Thời Hùng Vương Việt Nam hoàn toàn không có các tài liệu về thống kê
chính thức dân số, có thể là do các đời Vua Hùng không tiến hành thống kê nhân
khẩu hoặc trải qua hàng ngìn năm Bắc thuộc với nhiều lần chiến loạn nên các tài
liệu thư tịch cổ bị thất lạc mất, không thể tìm ra được. các nhà sử học cả
phong kiến và đương thời, ước tính đến cuối thời Văn Lang, Việt nam có khoảng
1000.000 dân, chủ yếu phân bố ở khu vực trung hạ du sông Hồng và Sông Mã.
Năm 258 trước công nguyên, Vua Tộc Âu Việt là Thục Phán đem quân đánh bại
Vua Hùng đời thứ 18, sáp nhập lãnh thổ Văn Lang của người Lạc Việt, hai tộc
người Âu Việt và Lạc Việt hợp nhất thành một, Thục phán lên ngôi Vua lấy hiệu
là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc. Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng phái
tướng Đỗ Thư đem 50 vạn quân đi bình định các dân tộc Bách Việt, nhưng sau
tướng Đỗ Thư bị giết trong một cuộc tập kích, quân Tần buộc phải bãi binh do
Chủ tướng tử trận và các cuộc bạo loạn ở Trung nguyên. Sau cuộc chiến, hơn 10
vạn quân Tần thiệt mạng và khoảng 10 vạn bị quân Âu Lạc bắt làm tù binh, bị đầy
đi khai hoang ở các miền xã xôi. Sau khi nhà Tần suy yếu và sụp đổ, phương Bác
chìm trong chiến loạn từ nhiều năm. Các thế lực quân phiệt, tiêu biểu là Hán
Lưu Bang và Sở Hạng Vũ, giao tranh quyết liệt để tranh giành đất đai. Dân chúng
thường bị vạ lây sau các trận chiến, do các thủ lĩnh quân sự thường tàn sát dân
chúng khắp vùng nếu đối phương kháng cự quyết liệt. Tiêu biểu là Lưu Bang đã
làm cỏ bách tính ở Vĩnh Dương, còn Hạn Vũ đã giết sạch dân ở Tương Thành và tàn
sát 20 vạn hàng binh nước Tần. Do đó đã có nhiều người dân đã chạy xuống phương
nam để lánh nạn , mà đa phần là đến vùng Lưỡng Quảng (thuộc nước Nam Việt của Triệu
Đà, tướng cũ của Nhà Tần), tuy nhiên, có một bộ phận chạy xuống tận Âu Lạc,
sống chung với người Bách Việt. Theo ước tính, thời Âu Lạc Việt Nam có khoảng
70- 80 vạn dân, bao gồm toàn bộ dân cư Lạc Việt cũ, dân cư Âu Việt mới sáp nhập
và các nạn dân từ phương Bắc chạy đến để tránh chiến loạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét