Thứ Sáu, 2 tháng 4, 2021

CHIÊU TRÒ GÂY RỐI PHÁ HOẠI CUỘC BẦU CỬ

 


Trước mỗi lần tổ chức bầu cử, những chiêu trò “tự ứng cử”, hô hào các hội nhóm dân chủ trên mạng xã hội ký tên ảo, tung hô, ủng hộ cho các “nhà dân chủ” để gây rối, phá hoại cuộc bầu cử. Năm 2016, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021, chúng ta cũng đã được chứng kiến một “làn sóng” tự ứng cử của các “nhà dân chủ” và một số văn nghệ sĩ biến chất. Khi không đủ điều kiện và bị loại qua các vòng hiệp thương, các đối tượng này lên mạng xã hội rêu rao những luận điệu hết sức sai trái như: chỉ có những người “theo phe” Đảng Cộng sản mới có cơ hội ứng cử đại biểu Quốc hội; phải để các ứng cử viên tự do tranh cử, dựa trên chữ ký của cử tri mà không cần phải trải qua hiệp thương; Đảng Cộng sản cố tình “cản trở” người ngoài Đảng tự ứng cử vào đại biểu Quốc hội…

Có thể thấy mục đích cơ bản nhất của chiêu trò “tự ứng cử” mà các “nhà dân chủ” đang thực hiện là nhằm phá hoại bầu cử. Đồng thời, thông qua việc tự ứng cử đại biểu Quốc hội, các đối tượng đánh bóng tên tuổi của bản thân trong giới “dân chủ”.

Ngoài ra, những thông tin được các đối tượng xấu đưa ra đã trở thành cái cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài xuyên tạc, biến tướng, vu khống, công kích công tác bầu cử của Việt Nam. Pháp luật nước ta quy định công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND các cấp. Quyền bầu cử và ứng cử là của công dân, là quyền được hiến định. Không ai có quyền cản trở việc công dân thực hiện những quyền này./.

 

NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VÔ VĂN CỨ

 


Những ngày qua, trên các trang mạng xã đội do một số cá nhân, tổ chức phản động, chống đối, cơ hội chính trị có cái nhìn thiếu thiện cảm đối với Việt Nam cũng liên tục tung ra những bài viết, bài phỏng vấn chứa đựng nội dung tiêu cực, thiếu chính xác về công tác chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp tại nước ta. Chúng đưa ra luận điệu hết sức sai lệch và thâm hiểm như: “Bầu cử chỉ là “màn kịch dân chủ” do Đảng đạo diễn, chỉ là hội nghị Đảng Cộng sản mở rộng”, “Đảng Cộng sản đang độc diễn trong bầu cử”, “Không thể có cuộc bầu cử dân chủ khi Đảng Cộng sản lãnh đạo cuộc bầu cử”…

Từ những nhận định phiến diện trên, các đối tượng xấu quy kết cho rằng cuộc bầu cử do Đảng Cộng sản lãnh đạo là không chính danh, không đúng quy định của pháp luật, ngăn cản quyền bầu cử của công dân. Các đối tượng đưa ra yêu sách đòi Đảng Cộng sản không được tham gia vào công tác bầu cử, không được thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo công tác bầu cử; phải “tự rút lui” và từ bỏ quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chấp nhận đa nguyên, đa đảng, chấp nhận sự cạnh tranh với những đảng phái khác để thúc đẩy dân chủ …

Những luận điệu, nhận định của kẻ xuyên tạc là hoàn toàn sai sự thật. Việt Nam luôn khẳng định rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tại Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp nước ta quy định rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vì vậy, việc Đảng lãnh đạo đối với công tác bầu cử là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.

Về mặt thực tiễn, Đảng lãnh đạo công tác bầu cử là cơ sở quan trọng để bảo đảm sự thống nhất trong công tác bầu cử; góp phần lựa chọn, bầu ra những đại biểu tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ mới, bảo đảm đủ tiêu chuẩn, đủ số lượng, có cơ cấu hợp lý đối với đội ngũ đại biểu; tạo nền tảng cho việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nếu không có sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, về mọi mặt của Đảng Cộng sản, chắc chắn nhiều vấn đề bất ổn sẽ nảy sinh, là mầm mống cho sự suy yếu của đất nước.Đảng lãnh đạo bầu cử không phải là làm thay, không bao biện, không khuynh loát trong bầu cử. Ngày 20-6-2020, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026.

Bộ Chính trị xác định rõ công tác bầu cử diễn ra trong bối cảnh hết sức khó khăn. Chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức như: sự ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19; những diễn biến phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh thương mại, công nghệ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trong quan hệ quốc tế; hoạt động chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta của các thế lực thù địch v.v... Vì vậy, việc Đảng lãnh đạo công tác bầu cử là điều cần thiết để củng cố, đoàn kết thống nhất sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm tận dụng mọi thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Qua đây, mỗi người dân cần hết sức tỉnh táo trước những luận điệu nham hiểm bịa đặt, xuyên tạc vô căn cứ của kẻ thù./.

Chúng ta đã từng bước kiểm soát thành công đại dịch Covid-19

Sau một thời gian dài rêu rao “Việt Nam giấu dịch” bất thành, ra sức “tạo sóng cồn trong chậu nước” nhưng dư luận chẳng mấy quan tâm, mấy “nhà dân chủ" tự phong và vài ba “học giả” quốc tế đã “tắt điện toàn tập” trước sự thật về thành công của công cuộc phòng, chống dịch Covid-19 tại Việt Nam. Vừa rồi, nhân sự kiện Đảng ta công bố, lấy ý kiến của nhân dân vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, họ lại lợi dụng điều này, hy vọng “vớt vát” sự chú ý của dư luận vào những phân tích vô lối, ngụy khoa học trước đó. Bằng những luận điệu “nhai đi, nhai lại”, họ nói: “Cộng sản Việt Nam đã ăn may quá lớn. Bộ máy cai trị độc đảng bỗng phát huy giá trị khi phát đi những mệnh lệnh thắt chặt kiểm soát quyền con người”; “tư tưởng phong kiến, tư duy bảo thủ, lạc hậu, sự tách biệt với thế giới giúp cộng sản Việt Nam chống dịch Covid-19 dễ hơn các nước phương Tây và các nước Đông Á”. TS Lê Hải Bình, Phó trưởng ban chuyên trách Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại Trung ương cho rằng: “Luận điệu đó chỉ là những tiếng nói yếu ớt của một số nhà phân tích và bình luận phương Tây, với định kiến vốn có về chủ nghĩa xã hội và các đảng cộng sản. Thành công của Việt Nam trong phòng, chống đại dịch Covid-19 đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận, đánh giá cao”. “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”-đó là mô hình quản trị, cơ chế vận hành hợp lý, khoa học đối với mọi vấn đề xã hội của đất nước ta. Trong công cuộc phòng, chống đại dịch Covid-19, cơ chế đó đã tỏ rõ là một mô hình vận hành hiện đại, hiệu quả. Theo TS Lê Hải Bình, thành công của Việt Nam rất phù hợp với tiêu chí “quản trị quốc gia tốt” do Cơ quan Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đưa ra. 8 nội dung căn bản của tiêu chí đó là: (1) “sự tham gia (participatory); (2) định hướng đồng thuận (consensus oriented); (3) trách nhiệm giải trình (accountable); (4) sự minh bạch (transparent); (5) sự kịp thời (responsive); (6) tính hiệu lực (effective) và hiệu quả (efficient); (7) tính bình đẳng và không loại trừ chủ thể nào (equitable and inclusive); (8) tuân thủ pháp quyền (follows the rule of law). Soi vào 8 nội dung này, Việt Nam đã không chỉ đáp ứng đầy đủ mà còn thực hiện “quản trị quốc gia” trước một thách thức an ninh phi truyền thống chưa từng có bằng một chiến lược thông minh và hiệu quả, trở thành hình mẫu cho nhiều quốc gia trên thế giới. Cụ thể, Việt Nam đã huy động được mọi nguồn lực, phát huy tốt nhất lực lượng vật chất và tinh thần cho phòng, chống dịch. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo, huy động sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, sự tham gia của toàn dân. Báo The Nation (Hoa Kỳ) thừa nhận, Việt Nam đã gọi chiến dịch phòng, chống Covid-19 là “Cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 2020” với sự huy động tất cả nguồn lực của đất nước. Với sự vào cuộc đó, Việt Nam đã tạo ra khuôn khổ hành lang pháp lý và thể chế đối phó với dịch bệnh, đồng thời nhấn mạnh mục tiêu bảo vệ sức khỏe người dân, bảo vệ quyền con người. Mọi thông tin liên quan đến dịch Covid-19 và hoạt động phòng, chống dịch của Chính phủ, chính quyền các cấp được công bố đầy đủ, cập nhật thông tin rõ ràng, dễ truy cập và dễ hiểu đối với mọi người dân. Những quyết sách của Việt Nam đều nhanh chóng, kịp thời. Công cuộc phòng, chống dịch tạo được sự đồng thuận sâu sắc, rộng lớn trong toàn xã hội. Những chỉ đạo, quyết định của Đảng, Nhà nước bảo đảm công bằng và không loại trừ chủ thể nào; qua đó đã phát huy hiệu lực và hiệu quả rất cao; trách nhiệm giải trình được thể hiện qua trách nhiệm trong nội bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước và trách nhiệm đối với toàn xã hội... Cho đến nay, trong khi đại dịch Covid-19 vẫn hoành hành trên thế giới, nhiều quốc gia bắt buộc phải tái phong tỏa trở lại thì Việt Nam vẫn vững vàng, gần 60 ngày không có ca mắc mới trong cộng đồng. Nhân dân ta vừa phòng, chống đại dịch Covid-19, vừa chung tay phòng, chống thiên tai và sạt lở đất chưa từng có ở miền Trung; đồng thời ra sức phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với tình hình dịch bệnh; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân, là một trong số ít quốc gia có kinh tế tăng trưởng dương năm 2020. Những thành tựu đáng kể nêu trên không chỉ bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc về kết quả phòng, chống đại dịch Covid-19 tại Việt Nam mà còn khẳng định rõ ràng hơn bao giờ hết về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lâu nay, những kẻ thiếu thiện chí với Việt Nam vẫn ra sức khuếch đại luận điểm “Đảng Cộng sản Việt Nam không có khả năng lãnh đạo phát triển kinh tế”. Tuy nhiên, thành tựu không thể phủ nhận trong gần 35 năm đổi mới, nhất là thành tựu chèo lái đất nước vững bước vượt qua đại dịch toàn cầu đã khẳng định bản lĩnh, tầm nhìn và khả năng lãnh đạo của Đảng ta. Đặc biệt, trong những ngày qua, những đợt bão chồng bão, lũ chồng lũ kèm theo sạt lở đất nghiêm trọng diễn ra ở miền Trung nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đoàn kết muôn lòng như một, vừa kiên cường chống thảm họa, thiên tai, vừa chung tay san sẻ yêu thương; vừa tìm kiếm nạn nhân mất tích, vừa cứu trợ đồng bào trong vùng bị cô lập, nỗ lực khắc phục hậu quả để khôi phục sản xuất, đời sống, quyết không để ai bị tụt lại phía sau. Đã có nhiều cơ quan báo chí quốc tế đặt câu hỏi: Vì sao Việt Nam tiềm lực không bằng các nước phát triển châu Âu, châu Mỹ mà lại vững vàng trước đại dịch và thiên tai như vậy? Những lời khen ngợi của bạn bè như “kỳ tích”, “bất ngờ”, “bài học quý báu”, “hình mẫu”... chính là những lời phản bác đanh thép nhất dành cho những người thiếu thiện chí với Việt Nam. Hình ảnh những cán bộ, đảng viên, bộ đội, công an, dân quân tự vệ không ngại gian khổ, hy sinh; có mặt kịp thời để cứu giúp nhân dân trong tâm bão, lũ đã trả lời cho câu hỏi của bạn bè năm châu về sức mạnh nội sinh của Việt Nam. Sức mạnh mà Việt Nam có được, trước hết là sức mạnh của mô hình thể chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Thể chế đó ngày càng ổn định, thực thi quản trị quốc gia tốt với một nền kinh tế có sức chịu đựng và ứng biến linh hoạt, một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; một nền an ninh nhân dân-quốc phòng toàn dân vững mạnh đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại dịch Covid-19 và thiên tai đã gây thiệt hại to lớn về người và của đối với Việt Nam nhưng trong muôn vàn khó khăn và thử thách đó, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc lại được phát huy cao độ. Có thể nói, từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới cho đến nay, chưa bao giờ sự đồng thuận và niềm tin của nhân dân đối với Đảng lại lớn mạnh như thời điểm này. Đó là nguồn lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ sẽ cuốn phăng mọi âm mưu, luận điệu xuyên tạc lạc lõng về những thành tựu mà nhân dân và đất nước ta đã đạt được trong thời gian qua!

uốt 75 năm qua, Quốc hội Việt Nam ngày càng hoạt động hiệu quả, nỗ lực hết sức để mọi quyền lực Nhà nước đều của dân, do dân, vì dân...

Lập hiến và lập pháp là một trong những hoạt động quan trọng nhất của Quốc hội (QH) Việt Nam. Chức năng này đã được thể hiện xuyên suốt qua các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Ngoài Hiến pháp năm 1946 quy định nguyên tắc chung “Nghị viện nhân dân đặt ra các pháp luật”, thì cả 4 bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định QH là cơ quan lập hiến và lập pháp. Hiến pháp năm 2013 (hiện hành) đã khẳng định, QH là cơ quan làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật; thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Lý giải về vấn đề nêu trên, PGS, TS Lê Minh Thông, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH cho rằng, quyền lập pháp được giao cho QH xuất phát từ vị trí đặc biệt của QH trong cấu trúc quyền lực Nhà nước Việt Nam. Bởi QH là cơ quan thực hiện dân chủ đại diện cao nhất của nhân dân. So với cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, QH với vai trò là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là đại biểu cao nhất cho cử tri toàn quốc thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích của cử tri cả nước. Các ĐBQH vừa là đại biểu của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, các vùng lãnh thổ, vừa là đại biểu của cả nước, thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phục vụ lợi ích của dân tộc và đất nước. Mọi quyết định của QH trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân không chỉ do nhân dân ủy quyền, mà còn nhân danh nhân dân-chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí của nhân dân và vì quyền, lợi ích của người dân. Về thực chất tính tối cao của quyền lực QH xuất phát từ quyền chủ thể tối cao của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Với vị trí đặc biệt như vậy, hoạt động lập pháp của QH chính là xuất phát từ ý chí, nguyện vọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, không thể có chuyện các luật, nghị quyết của QH ban hành lại đi ngược lợi ích của nhân dân. Có một số người phát biểu trên mạng xã hội cho rằng “quy trình làm luật ở Việt Nam không theo luật và chẳng giống ai”. Có lẽ họ đã không biết được quy trình xây dựng luật tại Việt Nam chặt chẽ và công khai, minh bạch theo quy định của Hiến pháp và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Quy trình này bao gồm nhiều khâu, nhiều giai đoạn. Hằng năm, trên cơ sở đề nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền trình dự án luật, pháp lệnh, UBTVQH lập và trình QH xem xét, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Trên cơ sở chương trình đó, UBTVQH phân công, chỉ đạo, đôn đốc và giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện chương trình này. Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của QH có trách nhiệm thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật trên cơ sở ý kiến của các ĐBQH, ý kiến của nhân dân, các chuyên gia, đối tượng chịu tác động, các cơ quan, tổ chức hữu quan, UBTVQH với tư cách là cơ quan chuẩn bị và chủ trì kỳ họp QH có trách nhiệm cho ý kiến đối với các dự án luật. Giữa hai kỳ họp, các đoàn ĐBQH cũng tổ chức các hội nghị để trao đổi, thảo luận và lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan. Với một số dự án luật quan trọng, phức tạp, UBTVQH còn tổ chức hội nghị các ĐBQH chuyên trách và các chuyên gia đóng góp. Ý kiến của ĐBQH là cơ sở quan trọng, mang tính quyết định trong việc hoạch định chính sách, chỉnh lý và hoàn thiện từng nội dung của dự án luật. Theo trình tự này, QH đã nắm trọn quyền lập pháp, từ khâu xây dựng chương trình, trình dự án, lấy ý kiến góp ý, thẩm tra, chỉnh lý và thông qua luật. Quy trình xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay cũng tương đồng và phù hợp với quy trình xây dựng luật ở nhiều quốc gia trên thế giới. Vì thế, ý kiến một số người cho rằng QH chỉ là cơ quan thông qua luật là không có cơ sở lý luận và thực tiễn. Thực tế cho thấy, nếu so sánh giữa dự án luật trình QH với các dự án luật đã được các cơ quan của QH thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện và QH thông qua thì chất lượng được nâng cao, phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhất là về các chính sách, cả về mặt nội dung cũng như hình thức văn bản. Thực tế đã chứng tỏ QH Việt Nam hoạt động ngày càng hiệu quả. ĐBQH nhấn nút biểu quyết thông qua luật trên cơ sở ý chí, nguyện vọng của cử tri. Thế nhưng, vẫn có người lại đưa ra luận điệu lạc lõng là "QH Việt Nam chỉ thảo luận, thông qua những nội dung theo quyết định của Đảng, việc thảo luận dự án luật chỉ để “cho vui". Luận điệu này khó có thể thuyết phục được những người quan tâm, theo dõi hoạt động của QH và đông đảo cử tri Việt Nam. Trên thực tế, những vấn đề quan trọng, trong đó có các dự án luật mà QH xây dựng, thông qua đều có dấu ấn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là điều bình thường, bởi theo Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam năm 2013, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, cũng theo quy định của Hiến pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam đều hướng tới nhân dân, vì nhân dân. Bởi vậy, việc QH Việt Nam thảo luận về những vấn đề do Đảng lãnh đạo là đúng Hiến pháp, vì nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Thực tế, trước khi thông qua luật hoặc nghị quyết, các ĐBQH đều được thảo luận, tranh luận dân chủ, thẳng thắn. Những nội dung không thuộc bí mật quốc gia đều được công bố công khai, minh bạch cả về tài liệu lẫn các ý kiến thảo luận. Những đạo luật lớn liên quan tới các vấn đề lớn của đất nước được đông đảo cử tri và nhân dân quan tâm như: Hiến pháp, Luật Đất đai... đều được phát thanh, truyền hình trực tiếp các buổi thảo luận để cử tri, nhân dân theo dõi, giám sát. Những ai thường xuyên theo dõi hoạt động QH đều biết rằng, các dự án luật khi đưa ra QH thảo luận đều có những ý kiến đồng tình, ý kiến phản bác. Tất cả ý kiến dù đồng tình hay phản bác đều được trân trọng, tiếp thu, giải trình đầy đủ và QH chỉ quyết định theo đa số. Mấy nhiệm kỳ gần đây, không dự án luật nào mà tất cả các ĐBQH đều nhất trí. Một số dự án luật chỉ khoảng 70% ĐBQH nhấn nút đồng ý khi thông qua; thậm chí có dự án luật không được thông qua. Như vậy, trong số những đại biểu nhấn nút không đồng ý, chắc chắn có đại biểu là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, không thể có chuyện ĐBQH là đảng viên đều phải nhấn nút biểu quyết đồng ý theo “chỉ đạo”. Cũng có những nội dung sau khi thảo luận, tranh luận đã bị QH bác bỏ, chẳng hạn việc QH chưa đồng ý thành lập Tòa án Nhân dân khu vực, Viện Kiểm sát Nhân dân khu vực khi thông qua các luật tổ chức liên quan tới hai ngành này. Tại Kỳ họp thứ tám, QH khóa XIV, cơ quan soạn thảo đề xuất mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ. Tuy nhiên, sau khi các ĐBQH nhận được ý kiến của cử tri đã thảo luận rất sôi nổi về vấn đề này. Kết quả biểu quyết cho thấy, đa số ĐBQH không nhất trí mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ. Mới đây nhất, vào tháng 11-2020, tại Kỳ họp thứ mười, khi UBTVQH xin ý kiến ĐBQH về các vấn đề liên quan đến dự án Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) và dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đã có tới 302 đại biểu không đồng ý (62,79%) việc tách nội dung bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ trong Luật Giao thông đường bộ hiện hành để ban hành luật riêng. 321 đại biểu không đồng ý (66,74%) với đề xuất của Chính phủ trong việc thay đổi thẩm quyền quản lý đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe từ Bộ Giao thông vận tải sang Bộ Công an. Tại cuộc họp báo ngay sau kết thúc kỳ họp, đồng chí Nguyễn Trường Giang, Phó chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của QH cho biết: “Qua thăm dò xin ý kiến, có kết quả như vậy là làm đúng theo tinh thần mới, thể hiện tính dân chủ và quy định chung của QH. Ủy ban Pháp luật cũng không có quyền bác luật, mà chính QH sẽ quyết định. Ủy ban Pháp luật sẽ tham mưu và thẩm tra theo đúng quy định của pháp luật”. Đó là những ví dụ cụ thể khẳng định QH Việt Nam không “thảo luận cho vui” mà thảo luận dân chủ, quyết định theo đa số, theo ý nguyện của cử tri và nhân dân. Những luận điệu nhằm làm giảm sút niềm tin của nhân dân với QH chẳng thể nào làm thay đổi được thực tế. Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được QH khóa XIV thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 1-1-2021 tạo cơ sở pháp lý cho tiến trình đổi mới công tác xây dựng pháp luật ở nước ta. Luật có những quy định mới, tạo điều kiện thuận lợi hơn để Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, các tổ chức thành viên khác của mặt trận và các cơ quan, tổ chức khác, cá nhân tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đã được phản biện xã hội thì hồ sơ dự án, dự thảo gửi thẩm định, thẩm tra, trình cơ quan có thẩm quyền phải bao gồm văn bản phản biện xã hội. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức, ĐBQH chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, để MTTQ Việt Nam thực hiện phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật. Ý kiến tham gia về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và ý kiến phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được nghiên cứu, giải trình, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo văn bản. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc sự cần thiết xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn diện, là cơ sở xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình xây dựng pháp luật, chúng ta đã tham khảo và bảo đảm các bộ luật, luật, nghị quyết được ban hành phải tương thích với luật pháp quốc tế. Thế nhưng không thể bê nguyên xi luật pháp quốc tế về Việt Nam. Đã từng có những luận điệu của thế lực thù địch “gợi ý” rằng "chỉ cần lấy nguyên luật pháp của quốc tế về áp dụng ở Việt Nam để đỡ tốn tiền làm luật". Đây là quan điểm sai lầm và vô cùng nguy hiểm bởi chúng ta là người Việt Nam. Chúng ta phải xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện đất nước Việt Nam, bảo đảm lợi ích lâu dài của Tổ quốc và nhân dân Việt Nam. Trước những luận điệu xuyên tạc, bóp méo bản chất quy trình xây dựng pháp luật của QH, xuyên tạc lịch sử 75 hào hùng của QH, mỗi người dân cần nâng cao nhận thức, nhận diện và cảnh giác trước những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch để chủ động phòng tránh, không để bị tác động, gây hoang mang tư tưởng hoặc thay đổi nhận thức chính trị vì những luận đó. Đặc biệt, đối với mỗi ĐBQH cần phát huy hơn nữa vai trò trách nhiệm trước cử tri, thận trọng khi phát ngôn để các thế lực thù địch không thể “thêm mắm, thêm muối” lợi dụng nhằm đạt được những mục đích xấu xa, đen tối của chúng.

Tự phong là “nhà báo”, kênh truyền hình để nói xấu chế độ, trục lợi từ dân nghèo

Từng là sinh viên của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Lê Văn Dũng được học hành, đào tạo cơ bản. Ra trường đi làm được hơn 20 năm, Dũng không lo làm ăn mà lại kết giao với Nguyễn Lân Thắng-một đối tượng đi ngược với truyền thống gia phong, hành “nghề dân chủ”. Lê Văn Dũng tỏ ra khá hăng hái tham gia hoạt động của các tổ chức chống đối, như nhóm No-U, Hội Bầu Bí tương thân. Từ các hoạt động do No-U Hà Nội tổ chức đến các vụ khiếu kiện đất đai ở Đông Anh (Hà Nội); Tiên Lãng (Hải Phòng), Văn Giang (Hưng Yên) đến ô nhiễm môi trường (Formosa)...đều thấy có bộ mặt Dũng. Từ kẻ lăng xăng ngoài đường, Lê Văn Dũng học theo ồng đảng tự biến mình thành một kẻ trí thức với cái mác “phóng viên” của “Thông tấn xã vỉa hè”, tác nghiệp bằng cách livestream trên facebook, youtube. "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", Dũng đã gia nhập nhóm “Phong trào chấn hưng nước Việt” do Vũ Quang Thuận, Lê Thăng Long cầm đầu. Nhóm này lập ra cái gọi là kênh “Chấn hưng nước Việt” nhằm tập hợp lực lượng đấu tranh đòi dân chủ, thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam sang đa nguyên, đa đảng. Năm 2017, Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển và Trần Hoàng Phúc bị bắt, xét xử với tội danh tuyên truyền chống phá Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “Phong trào chấn hưng nước Việt” tiếp tục được Lê Văn Dũng tiếp quản, điều hành “Kênh 4” của “Phong trào chấn hưng nước Việt” và đổi tên thành “Chấn hưng tivi”, “CHTV VietNam”. Trong clip khai trương “trường quay” tại gia của mình, Dũng ngông cuồng tuyên bố rằng “sắp tới, Phong trào Chấn hưng Nước Việt sẽ đánh sập Đài Truyền hình Việt Nam”. Để vận hành cái gọi là “kênh CHTV”, Dũng cùng đồng bọn tự lập “trường quay” tại nhà riêng, tự xưng là phóng viên, tự làm thẻ nhà báo mà không được cơ quan, tổ chức nào công nhận. Lê Văn Dũng đặt cho kênh một slogan có vẻ khá hấp dẫn và “chính thống”: “CHTV là kênh truyền hình của bạn, của dân oan” để móc nối, lôi kéo những người bị cho là “dân oan” mang hồ sơ đến cho y hoặc có thể gửi qua đường bưu điện.Bằng thủ đoạn lăng xê của một con buôn như “phí lên sóng chỉ bằng nửa giá quảng cáo của VTV”, “tặng quà khi lên sóng”…, Dũng và đồng bọn đã khiến nhiều người dân do thiếu hiểu biết lại đang có những khúc mắc với chính quyền bị sập bẫy. Sự thật về cái gọi là “kênh truyền hình CHTV” và "nhà báo Lê Dũng vô va" "Kênh truyền hình CHTV" thực chất chỉ là một trang cá nhân tự lập trên Facebook. Dũng còn bày trò câu view với những từ khóa nhạy cảm hoặc lồng ghép thật giả, đúng sai, bóp méo sự thật và đặc biệt hay cung cấp những tin giả chưa được kiểm chứng về đời tư của lãnh đạo…. Cư dân mạng vì tò mò click vào vô hình trung giúp “CHTV” kiếm tiền bởi khi lượng truy cập lớn, video clip sẽ tự nổi, hiển thị ngay khi người dùng truy cập Youtube. Lượt xem càng lớn thì Dũng càng có cơ hội nhận được tiền từ việc đặt hàng quảng cáo từ nhà mạng. Sau những chương trình như vậy, người dân thì cứ dài cổ chờ đợi với lời hứa sẽ giúp đỡ giải quyết của Dũng, thậm chí còn bị liên lụy vì dính dáng đến đối tượng phản động. Còn Dũng và đồng bọn thì mặc nhiên hưởng lợi. Quả không sai khi có trang mạng gọi Dũng là “kẻ hút máu dân nghèo”. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân từng tìm hiểu sự việc Dũng lôi kéo người dân khiếu kiện sai sự thật ở Thái Nguyên với lời hứa sẽ "mang lại công lý", cuối cùng kết quả chỉ là "tiền mất tật mang". Ngoài việc "hút máu" và trục lợi bất chính từ những người dân nghèo và tìm kiếm đơn hàng từ các thế lực phản động bên ngoài, Lê Văn Dũng cùng đồng bọn còn tích cực đến các địa phương tìm cách phát triển lực lượng chống đối, trong đó họ tập trung móc nối, lôi kéo số đầu đơn, khiếu kiện cực đoan tại các địa phương, thu thập thông tin về các vụ khiếu kiện, sau đó lồng ghép các nội dung xuyên tạc, bôi nhọ…, tán phát trên “Đài CHTV”. Đến nay, trên các trang mạng xã hội tự lập, Lê Văn Dũng cùng đồng bọn đã thực hiện hàng nghìn video clip xuyên tạc, bóp méo sự thật về các vấn đề như: Quy hoạch bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), sân bay Tân Sơn Nhất (TP Hồ Chí Minh); vụ việc phức tạp tại trạm BOT Lai Cậy (Tiền Giang)….. Hầu hết các video clip này đều được các tổ chức phản động lưu vong, các báo, đài, nước ngoài có thái độ thù địch với Việt Nam khai thác, cổ súy. Mới đây nhất, trong vụ việc xảy ra tại Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội), Lê Văn Dũng cùng nhiều đối tượng phản động, chống đối trong, ngoài nước đã liên hệ với số đối tượng cốt cán của “Tổ đồng thuận” để “hỗ trợ pháp lý”, hướng dẫn cách thức đăng tải, cập nhật tình hình Đồng Tâm; viết đơn, thư gửi các tổ chức quốc tế, chính giới các nước nhằm kêu gọi sự hỗ trợ. Và cũng chính nhờ các buổi livestream đó mà những kẻ khủng bố ở Đồng Tâm có cơ hội nhận được những cọc tiền đô la từ các thế lực phản động để rồi phạm tội “giết người”, “chống người thi hành công vụ”. Mới đây Lê Văn Dũng còn diễn trò làm hồ sơ ứng cử Đại biểu Quốc hội. Với nhân cách xấu va và những hành vi sai trái, Dũng sẽ chẳng thể trở thành đại diện cho nhân dân ở Quốc hội và có lẽ bản thân Dũng cùng các đối tượng cổ vũ cho y cũng hiểu rõ điều này nhưng chúng vẫn rêu rao tự đánh bóng bản thân. Khi bị xử lý bằng pháp luật thì chúng “rạch mặt ăn vạ”, vu cáo chính quyền “trả thù”, “cản trở dân chủ”. Chiêu trò “ăn vạ” này thể hiện rõ nhất khi một thành viên cốt cán khác của “kênh CHTV” là Lê Trọng Hùng ngày 29-3 vừa qua bị Cơ quan An ninh điều tra (Công an thành phố Hà Nội) bắt tạm giam để điều tra làm rõ hành vi “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015. Thế nhưng, đồng đảng của Hùng lại lu loa lên rằng ông ta bị bắt vì lý do ứng cử đại biểu Quốc hội. Bản thân Lê Trọng Hùng đã không ít lần bị cơ quan an ninh điều tra triệu tập làm việc về hành vi tuyên truyền chống Nhà nước trên mạng. Trên mạng không khó để tìm thấy thông tin về việc Lê Trọng Hùng cùng băng nhóm “đấu tranh dân chủ” tụ tập, gây rối, kích động biểu tình, trong đó có cả việc Lê Trọng Hùng gặp gỡ, tiếp xúc với số chống đối tại Đồng Tâm để “tặng Hiến pháp”, “phổ biến quyền công dân”, cổ vũ, kích động nhóm đối tượng này tăng cường các hoạt động chống đối một cách cực đoan. Với một kẻ cầm đầu như vậy, chắc hẳn bạn đọc cũng nhìn ra được thực chất của cái gọi là “kênh truyền hình CHTV” là gì. Đây chắc chắn không phải là một kênh truyền hình hay cơ quan báo chí. Những sản phẩm của “CHTV” chỉ là tập hợp những video do Lê Văn Dũng và đồng bọn tự quay bằng điện thoại di động rồi tán phát trên mạng xã hội Facebook hoặc Youtube. Lê Văn Dũng và đồng bọn tự lập ra rồi mạo nhận là “đài truyền hình thông tin về chính trị, phản biện xã hội”. Như vậy, cái gọi là “kênh truyền hình CHTV” không phải là cơ quan ngôn luận của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, cũng không được cấp phép hoạt động báo chí, truyền thông. Ngay trong lời tự giới thiệu trên trang Facebook của “kênh” này cũng nói lên điều đó: “Đài truyền hình CHTV Vietnam” như một tờ báo hình, hoạt động độc lập, không trực thuộc cơ quan, đảng phái nào…, phát sóng trực tiếp trên nền tảng Facebook, Youtube. Thời gian gần đây, “CHTV” còn tán phát nhiều video clip (do Anton Tuấn dẫn) bình luận xuyên tạc vị trí, vai trò của Quốc hội và công tác bầu cử tại Việt Nam; bôi nhọ danh dự các vị lãnh đạo cấp cao của Quốc hội. Chúng kêu gọi “Quốc hội Việt Nam cần phải trở về đúng vị trí”, đặt ngoài sự lãnh đạo của Đảng, hô hào người dân không đi bầu cử vì “nhân sự đã được sắp xếp từ trước”… Luật Báo chí năm 2016 đã quy định: Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân. Và một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí là: Thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của Nhân dân. Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của Nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…. Như vậy, đối chiếu vào tiêu chuẩn, quy định ở trên thì “kênh truyền hình CHTV” hoàn toàn không phải là “một tờ báo hình” như những kẻ tạo lập ra nó vẫn rêu rao. Bản thân Lê Văn Dũng và đồng bọn không đủ tư cách để tự xưng là nhà báo. Người dân cần tỉnh táo, khi có những vấn đề khúc mắc thì nên tìm đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo đúng pháp luật. Đừng vì nhẹ dạ, cả tin để các đối tượng lợi dụng lừa bịp. Đánh giá về các thông tin tán phát trên mạng xã hội, Trung tướng, GS, TS Nguyễn Xuân Yêm, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Khoa học quản lý và Quản trị An ninh phi truyền thống (ĐHQG Hà Nội), nguyên Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an cho rằng, những thông tin do cá nhân đăng tải trên Facebook, twiter, viber, zalo… đa phần đều không qua kiểm chứng, kiểm duyệt nhưng lại lan truyền rất nhanh, tác động mạnh mẽ đến xử sự của mỗi cá nhân. Các khuynh hướng này tác động hằng ngày, hằng giờ khiến một bộ phận quần chúng nhân dân mất phương hướng; các chuẩn mực giá trị không còn được coi trọng, dẫn đến sự suy thoái, biến chất về văn hóa, lối sống. Đã đến lúc các cơ quan pháp luật cần tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý nghiêm minh những hành vi sai trái của Lê Văn Dũng và các đối tượng liên quan.

Chủ trương, chính sách về kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phònG

“Ngụ binh ư nông” là chính sách đưa quân sĩ vào tham gia lao động sản xuất nông nghiệp đã được nhiều triều đại phong kiến nước ta áp dụng và đã cho thấy tính hiệu quả trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tiếp nối truyền thống quý báu ấy, Quân đội nhân dân Việt Nam từ khi ra đời đã được giao 3 chức năng, trong đó có chức năng "đội quân sản xuất", tham gia xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng. Đây luôn là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta. Ngày 9-2-2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ra Nghị quyết số 10-NQ/TW, trong đó có nêu: “Chuyển các doanh nghiệp chuyên làm kinh tế đơn thuần thuộc các cơ quan đảng, lực lượng vũ trang, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội cho cơ quan nhà nước quản lý, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp”. Như vậy là theo nghị quyết nói trên, chỉ “chuyển các doanh nghiệp chuyên làm kinh tế đơn thuần...”, nhưng các đối tượng chống phá cố tình xuyên tạc để xã hội hiểu sai rằng quân đội sẽ không tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế nữa. Sau đó chỉ hơn 9 tháng, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 105-QĐ/TW ngày 20-11-2007 “Về tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam” đã nêu rõ một trong những chức năng của Quân ủy Trung ương là “Lãnh đạo quân đội lao động, sản xuất, làm kinh tế theo đúng chức năng, nhiệm vụ, đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đạt năng suất, chất lượng cao”. Văn bản này cũng nêu rõ: “Đảng ủy đơn vị sản xuất quốc phòng và làm kinh tế có nhiệm vụ: Lãnh đạo đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ; quán triệt và thực hiện quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong mọi tình huống theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của quân đội; sản xuất, kinh doanh phát triển, đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao; góp phần cùng các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân”; “Cấp ủy đảng trong các doanh nghiệp của quân đội liên doanh với nước ngoài có nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật, chính sách của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các bên trong doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi, nhân phẩm người lao động”. Tại Quy định số 59-QĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 22-12-2016 quy định về tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam cũng quy định rõ: Quân ủy Trung ương có nhiệm vụ "Lãnh đạo quân đội lao động sản xuất, làm kinh tế đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước". Văn bản cũng quy định: "Đảng ủy đơn vị sản xuất quốc phòng và làm kinh tế có nhiệm vụ: Lãnh đạo đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ; quán triệt và thực hiện quan điểm kết hợp kinh tế-xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế-xã hội tạo thế quân sự, quốc phòng trong khu vực phòng thủ ở địa phương, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong mọi tình huống; sản xuất, kinh doanh phát triển, đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của quân đội; góp phần cùng các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân". Như vậy, Đảng ta luôn coi trọng chức năng "đội quân sản xuất" của quân đội và luôn nhất quán chủ trương quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong các văn kiện đại hội toàn quốc của Đảng, vấn đề kết hợp hiệu quả giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng-an ninh; xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế-quốc phòng; phát triển công nghiệp quốc phòng... thường xuyên được nhắc đến cả trong phần đánh giá kết quả đạt được và trong phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ. Điều 68 Hiến pháp cũng quy định rõ: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh...”. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật đã có những quy định về xây dựng nền công nghiệp quốc phòng; kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòn .Thực tiễn cho thấy, trong suốt 76 năm qua, Quân đội ta luôn thực hiện tốt cả 3 chức năng "đội quân chiến đấu", "đội quân công tác" và "đội quân sản xuất", được Đảng, Nhà nước và nhân dân đánh giá cao. Trước hết, tất cả các đơn vị quân đội đều thực hiện tăng gia sản xuất. Ngay cả những nơi đóng quân trong điều kiện rất khắc nghiệt như ở các đảo xa, bộ đội vẫn trồng rau xanh, chăn nuôi gia súc, gia cầm và hải sản để cải thiện bữa ăn. Nhờ hoạt động tăng gia sản xuất, chất lượng bữa ăn của bộ đội được cải thiện rõ rệt, góp phần nâng cao thể lực và hiệu quả huấn luyện, học tập của cán bộ, chiến sĩ. Thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng, các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ hoạt động kinh tế đơn thuần đã được chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, thoái vốn, cổ phần hóa... Các doanh nghiệp còn lại do quân đội quản lý đều đang tham gia thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Tuy nhiên, trong điều kiện bình thường, sản xuất phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của các doanh nghiệp này chỉ đạt một phần công suất thiết kế của dây chuyền công nghệ và năng lực lao động, sản xuất của công nhân, thu nhập thấp rất khó giữ chân người lao động. Để tránh lãng phí nguồn lực, việc kết hợp nhiệm vụ xây dựng kinh tế để tạo thêm việc làm, thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu để đóng góp thêm vào ngân sách nhà nước, tạo nguồn lực đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ để quay lại phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng tốt hơn là rất cần thiết. Thực tế, hầu hết các doanh nghiệp quân đội triển khai thực hiện nhiệm vụ theo hướng kết hợp, lưỡng dụng đều đã phát huy hiệu quả, thực sự “giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân”, đóng góp rất lớn cho ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp quân đội đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 41.000 tỷ đồng mỗi năm, tạo công ăn việc làm cho khoảng 145.000 lao động, trong đó có nhiều thương hiệu hàng đầu, đóng góp ngân sách hàng đầu và cũng đi đầu trong đổi mới công nghệ trong đội ngũ các doanh nghiệp Việt Nam. Điển hình như Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Tổng công ty Trực thăng Việt Nam... Mô hình đoàn kinh tế-quốc phòng được xây dựng từ năm 1999, đến nay đã có nhiều đoàn kinh tế-quốc phòng ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Các đoàn kinh tế-quốc phòng là lực lượng tại chỗ giúp dân xóa đói, giảm nghèo; tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng; giúp nhân dân tiêu thụ nông sản; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp phần bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc... Các đoàn kinh tế-quốc phòng có vai trò quan trọng trong công cuộc gìn giữ an ninh trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế-xã hội ở những địa bàn đặc biệt khó khăn mà hầu như không có doanh nghiệp nào ngoài quân đội muốn đầu tư. Có thể nói, các đoàn kinh tế-quốc phòng, các doanh nghiệp quân đội ở địa bàn khó khăn, là điển hình trong thực hiện 3 chức năng của quân đội, vừa lao động sản xuất, vừa làm công tác vận động quần chúng và cũng là đội quân chiến đấu khi có tình huống. Như vậy, Quân đội ta tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là cần thiết, đúng chủ trương của Đảng, phù hợp với thực tiễn, phù hợp yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đất đai giao cho quân đội quản lý, vừa phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, vừa là tư liệu sản xuất thiết yếu, là cơ sở quan trọng để quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng. Các đơn vị quân đội cần sử dụng đất để trồng trọt, chăn nuôi, tăng gia sản xuất. Các doanh nghiệp quân đội, các đoàn kinh tế-quốc phòng cần đất để đặt trụ sở hoạt động; xây dựng nhà máy, kho xưởng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh; xây dựng nông, lâm, ngư trường... Do vậy, việc Quốc hội ban hành Nghị quyết về thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là hoàn toàn phù hợp với chủ trương của Đảng, phù hợp với thực tiễn và cần thiết. Trái với luận điệu xuyên tạc của những kẻ chống phá, rằng quân đội chỉ muốn “giữ đất”, không chịu giao đất phục vụ phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng đã nhiều lần khẳng định: Bộ Quốc phòng sẵn sàng chuyển giao đất cho địa phương quản lý nếu vị trí đất đó không thực sự cần thiết cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Thực tế, quân đội đã bàn giao hàng chục nghìn héc-ta đất, trong đó có nhiều vị trí đất “vàng” cho địa phương quản lý, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, những diện tích đất có vị trí quan trọng phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng thì không thể giao lại cho địa phương, vì khi phát sinh tình huống sẽ rất khó thu hồi kịp thời để thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Trong điều kiện bình thường, khi chưa phát sinh tình huống quân sự, quốc phòng, những diện tích đất ấy được dùng cho lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần tăng tiềm lực quân sự, quốc phòng. Khi phát sinh tình huống, diện tích đó được sử dụng ngay cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Thực hiện như vậy cũng sẽ tránh diện tích đất quốc phòng bị lấn chiếm như thực tế đã xảy ra ở một số nơi, sau đó việc thu hồi đất bị lấn chiếm rất gian nan, phức tạp. Sử dụng đất quốc phòng vào hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng là đúng chủ trương của Đảng, có tính lịch sử, kế thừa, gắn liền với quá trình xây dựng, phát triển quân đội qua nhiều thời kỳ. Dù trong thời kỳ nào, Bộ Quốc phòng luôn quán triệt và yêu cầu khi sử dụng đất quốc phòng vào hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế phải tuân thủ nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, phù hợp với quy hoạch, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của quân đội; bảo đảm nguyên tắc ưu tiên hàng đầu cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và dự trữ lâu dài nguồn đất đai phục vụ nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, để kịp thời sử dụng khi có tình huống xảy ra. Do đó, luận điệu xuyên tạc rằng quân đội giữ đất là vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm là hoàn toàn sai trái, cần phải được nhận diện để phản bác. Có thể thấy, việc Luật Biên phòng Việt Nam; Nghị quyết về tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; Nghị quyết về thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, đều được Quốc hội thông qua với tỷ lệ tán thành rất cao, trong đó có nghị quyết đạt tỷ lệ tán thành 100% số đại biểu tham gia biểu quyết, chứng tỏ việc chuẩn bị các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới quốc phòng được chuẩn bị kỹ lưỡng, khoa học và toàn diện, hợp hiến, hợp lý và hợp lòng dân. Kết quả nói trên cũng cho thấy sự đồng tình, ủng hộ của đại biểu Quốc hội và nhân dân đối với các vấn đề quốc phòng. Đó là cơ sở quý báu để tiếp tục nâng cao sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, vì mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

“Đại công dân” đại chữ




Việt Tân, RFA, Chân Trời Mới Media, Tiếng Dân… và những “nhà dân chủ” giả hiệu, đang hô hoán, la hét om sòm về việc ngày 29-3, Công an thành phố Hà Nội thi hành lệnh bắt tạm giam và khám xét đối với bị can Lê Trọng Hùng về tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại điều 117 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bài học về xây dựng quân đội NDVN

Hiện nay, xuất hiện nhiều luận điệu kêu gọi chúng ta nên thực hiện "phi chính trị hóa", "dân sự hóa" quân đội. Trong thể chế tư bản chủ nghĩa, quân đội nhiều nước được xây dựng theo mô hình đội quân nhà nghề với mục tiêu, cách thức hoạt động hoàn toàn khác với Quân đội nhân dân Việt NaM. Song nhìn từ sự thất bại, sụp đổ của một số chính quyền trong "Mùa xuân Arab" cho chúng ta có thêm những bài học thực tiễn sinh động khẳng định tính đúng đắn của chủ trương, đường lối xây dựng Quân đội ta hiện nay. Quân đội của hầu hết các quốc gia Arab đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy quyền lực do đặc điểm lịch sử và chế độ chính trị. Sau Chiến tranh thế giới lần hai đã định hình vai trò của quân đội trong các diễn biến chính trị. Quân đội trở thành trung tâm quyền lực của nhà nước và cũng là lực lượng tổ chức hàng loạt cuộc đảo chính vũ trang. Theo thống kê của trang Defense News, trong 22 năm, từ năm 1949 đến 1971, giới quân sự đã tiến hành 8 cuộc đảo chính ở Syria và 3 cuộc đảo chính ở Iraq. Việc giới quân sự nắm chính quyền góp phần quyết định sự ổn định tình hình kinh tế-xã hội và loại bỏ mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo. Nhiều nguyên thủ quốc gia ở Bắc Phi và Trung Đông xuất thân là sĩ quan chỉ huy cao cấp trong quân đội, như các cựu Tổng thống Ai Cập Mohamed Naguib, Gamal Hussein, Anwar Al-Sadad và Hosni Mubarak, hay Tổng thống Libya Muammar Gaddafi. Tổng thống Ai Cập hiện nay Abdel Fattah el-Sisi từng là sĩ quan cấp tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và phần lớn quan chức các bang, bộ, ngành đều từng là tướng lĩnh quân đội. Vì vậy, một điều dễ hiểu là quyền lực thực sự của nhà nước thường tập trung trong tay các chỉ huy quân đội. Bạo loạn, lật đổ theo mô hình phản kháng phi bạo lực là cách mà nhiều cuộc cách mạng màu đã sử dụng và nó đã được áp dụng triệt để trong "Mùa xuân Arab". Trong đó, người dân được sử dụng như những chiến binh trên chiến trường để loại bỏ chính thể một quốc gia sở tại theo học thuyết chính trị “Phản kháng phi bạo lực” của chuyên gia bất bạo động người Mỹ Gene Sharp. Trong "Mùa xuân Arab", người dân bị lợi dụng như “những chiến sĩ cách mạng”, còn "vũ khí" là chiến tranh tâm lý và chiến tranh thông tin. Ai Cập trước đây, ban đầu quân đội thể hiện sự trung thành mạnh mẽ và giữ vị thế trung lập trước các cuộc biểu tình trên quảng trường Tahrir ở Cairo. Ngày 7-2-2011, trên Tạp chí Foreign Affairs, phóng viên Joshua Stacher đã viết: “Trong suốt mười ngày qua, nhà nước Ai Cập vẫn chưa phải chứng kiến sự sụp đổ của chế độ”. Nhưng về sau, quân đội đã không giữ được sự kiên trung đó. Trên một số xe chiến đấu bộ binh và xe bọc thép xuất hiện khẩu hiệu “Quân đội đứng về phía người biểu tình”. Trước sức ép của làn sóng biểu tình nhận được sự ủng hộ của giới quân sự, Tổng thống Mubarak buộc phải tuyên bố từ chức và trao quyền lãnh đạo đất nước cho Hội đồng quân sự tối cao. Đối với trường hợp Libya, cơ cấu của các lực lượng vũ trang nước này khác hẳn với các quốc gia khác. Trong khi tiềm lực kinh tế rất mạnh nhưng quân đội Libya chỉ với 50.000 người lại không được hiện đại hóa, trang bị lạc hậu. Một trong những sai lầm của Tổng thống Gaddafi chính là chỉ ưu tiên đầu tư cho các lực lượng tinh nhuệ và bán quân sự là người thân tín, họ hàng của mình, thậm chí tuyển dụng lính đánh thuê ở nước ngoài. Quân đội đã thiếu sự gắn kết và có dấu hiệu chia rẽ ngay từ đầu thời kỳ "Mùa xuân Arab" xảy ra. Liên tiếp diễn ra các vụ đào tẩu của sĩ quan và binh lính. Chỉ khoảng một tuần sau cuộc can thiệp quân sự của NATO, đã có 6.000 binh sĩ Libya (chiếm 12% quân số) rời bỏ hàng ngũ, và con số này tăng lên 40.000 quân (80%) chỉ sau hai tháng. Vì vậy, quân đội mất sức chiến đấu, không đủ sức chống đỡ các đợt tấn công quân sự từ bên ngoài. Kết cục là Tổng thống Gaddafi bị sát hại, đất nước rơi vào nội chiến, chia rẽ kéo dài, đến nay vẫn chưa thành lập được chính phủ chuyển tiếp. Ở Yemen, trên thực tế, quân đội bị phân chia thành nhiều đơn vị riêng biệt dưới quyền chỉ huy của những người thân tín trong dòng họ của cựu Tổng thống Ali Abdullah Saleh, những người cùng bộ lạc và thành phần thân tín với ông. Những đơn vị này sẵn sàng sử dụng bạo lực để đàn áp người biểu tình. Trong khi đó, một số sư đoàn và đơn vị quân đội thuộc các quân khu nắm quyền lại chủ trương ủng hộ “những người biểu tình ôn hòa”. Chính vì vậy, “Mùa xuân Arab” ở Yemen đã dẫn tới các hành động đổ máu. Trước sức ép dữ dội của các cuộc biểu tình, Tổng thống Saleh buộc phải tuyên bố từ chức. Đó là những nền tảng hết sức quan trọng giúp nước này ngăn chặn thành công "Mùa xuân Arab" từ những ngày đầu tiên. Theo nghiên cứu “Israel và Mùa xuân Arab” của tác giả Benedetta Berti, Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) có quan điểm thống nhất với Chính phủ Israel đối với tiến trình “lây lan” của "Mùa xuân Arab" kể từ khi bùng phát tại Tunisia. Nhằm chuẩn bị phản ứng tốt nhất, quân đội Israel đã phân tích các cuộc biểu tình ở Tunisia và đặc biệt chú ý đến trường hợp của Ai Cập lúc đó để rút ra bài học cho riêng mình. Quân đội Israel cũng chuẩn bị kế hoạch đối phó với khả năng xảy ra như ở Lebanon và một số khu vực trên bán đảo Sinai khi một số nhóm lợi dụng tình hình rối ren, hỗn loạn và mất an ninh trong nước để lập các cơ sở chống đối hay xây dựng các đường dây buôn lậu vũ khí xuyên quốc gia, qua đó tiếp tay cho lực lượng chống chính phủ. "Mùa xuân Arab" còn cho chúng ta thấy sự nguy hiểm của "chiến tranh phi quy ước". Năm 1962, Tổng thống Mỹ J.Kennendy đã nêu ra khái niệm “chiến tranh phi quy ước”, cho rằng “đây là một loại hình chiến tranh lợi dụng triệt để các cuộc bạo loạn; mới về cường độ nhưng cũ về nguồn gốc; một cuộc chiến tranh du kích, chống phá, nổi loạn...”. “Chiến tranh phi quy ước” đã được vận dụng triệt để ở Trung Đông-Bắc Phi, thậm chí ghi rõ trong “Điều lệnh Tác chiến phi quy ước” (ATP 3-05.1) xuất bản ngày 6-9-2013: “Chiến tranh phi quy ước” là các hoạt động được tiến hành để thúc đẩy một phong trào phản đối hay nổi dậy nhằm gây sức ép, làm tê liệt, lật đổ một chính phủ hoặc thế lực cầm quyền thông qua hoặc phối hợp với các hoạt động của lực lượng bí mật, lực lượng hỗ trợ và quân du kích. Loại hình chiến tranh này được cho là rất hiệu quả, gắn kết với chiến lược “diễn biến hòa bình”, tạo ra kết hợp “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ. Tháng 5-2019, trình bày trước Quốc hội, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết: Từ thực tiễn các cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới, những năm gần đây và dự báo chiến tranh trong tương lai, ngoài chiến tranh truyền thống còn xuất hiện chiến tranh phi quy ước, chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng... Tiến hành “chiến tranh phi quy ước”, thế lực thù địch sử dụng tổng hợp các biện pháp phi vũ trang và vũ trang, bằng các hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ, thúc đẩy phong trào phản đối hay nổi dậy của quần chúng bị lôi kéo, do lực lượng phản động bên trong tiến hành, được sự hỗ trợ, can dự quân sự của lực lượng bên ngoài, nhằm gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng... tạo sức ép, làm tê liệt, mất hiệu lực quản lý của Nhà nước, triệt tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, cần phải tiếp tục có sự phát triển mới về tư duy lý luận quốc phòng, quân sự cũng như có các chính sách, giải pháp chiến lược để đối phó kịp thời, hiệu quả với “chiến tranh phi quy ước”. Cần tiếp tục triển khai tích cực, hiệu quả Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự Việt Nam với những tư duy mới về xác định các hình thái chiến tranh, loại hình tác chiến, phương thức tác chiến chiến lược... Từ thực tế trên càng cho thấy những luận điệu kêu gọi "phi chính trị hóa" đối với Quân đội ta là không phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cần đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đó là chủ trương nhất quán và đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta xuyên suốt 76 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của quân đội. Ở Việt Nam, bất luận trong hoàn cảnh nào, lực lượng vũ trang cũng luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với Nhà nước và nhân dân. Phải thực hiện hiện đại hóa, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như ứng phó với các loại hình chiến tranh mới. Một vấn đề hết sức quan trọng nữa là dù có xây dựng quân đội chính quy, hiện đại đến đâu cũng chưa đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc nếu không gắn với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc; trong đó phải đặt lên hàng đầu xây dựng "thế trận lòng dân". Đó chính là một trong những “cẩm nang” giữ nước từ sớm, từ xa.

Khi Nguyễn Lân Thắng mắc bệnh “ngứa”




Cộng đồng mạng chắc hẳn không lạ gì Nguyễn Lân Thắng, tên nghịch tử vô đạo của một gia tộc có truyền thống cách mạng Nguyễn Lân, đã làm ảnh hưởng đến cả một thế hệ quang vinh. Không hẳn vì sao mà tên thường gọi fb của Nguyễn Lân Thắng lại mang tên Nguyễn Lân Ké, chắc hẳn bản thân Y cũng nghĩ rằng mình không thể chọn nơi sinh ra, mà đó là lựa chọn của quá trình chọn lọc tự nhiên. Cái tên Nguyễn Lân Ké cũng khiến chúng ta có thể hiểu Y chẳng dám nhận một gia tộc danh giá, truyền thống, đáng kính đến vậy, vì y chẳng khác gì một đoạn gen lỗi trong quá trình chọn lọc để sinh ra, y chỉ dám nhận mình chỉ "ké" trong một gia đình truyền thống cách mạng đó.

Dư luận mạng xã hội lên án những kẻ núp bóng bầu cử để phá hoại



     Trước thông tin Lê Trọng Hùng, chủ kênh 2 của CHTV – băng nhóm chống đối do Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển bị cơ quan công an bắt tạm giam để điều tra làm rõ hành vi “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”, trang nhanquyenvn.org bình luận: Đây là kết cục tất yếu của Hùng “gàn”. Trên kênh của Hùng, toàn những clip livestream khá nhảm nhí, thô bạo nhưng lại mang màu sắc chính trị, trong đó dễ thấy toàn những clip chủ đạo là xuyên tạc bản chất chế độ thông qua việc đả phá làm méo mó chủ trương, đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Cơ quan công an đã có quá trình điều tra, đấu tranh, cảnh báo nhiều lần trong nhiều năm qua về hành vi vi phạm pháp luật của ông ta. Đây là kết cục tất yếu của những kẻ chọn kiếm cơm bằng chiêu trò xuyên tạc, tuyên truyền chống Nhà nước trên mạng.

NHIỆM KỲ 2016-2021, MÁI ĐẦU CỦA CÁC VỊ LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC CÀNG BẠC THÌ CƠ ĐỒ DÂN TỘC CÀNG XANH!

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của dân tộc ta đã dành cả một đời để cống hiến cho tổ quốc, cho nhân dân, đấu tranh để hướng đến có một dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Tại sắc lệnh Luật số 50 ngày 9-10-1945, lần đầu tiên 6 chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" đứng trang trọng giữa đầu trang sắc lệnh. Hồ Chủ tịch gọi đó là "ba chính sách" và tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (9-11-1946), Người phát biểu: "Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém". Trả lời một nhà báo nước ngoài (16-7-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tuyên bố "Chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". 

Kể từ ngày lập nước 02/9/1945, Đảng và nhà nước ta luôn lấy đó làm kim chỉ nam để chiến đấu và phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Khó khăn gian khổ trùng trùng nhưng Việt Nam đã vượt qua tất cả, giành độc lập, tự do, thống nhất và chiến đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Nhiệm kỳ 2016-2021, được xem là nhiệm kỳ vàng của Việt Nam. Một đất nước lấy dân làm trung tâm, dĩ quốc dân vi thượng, đất nước ấy nhất định tiến lên, đất nước ấy luôn có mối gắn kết bền chặt giữa lòng dân, ý Đảng và ý Đảng lòng dân. Tất cả vì mục chung để thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay! 

Nói như nhân dân ta là "mây đen phủ khắp hoàn cầu/mặt trời mãi sáng trên đầu chúng ta". Không vui không tự hào sao được khi mà tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 5,99% (thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới); riêng năm 2020, dù trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 nhưng tốc độ tăng trưởng GDP vẫn đạt 2,91% (mức tăng trưởng cao nhất so với 5 nền kinh tế lớn trong khu vực Đông Nam Á). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 3,2% (giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 7,65%). Lạm phát cơ bản được kiểm soát tốt qua các năm, giữ mức tương đối ổn định, bình quân đạt 1,81% (giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 5,15%).

Cán cân thương mại hàng hóa luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm. Năm 2020, mặc dù nhiều thị trường xuất khẩu bị gián đoạn do dịch COVID-19 nhưng xuất siêu vẫn đạt cao nhất từ trước đến nay (20 tỷ USD). Xuất khẩu của chúng ta đã vượt cả Thái Lan trong 2020. Trước khi bước vào nhiệm kỳ mới, quy mô nền kinh tế của ta đứng thứ 6 Đông Nam Á nhưng hết nhiệm kỳ chúng ta vươn lên thứ tư (hết năm nay sẽ lên thứ ba, soán ngôi của Philippines, chỉ kém Indonesia và Thái Lan). Hiện nay, Việt Nam là nước xuất siêu chứ không còn chỉ biết nhập như trước đây. Mức chênh lệch giàu nghèo giữ nông thôn và thành thì không lớn như những nước khác nhờ chủ trương xây dựng nông thôn mới. Làm cho đất nước phát triển theo hướng hài hoà XHCN.

Chỉ số hạnh phúc tăng đáng kể, nhiều nước cũng phải ngước nhìn. Công nghiệp gắn công nghệ cao ngày càng hoành tráng. Nhìn Viettel và Vinfast...thì nhiều nước Đông Nam Á phải ngước nhìn. Chẳng thế mà cư dân mạng Thái Lan chua chát thốt lên khi nghe tin xe hơi Việt Nam chiếm lĩnh thị trường thế giới, trong đó có vùng 5 chiến thuật California, họ viết "Việt Nam phát triển vượt bậc so với chúng ta nhưng có một điều chắc chắn là họ không thể bằng chúng ta về số lượng người nói tiếng Thái Lan".

Trung Quốc mang giàn khoan 981 vào lãnh hải và một số lần gây hấn với ngư dân ta. Thế nhưng chúng ta đã rất khôn khéo, khiến Tàu phải rút lui tâm phục trong hoà bình. Mở rộng quan hệ với gần 200 nước, cái độc đáo của Việt Nam là ta vừa chơi được với Mỹ và Trung Quốc, lại tốt với cả Hàn Quốc, Triều Tiên và Nhật...đó là chủ trương ngoại giao kiểu dĩ bất biến ứng vạn biến mang thương hiệu đặc sắc của riêng Việt Nam. Covid19 hay thiên tai đều bị đánh bại bởi lòng nhân ái, yêu nhân dân, yêu đồng bào của chúng ta. Quân đội ta ngày càng chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, đủ sức đánh bại bất kỳ kẻ thù nào, nếu chúng dám xâm phạm đất nước ta.

Tham nhũng được Đảng ta xem là thứ ung nhọt và lò của cụ Tổng liên tục cháy, từ diện Trung ương quản lý cho đến Uỷ viên Bộ chính trị cũng không là ngoại lệ, gần 200 người vào lò. Quyền lực bị nhốt trong lồng cơ chế, không một ai có quyền đứng cao hơn pháp luật. Mái đầu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và nhiều lãnh đạo cao cấp của Đảng đã bạc vì nỗi lo và trọng trách "gánh gian sơn trên đôi vai nặng trĩu", nhờ thế mà đất nước này mãi mãi xanh tươi. Tóc bạc, sức khỏe không tốt như người trẻ nhưng vì nặng gánh giang sơn nên bác Tổng vẫn tiếp tục nhận mệnh lệnh của tổ quốc, tiếp tục đảm đương vai trò hết sức nặng nề. Chứng tỏ uy tín và tâm huyết của cụ là rất cao, nhân dân rất tin tưởng vào người đứng đầu trong việc chèo lái con thuyền Việt Nam đến với bến bờ hạnh phúc.

Nhiệm kỳ tới, nhân dân trông chờ ở lực lượng kết hợp giữa sức mạnh của kinh nghiệm và nhiệt huyết của tuổi trẻ. Phát huy những điều mà dân thích, dân muốn, triệt tham nhũng, tiêu cực để Việt Nam thật sự mạnh giàu. Khi người dân đã đặt trọn niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng thì đó là thành đồng vững chắc nhất, to lớn nhất, đồ sộ nhất. Là điểm tựa để bật lên mà tô thắm sơn hà!  

Hải Đăng ST

Bọn vô công, rỗi nghề - Lại suy diễn thẻ căn cước gắn chíp để phá hoại chính sách mới của Nhà nước

Theo đề xuất của Bộ Công an, thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chíp điện tử đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép triển khai thực hiện trong thời gian tới. Song trước và sau khi chủ trương này được phê duyệt, một số đối tượng đã lên diễn đàn mạng xã hội công kích, đưa ra những suy đoán vô căn cứ nhằm gieo rắc hoài nghi trong dư luận, nào là gắn chíp điện tử vào thẻ CCCD để "theo dõi công dân", nào là "vi phạm đời tư cá nhân"... 

Thứ Năm, 1 tháng 4, 2021

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THÔNG TIN XẤU, ĐỘC TRÊN MẠNG XÃ HỘI

 Trong thời gian vừa qua một số cá nhân liên tục đăng tải, chia sẻ, bình luận trên mạng xã hội những thông tin phiến diện, thiếu chính xác, chưa được kiểm chứng hoặc thông tin về những vụ việc đang trong quá trình điều tra, chưa có kết luận chính thức… dẫn đến tâm lý hoang mang, phản ứng trái chiều trong dư luận xã hội, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch và các đối tượng phản động, cực đoan chính trị tuyên truyền xuyên tạc, chống phá gây mất ổn định chính trị, kinh tế, xã hội. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang sử dụng không gian mạng để chống phá trực diện khuếch trương thanh thế, cổ súy “giá trị” văn hóa phương Tây. Chúng lập những tài khoản, website giả mạo các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo bộ, ngành, địa phương, những người có uy tín, nhân vật nổi tiếng… để tung tin gieo rắc hoài nghi trong xã hội, nhất là trước những vấn đề nhạy cảm, kích động, lôi kéo người dân tụ tập trái phép, biểu tình, phá rối an ninh trật tự và có các hành vi phạm pháp.

          Để phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả tác động từ thông tin xấu, độc trên mạng xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

          Nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong đấu tranh, phản bác thông tin xấu, độc trên không gian mạng.

          Không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác, quyết liệt đấu tranh với những nhận thức không đúng, ngộ nhận, mơ hồ trước các nguồn thông tin sai trái, thù địch với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

          Chú trọng nâng cao ý thức tự giác, kỷ luật trong khi tiếp xúc thông tin; nắm vững và chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin của công dân theo quy định của Hiến pháp, Luật Tiếp cận thông tin và Luật An ninh mạng.

          Phải thực hiện nhất quán chủ trương tuyên truyền, đấu tranh là “lấy cái đẹp dẹp cái xấu, dùng tích cực để đẩy lùi tiêu cực, lấy xây để chống”.

          Kiên quyết đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các biểu hiện suy thoái, đồng thời ra sức giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

          Khi tham gia mạng xã hội, luôn nghiêm túc thực hiện điều lệ và quy định kỷ luật của Ðảng, của tổ chức mà mình là thành viên, đồng thời thể hiện là công dân gương mẫu; tỉnh táo, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi phát ngôn, chia sẻ nhận định, đánh giá về vấn đề, sự kiện, hiện tượng nào đó. Đây cũng là trách nhiệm của đảng viên nhằm góp phần bảo vệ, giữ vững uy tín của Ðảng. 

Đừng để ngập chân trong “ma trận” xuyên tạc về chủ quyền lãnh thổ!

 

Có thể nói rằng, lợi dụng vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền biển, đảo để xuyên tạc sự thật, kích động dư luận và gây rối vốn là “nghề” của các thế lực thù địch muốn chống phá Việt Nam.

Ở đâu đó, trên các trang mạng xã hội hay các diễn đàn quy tập nhiều phần tử bất mãn, rêu rao rằng: “Đảng, Nhà nước Việt Nam coi trọng việc tổ chức đại hội Đảng hơn vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo”; hoặc cố tình xuyên tạc quan điểm, đường lối, chủ trương đấu tranh giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc thông qua những “thuyết âm mưu” nhuốm màu kích động như: Việt Nam lôi bè kéo cánh, đi với nước này, chống nước kia; và rằng, không đánh nhau thì mất biển, mất đảo, thế nước lâm nguy...

Có thể tự hào khẳng định rằng, lịch sử quá trình dựng nước, giữ nước, xây dựng và phát triển đất nước đã chứng minh, trong mỗi người dân Việt Nam là một trái tim yêu nước. Lợi dụng mặt này, các đối tượng thù địch đưa ra những thông tin sai sự thật hòng bẻ lái dư luận, kích động người dân nhằm mục đích cuối cùng là xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và quân đội. Cụ thể, cùng với việc phê phán các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền Việt Nam, các đối tượng này cũng đồng thời quy chụp lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước ta “phản ứng chậm” hoặc "né tránh, không dám đối đầu, đang tâm để chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị đe dọa” (!). Càng nguy hiểm hơn khi nhiều đối tượng lợi dụng vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền biển, đảo để kích động, kêu gọi người dân “xuống đường” thể hiện lòng yêu nước, từ đó gây mất an ninh, trật tự xã hội và kiếm cớ để tiếp tục chống phá. Mưu đồ cốt lõi là khiến lòng dân mất yên, dần mất niềm tin vào lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Một thực tế là trong khi đa số người dân nhận thức đúng đắn về quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, gần như “miễn nhiễm” với những luận điệu xuyên tạc, hồ đồ và cũ rích ấy, thì vẫn còn khá nhiều người “sập bẫy”, trong đó chủ yếu là những người mới hoặc ít tiếp xúc với Internet, mạng xã hội. Sự thiếu nhận thức đúng đắn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước khiến họ chưa kịp chắt lọc thông tin đúng-sai, dễ bị cuốn vào “ma trận phản động” trên Internet. Chính vì thế cần khẳng định rằng quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta là kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia cũng như cuộc sống hòa bình, ổn định hiện có, là vấn đề chiến lược, việc đại sự, đòi hỏi phải có chủ trương, đường lối, đối sách đúng đắn, phù hợp, hiệu quả và bền vững. Do đó, chúng ta cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác trước các chiêu trò, luận điệu kêu gào, xuyên tạc, kích động để không mắc mưu những phần tử xấu và thế lực thù địch để rồi ngập chân trong thứ “ma trận” quái gở mà chúng cố tình giăng ở khắp nơi.


Mai Năm Mới (ST)

 

“ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP”

KHÔNG PHẢI LÀ LỰA CHỌN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

                                                 

Với mục đích phá hoại toàn diện về tư tưởng, tổ chức, văn hóa, đạo đức, lối sống và khối đại đoàn kết dân tộc, các thế lực thù địch không từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa. Một trong những thủ đoạn thâm độc ấy là chúng “nặn ra” hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh về các hình mẫu tư tưởng và các khẩu hiệu hành động, mà cốt lõi là lấy lý thuyết của chủ nghĩa “đa nguyên chính trị” làm nền tảng, từ đó đòi hỏi cái gọi là “đa đảng đối lập” để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.
Thực hiện mục tiêu này, một mặt, các thế lực thù địch tăng cường tuyên truyền cổ xúy cho chế độ “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, “nền dân chủ tư sản” theo mô hình các nước tư bản chủ nghĩa; mặt khác, chúng ra sức phê phán, xuyên tạc, lên án, đả phá chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng cộng sản duy nhất cầm quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vậy thực chất “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là gì? Nó có phải là dấu hiệu và cội nguồn bảo đảm cho nền dân chủ thực sự trong xã hội hay không? Ở Việt Nam có nhất thiết phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hay không?
Đa nguyên chính trị là thuật ngữ xuất hiện từ rất lâu trong khoa học chính trị và đời sống chính trị thế giới, nó bắt nguồn từ “chủ nghĩa đa nguyên” ở các nước phương Tây. Đa nguyên chính trị, xét về bản chất là phản ánh đặc trưng hệ thống chính trị của một quốc gia có nhiều cực, nhiều mục tiêu, nhiều con đường, nhiều đảng phái được tự do hoạt động và đại biểu cho những lợi ích khác nhau. Đa nguyên chính trị gắn liền với thể chế chính trị đa đảng. Với lý thuyết của chủ nghĩa đa nguyên chính trị, các thế lực phản động ca ngợi nền dân chủ tư sản và đòi “cải tiến nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” nhằm tạo ra cái gọi là “sự tự quản” của người lao động và “quyền tự quyết” của nhân dân dưới chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cần thấy rằng, thể chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là dấu hiệu của dân chủ, cũng không phải là cội nguồn bảo đảm cho dân chủ thực sự. Ngược lại, chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng duy nhất cầm quyền cũng không phải là nguyên nhân của mất dân chủ. Cái gốc để bảo đảm cho nền dân chủ, chế độ dân chủ thực sự trong xã hội là tư liệu sản xuất nằm trong tay ai, phục vụ cho ai?
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tư liệu sản xuất nằm trong tay thiểu số nhà tư bản của giai cấp tư sản (GCTS), vì lẽ ấy nền dân chủ trong xã hội tư bản mang bản chất của GCTS. Trong khi ấy, đại đa số quần chúng nhân dân không có tư liệu sản xuất, chỉ là những người làm thuê, bán sức lao động cho ông chủ tư bản để kiếm sống. Mặc dù hiện nay, vị trí của giai cấp công nhân (GCCN) trong các nước tư bản đã có thay đổi, đời sống vật chất, tinh thần của họ được cải thiện. Một bộ phận công nhân có cổ phần trong các nhà máy, công ty, tập đoàn tư bản, và do đó, trên thực tế họ không hoàn toàn là “vô sản” (không có tài sản) như thời kỳ trước đây. Vị trí của GCCN đã có thay đổi nhất định, song địa vị chính trị của họ trong xã hội tư bản vẫn không hề thay đổi. Giai cấp công nhân hiện đại vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư, không có quyền sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, nên xét về kinh tế họ vẫn là những người bị bóc lột, xét về chính trị họ vẫn là giai cấp bị thống trị. Ngược lại, GCTS, chế độ tư bản dù vẫn còn tiềm năng phát triển do có lịch sử tồn tại lâu đời, có tiềm lực về tài chính, quân sự, khoa học kỹ thuật, có sự điều chỉnh, thích nghi nhất định, song bản chất vẫn là những kẻ bóc lột; xét về chính trị, chúng vẫn là giai cấp thống trị. Lẽ dĩ nhiên, về cơ sở xã hội, nền dân chủ tư sản được xây dựng trên nền tảng quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong xã hội tư bản cũng chỉ là nền dân chủ phục vụ thiểu số người trong xã hội, phục vụ giai cấp tư sản không hơn không kém. V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản dùng trăm phương nghìn kế, - chế độ dân chủ “thuần túy” càng phát triển, thì những mưu kế đó càng tinh xảo và có hiệu quả, - để gạt quần chúng ra, không cho họ tham gia quản lý nhà nước” (5), “Chế độ dân chủ tư sản, tuy là một tiến bộ lịch sử vĩ đại so với thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là - và dưới chế độ tư bản nó không thể không là - một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có, một cái cạm bẫy và một cái mồi giả dối đối với những người bị bóc lột, đối với những người nghèo” (6).
Trong khi đó, chế độ đa đảng trong hệ thống chính trị tư sản được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, các học giả tư sản tung hô cũng chỉ là những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, mị dân. Thực chất đó là sự thỏa thuận có nguyên tắc để phân chia quyền lực và lợi ích giữa các phe cánh của một đảng lớn duy nhất trong xã hội - đảng của những nhà tư bản độc quyền. Thực tế, chế độ đa đảng ở phương Tây cũng chỉ dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị. Nghĩa là, chính trị là chính trị của một giai cấp, một đảng hay nhiều đảng thì vẫn là phục vụ một giai cấp nhất định - GCTS. Do vậy, chế độ đa đảng ở nhiều nước phương Tây về bản chất vẫn chỉ nhằm phục vụ chế độ tư bản, GCTS, cụ thể hơn là chính đảng cầm quyền. Các đảng phái cánh tả, cánh hữu, đảng phái được coi là đối lập với đảng cầm quyền, xét đến cùng, vẫn phục vụ lợi ích GCTS, hoạt động trong khuôn khổ, trật tự cho phép của chính đảng tư sản cầm quyền. Và đương nhiên đa đảng nhưng thực chất không phải là đa đảng đối lập về mục tiêu và lợi ích.
Mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay là, thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, “xâm lăng về văn hóa”,… nhằm phá hoại tư tưởng, thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, vào tính tất yếu lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam; đòi xóa bỏ Điều 4, Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng Nhà nước theo mô hình “tam quyền phân lập”,... từng bước hình thành tư tưởng, quan điểm đối lập, phần tử chống đối, thành lập nên các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập tại Việt Nam, tiến tới thiết lập các đảng phái chính trị đối lập để hiện thực hóa mục tiêu “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam. Do vậy, đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, trong đó có tính chất phản cách mạng của chủ nghĩa đa nguyên chính trị là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết, là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân và toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt.
1. Ở Việt Nam hiện nay không cần thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”
Mục tiêu cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn thể nhân dân Việt Nam là “Độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc”. Tuy nhiên, mục tiêu ấy ở nước ta vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX được khảo nghiệm, kiểm chứng và trao cơ hội cho tất cả các giai tầng trong xã hội, các đảng phái chính trị, các cá nhân,... Trong thời kỳ này, các phong trào yêu nước, các cuộc cách mạng theo các quan điểm, lập trường phi vô sản được tiến hành ở Việt Nam dưới nhiều hình thức song đều thất bại. Trong thế kỷ XX, ở nước ta đã từng xuất hiện và tồn tại nhiều đảng phái khác nhau, như: Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách), Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam,… Tuy nhiên, các đảng phái chính trị này không khẳng định được sứ mệnh lịch sử và vai trò lãnh đạo dân tộc Việt Nam. Lịch sử vốn rất công bằng, khách quan. Nhân dân Việt Nam luôn chính xác khi xem xét, đánh giá và lựa chọn cho mình con đường duy nhất đúng đắn, một sự nghiệp vẻ vang, một chính đảng cách mạng chân chính - Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời, tồn tại, lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam, là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm tất yếu của lịch sử, vừa tuân theo quy luật chung, vừa tuân theo quy luật đặc thù, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc” (3). Ỏ Việt Nam, ngay sau khi giành được chính quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, đảng duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội, không chia sẻ quyền lực cho bất kỳ đảng phái chính trị nào. Đồng thời, Đảng là bộ phận của hệ thống chính trị và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đó là một tất yếu khách quan. Nhân dân Việt Nam không muốn và không cần có thêm bất kỳ một đảng phái chính trị nào khác trên đất nước này, vì vậy, cũng không cần thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.
2. Ở Việt Nam không có cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”
Dân chủ, phát triển, ổn định và tiến bộ là những mục tiêu thuộc về lý tưởng của loài người, có giá trị phổ quát chung của toàn nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, những mục tiêu này có được không đồng nghĩa với vấn đề phải nhất quyết thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trên thực tế, ở nhiều quốc gia, dân tộc đã và đang thực hiện cái gọi là “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” cũng không phải đã có dân chủ triệt để, đất nước và con người phát triển, chính trị ổn định và tiến bộ, công bằng xã hội được thực thi theo đúng nghĩa. Bởi vì, dân chủ và đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là những khái niệm hoàn toàn khác nhau về bản chất. Đây cũng là những vấn đề không tỷ lệ thuận với nhau, không có mối quan hệ biện chứng với nhau, do vậy, chúng không phải là tiền đề, cơ sở bảo đảm duy nhất cho nhau cùng tồn tại và phát triển.
Thế giới quan của “chủ nghĩa đa nguyên chính trị” là chủ nghĩa duy tâm, phủ nhận tính thống nhất của thế giới. Lý thuyết ấy cho rằng, thế giới là sự kết hợp các nguyên thể, các yếu tố độc lập và tồn tại riêng biệt. Họ cường điệu và thổi phồng cái riêng, coi cái riêng là cái duy nhất, cái phong phú đa dạng và vĩnh hằng, là cái vốn có. Họ cho rằng: “xã hội tư bản chủ nghĩa được phân chia thành vô số các nhóm, các tầng lớp và tập đoàn; chúng được phân biệt với nhau bằng tài sản và thu nhập, bằng thế giới quan và tín ngưỡng, bằng đảng phái, bằng nghề nghiệp và bằng vô số những tiêu chuẩn khác nữa” (1). Do đó, họ cố tình che đậy tính chất đối kháng về lợi ích giai cấp trong xã hội, làm lu mờ vấn đề lợi ích chung, mục tiêu chung cao đẹp của con người trong xã hội, mà chủ yếu bảo vệ và cổ vũ cho tư tưởng cá nhân, cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi, là tiền đề thực hiện nguyên tắc “chia để trị” trong lòng xã hội xã hội chủ nghĩa. Cao hơn là chúng muốn phủ nhận sự phân hóa xã hội, phân chia giai cấp, tính chất đối kháng giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đặc biệt là phủ nhận vai trò và hạ uy tín của các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, nhiều quốc gia, dân tộc đang thực hiện theo thể chế được gọi là “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Tuy một vài nước có thu nhập bình quân đầu người và GDP hàng năm tương đối cao, song phần lớn tài sản và sự thụ hưởng giá trị vật chất và tinh thần lại không thuộc về đa số nhân dân lao động (giai cấp công nhân, giai cấp nông dân) mà lại nằm chủ yếu trong tay của một bộ phận người trong xã hội - đó là các ông chủ tư bản, các nhà tài phiệt, là giai cấp tư sản. Ở các nước tư bản đang tồn tại nhiều đảng phái chính trị với tên gọi khác nhau, song thực chất các đảng chính trị cầm quyền vẫn chỉ thuộc đảng của giai cấp tư sản. Các chính đảng này không bảo vệ cho quyền lợi, không phản ánh nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Khẩu hiệu “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mà họ rêu rao cũng chỉ là luận điệu tuyên truyền có dụng ý chính trị mị dân. Vì lẽ đó, quan điểm của các học giả tư sản hiện đại, tiêu biểu là nhà chính trị học, tương lai học người Mỹ - Anvin Tôphơ (Anvin Toffler) trong tác phẩm “Làn sóng thứ ba”(The Third Wave) xuất bản năm 1980 vẫn hoàn toàn sai trái: “Trong thế kỷ XXI, nền dân chủ tư sản vẫn tồn tại và nhà nước tư sản hiện nay vẫn là quyền lực chính trị tốt nhất cho làn sóng đó phát triển”, “Nền văn minh làn sóng thứ ba bắt đầu hàn gắn mối bất hòa giữa người sản xuất và người tiêu thụ, làm nổi lên nền kinh tế “sản-tiêu” của ngày mai. Đây có thể là nền văn minh nhân đạo thật sự đầu tiên của lịch sử” (2).
Có thể thấy rằng, “chủ nghĩa đa nguyên” là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới quan duy tâm, là “công cụ lý luận”, “vũ khí tư tưởng” để các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, phủ nhận vai trò duy nhất lãnh đạo xã hội của các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng phủ nhận lợi ích chung, mục tiêu chung cao cả, tốt đẹp, nhân văn; chúng đang muốn hướng lái con người và xã hội vào chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi, cuối cùng là hướng lái Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bản thân lý thuyết này đã không phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với bản chất nhân văn, nhân đạo của con người Việt Nam. Do vậy, không có cơ sở lý luận và thực tiễn tồn tại “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.
3. Yêu cầu thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” thực chất là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục thu được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định vững chắc. Chính vì lẽ đó, để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị, phản động, thực dụng đã, đang và vẫn sẽ tìm mọi cách tấn công và chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.
Mục tiêu và bản chất của chúng là nhằm làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là vai trò của Quân đội và Công an, gây chia rẽ nội bộ từ trong Đảng, chia rẽ và phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn về chính trị-xã hội, tạo điều kiện, tiền đề cho việc ra đời và “công khai hóa”, “hợp pháp hóa” các tư tưởng đối lập, hình thành và phát triển các lực lượng, tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, giành giật quần chúng và từ đó cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đời sống chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam hơn bao giờ hết, luôn nghiêm khắc và có trách nhiệm với sứ mệnh lãnh đạo của mình, gắn vận mệnh của mình với vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Đảng không bảo thủ, độc đoán, chuyên quyền, xa rời những nguyên lý và nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của mình. Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, tập thể lãnh đạo gắn với cá nhân phụ trách, quan hệ gắn bó máu thịt với quần chúng nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, là hạt nhân chính trị, lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam, đó là tất yếu khách quan. Ngược lại, các quan điểm tuyên truyền chống phá, xuyên tạc và yêu cầu thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam của các thế lực thù địch đều là sai trái, phản động và không có cơ sở hiện thực. Nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam hiện nay và mãi mãi mai sau không muốn và không cần thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”; đồng thời, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, để đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” nói chung, luận điệu đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam nói riêng, các cấp, các ngành và toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt những quan điểm, chủ trương của Đảng, nhất là Chỉ thị 34 ngày 17/4/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị nói chung và công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống “diễn biến hòa bình” nói riêng, xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, do đó cần: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức và tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị các cấp làm lực lượng xung kích, nòng cốt trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và trên không gian mạng; phản bác các quan điểm sai trái, lệch lạc, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội./.

 

TƯ CÁCH GÌ ĐỂ PHÁN QUYẾT VỀ NHÂN QUYỀN CỦA VIỆT NAM?


Mới đây, tổ chức Theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW) ra thông cáo báo chí lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền với nội dung “Việt Nam nằm trong số ít nhất 83 chính phủ trên thế giới đã dùng đại dịch COVID-19 để biện minh cho hành động vi phạm quyền tự do ngôn luận và hội họp ôn hòa của người dân”. Trong báo cáo này, HRW cho rằng, trong năm 2020, chính quyền Việt Nam đã gia tăng trấn áp những người cổ vũ cho các quyền dân sự và chính trị cơ bản, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận và quyền lập hội… Thậm chí, một quan chức của tổ chức này còn trắng trợn vu cáo khi cho rằng: năm 2020 “lại là một năm đen tối nữa cho nhân quyền ở Việt Nam”.
Để chứng minh cho lập luận xuyên tạc ấy, HRW đã liệt kê một số bản án dành cho các đối tượng vi phạm pháp luật thời gian qua mà HRW gắn cho các đối tượng đó một cái tên rất kêu "Tù nhân lương tâm". Xin thưa quý HRW rằng những cái tên mà quý Ngài đề cập đến như: Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn, Phạm Chí Dũng, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư, Phạm Đoan Trang…Tất cả những người này đều phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo Điều 117, Bộ luật Hình sự; đã vi phạm pháp luật và bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tát nước theo mưa, trang fanpage Việt Tân đã lợi dụng ảnh hưởng của Báo cáo nhân quyền HRW đối với Việt Nam để “chế tác” nhiều tấm thiệp gửi đến các “tù nhân lương tâm” như Lê Đình Lượng, Nguyễn Văn Hoá, Nguyễn Năng Tĩnh, Hoàng Đức Bình… với ngôn từ lố bịch. Đây rõ ràng là một chiêu trò mang màu sắc chính trị của HRW và các tổ chức phản động như Việt Tân, cố tình xuyên tạc về tình hình chính trị, mục đích hướng lái dư luận theo chiều hướng tiêu cực nhằm chống phá đất nước Việt Nam. Mục đích của cái danh “tù nhân lương tâm” là cổ súy, bảo vệ cho những hành vi xem thường luật pháp, gây rối xã hội, chống phá chế độ, xâm phạm an ninh quốc gia, từ đó tạo thêm vây cánh và nhân rộng “chân rết” phục vụ cho những hành động chống phá Việt Nam thông qua các vấn đề về tự do, tôn giáo và nhân quyền. Tiếc rằng, trong dư luận vẫn còn không ít người nhận thức đơn giản, cả tin trước những luận điệu sai sự thật mà những kẻ mang mác “tù nhân lương tâm” nhưng thực chất lại đang bán rẻ lợi ích của quốc gia, dân tộc dựng lên.
Sao HRW không đả động gì đến nhân quyền của một số nước phương tây, nhất là USA trong bầu cử vừa qua nhỉ? tự do ư? nhân quyền ư? khi mà những "mỹ từ" ấy đã đập ngay lại thể chế luôn tự cho mình đặc ân ban phát, đánh giá, áp đặt, xuất khẩu nhân quyền, tự do kiểu Mỹ để người dân vào làm náo loạn Đồi Capital, một biểu tượng của trung tầm quyền lực bậc nhất thế giới. Do vậy Tôi khuyên HRW và Việt Tân hãy đến đấy để đòi tự do, nhân quyền. Việt Nam chúng tôi không phải nói nhiều. Không tự do, nhân quyền sao người dân Việt Nam tuyệt đại đa số tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành quản lý của Nhà nước; tình hình chính trị, xã hội ổn định; kinh tế phát triển; vị thế ngày càng được nâng cao; là điểm sáng trong phòng, chống Covid - 19…./.