt động “dân chủ, nhân quyền”, còn phải
kể đến một số tổ chức mang danh quốc tế. Họ luôn tự cho mình cái quyền đi “phán
xét” tình hình tham nhũng ở các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam và
thường kỳ đưa ra cái gọi là “Báo cáo tham nhũng toàn cầu”. Đáng chú ý, khi đề cập
đến thực trạng tham nhũng ở Việt Nam, các bản “báo cáo” này thường dựa trên những
quan điểm chủ quan, thiếu cơ sở, mang tính phiến diện, phản ánh sai lệch tình
hình; đưa ra những đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện “quyền tự do” cho người dân
để “nâng cao hiệu quả” chống tham nhũng và kêu gọi “cho phép các tổ chức xã hội
dân sự” tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng...
Chúng
còn lợi dụng những điều kiện bất hợp lý làm phát sinh mâu thuẫn xã hội trong thực
hiện các chính sách đất đai, nhà ở, thuế, gần đây là vấn đề lũ lụt ở miền
Trung... kích động nhân dân khiếu kiện, chống đối chính quyền, gây rối trật tự
xã hội kéo dài để tạo cớ trắng trợn can thiệp vào nước ta. Đồng thời, chúng
dùng nhiều thủ đoạn tìm cách tiếp cận, móc nối, mua chuộc, khống chế những cán
bộ có chức, có quyền nhưng thoái hóa biến chất, tham nhũng, làm ăn phi pháp bị
Nhà nước ta xử lý, để tạo dựng “ngọn cờ” chống đối chế độ, thiết lập chế độ mới
thân phương Tây phá hoại ta từ trong phá ra.
Nhận
diện rõ những thủ đoạn chính của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng các vấn
đề xã hội chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay là nhằm góp phần ngăn chặn sự
phá hoại của các thế lực thù địch, các phần tử xấu chống phá cách mạng Việt
Nam, bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống bình yên của đồng bào các dân tộc thiểu số
nói riêng, của nhân dân Việt Nam nói chung trong tiến trình đổi mới đất nước,
phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng
một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
N.V.T
AI
LÀ NGƯỜI VI PHẠM
TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Việt
Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Nhân dân Việt Nam có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhân dân Việt Nam từ
ngàn xưa đến nay luôn coi trọng truyền thống đạo đức, văn hóa của dân tộc, yêu
nước thương nòi, tuy có đức tin khác nhau, nhưng không vì thế mà sinh ra hằn
thù, chia rẽ. Tín đồ thuộc các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau luôn chung sống
hòa hợp, cùng toàn dân đoàn kết trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Trong thời kỳ đất nước bị thực dân đế quốc đô hộ, các tôn giáo bị phân biệt đối
xử, một số tôn giáo bị đàn áp. Trong chế độ cai trị của đế quốc thực dân, nhân
dân ta không hề có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Có chăng chỉ là “tự do”
cho một số ít người “ôm chân, nấp bóng” quân xâm lược. Nhưng ngay sau khi đất
nước được độc lập, và trong suốt tiến trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đời sống đồng bào tôn giáo, đến việc bảo
đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua các thời kỳ cách mạng, tôn trọng và bảo đảm
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là chủ
trương nhất quán của Đảng, được Nhà nước thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp
luật. Hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo đã đi vào cuộc
sống, được các giáo hội, tu sĩ, chức sắc và tín đồ tôn giáo hoan nghênh. Hiện
nay đã có hàng ngàn nơi thờ tự của các tôn giáo có hệ thống tổ chức đang sinh
hoạt thường xuyên bình thường, nhiều nơi được sửa chữa hoặc xây mới. Đó là
những biểu hiện rõ ràng nhất về quyền tự do sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở
nước ta; là thực tế không ai có thể phủ nhận được.
Nhưng gần đây, các thế lực thù địch Việt Nam và những kẻ phản bội lưu vong liên
tục tuyên truyền, vu khống, xuyên tạc tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam. Ở trong nước, một số người bất đồng chính kiến, một số kẻ cơ hội chính trị
cũng a dua theo luận điệu của bọn phản động, đã tung tin, viết bài phản ánh sai
sự thật về tình hình đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Đối chiếu những
luận điệu “cáo buộc” của họ với sự thật lịch sử Việt Nam, chúng ta dễ nhận thấy
đó là những lời vu khống trắng trợn! Họ cố tình quên những tội ác mà các thế
lực ngoại bang đã gây ra cho dân tộc, cho đất nước, cho đồng bào các tôn giáo ở
Việt Nam.
Ai đã biến nơi thờ tự thành đồn bốt, tháp canh, cưỡng ép giáo dân làm thành
“hàng rào thịt” bao quanh các căn cứ quân sự, đẩy thanh niên tôn giáo ra làm
bia đỡ đạn? Ai đã dội bom lên các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất... nhằm biến
miền Nam Việt Nam thành vùng oanh kích tự do và âm mưu đưa miền Bắc trở về thời
kỳ đồ đá.
Ai đã tác động tâm lý, tung tin thất thiệt, xô đẩy hàng chục vạn đồng bào công
giáo bỏ quê cha đất tổ, bỏ lại ruộng vườn để theo “Chúa vào Nam”, gây ra cảnh
gia đình ly tán, đàn chiên không có chủ chăn, các nơi thờ tự hương lạnh khói
tàn? Ai đã khôi phục lại ruộng vườn, phục hồi sản xuất, cải thiện và nâng cao
đời sống nhân dân, sửa chữa các nơi thờ tự, đảm bảo kinh nguyện bình thường,
giúp cho nền đạo lành ngày càng phát triển?
Ai đã lên tiếng khi máu đổ sân chùa và các nơi thờ tự khác bị làm ô uế ở miền
Nam trước đây, khi hàng loạt chức sắc, tín đồ các tôn giáo bị chế độ cũ bắt bớ
giam cầm vì họ là người yêu nước?
Những thế lực thù địch ở nước ngoài luôn tìm cách kích động số ít người xấu trong
các tôn giáo để gây rối, gây mất trật tự trị an, nhằm phá hoại sự ổn định xã
hội, nhưng khi pháp luật trừng trị thì chúng mượn cớ kêu la hò hét, vu cáo Nhà
nước ta đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền và tự do tín ngưỡng. Đó là sự xuyên
tạc thô bạo nhằm đổi trắng thay đen, che giấu âm mưu phản động mà sự thật đó là
những hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân Việt Nam. Cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần nêu cao
tinh thần cảnh giác cách mạng trước những âm mưu, thủ đoạn đó để cùng chung tay
bảo vệ đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ổn định, tiến bộ của đất nước ta hiện nay.
VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI
TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG CHIA RẼ DÂN TỘC
Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách của Cách mạng Việt Nam hiện nay. Mục đích cao nhất của đấu tranh chống chia rẽ dân tộc là để bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh của toàn dân thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn, lịch sử của dân tộc đã chỉ rõ; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc bao giờ cũng phải được kết hợp chặt chẽ đấu tranh không khoan nhượng loại trừ những tác nhân gây chia rẽ dân tộc.
Quân đội ta là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chiến đấu trung thành,
tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Với chức năng đội quân sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, lao động sản xuất và đội quân công tác, Quân đội
nhân dân Việt Nam giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong phối hợp, vận động và tổ chức nhân dân
tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ dân tộc, góp phần củng cố, tăng cường khối
đoàn kết toàn dân, đoàn kết quân dân, xây dựng thế trận quốc phòng, “thế trận
lòng dân”, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, giữ vững sự ổn
định chính trị và môi trường hòa bình, thực hiện
CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Để phát huy vai trò to lớn của Quân đội trong
đấu tranh chống chia rẽ dân tộc hiện nay phải nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đặc biệt coi trọng giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng trước mọi âm
mưu, thủ đoạn chia rẽ dân tộc của kẻ thù cho cán bộ, chiến sĩ; nâng cao chất lượng công tác dân vận, xây dựng khối đại
đoàn kết các dân tộc, chống âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch; phối
hợp chặt chẽ với các lực lượng trong hệ thống chính trị tham gia cùng đấu
tranh. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Tăng
cường xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh, toàn diện, từng bước tiến lên chính
quy, hiện đại để sẵn sang nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
“Độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa…” là đường lối đối
ngoại nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đường lối đó đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta và được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Nhờ thực hiện đường
lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế thời
gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, trước
những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới, nhất là vấn đề Biển
Đông, trên một số trang mạng xã hội facebook xuất hiện những quan điểm sai
trái, thù địch nhằm phê phán, bác bỏ đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng,
Nhà nước Việt Nam hiện nay. Họ cho rằng: Nếu Đảng, Nhà nước vẫn “khăng khăng”
giữ chính sách quốc phòng “ba không” (không tham gia các liên minh quân sự,
không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt
căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia) như thế
là “dân đi một đường, Đảng đi một nẻo”(!)...
Vậy, bản chất những quan điểm, luận điệu đó
thế nào? Đây có phải là sự nham hiểm, tinh vi, trắng trợn của các thế lực thù
địch, phản động trong thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thực hiện mưu
đồ chính trị đen tối, là biểu hiện của sự suy thoái về chính trị, tư tưởng,
thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ như Nghị quyết Trung ương
4 khóa XII của Đảng chỉ ra? Như vậy, thực chất đây là những tư tưởng, quan điểm
sai trái, xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà
nước Việt Nam. Đáng lưu ý có người hồ đồ nói rằng, Việt Nam đang có sự điều
chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược, thiết lập liên
minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình... Lại có kẻ
còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống
nước kia... Bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, tán
phát những thông tin sai lệch, bịa đặt, phủ nhận những thành tựu của công tác
đối ngoại, xuyên tạc quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và quan
hệ của Việt Nam với các nước đối tác; xuyên tạc đường lối, phương châm đối
ngoại, hòng gây nghi kỵ quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế
giới, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...
Những động thái nói trên không có gì mới và
không nhằm mục đích nào khác là tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt
Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam.
Dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng những năm qua,
đặc biệt trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn,
quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong
khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Những
thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao, góp phần tạo nên môi trường hòa
bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước...
Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế
lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công
tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Quan điểm, chủ trương, chính
sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng. Mục đích của Việt Nam là tạo được
lợi ích chung với các nước - đó là duy trì hòa bình, ổn định. Chủ trương và
cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã tạo được sự đồng thuận cao
trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định,
tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời
sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Như vậy có thể thấy, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Việt Nam là rất rõ ràng, phù hợp với xu thế chung của thế
giới. Những gì đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập trong Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng khẳng định: Việt Nam không bao giờ liên minh với một nước khác để
chống lại nước thứ ba. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống
nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can
thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm
phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
LỢI ÍCH QUỐC GIA VIỆT NAM
Trong xử lý các vấn đề mang tính chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy cần phải thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Như vậy, trước tiên phải đánh giá chính xác những yếu tố “bất biến” liên quan đến lợi ích quốc gia hiện nay là gì. Từ đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam, có thể nói trong thời điểm hiện nay nước ta có ít nhất ba lợi ích quốc gia cốt lõi như sau:
Thứ nhất, và quan trọng nhất, là đảm bảo được an ninh quốc gia. Ở đây an ninh quốc gia được hiểu là bảo vệ được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cùng sự bình an của các công dân Việt Nam. Trên thực tế, điều này cũng có nghĩa là chúng ta không bị quân đội nước khác tấn công xâm lược và chính quyền Việt Nam không bị thao túng bởi bất kì thế lực nào từ bên ngoài. Đây là lợi ích quốc gia cao nhất, nền tảng nhất vì nếu không đảm bảo được hai điều này thì đất nước và dân tộc Việt Nam không còn là chính mình và không còn khả năng tự quyết định vận mệnh của mình nữa.
Thực tế cho thấy, không có đạo quân xâm lược nào quan tâm, chăm lo cho cuộc của người dân nước họ chiếm đóng. Mọi cường quốc dù dưới bất kì hình thức hay màu cờ nào cũng đều chỉ muốn làm lợi cho riêng mình trên lưng nhân dân Việt Nam. Lịch sử ngàn năm Bắc thuộc cho thấy nếu chúng ta muốn một cuộc sống ấm no, hạnh phúc thì nhất định người Việt Nam phải làm chủ đất nước của mình và phải đảm bảo chiến tranh không xảy ra. Chỉ cần có chiến tranh nổ ra thì dù kết quả thế nào đi chăng nữa, người dân Việt Nam cũng sẽ luôn phải chịu vô cùng nhiều đau thương và mất mát. Một đất nước xảy ra chiến tranh triền miên sẽ không thể nào phát triển kinh tế và đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân được. Chính vì vậy mục tiêu số một luôn phải là đảm bảo an ninh quốc gia.
Thứ hai, là duy trì thể chế chính trị hiện nay và đảm bảo ổn định chính trị trong nước. Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam cho thấy, việc duy trì thể chế chính trị hiện nay có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định chính trị trong nước, bởi nếu có bất kì sự thay đổi đột ngột nào, bạo loạn gần như chắc chắn sẽ xảy ra. Tuy nội chiến không nhất thiết sẽ nổ ra nhưng nó sẽ là một nguy cơ chúng ta không thể loại trừ.
Lịch sử ngàn năm của Việt Nam cho thấy khi đất nước bị chia rẽ, các cường quốc ở bên ngoài sẽ luôn chớp lấy thời cơ thao túng nước ta để trục lợi. Nhìn vào lịch sử chúng ta thấy rõ, khi chính quyền trung ương suy yếu, các thế lực trong nước nổi dậy xưng hùng tranh bá, đồng thời các thế lực bên ngoài lập tức nhảy vào xâu xé, chia chác lợi ích là điều chắc chắn. Do đó, có thể nói rằng việc duy trì ổn định chính trị quốc nội và chính quyền vững mạnh là yếu tố mang tính then chốt để đảm bảo an ninh quốc gia.
Thứ ba, là đảm bảo môi trường hòa bình trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Khu vực càng ít biến động, các cường quốc càng hạn chế tranh giành quyền lực thì Việt Nam càng có thể tập trung nguồn lực phát triển kinh tế và đầu tư cho giáo dục, an sinh xã hội. Khi nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định chính trị sẽ đi theo.
Rất nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học chính trị đã cho thấy rằng sự thay đổi chế độ sẽ ít xảy ra hơn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển ổn định. Khi người dân cảm thấy nhu cầu vật chất và tinh thần của mình được đáp ứng, họ sẽ sẵn lòng ủng hộ chính quyền hơn. Vì vậy nhiều học giả từ lâu đã nhận định rằng, tính chính danh của nhà cầm quyền chủ yếu dựa vào hai trụ cột chính là chủ nghĩa dân tộc và phát triển kinh tế. Nếu những nhà lãnh đạo muốn giành được sự ủng hộ của nhân dân, họ sẽ phải chứng minh được rằng chính phủ hiện nay có thể bảo vệ an ninh – chủ quyền quốc gia, không để các thế lực ngoại bang xâm phạm lợi ích và đảm bảo rằng kinh tế phát triển vững mạnh, bởi đây là yếu tố tiên quyết để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Những điều này hoàn toàn đúng với trường hợp của Việt Nam.
Mặc dù vậy, cần nói thêm rằng bên cạnh ba lợi ích cốt lõi trên, Việt Nam cũng muốn theo đuổi các mục tiêu khác, ví dụ như xây dựng sức mạnh mềm cho Việt Nam, tham gia vào nỗ lực bảo vệ Hòa bình của Liên hợp quốc, chống biến đổi khí hậu toàn cầu, phối hợp với các nước trong và ngoài khu vực Đông Nam Á xây dựng các cơ chế hợp tác đa phương, nâng cao vị thế của đất nước trong mắt bạn bè quốc tế, v.v… Tuy nhiên rõ ràng ba lợi ích trên là ba lợi ích cốt yếu nhất với Việt Nam bởi chúng là nền tảng để Việt Nam có thể theo đuổi các mục tiêu khác của mình.
THÉP ĐÃ TÔI THẾ ĐẤY
"Tôi muốn nhắc lại, mô phỏng một câu nổi tiếng rất xúc động, sâu sắc của nhân vật Pa-ven Cooc-xa-ghin trong truyện "Thép đã tôi thế đấy" - một tác phẩm nổi tiếng, một cuốn sách “gối đầu giường” của thanh niên, thiếu niên hồi những năm 60 - 70 của nhà văn Liên Xô (cũ) - Nhicalai Axtơrốpxki: “Thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh, lúc đó thép trở nên không hề biết sợ”. Tôi được biết, các đồng chí ngồi đây hầu hết đều đã ít nhiều được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn và được học hành khá cơ bản. Tôi tin rằng các đồng chí có đủ trình độ, bản lĩnh, dũng khí để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, nói như Pa-ven: “Không hề biết sợ”. Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì, đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi phải hổ thẹn vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, mang tai, mang tiếng, mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt xuôi tay, có thể tự hào rằng: Ta đã sống có ích, đã mang tất cả đời ta, tất cả sức ta hiến dâng cho sự nghiệp cao quý nhất trên đời: Vì vinh quang của Tổ quốc, của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân, của con người; để con cháu chúng ta mai sau mãi mãi biết ơn, kính trọng, học tập và noi theo" - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.
Nhận thức đúng về việc Việt Nam tham gia sứ mệnh gìn giữ và kiến tạo hòa bình
Theo dõi vệt bài “Pháp luật về quốc phòng-hợp hiến, hợp lý và hợp lòng dân”, chúng tôi rất đồng tình với những thông tin và lập luận của các tác giả về những vấn đề được đề cập trong vệt bài. Đặc biệt là bài viết “Việt Nam tham gia lực lượng “mũ nồi xanh”-hoàn thiện luật pháp cho một chủ trương đúng” đã làm nổi bật những giá trị cốt lõi trong các hoạt động của Việt Nam khi tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc (GGHB LHQ); bài viết đã khái quát đúng và làm rõ được nhiều vấn đề cơ bản mà bấy lâu nay độc giả quan tâm về vấn đề này.
PHẢN BÁC NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI CHỐNG PHÁ ĐẢNG
Cần phải thấy rõ rằng, sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch là cuộc đấu tranh ý thức hệ, diễn ra lâu dài, với nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc. Cho dù trong thực tiễn, chúng ta làm tốt, chúng vẫn điên cuồng chống phá và không ngừng xuyên tạc.
Biện pháp phản bác hữu hiệu nhất là nỗ lực góp phần xây dựng đất nước ổn định, kinh tế phát triển, đời sống người dân không ngừng được nâng lên. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường, vị thế quốc gia ngày càng tăng trên trường quốc tế. Nhìn lại thực tiễn lịch sử nước ta, những thành tựu đất nước đã đạt được trong những năm qua, càng khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn là đúng đắn.
Thứ nhất, nhìn lại 75 năm ra đời nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch, sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng đất nước Việt Nam thống nhất, phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong quá trình đó, xét về bản chất, phải giải quyết nhiều vấn đề to lớn, trong đó có mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Khi thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhờ có giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Việt Nam mới giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập trước các thế lực xâm lăng có sức mạnh hơn ta nhiều lần.
Khi đất nước đã thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ một nước có điểm xuất phát thấp, bị tàn phá sau chiến tranh, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, thực chất là một cuộc cách mạng mới, sâu sắc, toàn diện trong đó có đổi mới kinh tế, đồng thời với đổi mới chính trị với bước đi, hình thức phù hợp. Những thành tựu đạt được trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam được thế giới ghi nhận, đất nước “chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay”. Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, trong việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trên thế giới, không có quốc gia nào không bị trả giá, bị sai lầm trong quá trình phát triển.
Chủ nghĩa tư bản có lịch sử ra đời và phát triển hàng trăm năm nay, làm giàu trên máu và nước mắt của biết bao quốc gia, dân tộc, và ngay người lao động trên đất nước của họ, nhưng với hơn 200 quốc gia trên thế giới, số nước giầu có, G7, G8 mới chỉ được vài nước. Hơn nữa, ngay trong những nước đó, sự bất công, phân biệt chủng tộc, kẻ reo rắc chiến tranh, phân hoá giầu nghèo rất lớn, đã có nhiều công trình nghiên cứu, công bố quốc tế ở chính ngay các nước tư bản chủ nghĩa nói lên điều này. Bởi vậy, những hạn chế, khuyết điểm của Việt Nam trong quá trình phát triển nói chung, trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nói riêng là điều có thể lý giải; những vướng mắc, sai lầm đó cũng không làm mất đi tính chính nghĩa, tính đúng đắn của sự lựa chọn mô hình phát triển, của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là xu thế phát triển của lịch sử loài người.
Thứ ba, quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là quá trình thận trọng, chắc chắn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý, được tổng kết từ thực tiễn để khái quát thành lý luận, vừa tránh giáo điều cũ, đồng thời không nóng vội, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan; nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết điểm, không né tránh. Điều này được thực tiễn kiểm nghiệm trong quá trình phát triển ở Việt Nam.
Khi mắc sai lầm, trước hết xem xét từ trong nội bộ Đảng, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước để tìm biện pháp khắc phục, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa “xây và chống”, trong đó xây là cơ bản, lâu dài; chống là kiên quyết, triệt để.
Thứ tư, về phương pháp luận giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trước hết được xem xét trong tính chỉnh thể, hệ thống, đó là nền tảng tư tưởng- chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, thấy rõ đâu là những nguyên lý còn nguyên giá trị nhưng các thế lực thù địch, cơ hội vẫn chống phá; đâu là những vấn đề cần bổ sung, phát triển và vấn đề nào thực tiễn cuộc sống đã vượt qua trong lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đây là điều hết sức quan trọng để đảm bảo tính khoa học, cách mạng, hơi thở cuộc sống, tiếp thu tinh hoa của nhân loại trong nền tảng tư tưởng của Đảng; nhận thức rõ hơn âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giúp chúng ta không bị mất phương hướng. Bên cạnh đó, cần phân loại đâu là những vấn đề sai lầm trong tổ chức thực hiện, những sai lầm khuyết điểm mắc phải do tác động của các yếu tố từ bên ngoài.
Thứ năm, những kết quả đạt được, tuy chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong tình hình mới, nhưng cần khẳng định, đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn hiện nay.
Hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng rõ hơn, nền tảng tư tưởng của Đảng tiếp tục được củng cố, bổ sung và phát triển, là cơ sở quan trọng để hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng một cách đúng đắn. Hệ thống tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tiếp tục được tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện: “Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn”, và “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị” “Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện”; “ Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực”. Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị: “Quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn”, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn. Nhờ đó, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn, được thế giới ghi nhận, nhân dân đồng tình ủng hộ.
Thứ sáu, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ và tìm cách khắc phục, như Đại hội XII đề cập: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”.
Một số vấn đề trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị còn chưa đồng bộ, làm ảnh hưởng, thậm chí là điểm nghẽn của sự phát triển, đó là: “Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉ và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu nền kinh tế, thực hiện ba đột phá”. Sự tác động trở lại của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế chưa tương xứng, nhiều khi còn chậm. Trong nhiều trường hợp, chủ trương, đường lối đúng nhưng vướng mắc trong tổ chức bộ máy, thể chế và tổ chức thực hiện dẫn đến hạn chế sự phát triển, như: “Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự thông thoáng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp.Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường”. Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt, như công tác xây dựng Đảng còn nhiều yếu kém chậm được khắc phục; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy, lực lượng sản xuất, sức sản xuất của xã hội chưa được giải phóng đầy đủ, môi trường dân chủ, sáng tạo chưa phát huy tốt: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ”.
Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị tác động đến sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được trong phát triển của đất nước là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển và những đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Việt Nam là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng./
Hoạt động chính danh, chính nghĩa, thực hiện thận trọng của lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt nam
Có một số ý kiến thắc mắc: Tại sao Việt Nam lại tham gia lực lượng GGHB LHQ để gây tốn kém ngân sách, mệt nhọc, rủi ro cho lực lượng vũ trang ở nơi đất khách quê người, trong khi ngay trong nước, bên cạnh nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm quốc phòng, an ninh thì vẫn còn nhiều nhiệm vụ cần huy động LLVT nhân dân, ví dụ như bão lũ, thiên tai, dịch bệnh ngày càng khắc nghiệt, nhiều vùng tại nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi di chứng chiến tranh như ô nhiễm bom mìn, chất độc dioxin... Cũng lại có ý kiến vu cáo rằng, việc Việt Nam đưa LLVT ra nước ngoài là tham gia liên minh quân sự, đi xâm lược nước khác.
NHẬN DIỆN NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC
Sự chống phá điên cuồng, xuyên tạc sự thật của các thế lực cơ hội, thù địch về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là sự tiếp nối của cuộc đấu tranh ý thức hệ trong điều kiện mới nhằm phá hoại, làm mất ổn định, phát triển đất nước. Những luận điểm này tuy không có ý nghĩa gì về tri thức, lý luận, nhưng chúng ta không được coi nhẹ, phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phê phán.
Vấn đề đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam luôn bị các thế lực cơ hội, thù địch quan tâm, chống phá. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước, đặc biệt là vào những thời điểm khó khăn. Mục tiêu sâu xa của chúng là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta dày công xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng; thông qua việc chống phá, gây mất ổn định, mất lòng tin, làm cho kinh tế không phát triển, xã hội tất yếu dẫn tới rối loạn, khủng hoảng và sụp đổ; hoặc làm cho chính trị rối loạn, đất nước không ổn định, kinh tế không phát triển, tất yếu cũng dẫn tới xoá bỏ chế độ chính trị.
Về đổi mới kinh tế, chúng tấn công thẳng vào những vấn đề mang tính ý thức hệ, như quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng phủ định quy luật này, “lớn tiếng” rằng, các nước tư bản chủ nghĩa không thừa nhận quy luật này nhưng vẫn phát triển, hay quy luật này chỉ đúng thời của Mác-Lênin, khi khoa học và công nghệ chưa phát triển; ngày nay người lao động gắn bó với tư bản, có cổ phần trong các doanh nghiệp tư bản, không bị bóc lột như trước đây, được quan tâm nhiều đến lợi ích, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều điều chỉnh, do đó không còn mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ đó, chúng cho rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lỗi thời.
Vấn đề sở hữu công cộng dưới hai hình thức toàn dân và tập thể vẫn là một trong những nội dung các thế lực xuyên tạc, chống phá. Lợi dụng một số yếu kém trong quản lý kinh tế ở một số nước đi lên chủ nghĩa xã hội; tình trạng tham nhũng, suy thoái đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tình hình một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thất thoát tài sản, tình trạng khiếu kiện đông người vẫn diễn biến phức tạp liên quan đến đất đai; đất nơi thờ tự, đất tôn giáo, đất quốc phòng, an ninh sử dụng lãng phí, tiêu cực…, các thế lực thù địch đưa ra luận điệu rằng, còn duy trì sở hữu công cộng, nguồn lực đất nước còn lãng phí, sẽ không chống được tham nhũng, lãng phí, kinh tế tiếp tục chậm phát triển.
Về các thành phần kinh tế, chúng nhấn mạnh rằng, cho dù đến nay, chế độ cộng sản đã có những đổi mới về kinh tế, các thành phần kinh tế, nhưng không căn bản, không thực chất, do vẫn giữ kinh tế nhà nước có vị trí chủ đạo. Lập luận của chúng là các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, nhưng trên thực tế, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vẫn bị phân biệt đối xử, không công bằng trong môi trường kinh doanh, trong tiếp cận nguồn lực. Cơ chế phân chia lợi ích chưa rõ ràng ngay trong doanh nghiệp nhà nước, trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng góp đối với xã hội của các thành phần kinh tế. Tuy coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất, nhưng kinh tế tư nhân vẫn bị phân biệt đối xử, chưa minh bạch trong chính sách, vẫn còn tình trạng “vỗ béo để thịt”, bị sách nhiễu, kiểm tra, vòi vĩnh vô lý.
Về chính trị và đổi mới chính trị, đây là vấn đề các thế lực thù địch thường xuyên chống phá, “một mất, một còn”. Ở Việt Nam, sự chống phá của các thế lực thù địch bên trong, bên ngoài vẫn tập trung vào phê phán chế độ một đảng, coi đó là “đảng trị”, mất dân chủ, đòi phải đa nguyên, đa đảng. Hệ thống tổ chức, bộ máy cồng kềnh, chính phủ, quốc hội, các tổ chức chính trị- xã hội chỉ là hình thức, theo đuôi đảng. Đảng đứng trên luật pháp, quyền lực xã hội tập trung vào một số ít người. Rằng chỉ có tam quyền phân lập mới giám sát được quyền lực, hoạt động của Nhà nước mới hiệu quả, mới chống được tham nhũng. Nói là xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng, nhiều vụ việc thực hiện theo sự chỉ đạo của đảng, “ đảng cử dân bầu”, “quân xanh quân đỏ”, “án bỏ túi”, đã có sự chỉ đạo từ trước.
Cho rằng, chủ nghĩa xã hội là mất dân chủ, tình trạng khiếu kiện, điểm nóng xảy ra thường xuyên; các tôn giáo, người dân tộc bị đàn áp; các tổ chức chính trị do đảng thành lập ra, hoạt động kém hiệu quả, là “sân sau” của quan chức, không có vai trò đại diện cho quần chúng, làm cho bộ máy cồng kềnh, tốn tiền thuế của người dân. Chúng bóp méo sự thật khi cho rằng có tình trạng bưng bít thông tin tràn lan, báo chí bị kiểm duyệt, không có báo tư nhân; những người bất đồng chính kiến thì bị bắt, bị tra tấn, đánh đập; vẫn còn phân biệt đối xử theo lý lịch, miền Bắc, miền Nam, trong và ngoài nước. Tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị đều do đảng chi phối, do vậy mất đi sự sáng tạo.
Bên cạnh đó, việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình phát triển đất nước cũng đặt ra nhiều vấn đề các thế lực thù địch, cơ hội chống phá. Quá trình nhận thức về sự phù hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam không phải đã có tiền lệ, nhiều vấn đề mới phải qua thực tiễn kiểm nghiệm; không ít những hạn chế, yếu kém do nhận thức và thực hiện của bộ máy hành chính trong quá trình chuyển đổi, dẫn đến sự trì trệ ở một số lĩnh vực, thiếu sáng tạo, khách quan, đôi khi có biểu hiện chính trị hoá một số vấn đề kinh tế cụ thể. Bởi vậy, các thế lực cơ hội, thù địch cho rằng, đó là sự nửa vời, đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị tương ứng, kinh tế nhiều thành phần nhưng chính trị lại độc đảng, đó là sự pha trộn giữa “nước với lửa”, chắc chắn sẽ kém hiệu quả. Rằng, phải từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, sử dụng các lý thuyết, trường phái kinh tế học mới tránh được sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào vận hành của nền kinh tế thị trường, tránh được sự can thiệp của chính trị vào kinh tế. Rằng, không có khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ là giống nhau, chỉ khác là cách thực hiện, vận dụng; dân chủ là phi chính trị, phi giai cấp, không đảng phái, là tự do tranh cử..
Chúng lập luận rằng, việc chấp nhận kinh tế thị trường đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn khiên cưỡng, nửa vời. Đã chấp nhận kinh tế thị trường, tuân thủ theo quy luật thị trường lại còn “ định hướng xã hội chủ nghĩa”, trên thực tế chưa rõ về mô hình, hoặc chỉ danh nghĩa, thực chất đã chuyển sang theo mô hình chủ nghĩa tư bản. Một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhìn chung đó là sự mâu thuẫn.
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN - MỘT DANH XƯNG BẤT HỦ
Quân đội ta, tính từ ngày thành lập, 22-12-1944, đến tháng 9-1954 đã 5 lần mang những tên gọi khác nhau. Nhưng từ tháng 9-1954 đến nay, qua 65 năm, danh xưng "Quân đội nhân dân" vẫn được giữ nguyên, không thay đổi.
Nhằm giải thích danh xưng này, một số người cho rằng “nhân dân” là một thuộc tính vĩnh hằng, bởi lẽ, Quân đội ta là quân đội của dân, do dân và vì dân, như “cá nằm trong nước”, nên Quân đội ta mang tên “Quân đội nhân dân” là duy nhất đúng, có gì mà phải bàn cãi. Cách giải thích như vậy tuy không sai nhưng chưa thật đầy đủ.
Về lý luận, phải hiểu “Quân đội nhân dân” là một danh xưng, thể hiện rõ bản chất của Quân đội ta. Đó chính là sự biểu hiện một cách cơ bản mối quan hệ biện chứng giữa tính dân tộc và tính giai cấp của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Để tìm hiểu vấn đề, chúng ta hãy quay trở về với lịch sử dân tộc. Ai cũng biết, sau khi thấy rõ sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, chứng tỏ rằng những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử. Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lặn lội sang phương Tây tìm đường cứu nước.
Sau khi tiếp cận lý luận của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. Như vậy, là vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với học thuyết cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn con đường cách mạng vô sản và quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản, cũng như mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ cơ bản, có tác động mạnh mẽ đối với công cuộc giải phóng dân tộc và phát triển của toàn xã hội ở nước ta. Mối quan hệ, gắn bó không phải chỉ là để chứng minh cho sự đúng đắn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, nhạy bén, kịp thời, đáp ứng đúng những đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của sự nghiệp cách mạng nước ta trong suốt hơn bảy thập kỷ qua.
Chính những thực tế lịch sử sinh động của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa tới sự hình thành danh xưng “Quân đội nhân dân”. Chính cương và đường lối cách mạng của Đảng xác định “phải tổ chức ra đội quân công nông” nhưng trong những năm đầu tiên của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bên cạnh tầng lớp thanh niên công nông gia nhập quân đội còn có rất nhiều thanh niên yêu nước khác. Trong quân đội, bên cạnh yếu tố giai cấp là yếu tố dân tộc. Từ “nhân dân” trong danh xưng “Quân đội nhân dân” nhằm chỉ toàn dân, với ý nghĩa là thu hút hết thảy mọi lớp người, đoàn kết thành một khối thống nhất dân tộc xung quanh giai cấp công nhân, cùng tiến hành chiến tranh nhân dân, một loại hình chiến tranh toàn dân chống xâm lược truyền thống lâu đời của người Việt để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tóm lại, trong nội dung khái niệm “nhân dân” đã có tính giai cấp vì công nhân và nông dân là thành phần lao động cơ bản, chiếm đại đa số trong nhân dân và “nhân dân” cũng chính là bao gồm tất cả mọi người trong dân tộc.
Trong danh xưng "Quân đội nhân dân", “nhân dân” đã trở thành một tính chất khác lạ, độc đáo và trở thành một thuộc tính vĩnh hằng của Quân đội ta. Chính nhờ thuộc tính đó mà Quân đội ta tồn tại và trưởng thành, danh xưng "Quân đội nhân dân" lấp lánh, lung linh, tỏa sáng. Cũng từ đó mà mọi người dễ dàng nhận thức ra nó và phân biệt nó với các kiểu loại quân đội khác, kể cả các kiểu loại quân đội trên đất nước ta, do giai cấp phong kiến và giai cấp nông dân đã tổ chức ra.
Đối với chúng ta ngày nay, “nhân dân” là một khái niệm rất gần gũi, quen thuộc nhưng cũng mang một ý nghĩa thiêng liêng, cao quý và vĩ đại.
Ở Việt Nam, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản mà Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đã vạch ra. Mở đầu cho đường lối cách mạng đó là cuộc Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á và tiếp sau đó là tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và bước sang cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ khi ra đời, sống trong sức mạnh vĩ đại của nhân dân, quân đội đã trở thành một đội quân bách chiến bách thắng. Sở dĩ trở thành vô địch vì Quân đội nhân dân đã đi cùng nhân dân, biết dựa vào sức mạnh vô cùng của nhân dân, như đã nói, nhưng về phía khác chính là Quân đội nhân dân đã biết quên mình chiến đấu để bảo vệ “quyền làm người” (chữ NGƯỜI (NHÂN) viết hoa) mà Cách mạng Tháng Tám đã đem lại cho nhân dân.
st
MUỐN HÒA BÌNH PHẢI CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH
Muốn hoà bình mãi mãi thì phải chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất cho chiến tranh! Mới nghe qua tưởng như phi lý nhưng thức tế đó lại là triết lý của thời đại. Lịch sử dân tộc đã chứng minh rõ nét điều đó. Khi nào đất nước ta hùng mạnh, trên dưới đồng lòng thì không kẻ thù nào dám dòm ngó và ngược lại. Lê Hoàn đánh Tống trên cơ sở "thực túc binh cường". Lý Thường Kiệt bắc đánh Tống, nam bình Chiêm Thành; Hưng Đạo Vương lột vó ngựa của quân Nguyên Mông, Lê Lợi diệt Minh khấu, Quang Trung bắc phạt đuổi quân Thanh, nam chinh trừ Xiêm La. Thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta đánh Pháp, đuổi Mỹ, Nhật, Tưởng, chinh phạt Pôn Pốt, đánh bại tập đoàn bành trướng Bắc Kinh. Tất cả những anh hùng kể trên, gắn với từng thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng có điểm chung là: TẬP HỢP ĐƯỢC NHÂN DÂN, TẠO RA SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT ĐỂ DIỆT GIẶC.
Muốn giữ vững độc lập, chủ quyền thì cái cốt yếu là dựa vào sức mình chứ không phải là cậy sức người. Cụ Hồ dạy "lấy sức ta mà giải phóng ta" là thế! Tàu, Mỹ hay nước nào cũng chỉ vì lợi ích của họ. Chẳng ai giúp ta bảo vệ ta mà họ không được cái gì cả. Chẳng ai khờ khạo đến mức tin đám dân chủ cuội về cái gọi là bài trừ Trung Quốc, làm đồng minh Mỹ để được bảo vệ. Gương Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản đã rõ. Nhật, Hàn hàng năm phải nuôi báo cô quân đội Mỹ, Phillipines theo Mỹ kiện tàu và mất bãi cạn Scarborough. Ngụy Sài Gòn theo Mỹ mất Hoàng Sa và nhiều đảo thuộc Trường Sa vào tay Trung Quốc, Đài Loan, Phillipines, Malaysia, Campuchia. Mỹ chưa bao giờ từ bỏ mưu đồ xoá bỏ chế độ ta. Ta cũng chẳng lệ thuộc tàu vì suy cho cùng họ chỉ muốn những nước láng giềng như Triều Tiên ở bắc, chúng ta ở phía nam làm phên dậu cho họ, tạo vùng đệm an toàn chứ không muốn ta mạnh lên. Trung Quốc không muốn ta và Triều Tiên thống nhất là thế. Họ dùng chính sách "viễn giao cận công" để xâm chiếm, bành trướng đối với các nước lân cận, trong đó có biển, đảo của ta.
Một quốc gia hùng mạnh thật sự khi và chỉ khi quốc gia đó đứng trên đôi chân của mình. Việt Nam không bài trừ ai, cũng chẳng lệ thuộc ai. Thời đại này không thể "bế quan tỏa cảng" nên ta vẫn là bạn với tất cả các nước nhưng cũng chẳng bao giờ cho phép bất kỳ nước nào xem thường, xâm phạm chủ quyền, lợi ích của quốc gia. Chúng ta tự lực, tự cường, tranh thủ sức mạnh của thời đại để phát triển đất nước. Chuẩn bị mọi phương án để sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Chỉ người Việt Nam mới có thể bảo vệ đất nước Việt Nam! Bài tàu theo Mỹ hay bài Mỹ theo tàu đều là lí luận của kẻ bất trí, vì như thế chẳng khác nào "đuổi hùm cửa trước, rước beo cửa sau". Hãy tỉnh mộng đi hỡi các nhà "dân chủ"./.
Nhận diện và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực từ mạng xã hội
Cùng với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người có thêm một phương thức để thu
nhận thông tin mạng xã hội như facebook, twitter, instagram, zalo… giúp cho những
thành viên trong cộng đồng dễ dàng nắm bắt các thông tin mới từ bạn bè hay xã hội.
Tuy nhiên, đi kèm với những lợi ích là những tác động thay đổi đến thói quen,
hành vi xã hội rất sâu sắc. Theo nghiên cứu mới nhất của các nhà tâm lý học cho
rằng: khi nghiện mạng xã hội, người dùng dễ mắc các nguy giảm các hoạt động sống.
Tốn quá nhiều thời gian trên mạng. Nguy cơ tiếp xúc với các thông tin không
chính xác, không lành mạnh. Đối mặt với lừa đảo, bảo mật. Mong muốn gây chú
ý, tăng ý thức vị kỷ. Xao lãng mục tiêu phấn đấu cá nhân. Giết chết sự
sáng tạo của bản thân. Tình yêu, các mối quan hệ dễ đổ vỡ. Thường xuyên
so sánh bản thân với người khác…. Những mặt trái này đang trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động đến xã hội nói chung trong đó có hoạt động quân sự nói riêng.
Trong thời
gian gần đây có hiện tượng quân nhân đăng tải các thông tin, hình ảnh có nội
dung mật, hoặc liên quan đến nội bộ cơ quan, đơn vị, hoặc “nhạy cảm” trong quan
hệ gia đình, xã hội, hoặc tán đồng, ủng hộ các quan điểm, luận điệu tiêu cực,
sai trái lên trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội. Tất cả điều này đều
gây ra những tác động tiêu cực tới đạo đức, lối sống của quân nhân ẩn chứa những
hệ lụy khó lường.
Internet trở
thành một trong những nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, mang lại những tiện
ích nhiều mặt cho con người trên toàn cầu, thúc đẩy sự phát triển xã hội trên
nhiều lĩnh vực, đó là điều chúng ta không thể phủ nhận. Tuy nhiên, các thế lực
thù địch đang triệt để lợi dụng thành tựu đó để mang lại những tác hại không hề
nhỏ. Nếu những người sử dụng Internet không vững vàng trong nhận thức, thiếu
nhãn quan chính trị đúng đắn, thiếu thông tin chính thống, khi tiếp xúc với những
quan điểm sai trái, thù địch sẽ có những suy nghĩ lệch lạc, dẫn đến mơ hồ, mất
niềm tin.
Phát triển
của internet là một thành tựu, tạo sự phát triển nhanh trên tất cả các lĩnh vực,
khi tham gia vào mạng xã hội cần phải nhận thức đúng đắn, biết sàng lọc thông
tin và phải có bản lĩnh trước những thông tin sai trái, thù địch và cần phản
bác một cách nhanh chóng góp phần làm sạch thông tin trên mạng đưa về đúng
nghĩa với thông tin chính thống.
Nhận diện
và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực từ mạng xã hội, làm thất bại chiến lược
“Diễn biến hòa bình” trên mạng internet
trong giai đoạn hiện nay là việc làm cần thiết đối với mỗi cán bộ, công nhân
viên, chiến sĩ trong Quân đội./.
Cần tỉnh táo Không để hình ảnh quân đội bị lợi dụng, xuyên tạc
Cán bộ, chiến sĩ quân đội và các cựu chiến binh, cựu quân nhân là những ngời tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; luôn giữ gìn và phát huy truyền thống cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ.
Song
vấn đề các lợi dụng hình ảnh sĩ quan cao cấp và các danh hiệu, nhiều tổ chức
núp bóng viện nghiên cứu, tổ chức xã hội dân sự, dưới vỏ bọc yêu nước, bảo vệ
chủ quyền biển, đảo đã lôi kéo những cựu quan chức tham gia hoạt động cùng với
nhiều thành phần bất mãn, cơ hội chính trị. Đối tượng Lê Văn Thương từng là
thượng úy nhưng do vi phạm kỷ luật, bị cho ra quân. Khi về địa phương, Thương mở
cửa hàng gỗ mỹ nghệ, lẽ ra Thương có thể trở thành người dân làm ăn lương thiện
nhưng Thương thường xuyên lên mạng giao du với các đối tượng phản động như Đào
Minh Quân, Lisa Phạm… Chúng đã kích động khiến Thương ngộ nhận mình là “quân
oan” nên dần dần Thương đã đi theo con đường chống phá đất nước và trốn ra nước
ngoài. Thương đã bị cơ quan công an khởi tố, truy nã về tội “hoạt động nhằm lật
đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 2015
Trường
hợp một cán bộ cao cấp quân đội nghỉ hưu có lời nói, việc làm sai trái gây bức
xúc trong dư luận, đáng buồn là người này cũng đã có nhiều việc làm tiếp tay
cho các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội. Một vài người như
trên chỉ là cá biệt, "con sâu làm rầu nồi canh", chúng ta cần tỉnh
táo Không để hình ảnh
quân đội bị lợi dụng, xuyên tạc
Dù khó khăn đến mấy, Đảng ta, nhân dân ta luôn đoàn kết một lòng
Hưởng
ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, cả hệ thống chính trị từ Trung
ương tới địa phương, các tổ chức chính trị, xã hội… đã sát cánh cùng nhau chống
"giặc dịch".
Trong
đại dịch, không chỉ xuất hiện nhiều nhà từ thiện cùng góp công, góp sức, góp
tiền của cho cuộc chiến chống dịch mà từ trong nhân dân cũng xuất hiện nhiều
tấm gương, tấm lòng hướng về các y sĩ, bác sĩ nơi tuyến đầu chống dịch thật sự
xúc động. Người có tiền giúp tiền, người có gạo giúp gạo, có người chỉ mớ rau,
củ, quả cũng đem đến giúp đỡ người ở tuyến đầu… Những tấm lòng thơm thảo của
đồng bào, đồng chí như tiếp thêm năng lượng cho các y sĩ, bác sĩ đang không
quản ngại hy sinh.
Các
đối tượng chính sách, người nghèo, người không nơi nương tựa, người bán vé số;
người có kinh tế khó khăn… đều có quyền thụ hưởng. Giữa cơn đại dịch Covid-19,
ở Việt Nam, tất cả mọi người đều được bình đẳng chữa trị, trong nước cũng như
nước ngoài về.
Có
thể thấy rằng, dù khó khăn đến mấy, khi cả dân tộc đồng lòng, chung tay, chúng
sức; Đảng và chính phủ, nhân dân cùng chí hướng thì mọi khó khăn đều vượt qua.
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN
SỰ ĐỂ TRƯỞNG THÀNH HƠN
Gần đây, lợi dụng các địa phương đang tổ
chức sơ tuyển nghĩa vụ quân sự (NVQS) năm 2021, một số trang mạng xã hội xuất
hiện những video clip chỉ dẫn, bày vẽ cách thức nhằm trốn tránh nhập ngũ. Nào
là khai man lý lịch, sửa giấy khai sinh, làm giả giấy khám sức khỏe, giấy báo học
tập tại các trường học, nào là đeo các loại kính cận thị, viễn thị, loạn thị
cao độ, tự tạo ra cho mình các vết thương, xăm trổ trên các vị trí khác nhau của
cơ thể, uống nước tăng lực rồi thức khuya để làm tăng huyết áp… Đối tượng đưa
ra những lời chỉ dẫn trái pháp luật này thuộc nhiều thành phần khác nhau, nhưng
chủ yếu là thanh niên đang độ tuổi nhập ngũ. Những người này đang đi ngược lại
phẩm chất, ý chí kiên cường, dũng cảm vốn có của dân tộc ta và làm phai mờ vai
trò xung kích của thanh niên.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù là thời
chiến hay thời bình, bảo vệ Tổ quốc luôn là nhiệm vụ tiên quyết, hết sức quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới vận mệnh của dân tộc. Thanh niên là lực lượng
chính tham gia nhiệm vụ này chứ không phải ai khác. Trong các cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc,
hàng triệu thanh niên ưu tú đã tự nguyện lên đường, không ngại gian khổ, sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì ấm no, hạnh phúc của
nhân dân. Tuổi trẻ đang sống trong nền độc lập hôm nay là nhờ có sự hy sinh của
lớp lớp cha anh đi trước. Mới đây, nhiều tấm gương cán bộ, chiến sĩ hy sinh
trong phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn đã tô thắm thêm hình ảnh, phẩm chất
cao đẹp của bộ đội Cụ Hồ, để đất nước ngày mai tươi sáng hơn.
Môi trường quân đội là nơi rèn
luyện con người nghiêm túc nhất. Nhiều thanh niên, gia đình mong muốn
bản thân và con em mình được vào quân đội để rèn luyện, thử thách và
trưởng thành. Những quân nhân xuất ngũ trở về quê hương trưởng thành rất nhiều
về nhận thức. Họ có phong cách chững chạc, nghiêm chỉnh, kỷ luật, giao tiếp ứng
xử có văn hóa, sức khỏe tốt và được rèn luyện, tích lũy thêm rất nhiều thứ mà
có thể trong cuộc sống bình thường không có được. Thực tế, các đơn vị, xí nghiệp
cũng rất thích tuyển dụng những người đã từng là quân nhân.
Mỗi thanh niên hăng hái lên đường thực
hiện NVQS không chỉ là mốc đánh dấu sự trưởng thành của bản thân, là vinh dự,
trách nhiệm, nghĩa vụ góp phần tham gia bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân,
mà cũng chính là bảo vệ gia đình, người thân và bảo vệ chính bản thân mình. Các
cấp, các ngành cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục truyền thống, bồi dưỡng cho
thế hệ trẻ về niềm tự hào dân tộc, khơi dậy tinh thần, ý thức trách nhiệm của mỗi
công dân đối với Tổ quốc; các chế độ, chính sách mà quân nhân, gia đình quân
nhân được hưởng trong thời gian tại ngũ, khi xuất ngũ. Xử lý nghiêm những trường
hợp trốn tránh NVQS để nâng cao hiệu quả giáo dục và răn đe. Phát huy vai trò của
gia đình, dòng họ có thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ; vai trò xung kích,
tình nguyện, trách nhiệm của tuổi trẻ với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Mọi hành vi chỉ dẫn, bày vẽ cách thức nhằm
trốn tránh NVQS là trái pháp luật, trái với đạo đức công dân sẽ không thể qua mặt
các cơ quan chức năng và tai mắt của nhân dân. Hành vi này cần bị lên án mạnh mẽ
và phải nghiêm trị.
C.T.M
Giải pháp góp phần ngăn chặn tin giả trên mạng xã hội
Nạn tin giả không phải là mới, song những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông, nhất là internet và mạng xã hội thì tin giả xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành vấn nạn với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.