“ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP”
KHÔNG PHẢI LÀ LỰA CHỌN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Với mục đích phá hoại toàn diện về tư tưởng, tổ chức, văn
hóa, đạo đức, lối sống và khối đại đoàn kết dân tộc, các thế lực thù địch không
từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa. Một trong những thủ đoạn
thâm độc ấy là chúng “nặn ra” hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh về các hình mẫu tư
tưởng và các khẩu hiệu hành động, mà cốt lõi là lấy lý thuyết của chủ nghĩa “đa
nguyên chính trị” làm nền tảng, từ đó đòi hỏi cái gọi là “đa đảng đối lập” để
chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.
Thực hiện mục tiêu này, một mặt, các thế lực thù
địch tăng cường tuyên truyền cổ xúy cho chế độ “đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập”, “nền dân chủ tư sản” theo mô hình các nước tư bản chủ nghĩa; mặt khác,
chúng ra sức phê phán, xuyên tạc, lên án, đả phá chế độ nhất nguyên chính trị,
một đảng cộng sản duy nhất cầm quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vậy thực chất “đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập” là gì? Nó có phải là dấu hiệu và cội nguồn bảo đảm cho nền dân chủ thực sự
trong xã hội hay không? Ở Việt Nam có nhất thiết phải thực hiện đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập hay không?
Đa nguyên chính trị là thuật ngữ xuất hiện từ rất
lâu trong khoa học chính trị và đời sống chính trị thế giới, nó bắt nguồn từ
“chủ nghĩa đa nguyên” ở các nước phương Tây. Đa nguyên chính trị, xét về bản chất
là phản ánh đặc trưng hệ thống chính trị của một quốc gia có nhiều cực, nhiều mục
tiêu, nhiều con đường, nhiều đảng phái được tự do hoạt động và đại biểu cho những
lợi ích khác nhau. Đa nguyên chính trị gắn liền với thể chế chính trị đa đảng.
Với lý thuyết của chủ nghĩa đa nguyên chính trị, các thế lực phản động ca ngợi
nền dân chủ tư sản và đòi “cải tiến nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” nhằm tạo ra
cái gọi là “sự tự quản” của người lao động và “quyền tự quyết” của nhân dân dưới
chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cần thấy rằng, thể chế đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập không phải là dấu hiệu của dân chủ, cũng không phải
là cội nguồn bảo đảm cho dân chủ thực sự. Ngược lại, chế độ nhất nguyên chính
trị, một đảng duy nhất cầm quyền cũng không phải là nguyên nhân của mất dân chủ.
Cái gốc để bảo đảm cho nền dân chủ, chế độ dân chủ thực sự trong xã hội là tư
liệu sản xuất nằm trong tay ai, phục vụ cho ai?
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tư liệu sản xuất
nằm trong tay thiểu số nhà tư bản của giai cấp tư sản (GCTS), vì lẽ ấy nền dân
chủ trong xã hội tư bản mang bản chất của GCTS. Trong khi ấy, đại đa số quần
chúng nhân dân không có tư liệu sản xuất, chỉ là những người làm thuê, bán sức
lao động cho ông chủ tư bản để kiếm sống. Mặc dù hiện nay, vị trí của giai cấp
công nhân (GCCN) trong các nước tư bản đã có thay đổi, đời sống vật chất, tinh
thần của họ được cải thiện. Một bộ phận công nhân có cổ phần trong các nhà máy,
công ty, tập đoàn tư bản, và do đó, trên thực tế họ không hoàn toàn là “vô sản”
(không có tài sản) như thời kỳ trước đây. Vị trí của GCCN đã có thay đổi nhất định,
song địa vị chính trị của họ trong xã hội tư bản vẫn không hề thay đổi. Giai cấp
công nhân hiện đại vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư, không có quyền sở hữu các
tư liệu sản xuất chủ yếu, nên xét về kinh tế họ vẫn là những người bị bóc lột,
xét về chính trị họ vẫn là giai cấp bị thống trị. Ngược lại, GCTS, chế độ tư bản
dù vẫn còn tiềm năng phát triển do có lịch sử tồn tại lâu đời, có tiềm lực về
tài chính, quân sự, khoa học kỹ thuật, có sự điều chỉnh, thích nghi nhất định,
song bản chất vẫn là những kẻ bóc lột; xét về chính trị, chúng vẫn là giai cấp
thống trị. Lẽ dĩ nhiên, về cơ sở xã hội, nền dân chủ tư sản được xây dựng trên
nền tảng quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong xã hội tư bản cũng chỉ là nền dân chủ phục vụ thiểu số người trong
xã hội, phục vụ giai cấp tư sản không hơn không kém. V.I.Lênin đã khẳng định:
“Trong chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản dùng trăm phương nghìn kế, - chế độ
dân chủ “thuần túy” càng phát triển, thì những mưu kế đó càng tinh xảo và có hiệu
quả, - để gạt quần chúng ra, không cho họ tham gia quản lý nhà nước” (5), “Chế
độ dân chủ tư sản, tuy là một tiến bộ lịch sử vĩ đại so với thời trung cổ, song
trước sau nó vẫn là - và dưới chế độ tư bản nó không thể không là - một chế độ
dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu
có, một cái cạm bẫy và một cái mồi giả dối đối với những người bị bóc lột, đối
với những người nghèo” (6).
Trong khi đó, chế độ đa đảng trong hệ thống
chính trị tư sản được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, các học giả tư sản
tung hô cũng chỉ là những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, mị dân. Thực chất
đó là sự thỏa thuận có nguyên tắc để phân chia quyền lực và lợi ích giữa các
phe cánh của một đảng lớn duy nhất trong xã hội - đảng của những nhà tư bản độc
quyền. Thực tế, chế độ đa đảng ở phương Tây cũng chỉ dựa trên cơ sở nhất nguyên
chính trị. Nghĩa là, chính trị là chính trị của một giai cấp, một đảng hay nhiều
đảng thì vẫn là phục vụ một giai cấp nhất định - GCTS. Do vậy, chế độ đa đảng ở
nhiều nước phương Tây về bản chất vẫn chỉ nhằm phục vụ chế độ tư bản, GCTS, cụ
thể hơn là chính đảng cầm quyền. Các đảng phái cánh tả, cánh hữu, đảng phái được
coi là đối lập với đảng cầm quyền, xét đến cùng, vẫn phục vụ lợi ích GCTS, hoạt
động trong khuôn khổ, trật tự cho phép của chính đảng tư sản cầm quyền. Và
đương nhiên đa đảng nhưng thực chất không phải là đa đảng đối lập về mục tiêu
và lợi ích.
Mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch chống
phá cách mạng Việt Nam hiện nay là, thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”,
bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi
chính trị hóa” lực lượng vũ trang, “xâm lăng về văn hóa”,… nhằm phá hoại tư tưởng,
thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, vào tính tất
yếu lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam; đòi xóa bỏ Điều 4, Hiến pháp Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng Nhà nước theo mô hình “tam quyền
phân lập”,... từng bước hình thành tư tưởng, quan điểm đối lập, phần tử chống đối,
thành lập nên các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập tại Việt Nam, tiến tới
thiết lập các đảng phái chính trị đối lập để hiện thực hóa mục tiêu “đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam. Do vậy, đấu tranh vạch trần bản chất,
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, trong đó
có tính chất phản cách mạng của chủ nghĩa đa nguyên chính trị là nhiệm vụ hết sức
quan trọng và cần thiết, là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của cán bộ, đảng
viên, quần chúng nhân dân và toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay,
trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt.
1. Ở Việt Nam hiện nay không cần thực hiện “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập”
Mục tiêu cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn
thể nhân dân Việt Nam là “Độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc”. Tuy nhiên, mục
tiêu ấy ở nước ta vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX được khảo nghiệm,
kiểm chứng và trao cơ hội cho tất cả các giai tầng trong xã hội, các đảng phái
chính trị, các cá nhân,... Trong thời kỳ này, các phong trào yêu nước, các cuộc
cách mạng theo các quan điểm, lập trường phi vô sản được tiến hành ở Việt Nam
dưới nhiều hình thức song đều thất bại. Trong thế kỷ XX, ở nước ta đã từng xuất
hiện và tồn tại nhiều đảng phái khác nhau, như: Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc),
Việt Nam cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách), Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội
Việt Nam,… Tuy nhiên, các đảng phái chính trị này không khẳng định được sứ mệnh
lịch sử và vai trò lãnh đạo dân tộc Việt Nam. Lịch sử vốn rất công bằng, khách
quan. Nhân dân Việt Nam luôn chính xác khi xem xét, đánh giá và lựa chọn cho
mình con đường duy nhất đúng đắn, một sự nghiệp vẻ vang, một chính đảng cách mạng
chân chính - Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời, tồn tại, lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam, là sự lựa chọn tất
yếu của lịch sử.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm tất yếu
của lịch sử, vừa tuân theo quy luật chung, vừa tuân theo quy luật đặc thù, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc” (3). Ỏ Việt Nam, ngay sau khi giành được chính quyền Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, đảng duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị
và toàn bộ xã hội, không chia sẻ quyền lực cho bất kỳ đảng phái chính trị nào.
Đồng thời, Đảng là bộ phận của hệ thống chính trị và hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, đó là một tất yếu khách quan. Nhân dân Việt Nam không
muốn và không cần có thêm bất kỳ một đảng phái chính trị nào khác trên đất nước
này, vì vậy, cũng không cần thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở
Việt Nam.
2. Ở Việt Nam không có cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”
Dân chủ, phát triển, ổn định và tiến bộ là những
mục tiêu thuộc về lý tưởng của loài người, có giá trị phổ quát chung của toàn
nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, những mục tiêu này có được
không đồng nghĩa với vấn đề phải nhất quyết thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập. Trên thực tế, ở nhiều quốc gia, dân tộc đã và đang thực hiện cái gọi
là “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” cũng không phải đã có dân chủ triệt để,
đất nước và con người phát triển, chính trị ổn định và tiến bộ, công bằng xã hội
được thực thi theo đúng nghĩa. Bởi vì, dân chủ và đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập là những khái niệm hoàn toàn khác nhau về bản chất. Đây cũng là những vấn
đề không tỷ lệ thuận với nhau, không có mối quan hệ biện chứng với nhau, do vậy,
chúng không phải là tiền đề, cơ sở bảo đảm duy nhất cho nhau cùng tồn tại và
phát triển.
Thế giới quan của “chủ nghĩa đa nguyên chính trị”
là chủ nghĩa duy tâm, phủ nhận tính thống nhất của thế giới. Lý thuyết ấy cho rằng,
thế giới là sự kết hợp các nguyên thể, các yếu tố độc lập và tồn tại riêng biệt.
Họ cường điệu và thổi phồng cái riêng, coi cái riêng là cái duy nhất, cái phong
phú đa dạng và vĩnh hằng, là cái vốn có. Họ cho rằng: “xã hội tư bản chủ nghĩa
được phân chia thành vô số các nhóm, các tầng lớp và tập đoàn; chúng được phân
biệt với nhau bằng tài sản và thu nhập, bằng thế giới quan và tín ngưỡng, bằng
đảng phái, bằng nghề nghiệp và bằng vô số những tiêu chuẩn khác nữa” (1). Do
đó, họ cố tình che đậy tính chất đối kháng về lợi ích giai cấp trong xã hội,
làm lu mờ vấn đề lợi ích chung, mục tiêu chung cao đẹp của con người trong xã hội,
mà chủ yếu bảo vệ và cổ vũ cho tư tưởng cá nhân, cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi, là tiền
đề thực hiện nguyên tắc “chia để trị” trong lòng xã hội xã hội chủ nghĩa. Cao
hơn là chúng muốn phủ nhận sự phân hóa xã hội, phân chia giai cấp, tính chất đối
kháng giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, đặc biệt là phủ nhận vai trò và hạ uy tín của các Đảng Cộng sản,
trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, nhiều quốc gia, dân tộc đang thực hiện
theo thể chế được gọi là “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Tuy một vài nước
có thu nhập bình quân đầu người và GDP hàng năm tương đối cao, song phần lớn
tài sản và sự thụ hưởng giá trị vật chất và tinh thần lại không thuộc về đa số
nhân dân lao động (giai cấp công nhân, giai cấp nông dân) mà lại nằm chủ yếu
trong tay của một bộ phận người trong xã hội - đó là các ông chủ tư bản, các
nhà tài phiệt, là giai cấp tư sản. Ở các nước tư bản đang tồn tại nhiều đảng
phái chính trị với tên gọi khác nhau, song thực chất các đảng chính trị cầm quyền
vẫn chỉ thuộc đảng của giai cấp tư sản. Các chính đảng này không bảo vệ cho quyền
lợi, không phản ánh nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Khẩu
hiệu “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mà họ rêu rao cũng chỉ là luận điệu
tuyên truyền có dụng ý chính trị mị dân. Vì lẽ đó, quan điểm của các học giả tư
sản hiện đại, tiêu biểu là nhà chính trị học, tương lai học người Mỹ - Anvin
Tôphơ (Anvin Toffler) trong tác phẩm “Làn sóng thứ ba”(The Third Wave) xuất bản
năm 1980 vẫn hoàn toàn sai trái: “Trong thế kỷ XXI, nền dân chủ tư sản vẫn tồn
tại và nhà nước tư sản hiện nay vẫn là quyền lực chính trị tốt nhất cho làn
sóng đó phát triển”, “Nền văn minh làn sóng thứ ba bắt đầu hàn gắn mối bất hòa
giữa người sản xuất và người tiêu thụ, làm nổi lên nền kinh tế “sản-tiêu” của
ngày mai. Đây có thể là nền văn minh nhân đạo thật sự đầu tiên của lịch sử”
(2).
Có thể thấy rằng, “chủ nghĩa đa nguyên” là sản
phẩm của giai cấp tư sản với thế giới quan duy tâm, là “công cụ lý luận”, “vũ
khí tư tưởng” để các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, phủ nhận vai trò
duy nhất lãnh đạo xã hội của các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt
Nam. Chúng phủ nhận lợi ích chung, mục tiêu chung cao cả, tốt đẹp, nhân văn;
chúng đang muốn hướng lái con người và xã hội vào chủ nghĩa cá nhân, cục bộ,
ích kỷ, hẹp hòi, cuối cùng là hướng lái Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa. Bản thân lý thuyết này đã không phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với
bản chất nhân văn, nhân đạo của con người Việt Nam. Do vậy, không có cơ sở lý
luận và thực tiễn tồn tại “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.
3. Yêu cầu thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập” thực chất là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng
Việt Nam của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
tiếp tục thu được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử; đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; uy tín và vị thế của nước ta trên trường
quốc tế ngày càng được khẳng định vững chắc. Chính vì lẽ đó, để chống phá cách
mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị, phản động,
thực dụng đã, đang và vẫn sẽ tìm mọi cách tấn công và chống phá, phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập” ở Việt Nam.
Mục tiêu và bản chất của chúng là nhằm làm mất
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là vai trò của Quân đội và
Công an, gây chia rẽ nội bộ từ trong Đảng, chia rẽ và phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, gây bất ổn về chính trị-xã hội, tạo điều kiện, tiền đề cho việc
ra đời và “công khai hóa”, “hợp pháp hóa” các tư tưởng đối lập, hình thành và
phát triển các lực lượng, tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam,
giành giật quần chúng và từ đó cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới
thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đời sống chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam hơn bao giờ hết, luôn
nghiêm khắc và có trách nhiệm với sứ mệnh lãnh đạo của mình, gắn vận mệnh của
mình với vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Đảng không bảo thủ, độc đoán, chuyên
quyền, xa rời những nguyên lý và nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
mình. Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, tập thể lãnh đạo gắn với cá nhân phụ
trách, quan hệ gắn bó máu thịt với quần chúng nhân dân, dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, xét cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn đều cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, là hạt nhân chính
trị, lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam, đó là tất yếu
khách quan. Ngược lại, các quan điểm tuyên truyền chống phá, xuyên tạc và yêu cầu
thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam của các thế lực thù
địch đều là sai trái, phản động và không có cơ sở hiện thực. Nhân dân Việt Nam,
dân tộc Việt Nam hiện nay và mãi mãi mai sau không muốn và không cần thực hiện
“đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”; đồng thời, kiên quyết đấu tranh phản
bác các quan điểm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực
hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, để đấu tranh làm thất
bại chiến lược “diễn biến hòa bình” nói chung, luận điệu đòi “đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam nói riêng, các cấp, các ngành và toàn bộ hệ thống
chính trị, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam cần tiếp
tục quán triệt và thực hiện tốt những quan điểm, chủ trương của Đảng, nhất là
Chỉ thị 34 ngày 17/4/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường
đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa. Đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính
trị nói chung và công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống “diễn biến
hòa bình” nói riêng, xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới, do đó cần: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội, xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng;
vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”. Tiếp tục đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức và tinh
thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Thường xuyên
quan tâm, chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị các cấp
làm lực lượng xung kích, nòng cốt trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị,
trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa và trên không gian mạng; phản bác các quan điểm sai trái, lệch lạc,
thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét