Quân đội ta, tính từ ngày thành lập, 22-12-1944, đến tháng 9-1954 đã 5 lần mang những tên gọi khác nhau. Nhưng từ tháng 9-1954 đến nay, qua 65 năm, danh xưng "Quân đội nhân dân" vẫn được giữ nguyên, không thay đổi.
Nhằm giải thích danh xưng này, một số người cho rằng “nhân dân” là một thuộc tính vĩnh hằng, bởi lẽ, Quân đội ta là quân đội của dân, do dân và vì dân, như “cá nằm trong nước”, nên Quân đội ta mang tên “Quân đội nhân dân” là duy nhất đúng, có gì mà phải bàn cãi. Cách giải thích như vậy tuy không sai nhưng chưa thật đầy đủ.
Về lý luận, phải hiểu “Quân đội nhân dân” là một danh xưng, thể hiện rõ bản chất của Quân đội ta. Đó chính là sự biểu hiện một cách cơ bản mối quan hệ biện chứng giữa tính dân tộc và tính giai cấp của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Để tìm hiểu vấn đề, chúng ta hãy quay trở về với lịch sử dân tộc. Ai cũng biết, sau khi thấy rõ sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, chứng tỏ rằng những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử. Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lặn lội sang phương Tây tìm đường cứu nước.
Sau khi tiếp cận lý luận của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. Như vậy, là vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với học thuyết cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn con đường cách mạng vô sản và quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản, cũng như mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ cơ bản, có tác động mạnh mẽ đối với công cuộc giải phóng dân tộc và phát triển của toàn xã hội ở nước ta. Mối quan hệ, gắn bó không phải chỉ là để chứng minh cho sự đúng đắn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, nhạy bén, kịp thời, đáp ứng đúng những đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của sự nghiệp cách mạng nước ta trong suốt hơn bảy thập kỷ qua.
Chính những thực tế lịch sử sinh động của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa tới sự hình thành danh xưng “Quân đội nhân dân”. Chính cương và đường lối cách mạng của Đảng xác định “phải tổ chức ra đội quân công nông” nhưng trong những năm đầu tiên của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bên cạnh tầng lớp thanh niên công nông gia nhập quân đội còn có rất nhiều thanh niên yêu nước khác. Trong quân đội, bên cạnh yếu tố giai cấp là yếu tố dân tộc. Từ “nhân dân” trong danh xưng “Quân đội nhân dân” nhằm chỉ toàn dân, với ý nghĩa là thu hút hết thảy mọi lớp người, đoàn kết thành một khối thống nhất dân tộc xung quanh giai cấp công nhân, cùng tiến hành chiến tranh nhân dân, một loại hình chiến tranh toàn dân chống xâm lược truyền thống lâu đời của người Việt để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tóm lại, trong nội dung khái niệm “nhân dân” đã có tính giai cấp vì công nhân và nông dân là thành phần lao động cơ bản, chiếm đại đa số trong nhân dân và “nhân dân” cũng chính là bao gồm tất cả mọi người trong dân tộc.
Trong danh xưng "Quân đội nhân dân", “nhân dân” đã trở thành một tính chất khác lạ, độc đáo và trở thành một thuộc tính vĩnh hằng của Quân đội ta. Chính nhờ thuộc tính đó mà Quân đội ta tồn tại và trưởng thành, danh xưng "Quân đội nhân dân" lấp lánh, lung linh, tỏa sáng. Cũng từ đó mà mọi người dễ dàng nhận thức ra nó và phân biệt nó với các kiểu loại quân đội khác, kể cả các kiểu loại quân đội trên đất nước ta, do giai cấp phong kiến và giai cấp nông dân đã tổ chức ra.
Đối với chúng ta ngày nay, “nhân dân” là một khái niệm rất gần gũi, quen thuộc nhưng cũng mang một ý nghĩa thiêng liêng, cao quý và vĩ đại.
Ở Việt Nam, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản mà Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đã vạch ra. Mở đầu cho đường lối cách mạng đó là cuộc Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á và tiếp sau đó là tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và bước sang cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ khi ra đời, sống trong sức mạnh vĩ đại của nhân dân, quân đội đã trở thành một đội quân bách chiến bách thắng. Sở dĩ trở thành vô địch vì Quân đội nhân dân đã đi cùng nhân dân, biết dựa vào sức mạnh vô cùng của nhân dân, như đã nói, nhưng về phía khác chính là Quân đội nhân dân đã biết quên mình chiến đấu để bảo vệ “quyền làm người” (chữ NGƯỜI (NHÂN) viết hoa) mà Cách mạng Tháng Tám đã đem lại cho nhân dân.
st
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét