Thứ Ba, 31 tháng 5, 2022

Vun đắp mối quan hệ hữu nghị truyền thống, gắn bó từ lâu đời

 

Giao lưu HNQPBG Việt Nam-Campuchia là một trong những hoạt động lớn, có ý nghĩa biểu tượng không chỉ bởi đây là lần đầu tiên sự kiện được tổ chức mà còn có ý nghĩa hơn khi năm 2022 đã được hai nước xác định là “Năm Hữu nghị Việt Nam-Campuchia, Campuchia-Việt Nam” nhằm kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (24-6-1967 / 24-6-2022) và cũng là năm kỷ niệm 45 năm “Con đường tiến tới đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot” của Thủ tướng Samdech Techo Hun Sen (20-6-1977 / 20-6-2022).

Ngay từ sáng sớm, bầu không khí rộn ràng, tươi vui, thắm tình đoàn kết, hữu nghị ngập tràn cặp cửa khẩu quốc tế Hoa Lư-Trapeang Sre. Trong tiếng quân nhạc, đông đảo quần chúng nhân dân hân hoan vẫy cờ chào đón đoàn đại biểu Việt Nam do Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu và đoàn đại biểu Campuchia do Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Samdech Pichey Sena Tea Banh dẫn đầu cùng tham dự các hoạt động trong khuôn khổ Giao lưu tại huyện Snuol và huyện Lộc Ninh.

Trong những năm qua, cùng với việc không ngừng tăng cường và củng cố quan hệ hữu nghị hợp tác, Việt Nam và Campuchia luôn khẳng định tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau bởi biên giới, lãnh thổ luôn là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Trong khi đó, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội khu vực biên giới, tạo thuận lợi cho việc phát triển giao lưu mọi mặt giữa chính quyền và người dân hai bên biên giới cũng là vì lợi ích và phồn vinh của hai nước Việt Nam-Campuchia nói chung. Với tinh thần như vậy, việc Bộ trưởng Phan Văn Giang và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh thực hiện nghi thức chào cột mốc chủ quyền, trồng cây hữu nghị và chứng kiến tuần tra chung của lực lượng bảo vệ biên giới hai nước một lần nữa góp phần nêu cao ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân cùng chung tay xây dựng một đường biên giới đất liền Việt Nam-Campuchia hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đúng với phương châm quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa hai nước.

Là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, cùng uống chung dòng nước mát lành của dòng sông Mê Công, hai dân tộc Việt Nam-Campuchia vốn có mối quan hệ gắn bó, truyền thống, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau từ lâu đời. Trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc trước kia cũng như xây dựng đất nước ngày nay, hai nước luôn kề vai sát cánh bên nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi, dành cho nhau sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và quý báu. Như khẳng định của Bộ trưởng Phan Văn Giang, mối quan hệ tốt đẹp ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thái thượng hoàng Norodom Sihanouk đặt nền móng và được các thế hệ lãnh đạo hai nước dày công vun đắp. Lịch sử đã minh chứng mối quan hệ Việt Nam-Campuchia trở thành yếu tố sống còn đối với vận mệnh của hai đất nước. “Thế hệ trẻ hai nước hôm nay may mắn được sinh ra và lớn lên khi hai đất nước được hoàn toàn giải phóng, được sống trong hòa bình, độc lập, được học tập và rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Các cháu học sinh sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước. Mong rằng các cháu sẽ luôn cố gắng học tập, rèn luyện, giành được nhiều thành tích, phấn đấu vì tương lai của đất nước Chùa Tháp tươi đẹp, và sẽ cùng với các bạn trẻ Việt Nam vun đắp, phát huy truyền thống đoàn kết gắn bó Việt Nam-Campuchia”, Bộ trưởng Phan Văn Giang phát biểu khi cùng Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh và đoàn đại biểu hai nước đến thăm Trường Tiểu học Hun Sen 2 Thnou tại huyện Snuol.

Đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh, nếu như trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây, hai nước láng giềng anh em gần gũi Campuchia và Việt Nam đã từng cùng kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ thì trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp vừa qua, Chính phủ, quân đội và nhân dân hai nước tiếp tục tích cực giúp đỡ lẫn nhau thông qua sự ủng hộ về trang thiết bị y tế, cử lực lượng bác sĩ điều trị cho người dân. Quan hệ truyền thống lịch sử chiến lược đã thể hiện mong muốn phát triển mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện Campuchia-Việt Nam. “Đây là một nhân tố quan trọng vì tương lai của các cháu học sinh. Nhân dịp này, bác muốn nhắc nhở các cháu rằng hiện nay thiếu niên hai nước may mắn được sinh ra trong thời kỳ hai nước hòa bình, phát triển và mang lại cho các cháu nhiều cơ hội học tập trong và ngoài nước. Các cháu cần cố gắng học tập, rèn luyện để đạt được kết quả cao, đáp lại sự dạy dỗ của các thầy, cô giáo bởi các cháu là những mầm non trong tương lai. Bên cạnh đó, các cháu cần đoàn kết với thiếu niên Campuchia để giữ gìn, bảo vệ tình đoàn kết truyền thống giữa hai nước Việt Nam-Campuchia ngày càng bền chặt”, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh phát biểu khi cùng Bộ trưởng Phan Văn Giang và đoàn đại biểu hai nước đến thăm Trường Tiểu học Lộc Tấn A tại huyện Lộc Ninh.

Trong những năm qua, hợp tác quốc phòng song phương tiếp tục mang lại hiệu quả thiết thực và là một trong những trụ cột quan trọng, có nhiều đóng góp vào sự phát triển của mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện Việt Nam-Campuchia. Trong bối cảnh đó, Giao lưu HNQPBG Việt Nam-Campuchia lần thứ nhất chính là cơ hội để lãnh đạo hai Bộ Quốc phòng gặp gỡ, chia sẻ những vấn đề cùng quan tâm, trao đổi thống nhất những định hướng lớn trong hợp tác, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác quốc phòng song phương không ngừng phát triển.

Tại cuộc hội đàm ở huyện Lộc Ninh, Bộ trưởng Phan Văn Giang và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh đều đánh giá, thời gian qua, vượt lên những khó khăn của dịch Covid-19 cũng như diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, mối quan hệ Việt Nam-Campuchia nói chung, hợp tác quốc phòng song phương nói riêng vẫn trên đà phát triển tốt đẹp. Hai bên tích cực triển khai hiệu quả những nội dung hợp tác đã được thống nhất tại cuộc hội đàm giữa hai Bộ trưởng Quốc phòng tại thủ đô Phnom Penh vào tháng 12-2021. Các hoạt động trao đổi thông tin, duy trì an ninh, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới, hỗ trợ nhau trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, hợp tác đào tạo đã được hai bên phối hợp triển khai hiệu quả, góp phần tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân và quân đội hai nước, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch, chia rẽ tình đoàn kết, quan hệ gắn bó Việt Nam-Campuchia.

Về phương hướng hợp tác trong thời gian tới, hai bên thống nhất tập trung tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc phối hợp triển khai các nội dung hợp tác đã thống nhất trong Nghị định thư hợp tác quốc phòng 5 năm, Kế hoạch hợp tác thường niên; tăng cường trao đổi đoàn các cấp; Đối thoại Chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng; hợp tác giữa các quân khu, quân binh chủng, Bộ đội Biên phòng; hợp tác về công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị; ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế... Bộ trưởng Phan Văn Giang khẳng định Bộ Quốc phòng Việt Nam luôn ủng hộ Campuchia đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN 2022, đồng thời bày tỏ mong muốn lãnh đạo các cấp Campuchia tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở Campuchia có điều kiện sinh sống, làm ăn ổn định, ủng hộ và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng Việt Nam hoạt động kinh doanh thuận lợi tại Campuchia. Bộ trưởng Phan Văn Giang tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Chính phủ và Thủ tướng Samdech Techo Hun Sen, Campuchia sẽ tổ chức thành công cuộc bầu cử xã, phường cũng như hoàn thành trọng trách vai trò Chủ tịch ASEAN 2022. Ngay sau hội đàm, Bộ trưởng Phan Văn Giang và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh đã chứng kiến Lễ ký thỏa thuận hợp tác giữa Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam và Bộ tư lệnh Hiến binh Quân đội Hoàng gia Campuchia.

Có thể nói, trong suốt chặng đường lịch sử hơn nửa thế kỷ qua, bất chấp biết bao khó khăn, thử thách với những thăng trầm, quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam-Campuchia đã không ngừng được vun đắp, là tài sản vô giá, thiêng liêng của hai dân tộc. Thành công của Giao lưu HNQPBG Việt Nam-Campuchia lần thứ nhất tiếp tục cho thấy tình cảm gắn bó sâu nặng giữa hai dân tộc đã được gìn giữ vẹn nguyên và ngày càng khăng khít. Và như khẳng định của Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh, sự kiện có ý nghĩa lịch sử này là cơ hội để quân đội và nhân dân hai nước gặp gỡ, giao lưu, hiểu biết lẫn nhau, tuyên truyền, giáo dục nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hai nước về truyền thống của mối quan hệ tốt đẹp Việt Nam-Campuchia.

Trong khuôn khổ Giao lưu HNQPBG Việt Nam-Campuchia lần thứ nhất, Bộ trưởng Phan Văn Giang và Phó thủ tướng, Bộ trưởng Samdech Pichey Sena Tea Banh cùng đoàn đại biểu hai nước đã dự, cắt băng khánh thành Trạm Y tế quân dân y hữu nghị Việt Nam-Campuchia tại Cửa khẩu Quốc tế Hoa Lư. Việc khánh thành và đưa công trình Trạm Y tế quân dân y hữu nghị Việt Nam-Campuchia vào hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân hai bên biên giới, là minh chứng cho tinh thần đoàn kết, gắn bó, không ngừng tăng cường, củng cố quan hệ Việt Nam-Campuchia.

Nguồn: Báo QĐND

NGUỒN GỐC Ý NGHĨA NGÀY QUỐC TẾ THIẾU NHI

Quốc tế thiếu nhi 1/6 được biết đến là ngày Tết dành cho trẻ em. Đây là dịp để trẻ được vui chơi, nhận những món quà ý nghĩa từ người thân. Tuy nhiên, lịch sử ra đời của ngày lễ này không phải ai cũng biết.

Lịch sử ra đời

Vào rạng sáng ngày 1/6/1942, quân phát xít Đức bao vây làng Li-đi-xơ (Tiệp Khắc), chúng bắt 173 người đàn ông, 196 người phụ nữ và trẻ em. Tại đây, chúng đã tàn sát 66 người và đưa 104 em thiếu nhi vào trại tập trung, 88 em bị chết trong các phòng hơi độc, 9 em khác bị đưa đi làm tay sai cho bọn phát xít. Làng Li-đi-xơ không còn một bóng người.

Hai năm sau, ngày 10/6/1944, phát xít Đức lại bao vây thị trấn Ô-ra-đua (Pháp), chúng dồn 400 người vào nhà thờ, trong đó có nhiều phụ nữ và hơn 100 trẻ em, phóng hỏa đốt cháy một cách thảm thương.

Để tưởng nhớ đến hàng trăm trẻ em vô tội đã bị Đức Quốc Xã sát hại nhẫn tâm, năm 1949 Liên đoàn Phụ nữ dân chủ Quốc tế đã quyết định lấy ngày 1/6 hàng năm làm ngày quốc tế bảo vệ thiếu nhi, nhằm đòi chính phủ các nước phải nhận trách nhiệm về đời sống thiếu nhi, đòi giảm ngân sách quân sự để tăng ngân sách giáo dục, bảo vệ và chăm sóc thiếu niên, nhi đồng. Kể từ năm 1950, ngày 1/6 hàng năm trở thành ngày của thiếu nhi.

Ngày Quốc tế thiếu nhi ở Việt Nam

Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em - Văn kiện pháp lý Quốc tế đầu tiên đề cập toàn diện đến các quyền trẻ em dựa trên nguyên tắc trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt.

Ở nước ta, ngay sau khi giành được độc lập, ngày 1/6 và Tết Trung thu (15/8 âm lịch) hàng năm đã thật sự trở thành ngày hội vui chơi tưng bừng của thiếu nhi cả nước.

Ngày Quốc tế Thiếu nhi đầu tiên (1/6/1950) trong giai đoạn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trải qua thời kỳ cam go ác liệt nhất, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn nghĩ tới thiếu nhi cả nước và gửi thư chúc mừng các cháu thiếu niên, nhi đồng.

Từ đó, hàng năm cứ đến ngày Tết thiếu nhi và Tết Trung thu, thiếu nhi cả nước lại hân hoan đón thư chúc mừng của Bác Hồ.

Bác Hồ luôn hết sức quan tâm, dạy bảo các cháu nên người, trong đó 5 Điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng đã trở thành nội dung giáo dục đối với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.                                                                                     TK-ST

Mối quan hệ giữa phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở bên trong với đấu tranh chống “tác động chuyển hóa” từ bên ngoài

 Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bên trong góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Nỗ lực đó sẽ đem lại hiệu quả cao hơn và bền vững hơn nếu gắn kết chặt chẽ, thường xuyên với việc đấu tranh chống “tác động chuyển hóa” từ bên ngoài; qua đó, góp phần vào thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1- Liên tiếp 3 nhiệm kỳ đại hội vừa qua, Đảng ta đã kiên quyết, kiên trì thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà trong đó, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn luôn là nhiệm vụ cấp bách nhất. Ngay từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””, thể hiện quyết tâm của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng liên quan tới sự tồn vong của chế độ, tới thành công của sự nghiệp cách mạng nước ta.

Tại Đại hội XIII của Đảng, bên cạnh việc ghi nhận, làm rõ những ưu điểm nổi bật về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta cũng chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”(1); đặc biệt là “Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, một số suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng; quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ; chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân. Thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên chưa trở thành nền nếp, hiệu quả chưa cao. Một số cán bộ vi phạm đến mức phải kỷ luật, xử lý hình sự”(2).

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, khuyết điểm nói trên cũng được Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “1- Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới; việc quán triệt các nghị quyết của Đảng ở một số nơi chưa kịp thời, sâu sắc.

2- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chủ động, sâu sát, thiếu quyết liệt; chưa coi trọng việc tự kiểm tra, xử lý vi phạm. Một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, chưa gương mẫu, còn thụ động, né tránh, trông chờ vào chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên.

3- Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp”(3).

Như vậy, một trong bốn nguy cơ của Đảng cầm quyền được cảnh báo từ Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng đến nay vẫn hiện hữu và thậm chí còn gay gắt hơn, đó là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Vì vậy, cuộc đấu tranh chống lại tình trạng suy thoái này vẫn là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta. Điểm mới nổi bật trong quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII của Đảng là gắn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền.

Trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cần phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”; trong đó, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Theo đó, yêu cầu xử lý mối quan hệ giữa phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở bên trong và đấu tranh chống “tác động chuyển hóa” từ bên ngoài là một nhiệm vụ cần được nhận thức đầy đủ và tổ chức thực hiện có hiệu quả.

Suy thoái về tư tưởng chính trị là sự suy giảm đến mức báo động về niềm tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, về vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng.

Sự suy thoái về đạo đức, lối sống là sự suy giảm đến mức báo động về đạo đức, lối sống theo chiều hướng tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và ngày càng xa lạ với truyền thống đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

“Tự diễn biến” là khi mỗi đảng viên không nhận thức được trách nhiệm, bổn phận của mình, nhất là những người được giao trọng trách trong các cơ quan của hệ thống chính trị; thiếu hiểu biết hoặc cố tình làm sai những quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước vì động cơ vụ lợi.

“Tự chuyển hóa” là kết quả tất yếu, là hệ lụy của cả một quá trình “tự diễn biến”, là sự thay đổi về bản chất cách mạng của cán bộ, đảng viên do thiếu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng; là quá trình tích tụ từ những khuyết điểm nhỏ thành khuyết điểm lớn hơn, thậm chí đến mức vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bên trong là hậu quả của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, vi phạm các quy định của Đảng ở các mức độ khác nhau, thậm chí có hành vi chống lại Đảng, Nhà nước... và là thách thức đối với sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi triệt để.

“Tác động chuyển hóa” từ bên ngoài là hoạt động của các lực lượng ngoài Đảng (trong nước và nước ngoài) nhằm thúc đẩy nhanh hơn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Tác động từ bên ngoài hướng tới mục tiêu là gieo rắc những luận điệu xuyên tạc sự thật với dụng ý xấu của những phần tử bất mãn với chế độ, của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị, mưu toan phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, hòng xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Tác động chuyển hóa từ bên ngoài chủ yếu thông qua các phương tiện truyền thông, cả truyền thống và hiện đại, với những luận điệu xuyên tạc sự thật, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng cả trong nước và trên trường quốc tế, nhằm kích động, cổ xúy, lôi kéo những cán bộ, đảng viên đang mơ hồ, dao động về lập trường tư tưởng, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” bằng cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và nhân dân, với phương châm “không đánh mà thắng” nhằm lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam hiện nay.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bên trong có mối quan hệ mật thiết với “tác động chuyển hóa” từ bên ngoài

 Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có mối quan hệ chặt chẽ với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta đã khẳng định: “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”(4). “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn diễn ra nhanh hơn khi đời sống gặp nhiều khó khăn, phân cực giàu - nghèo quá lớn; tình trạng mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tràn lan... dẫn đến nảy sinh những vấn đề và tâm lý bức xúc trong xã hội. Đối tượng bị rơi vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cán bộ, đảng viên, bất kể ở cương vị nào. Chức vụ của người cán bộ, đảng viên càng cao thì hậu quả tiêu cực của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” do người đó gây ra càng lớn.

“Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” có quan hệ chặt chẽ với nhau: “Tự diễn biến” là quá trình thẩm thấu từng ngày, qua từng hoạt động, còn “tự chuyển hóa” là kết quả, là hậu quả và hệ lụy của “tự diễn biến” của mỗi cán bộ, đảng viên. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bên trong còn là nguyên nhân của mất đoàn kết nội bộ, là cái cớ để các thế lực thù địch khoét sâu thêm những khuyết điểm, thúc đẩy và làm gia tăng thêm mâu thuẫn nội bộ; có thể dẫn tới sự tiếp tay hoặc cấu kết của một số cá nhân với các thế lực xấu, thù địch, dẫn tới sự phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đó là hậu quả của quá trình suy thoái về tư tưởng chính trị từ bên trong đội ngũ đảng viên - lực lượng tiên phong của phong trào cách mạng. Do vậy, nếu quá trình này không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, thì có thể dẫn đến sự suy thoái của Đảng và kết thúc sinh mệnh chính trị của Đảng, sự tồn tại của chế độ XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Hậu quả lớn nhất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thực chất là sự chuyển hóa chính trị. Chuyển hóa chính trị có thể xuất hiện từ hai hướng: 1- Từ hoạt động của các thế lực thù địch nhằm tác động dẫn tới chuyển hóa chính trị; 2- Sự “tự chuyển hóa” chính trị của nội bộ. Tuy nhiên, hai hướng này có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau: Yếu tố bên ngoài thúc đẩy, tạo điều kiện cho yếu tố bên trong; yếu tố bên trong tạo sự chú ý và điều kiện thuận lợi cho yếu tố bên ngoài. Trong đó, “tự chuyển hóa” bên trong sẽ quyết định sự thay đổi về chính trị nên hết sức nguy hiểm. Do vậy, phương châm, nguyên tắc bảo đảm an ninh nội bộ, bảo vệ chính trị nội bộ và phòng, chống chuyển hóa chính trị là phải chủ động phòng ngừa các nguy cơ, giữ vững sự đoàn kết chính trị bên trong. Đây là yếu tố mang tính căn bản, quyết định. Tác động chuyển hóa từ bên ngoài của những phần tử cơ hội chính trị, bất mãn với chế độ và của những thế lực thù địch sẽ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nếu kết hợp với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bên trong; có thể làm sụp đổ chế độ chính trị nếu không có biện pháp hóa giải kịp thời, hiệu quả. Vì thế, việc phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống một cách có hiệu quả sẽ góp phần phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của những tác động từ bên ngoài. Điều này đúng như V.I. Lê-nin đã cảnh báo: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ “nếu” này. Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”(5).

Như vậy, việc phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở bên trong là cách tốt nhất để hạn chế những tác động từ bên ngoài, và làm vô hiệu hóa “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đồng thời, tăng cường đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh chính là cách tốt nhất, bền vững nhất để phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những kết quả thiết thực về đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh trong những năm qua là minh chứng rõ nét, thể hiện quyết tâm củng cố, nâng cao niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, góp phần vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

2- “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một quá trình đi từ không đến có, từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từ tiêu cực đến bất mãn, phản động, nên nỗ lực, quyết tâm của tổ chức đảng, của mỗi đảng viên để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ có vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái đó. Điều này thể hiện trước hết ở nhận thức, trách nhiệm và hành động cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên trong tự phê bình và phê bình. Muốn vậy, phải nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức đảng, nhất là nêu cao trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, đề cao và thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý”. V.I. Lê-nin khẳng định: “Đối với đảng đang đấu tranh của giai cấp tiền phong thì phạm sai lầm là không đáng sợ. Điều đáng sợ là: cứ giữ mãi sai lầm, cứ xấu hổ hão không chịu nhận sai lầm và sửa chữa sai lầm”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(7).

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có nguyên nhân từ thái độ và trách nhiệm chưa cao trong học tập lý luận của một bộ phận đảng viên; hiệu quả của công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục đạo đức có lúc, có nơi còn thấp, khiến cho kết quả nhiều khi không đạt yêu cầu đề ra. Vì thế, các cấp ủy, người đứng đầu phải thực sự chú trọng đến giáo dục nâng cao nhận thức chính trị cho đội ngũ đảng viên một cách thường xuyên, có hiệu quả, thực chất và thiết thực. Toàn Đảng phải quán triệt, thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo trong quá trình đổi mới là: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng”(8).

Để bảo đảm tính thuyết phục trong công tác tư tưởng, cần chú trọng hơn nữa đến công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; nghiên cứu học tập có chọn lọc những kinh nghiệm trên thế giới, vận dụng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; từ đó, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho việc hoạch định và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bảo đảm tính khoa học, tính thuyết phục trong công tác tư tưởng sẽ tạo điều kiện vững chắc cho việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh có hiệu quả chống các quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, phát huy mạnh mẽ vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong phản ánh dư luận xã hội, tâm trạng của các tầng lớp nhân dân, để các cơ quan, các cấp có thẩm quyền xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh.

Chỉ khi cán bộ, đảng viên tự mình nhận thức đầy đủ, đúng đắn về tầm quan trọng của việc nghiên cứu, học tập lý luận chính trị, thì khi đó mới xác định được trách nhiệm thực hiện chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị, cũng như nâng cao tính tự giác, chủ động trong tự học, tự nghiên cứu của cá nhân. Cấp ủy các cấp cần tiếp tục chỉ đạo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh phải bằng những hành động cụ thể, thiết thực, thông qua sự nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

Tác động từ bên ngoài sẽ được kiểm soát khi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp giữ vững niềm tin, luôn đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Để “miễn dịch” được với những tác động xấu từ bên ngoài, mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện nghiêm các quy định nêu gương của Đảng, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Cán bộ giữ cương vị càng cao thì càng phải tiên phong, gương mẫu. Nâng cao hiệu quả thực hiện những chuẩn mực đạo đức cách mạng của đảng viên, đạo đức công vụ, các chuẩn mực, giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và những chuẩn mực đạo đức của con người trong thời đại mới. Mỗi đảng viên cần tự giác rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, có ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình trước Đảng và nhân dân. Kiên quyết chống các biểu hiện bè phái, cục bộ địa phương, “lợi ích nhóm”. 

Cấp ủy các cấp cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vai trò của cán bộ và vị trí của công tác cán bộ: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”(9). Theo đó, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có khát vọng cống hiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng; thực sự mẫu mực, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; “thực sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”, được nhân dân tín nhiệm. Tiếp tục thực hiện tốt các quy định về công tác cán bộ, nhất là Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” một cách thực chất và hiệu quả; không để lọt người không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, những người có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ được ngăn chặn từ sớm nếu kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh. Có thể ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên nếu kết hợp một cách chặt chẽ giữa giáo dục với rèn luyện và giữa giáo dục, rèn luyện với xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm. Việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên chỉ đạt hiệu quả cao khi kết hợp với việc giữ gìn kỷ luật của Đảng, xử lý kịp thời, nghiêm minh những vi phạm. Vì vậy, cần chú trọng công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực, trong việc chấp hành các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; và xử lý nghiêm nếu có sai phạm, không có “vùng cấm”, không có “ngoại lệ”. Đồng thời, quan tâm giải quyết dứt điểm những vụ việc phức tạp, gây bức xúc kéo dài trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phát huy vai trò giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, kịp thời phát hiện từ nội bộ những vi phạm từ khi mới phát sinh để chấn chỉnh ngay; không để những khuyết điểm nhỏ tích tụ thành khuyết điểm lớn, đến mức phải thi hành kỷ luật đảng, thậm chí phải xử lý hình sự.

Đảng trong sạch, vững mạnh, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn nỗ lực vì lợi ích của nhân dân, của đất nước thì sẽ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại. Muốn vậy, Đảng phải thực sự phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Đấu tranh có hiệu quả trong phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là sự gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, giữa phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bên trong và đấu tranh chống “tác động chuyển hóa” từ bên ngoài. Đây là quá trình được tiến hành đồng thời, hỗ trợ lẫn nhau theo phương châm “xây” là cơ bản, phải kiên trì; “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. “Xây” tốt là nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị. “Chống” có hiệu quả là nâng cao khả năng ứng phó, ngăn chặn các thông tin sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng; kịp thời định hướng dư luận, vô hiệu hóa hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc ngày càng tinh vi, nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động. Các cơ quan thông tin đại chúng phải kịp thời cung cấp những thông tin chính thống, có trách nhiệm, nhằm đi trước một bước trong định hướng dư luận xã hội, để giữ vững niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng và chế độ./.

Hậu quả của “Lời hứa gió bay”

Hậu quả của “Lời hứa gió bay”

“Lời hứa chẳng mất tiền mua/ Ta cứ hứa bừa để lợi cho ta”. Đó là quan niệm của một số người về hiện tượng hứa suông, hứa hão.

Kiểu hứa này có thể có lợi cho người hứa nhưng hậu quả của nó thật khó lường.

Trước thềm Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (SEA Games 31) được tổ chức tại Việt Nam, một số tờ báo và trang tin đã đăng lại câu chuyện của "Nữ hoàng tốc độ" Vũ Thị Hương từng bị các mạnh thường quân thất hứa. Vũ Thị Hương kể: “Cứ mỗi kỳ SEA Games đến, cháu lại nhớ những ngày xưa của mình... Trước khi cháu đi thi đấu, các bác hứa nếu giành chiến thắng sẽ có thưởng. Lúc ấy cháu mừng lắm, không hẳn vì ham phần thưởng mà vì nể các bác hết lòng với cháu. Có bác sau khi chiến thắng và có giới truyền thông ở đó nhân thể bác trao thưởng... miệng trước luôn. Niềm vui chiến thắng của cháu nhân lên nhiều lần. Thế rồi, sau khi tưng bừng hết niềm vui này đến niềm vui khác, cháu cứ dài cổ đợi, hết ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng nọ... Rồi bao kỳ SEA Games đã đi qua mà phần thưởng của các bác vẫn không đến tay.

Cháu thừa tự trọng để không mở miệng hỏi các bác, mà nói thật cháu cũng chẳng biết hỏi ai cả vì nhiều khi chỉ nhận tin qua truyền miệng hay báo chí thôi. Cháu vẫn buồn lắm vì bị thất vọng và mất niềm tin vào những lời hứa.


Cũng kể từ dạo đó, ai hứa gì với cháu là cháu bảo thôi xin đừng hứa. Cháu sợ, thật sự sợ lời hứa từ ai đó. Thế nên bản thân cháu cũng thế, cháu không hứa gì với ai cả vì cháu hiểu cái cảm giác khi nhận được lời hứa nó sung sướng thế nào và khi bị thất hứa nó làm tim cháu đau đớn ra sao. Nên cháu hứa, không bao giờ hứa gì với bất cứ ai nữa.

SEA Games năm nay, bác, cô chú hay anh chị nào mà hứa thưởng cho các vận động viên thì hãy giữ lời”.

Chia sẻ của Vũ Thị Hương nhận được rất nhiều bình luận từ cộng đồng. Nhiều người bức xúc trước những lời hứa hão của mạnh thường quân.

Không chỉ riêng lĩnh vực thể thao mà thực tế hiện nay còn có rất nhiều lời hứa, nhất là lời hứa của cán bộ, đảng viên trở thành hứa suông, hứa hão. Đầu tuần này, tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV, các đại biểu đã được nghe báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân gửi tới kỳ họp. Trong đó, có một số kiến nghị cũng đã từng xuất hiện trong những kỳ họp trước, như: “Tiếp tục chỉ đạo quyết liệt công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để phòng, chống vi phạm, tội phạm trong công tác đầu tư, mua sắm, thu chi ngân sách...; rà soát, thống kê, tổng hợp các dự án đầu tư có sử dụng đất đã quá hạn chưa thực hiện đầu tư hoặc đầu tư kéo dài; có giải pháp xử lý phù hợp, theo quy định của pháp luật, kiên quyết không để kéo dài tình trạng này, gây bất bình, bức xúc trong nhân dân”; “Quan tâm giải quyết hiệu quả hơn nữa đơn, thư khiếu nại, tố cáo, nhất là những vụ việc liên quan đến đất đai. Chỉ đạo giải quyết thấu đáo những vấn đề "tồn đọng" về đất đai do lịch sử để lại, nhất là tình trạng nhiều hộ gia đình đã nộp tiền sử dụng đất hàng chục năm nhưng chưa được giao đất, chưa được xây dựng nhà ở để ổn định cuộc sống”...

Có đại biểu Quốc hội cho rằng, sở dĩ có tình trạng kiến nghị của cử tri “vắt qua” nhiều kỳ họp, nhiều nhiệm kỳ là do các cán bộ thực thi nhiệm vụ hứa mà không làm, hoặc làm không đến nơi đến chốn. Cách đây gần 20 năm, phát biểu trước Quốc hội, có đại biểu đã thẳng thắn thưa rằng: “Nhiều cán bộ của ta đã chuyển sang họ "Hứa" vì cứ hứa hão, hứa suông”. Trên diễn đàn của Quốc hội, diễn đàn của hội đồng nhân dân (HĐND), tại các cuộc họp tiếp xúc cử tri, chúng ta đã nghe khá nhiều cụm từ  “hứa sẽ nhanh chóng tháo gỡ”; “đã có kế hoạch, nhất định sẽ làm”; “sẽ giải quyết dứt điểm"; “kiên quyết xử lý”... nhưng có những "lời hứa gió bay", họp xong, hứa rồi, mọi việc trong thực tế vẫn không hề thay đổi. Trên thực tế, hứa suông, hứa hão đã được một số đại biểu sử dụng một cách triệt để nhằm làm "hạ nhiệt" nghị trường và dư luận...

Hứa suông, hứa hão đã trở thành căn bệnh nan y của xã hội. Đặc biệt là trong mỗi kỳ đại hội Đảng hoặc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, chúng ta lại nghe không ít lời hứa suông, hứa hão của một số đại biểu. Họ nói rất hay, rất đúng nhưng hành động thì không như vậy. Người nói thiếu trách nhiệm với phát ngôn của chính mình. Cội nguồn của bệnh hứa suông, hứa hão chính là sự suy thoái đạo đức. Những căn bệnh có liên quan với nó là thói dối trá, thói chuộng hư danh, thói vô trách nhiệm. Người hứa suông, hứa hão là người đã đánh mất lòng tự trọng. Bệnh hứa suông, hứa hão làm giảm sút lòng tin ở mọi người, phá vỡ những mối liên kết xã hội, làm hại tinh thần cố kết, đoàn kết trong cộng đồng, làm lãng phí tài nguyên và nguồn nhân lực.

Hứa suông, hứa hão không chỉ gây hậu quả cho xã hội mà trong nhiều trường hợp đã gây thiệt hại cho chính người đưa ra lời hứa. Năm 2020, trong kỳ đại hội đảng các cấp, đã có không ít cán bộ vì hứa hão, hứa suông mà trượt cấp ủy. Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND vào tháng 5 năm ngoái, nhiều cán bộ hứa hão, hứa suông đã không trúng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.

"Cần vaccine và thuốc điều trị mới

 

Cần vaccine và thuốc điều trị mới 

Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều phương thức điều trị căn bệnh hứa hão nhưng dường như bệnh đã nhờn thuốc, rất cần có vaccine và thuốc điều trị mới hữu hiệu hơn để phòng, chống căn bệnh này.

Thực tế cho thấy, có rất nhiều người đã hứa là làm, nếu không có khả năng làm được thì không hứa. Thế nhưng cũng có không ít người lại cứ hứa để lấy lòng người khác, để được tăng số phiếu bầu, tăng tỷ lệ tín nhiệm. Cũng có người hứa ban phát cho cấp dưới chức này, việc nọ để hưởng lợi trước mắt, một thời gian sau có hỏi thì nhận được câu trả lời: "Tôi đã cố gắng hết sức rồi, nhưng...". Họ thản nhiên xem lời hứa như một câu cửa miệng, hứa rồi chưa thực hiện, rồi lại hứa bởi lẽ “Lời hứa chẳng mất tiền mua/ Hứa trên, hứa dưới cho vừa lòng nhau”.

Cũng có những người hứa rồi quên ngay, “đánh trống bỏ dùi”. Khi được hỏi đến lời đã hứa thì họ đưa ra những lý do lý trấu, đùn đẩy lý do khách quan, thực tế là che đậy sự vô cảm, vô trách nhiệm, thiếu tự trọng, thậm chí là sự dối trá. Đã có khá nhiều câu chuyện "cười ra nước mắt" về hứa suông, hứa hão. Tại một cơ quan nọ, trước khi lấy phiếu tín nhiệm bổ nhiệm cán bộ, người được dự kiến được đề nghị đã "chạy" hết các đảng ủy viên, ai cũng hứa "sẽ ủng hộ chú". Thế nhưng khi bỏ phiếu kín, người đó lại chẳng được phiếu nào. Ở một cơ quan khác, một ông cấp trưởng trước khi nghỉ hưu hứa sẽ bàn giao "ghế" cho hai ông cấp phó. Thế là hai ông đó đua nhau nịnh cấp trưởng và cạnh tranh lẫn nhau, gây mất đoàn kết trong cơ quan và thế là cả cấp trưởng và cấp phó đều bị xử lý kỷ luật và cùng nghỉ. 

Ai cũng biết rằng, để lời hứa thành hiện thực, có khi lại phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố và cần có sự giúp đỡ, tạo điều kiện, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức liên quan. Thế nhưng trách nhiệm thực hiện lời hứa, trước hết vẫn thuộc về người hứa. Chúng ta đã có không ít những quy định về giám sát lời hứa, về trách nhiệm cá nhân của người hứa nhưng lại thiếu các chế tài xử lý những người hứa suông, hứa hão thành thử vẫn còn những “miền đất hứa” cho những người này. Chính vì lẽ đó, theo ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội và đông đảo cử tri, để phòng, chống bệnh hứa hão cần có những loại vaccine và thuốc điều trị mới hữu hiệu hơn.

Vaccine mới phòng bệnh hứa hão là những quy định ràng buộc về trách nhiệm thực hiện lời hứa và cơ chế giám sát lời hứa. Có thể luật hóa việc thực hiện lời hứa hoặc bổ sung việc thực hiện lời hứa của cán bộ công chức vào một số văn bản quy phạm pháp luật, như: Luật Cán bộ công chức, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ... Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội và hội đồng nhân dân đã mang tính chất giám sát lời hứa của các thành viên Chính phủ, thành viên ủy ban nhân dân. Tuy nhiên, các nghị quyết này cần có thêm những điều khoản xử lý khi người đã hứa mà không thực hiện đúng lời hứa.

Các chương trình hành động của những người ứng cử vào các chức danh lãnh đạo cần công khai để quần chúng nhân dân giám sát việc thực hiện những lời hứa trong đó. Lời hứa và việc thực hiện lời hứa của các chức danh do dân bầu cũng cần được công khai để giúp cử tri biết được lời hứa của đại biểu đã thực hiện như thế nào; và ngược lại, đại biểu cũng có thể cho cử tri biết, lời hứa của mình đang vướng mắc ở đâu. Sau một thời gian cần thiết, nếu không thực hiện đúng lời hứa thì người hứa suông, hứa hão sẽ phải bị bãi nhiệm.


Liều thuốc đặc trị mới đối với căn bệnh hứa hão phải là lập lại kỷ cương trong công vụ của các cơ quan công quyền. Trong đó có kỷ cương về việc hứa và thực hiện lời hứa của cán bộ công chức. Phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay đã và đang được thiết kế phiến diện, một chiều, tức là chỉ đưa ra những chế tài xử lý với người dân và các doanh nghiệp. Chế tài xử lý đối với các viên chức, công chức, quan chức nhà nước-bộ phận đặc biệt quan trọng trong việc thực thi pháp luật-lại không được đề cập hoặc chỉ đề cập một cách chung chung, mờ nhạt. Hiện tượng này đặc biệt rõ trong các luật, nghị định và thông tư hướng dẫn liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Ở đó, chúng ta có thể thấy những cụm từ: "Cơ sở kinh doanh có trách nhiệm...", "Cơ sở kinh doanh có nghĩa vụ...", "Cơ sở kinh doanh phải..." xuất hiện với một tần suất khá lớn và khá chi tiết, còn cơ quan công quyền thì chỉ được nhắc đến với cụm từ "có quyền". Vì thế, để điều trị bệnh hứa hão, hứa suông của cán bộ công chức, cần có những quy định "sòng phẳng" hơn giữa người dân, doanh nghiệp và các cơ quan công quyền trong việc thực thi pháp luật. Các văn bản luật, nghị định và thông tư hướng dẫn phải có những chế tài cho tất cả đối tượng liên quan, trong đó có chế tài xử lý cán bộ công chức. Làm được điều này, hiện tượng hứa suông, hứa hão của cán bộ công chức chắc chắn sẽ giảm.

Trên bình diện xã hội, cần phát động phong trào nói không với hứa suông, hứa hão, tố cáo những người hứa suông, hứa hão để mọi người đều phải có trách nhiệm với lời hứa của mình. Các cơ quan thông tin đại chúng nên đăng tải công khai những chuyện hứa suông hứa hão “điển hình” để những người khác lấy đó làm gương. Các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, trong đó có việc giám sát thực hiện lời hứa của cán bộ, đảng viên để từ đó loại bỏ ngay khỏi hàng ngũ cán bộ, công chức, viên chức những phần tử đã thoái hóa, đã xuống cấp về đạo đức và nhân phẩm, trong đó có những người đã hứa suông, hứa hão. 

Cùng với việc phê phán những người hứa suông, hứa hão, cần tiếp tục tuyên truyền, biểu dương những người đã thực hiện tốt lời hứa của mình. Họ nhận thức lời hứa là danh dự, là trách nhiệm của mình. Khi đưa ra một lời hứa đồng nghĩa với việc họ nhận lại một niềm tin, hy vọng. Niềm tin ấy sẽ được nhân lên nếu nó được thực hiện trọn vẹn với lời hứa của chính mình. Ngược lại, một khi niềm tin đã mất thì rất khó tạo dựng lại.

Nhớ và thực hiện tốt lời mình đã hứa cũng là phẩm chất cao đẹp của người cán bộ, đảng viên.

Phản bác luận điệu đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác - Lênin

 

Phản bác luận điệu đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác - Lênin

Một trong những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam là xuyên tạc, đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Mục đích của chúng nhằm phá hoại, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh từ gốc rễ, qua đó tiến công trực diện vào một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã xác định “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và được bổ sung tại Đại hội XII của Đảng: “Tư tưởng của Người, cùng với Chủ  nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”(2). Việc khẳng định này cho thấy tầm quan trọng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và đối với nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đó chúng tìm mọi cách để đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng quy kết Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuân thủ đúng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân tộc, không theo Chủ nghĩa Mác-Lênin”; “Con đường Bác Hồ đã lựa chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội” (!). Chúng còn cố ý minh họa bằng những những sự kiện lịch sử, như: Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, giải quyết vấn đề dân tộc trước vấn đề giai cấp... nhằm củng cố những luận điệu xuyên tạc này.


Chủ tịch Hồ Chí Minh giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp

Luận điệu xuyên tạc trên là vô căn cứ. Bởi lẽ, lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”, vì thế, “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc(3). Cho nên, mấu chốt của cách mạng vô sản vẫn là giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, dù cho quốc gia đó đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa hay chưa trải qua giai đoạn này. Ở các nước thuộc địa, nhiệm vụ trước mắt và quan trọng bậc nhất là thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc giành lấy độc lập, quyền tự quyết dân tộc để làm cơ sở hiện thực làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng vô sản suy cho cùng cũng là vì quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc; việc giải quyết vấn đề giai cấp không đứng trên lập trường lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ không thể giải quyết triệt để các vấn đề đặt ra của cuộc cách mạng, đôi khi còn dẫn đến thất bại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức, tiếp thu sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản. Người đã tích cực chuẩn bị tư tưởng chính trị, tổ chức, cán bộ cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành lấy độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới. Thắng lợi đó là do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn giải quyết vấn đề dân tộc trước, sau đó giải quyết vấn đề giai cấp trên lập trường giai cấp vô sản, điều này đã thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng thực tiễn khách quan và bảo đảm tính lịch sử cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc lựa chọn này không phải là sự ngẫu nhiên, “ăn may” mà là sự tìm tòi, phân tích thực tiễn cách mạng thấu đáo. Điều đó xuất phát từ tài năng, trí tuệ, sự nhạy bén chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khi phân tích thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người chỉ rõ, Việt Nam xuất phát từ một nước phương Đông truyền thống, nền nông nghiệp lạc hậu, hơn 90% là nông dân, sự phân hóa giai cấp chưa sâu sắc, khi thực dân Pháp xâm lược thì nhiệm vụ nổi lên hàng đầu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, giành lấy độc lập dân tộc, tự do cho người dân, nên Người đã phê phán thẳng thắn quan điểm phiến diện, giáo điều, rập khuôn máy móc của một số người về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” (4).

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam. Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(5). Người đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp cách mạng vô sản của Chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu thực tiễn, tìm ra quy luật vận động và phát triển cách mạng Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản, qua đó khắc phục được khủng hoảng về con đường cứu nước, cứu dân tộc.

Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam đạt được đã cho thấy những điều Người khẳng định là hoàn toàn đúng đắn, “Đảng ta nhờ kết hợp được Chủ nghĩa Mác-Lênin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”(6), và sự thật là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành lại độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đưa nước ta bước vào giai đoạn độc lập, tư do và phát triển.

Thực tế đó cho thấy, con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đường, dẫn lối là phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đó là: Người đã đề ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước giải phóng giai cấp nhưng không đối lập giữa nhiệm vụ giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc mà kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp để tiến tới giải phóng con người; Người chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vì nhiệm vụ cách mạng của mỗi nước Đông Dương khác nhau, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, dân tộc, con người mỗi nước có sự khác nhau.

Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú kho tàng lý luận Mác-Lê nin

Một trong những âm mưu, thủ đoạn thâm độc khác mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn lèo lái dư luận rằng “Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ phù hợp với phương Tây còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam”; “bây giờ Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, là phù hợp với dân tộc Việt Nam. Vì vậy, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao thành “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế Chủ nghĩa Mác-Lênin”(!).

Việc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp Chủ nghĩa Mác-Lênin vô hình trung đã phủ định nguồn gốc hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội lần thứ IX năm 2001 và Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011, tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” (7).

Sự khẳng định đó đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và phẩm chất, nhân cách của Người, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Không có Chủ nghĩa Mác-Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là Chủ nghĩa Mác-Lênin mà là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa này vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam trên lập trường của cách mạng vô sản. Cho nên “không thể nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạ thấp, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin”(8).

Đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin là hoàn toàn sai trái, vô căn cứ, xuyên tạc lịch sử và logic vận động cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản thống nhất với nhau về mục tiêu, lý tưởng, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Bản thân các nhà kinh điển mác-xít không đưa ra một khuôn mẫu cứng nhắc cho việc tiến hành cuộc cách mạng vô sản mà chỉ nêu ra những nguyên lý cơ bản, nên việc vận dụng những nguyên lý đó như thế nào, thành công đến đâu phụ thuộc vào tài năng của lãnh tụ phong trào cách mạng.

Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng thành công những nguyên lý đó để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới, qua đó khẳng định và củng cố tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Đừng tự rút ván dưới chân mình

Đừng tự rút ván dưới chân mình

Quay lưng với lợi ích quốc gia, dân tộc, hùa theo tư tưởng thù địch, chối bỏ quê hương, đất nước... là hành vi của những kẻ vong ân bội nghĩa. Nói về hạng người này, từ xa xưa, ông bà ta đã ẩn dụ: “Qua cầu rút ván”.Trong giai đoạn đất nước đẩy mạnh đổi mới, hội nhập, không ít người trưởng thành từ môi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã bất mãn, tìm cách “rút ván” trên chính cây cầu mình đang đi. Họ không ý thức được rằng, hành vi sai lầm ấy đã tạo ra lỗ hổng ngay dưới chân và tự gieo mình xuống vực sâu. Có nhiều bài học nhãn tiền, nhưng kiểu dựa hơi, thừa cơ “rút ván” vẫn cứ diễn ra...

Dựa hơi, thừa cơ “rút ván”

Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dẫn đầu vừa kết thúc thành công tốt đẹp chuyến công tác tại Hoa Kỳ và Liên hợp quốc. Đây là sự kiện ngoại giao có ý nghĩa quan trọng của Việt Nam, được truyền thông quốc tế rất quan tâm. Theo dõi dư luận, bằng thái độ khách quan, ai cũng thấy đại bộ phận truyền thông quốc tế đánh giá cao thông điệp, hiệu quả chuyến công tác của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Tại những nơi Thủ tướng Việt Nam đến thăm và làm việc, đoàn luôn nhận được sự chào đón với tình cảm thân tình, quý trọng, ấm áp của đông đảo kiều bào. Vậy mà trên một số tài khoản mạng xã hội của một bộ phận người Việt Nam ở nước ngoài lại cố tình tạo dựng, chia sẻ những clip mang tư tưởng thù địch.

Họ lu loa rằng, người Việt Nam ở Hoa Kỳ đã biểu tình phản đối chuyến thăm và làm việc của Thủ tướng Phạm Minh Chính. Thực chất, cái gọi là “đoàn người biểu tình” chỉ lèo tèo vài nhóm người cực đoan, mang theo cờ ba sọc, biểu ngữ, tụ tập ở một số điểm công cộng. Kiểu dàn dựng khiên cưỡng để lấy hình ảnh làm truyền thông chống đối chỉ là tiếng hét lẻ loi, lạc phách, lạc nhịp trong dòng chảy chủ lưu mang thông điệp tích cực, khách quan, toàn diện, chính xác, kịp thời của môi trường truyền thông.

Đáng tiếc, một số phần tử có thái độ cực đoan chính trị đã lấy đó làm cái cớ để thổi phồng, tuyên truyền xuyên tạc, kích động hận thù, gây chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân ta với kiều bào ở nước ngoài, bôi xấu, hạ thấp uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta trong quan hệ quốc tế. Trong số những đối tượng có hành vi đi ngược lại lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, đáng buồn là có một số ít người từng được rèn luyện, trưởng thành từ môi trường giáo dục XHCN. Họ, hoặc sau khi nghỉ hưu, nghỉ việc, hoặc bất mãn vì một lý do nào đó, đã lên mạng “hóng hớt” những thông tin tiêu cực, sai trái để làm chất liệu phát ngôn. Bằng kiểu lập ngôn bóng gió, suy diễn, ám chỉ..., những bài viết trên các tài khoản mạng xã hội của họ thể hiện sự hằn học với lãnh đạo Chính phủ, hả hê trước những khó khăn của đất nước, gián tiếp cổ xúy những hành vi thù địch. Kiểu lập ngôn bóng gió, mỉa mai, ám chỉ... nhằm che giấu bằng chứng theo kiểu “nói vậy mà không phải vậy” nguy hại như loài nấm độc trên không gian mạng. Với những hành vi ấy, họ đang tự rút tấm ván trên mặt cây cầu họ đang đi. Nếu không sớm thức tỉnh, dừng lại, sớm muộn họ cũng tự đưa chân vào lỗ hổng, gieo mình xuống vực sâu. Đất nước ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do hậu quả nặng nề của đại dịch Covid-19 và những biến động bất ổn cục bộ trên thế giới. Để đưa đất nước vượt qua khó khăn, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã nỗ lực triển khai các chủ trương, giải pháp phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội. Thúc đẩy các hoạt động ngoại giao quan trọng nhằm mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường tiềm lực, vị thế và uy tín quốc gia là vấn đề mang tính chiến lược. Những kết quả đạt được trên thực tế xuất phát từ chủ trương đúng đắn ấy đã góp phần củng cố niềm tin vững chắc trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhất định chúng ta sẽ vượt qua thách thức, hoàn thành các mục tiêu kinh tế-xã hội mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Tuy nhiên, trong bối cảnh chung đó, không ít đối tượng có tư tưởng cực đoan, bất mãn lại bám vào những thông tin tiêu cực từ hải ngoại để móc nối, cấu kết với các thế lực bên ngoài, quyết liệt thực hiện các chiến dịch chống phá Đảng, Nhà nước theo kiểu “nội công ngoại kích”. Đó chính là những hành động tiếp tay cho các thế lực thù địch nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sử dụng cờ của ngụy quyền Sài Gòn trước năm 1975 nhằm tôn vinh thứ “thây ma” đã chết từ lâu, vẽ ra một tương lai ảo để lừa bịp, lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin và những đối tượng có tư tưởng bất mãn.

Trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ta đã cảnh báo vấn đề này: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

Không khó để nhận diện kiểu dựa hơi, thừa cơ “rút ván” của những đối tượng cực đoan, bất mãn, dù họ đã cố tình ngụy trang bằng kiểu lập ngôn lấp lửng, ám chỉ, bóng gió... Bằng nhận thức, bản lĩnh và niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, chiến lược hành động của Chính phủ trong giai đoạn mới, mỗi cán bộ, đảng viên, công dân yêu nước hãy cùng lan truyền năng lượng tích cực trong đời sống xã hội theo tinh thần lấy xây để chống, lấy cái đẹp dẹp cái xấu.

Cảnh tỉnh, nghiêm trị và đấu tranh ngăn chặn

Nhìn lại các vụ án xét xử những đối tượng phạm tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” và “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” thời gian qua, chúng ta nhận thấy: Đa số các đối tượng trước khi sa chân vào vực thẳm đều là những công dân được nuôi dưỡng, trưởng thành trong môi trường giáo dục XHCN. Không ít đối tượng từng là trí thức, công chức trong hệ thống chính trị, có ảnh hưởng xã hội nhất định. Chỉ vì bất mãn do tham vọng cá nhân không được đáp ứng hoặc mâu thuẫn với tổ chức nên đã trở cờ, biến mình thành con rối cho các thế lực thù địch giật dây, phản bội lại lý tưởng, lẽ sống của chính bản thân và gia đình.

Thời gian gần đây, nhiều tài khoản trên các nền tảng mạng xã hội chia sẻ thông tin liên quan đến đối tượng “mẹ Nấm” (còn có tên khác là “mụ Nấm”, tên thật là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh). Theo đó, nhân vật từng gây “bão” trên một số phương tiện truyền thông phát tiếng Việt có tư tưởng thù địch ở hải ngoại và nhiều tài khoản mạng xã hội mấy năm trước hiện đã “vỡ mộng” ở xứ người. Sau khi mãn hạn tù, năm 2018, “mụ Nấm” sang Mỹ định cư. Thời gian đầu, “mụ Nấm” được các thế lực thù địch tung hô là “người hùng”. Nhưng rồi như một miếng chanh bị vắt hết nước, khi không còn giá trị lợi dụng, “mụ Nấm” đã bị chính những người từng tung hô mình tẩy chay, ruồng bỏ, sống ê chề, nhục nhã. Đó là cái giá tất yếu phải trả cho thái độ vô ơn, ngông cuồng, ngạo mạn, tự chối bỏ quê hương, đất nước. “Mụ Nấm” là điển hình của kiểu tự rút ván dưới chân mình, sa vào lỗ hổng để cuộc đời rơi xuống vực sâu, đến khi ân hận thì đã muộn.

Mong rằng những đối tượng trót đưa tay nhúng chàm, có tư tưởng bất mãn, đang thực hiện các hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, hãy nhìn những bài học nhãn tiền như vậy để điều chỉnh thái độ, hành vi, quay đầu là bờ...

Mấy ngày nay, dư luận xã hội quan tâm đến vụ đối tượng Trương Văn Dũng (58 tuổi, ngụ tại phường Nam Đồng, quận Đống Đa, TP Hà Nội) bị Công an TP Hà Nội ra quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam để điều tra vì tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo Điều 88, Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Trương Văn Dũng là đối tượng từng có tiền án, tiền sự, trình độ văn hóa thấp. Vì những mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế trong cuộc sống nên bất mãn, Dũng được các thế lực thù địch phỉnh nịnh, tung hô dẫn đến ảo tưởng, ngày càng lấn sâu, điên cuồng thực hiện các hành vi tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước. Nếu chí thú làm ăn, chấp hành luật pháp, Trương Văn Dũng hoàn toàn có đủ điều kiện và khả năng để xây dựng cuộc sống gia đình ổn định. Thế nhưng, chỉ vì ăn phải thứ “bánh vẽ” ảo tưởng do các thế lực thù địch bày ra, y đã tiếp tay, “nối giáo cho giặc”. Với những đối tượng “ngựa quen đường cũ”, không chịu ăn năn, hối cải như Trương Văn Dũng, pháp luật cần nghiêm trị để răn đe.

Chiến lược thích ứng an toàn với dịch Covid-19, khôi phục các hoạt động kinh tế-xã hội trong trạng thái bình thường mới đã và đang đặt ra nhiều thách thức, tất yếu phát sinh những bất cập trong đời sống xã hội. Những bất cập, hạn chế, điểm nghẽn trong quản lý nhà nước luôn là cái cớ để các thế lực thù địch tập trung khai thác, xuyên tạc, chống phá. Chiến dịch tung tin giả, chiêu trò xuyên tạc, thổi phồng, bóp méo sự thật, bôi đen chế độ, kích động biểu tình, gây rối, bạo loạn... đã và đang được các đối tượng phản động lưu vong ráo riết thực hiện. Mỗi cán bộ, đảng viên và công dân yêu nước cần tỉnh táo, nhận diện rõ sự thật. Hành vi “rút ván” làm tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc của những đối tượng cực đoan, bất mãn cần sớm được nhận diện, đấu tranh ngăn chặn hiệu quả bằng sự tỉnh táo và sức mạnh đoàn kết ngay từ mỗi tổ chức cơ sở đảng, mỗi cộng đồng dân cư, tổ chức xã hội, nghề nghiệp...