Thứ Ba, 30 tháng 8, 2022

Tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, đất nước

 

Tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, đất nước

Nhân kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 (1945 - 2022), sáng 30-8, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị biểu dương các tổ chức tôn giáo có đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cùng dự có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà; Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Lê Tiến Châu; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và thành phố; chức sắc, chức việc, lãnh đạo 43 tổ chức tôn giáo trong nước.

Báo cáo tại hội nghị, lãnh đạo Ban Tôn giáo Chính phủ cho biết, hiện nay, cả nước có 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo. Dù mỗi tôn giáo đều có đường hướng và phương châm hành đạo riêng nhưng đều chung một định hướng là sống “Tốt đời, đẹp đạo”, luôn gắn bó, đồng hành cùng sự phát triển của dân tộc.

Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều xây dựng và duy trì đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, như: Công giáo với “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”; Phật giáo với “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”; các tổ chức Tin Lành với “Sống Phúc âm, Phụng sự Thiên chúa, Phục vụ Tổ quốc và Dân tộc”; các hệ phái Cao Đài với “Nước vinh, Đạo sáng”; Phật giáo Hòa Hảo với “Vì Đạo pháp, vì Dân tộc”; Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam với “Tu học, hành thiện, ích nước, lợi dân”; Hồi giáo với “Lẽ sống tốt đạo, đẹp đời”; Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với “Hành Tứ Ân - Sống Hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết dân tộc”…

Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đề cập một số nội dung có tính chất nền tảng. Theo Thủ tướng, Việt Nam đang xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; không hy sinh công bằng, tiến bộ xã hội, môi trường lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần; lấy con người là trung tâm, chủ thể, mục tiêu, độc lực của sự phát triển, trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc có đồng bào các tôn giáo.

Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn tốt, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, nỗ lực đóng góp để duy trì môi trường hòa bình, ổn định, vì sự phát triển thịnh vượng của khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhắc lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng Giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới khi Người đề cập tới những nền tảng giá trị đoàn kết, nhân văn, nhân ái chung của các tôn giáo, đặc biệt là các học thuyết cách mạng và tôn giáo: “Chúa Jesus dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”; “Lương - giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, nhân dân ta nhất định thắng lợi”.

“Lời dạy đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị về sự thống nhất, đoàn kết trong đa dạng, tôn trọng sự khác biệt của các tôn giáo, tạo nên truyền thống, bản sắc, văn hóa, sức mạnh, nguồn lực Việt Nam”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Thủ tướng Chính phủ khẳng định, đồng bào có đạo là bộ phận máu thịt của dân tộc Việt Nam, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Suốt chiều dài lịch sử đất nước, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo là bộ phận không thể tách rời của đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng nhưng đều hướng đến các giá trị Chân - Thiện - Mỹ.

Thủ tướng cho biết, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân. Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, nhiều vị chức sắc các tôn giáo đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm cố vấn cho Chính phủ. Từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa I đến nay, gần 60 vị chức sắc, chức việc tiêu biểu của các tôn giáo đã được bầu vào Quốc hội và hàng nghìn chức sắc tôn giáo tham gia đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, góp phần thiết thực vào việc xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.

“Tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, cùng đất nước trong khó khăn, thách thức, cũng như trong thời cơ thuận lợi. Đất nước ta có phong trào gì, các tôn giáo hưởng ứng và đóng góp tích cực vào phong trào đó. Đất nước có khó khăn thách thức gì, các tôn giáo đồng hành cùng đất nước vượt qua khó khăn, thách thức đó. Đất nước có cơ hội, thời cơ gì, các tôn giáo tham gia thúc đẩy mạnh mẽ để góp phần xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ấm no, hạnh phúc”, Thủ tướng chỉ rõ.

 

Gần đây nhất, trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường, tác động sâu rộng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội; đất nước ta đã trải qua những thời điểm khó khăn, thách thức chưa có trong tiền lệ. Chính trong những lúc khó khăn đó, các tổ chức tôn giáo lại càng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống tốt đẹp gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; bằng trách nhiệm và tấm lòng nhân ái, tích cực đóng góp các nguồn lực, chung tay cùng các cấp chính quyền trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 với nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo, thiết thực, hiệu quả.

“Chúng ta chiến thắng dịch bệnh bởi niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước, sự quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự chung sức, đồng lòng của các tổ chức và mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo”, Thủ tướng khẳng định.

Theo Thủ tướng, Đại hội XIII của Đảng đặt ra mục tiêu đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc, của việc phát huy sức mạnh nội sinh trong việc hướng tới các mục tiêu chiến lược đó. Trong đó, tôn giáo được khẳng định là một trong những nguồn lực góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Trên cơ sở và tinh thần đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo tiếp tục vận động các chức sắc, chức việc, tín đồ chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; duy trì đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong đời sống xã hội. Các tổ chức tôn giáo tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động y tế, giáo dục, dạy nghề, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương; phát huy nguồn lực, thế mạnh của các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong xây dựng và phát triển đất nước; tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, cơ quan liên quan và các địa phương tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các quy định của Trung ương về tín ngưỡng, tôn giáo và quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật thành các quan điểm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trên nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ; đồng thời, tham mưu với Đảng, Nhà nước để hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo; huy động, phát huy mọi nguồn lực của tôn giáo trong xây dựng và phát triển đất nước.

Thủ tướng chỉ đạo, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục quan tâm, có chính sách cụ thể nhằm động viên về vật chất và tinh thần người tiêu biểu có thành tích trong các phong trào thi đua yêu nước; chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là vùng đồng bào tôn giáo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ấm no, hạnh phúc.

 

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 30 THÁNG 8 NĂM 1965!

     “Đồng bào, cán bộ và bộ đội ta không được vì thắng lợi mà chủ quan, cần luôn luôn nâng cao cảnh giác, đoàn kết chặt chẽ, thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi”.
     Là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư khen đồng bào, cán bộ và bộ đội miền Bắc đã bắn rơi 500 máy bay Mỹ”, Người viết ngày 30 tháng 8 năm 1965, Báo Nhân dân đăng trên số 4167, ngày 31 tháng 8 năm 1965.
     Đây là giai đoạn cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam bước vào giai đoạn mới; quân và dân miền Bắc quyết tâm đánh bại chiến dịch leo thang bắn phá miền Bắc bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ với thành tích bắn tơi 500 máy bay Mỹ.
     Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất lớn, không chỉ động viên, khen ngợi quân và dân miền Bắc mà còn nhắc nhở quân và dân hai miền Nam - Bắc phải luôn nêu cao cảnh giác cách mạng, đoàn kết chặt chẽ, đồng tâm hợp lực, ra sức chiến đấu mạnh, sản xuất tốt, cảnh giác cao; đồng thời, phải coi trọng việc phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm để cùng nhau thi đua trong lao động sản xuất, trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Hưởng ứng lời dạy của Bác, toàn dân và toàn quân ta hăng hái chiến đấu đánh giặc lập công, tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, tạo động lực vật chất, tinh thần cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi.
     Ngày nay, đất nước hòa bình, thống nhất, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, “phi chính trị hóa” quân đội nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Do vậy, học tập và làm theo lời dạy của Bác, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải luôn nêu cao cảnh giác cách mạng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
     Học tập và làm theo lời dạy của Bác, tự hào với truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta phải thường xuyên nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng; tuyệt đối không bị động, bất ngờ; ra sức học tập, huấn luyện, rèn luyện, làm chủ vũ khí trang bị, sẵn sàng chiến đấu cao; vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa...
Môi trường ST.

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2022

CÁN BỘ, CHIẾN SỸ QUÂN ĐỘI NÓI VÀ LÀM THEO HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT!

         Pháp luật được ban hành là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trật tự, củng cố và phát triển chúng theo những định hướng mong muốn nhằm đạt được những kết quả, mục tiêu nhất định, trong đó có mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
     Pháp luật Việt Nam đã quy định rõ các mức hình phạt trong từng khung hình phạt cho tất cả đối tượng phạm tội và các tội danh. Việc áp dụng các hình phạt phải bảo đảm đúng người, đúng tội, trên tinh thần mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Dù là cán bộ cấp cao hay một người dân bình thường, khi có sai phạm đều được xét xử công bằng trước pháp luật. Việt Nam, không có thứ pháp luật riêng dành cho những người có chức, có quyền, có địa vị. Đã là công dân Việt Nam thì không được đòi hỏi pháp luật dành quyền ưu tiên riêng cho mình. Tùy vào tính chất và mức độ vi phạm mọi công dân đều phải chịu hình phạt theo chế tài chung, bản án chung mà pháp luật quy định. Những vụ án xảy ra đều đã được xét xử một cách khách quan, công tâm, đúng người, đúng tội danh. 
     Từ những vấn đề đó cho thấy, mỗi chúng ta cần nâng cao ý thức cảnh giác, đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch mượn cớ bôi nhọ pháp luật, hạ thấp uy tính lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gây bất ổn trong nhân dân./.


Môi trường ST.

Xứng danh người lính cận vệ bên Lăng Bác Hồ

 

Ngày 2-9-1969, trái tim Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất đã ngừng đập.

                                                        

Người ra đi, để lại muôn vàn tiếc thương cho toàn thể nhân dân Việt Nam và bầu bạn quốc tế. Cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Người sống mãi với thế hệ hôm nay và muôn đời con cháu mai sau.

Xứng danh người lính cận vệ bên Lăng Bác Hồ
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Bác. Ảnh: TRUNG HIẾU

Là đơn vị thực hiện nhiệm vụ cao cả, linh thiêng và đặc biệt quan trọng, những năm qua, cán bộ, nhân viên, chiến sĩ Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ động, phát huy tinh thần trách nhiệm cùng niềm vinh dự, tự hào được canh giấc ngủ của Người, vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị đặc biệt mà Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân tin tưởng giao cho.

Qua hơn 50 năm giữ gìn thi hài Bác, 47 năm chính thức mở cửa Lăng đón đồng bào và khách quốc tế đến viếng Bác; thi hài Bác được giữ gìn trong trạng thái tốt nhất. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa Quảng trường Ba Đình lịch sử được duy tu, tôn tạo ngày càng khang trang sạch đẹp, đón tiếp tận tình chu đáo đồng bào và khách quốc tế đến viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện tình cảm sâu nặng, đời đời biết ơn công lao trời biển của Người đối với dân, với nước.

Có thể nói, quá trình xây dựng và trưởng thành của đơn vị là quá trình phấn đấu kiên trì, bền bỉ, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức với những chiến công thầm lặng. Trong những năm tháng chiến tranh, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 69 (đơn vị tiền thân của Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh) sát cánh cùng với chuyên gia Liên Xô vượt qua biết bao thử thách để bảo quản, giữ gìn và bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đặc biệt, sau khi thể chế chính trị của Liên Xô thay đổi, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Đoàn 969 và Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng đã có nhiều chủ trương biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị nhằm nêu cao ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ động sáng tạo, triển khai nhiều nội dung công tác lớn, vừa mang tính cấp thiết, vừa cơ bản lâu dài với những bước đi phù hợp, một mặt vừa phát huy kinh nghiệm đã được tích lũy, mặt khác chủ động hợp tác có hiệu quả với các nhà khoa học trong nước và các chuyên gia Liên bang Nga, từng bước vươn lên làm chủ vững chắc khoa học công nghệ giữ gìn lâu dài thi hài Bác.

Xứng danh người lính cận vệ bên Lăng Bác Hồ
Thực hiện nghi thức thượng cờ tại Quảng trường Ba Đình. Ảnh: TRUNG HIẾU

Năm 2004, phía Viện Nghiên cứu khoa học, dược liệu tinh dầu Liên bang Nga đã chuyển giao công nghệ pha chế dung dịch đặc biệt phục vụ nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là thành công của cơ chế hợp tác trực tiếp, dấu mốc quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ y tế giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt, năm 2013, sau nhiều nỗ lực đàm phán, Việt Nam và Liên bang Nga đã tiến hành ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Ban Quản lý Lăng với Viện Nghiên cứu Khoa học công nghiệp Liên bang Nga về chuyển giao công nghệ sản xuất bộ quần áo đặc biệt phục vụ nhiệm vụ y tế. Năm 2018, dự án được nghiệm thu và đánh giá hoàn thành xuất sắc, đáp ứng tốt các yêu cầu kỹ thuật của nhiệm vụ đặc biệt. Đây là dự án nhằm xây dựng một cơ sở để sản xuất vải tráng cao su cốt lụa tơ tằm của Việt Nam và bộ quần áo đặc biệt theo công nghệ của Liên bang Nga và được thực hiện tại Việt Nam.

Ngoài ra, vào các năm 1999, 2004, 2009 và 2019, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập các Hội đồng Khoa học Y tế cấp Nhà nước Việt - Nga để kiểm tra, đánh giá trạng thái thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh sau 30, 35, 40 và 50 năm giữ gìn và phục vụ thăm viếng. Kết luận của các hội đồng đều khẳng định: Thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đang được giữ gìn rất tốt. Như vậy, đơn vị đã từng bước làm chủ vững chắc nhiệm vụ giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh phục vụ thăm viếng. Đội ngũ cán bộ y tế trưởng thành, đủ khả năng độc lập hoàn thành nhiệm vụ. Hợp tác nghiên cứu khoa học, thực nghiệm được tiến hành hiệu quả, phục vụ đắc lực cho việc nâng cao chất lượng công việc trong giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ y tế giữ gìn lâu dài thi hài Bác, đơn vị đã chú trọng vươn lên từng bước làm chủ hoàn toàn hệ thống thiết bị kỹ thuật của công trình Lăng. Cán bộ, nhân viên, chiến sĩ Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động khắc phục mọi khó khăn, một mặt quản lý, khai thác có hiệu quả hệ thống thiết bị cũ, mặt khác phát huy nội lực, tranh thủ khả năng chuyên môn của các chuyên gia đầu ngành ở các cơ sở nghiên cứu trong và ngoài quân đội tiến hành thay thế từng bước những thiết bị chính theo hướng hiện đại, đồng bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển của nhiệm vụ. Nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa quy trình, góp phần tiết kiệm năng lượng, giảm chi phí vận hành và bảo dưỡng, sửa chữa, kéo dài tuổi thọ của thiết bị, tăng hệ số dự phòng và sẵn sàng phục vụ tốt trong những trường hợp bão lụt, mất điện cũng như trong trường hợp đặc biệt.

Song song với nhiệm vụ y tế, kỹ thuật, nhiệm vụ bảo đảm an ninh, nghi lễ cũng được đặc biệt quan tâm. Đã kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm an ninh khu vực, quy chế bảo vệ, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho công trình, các buổi lễ viếng, các lễ hội lớn của đất nước diễn ra trên khu vực Lăng và Quảng trường Ba Đình đều được tổ chức thành công tốt đẹp. Công tác nghi lễ đã được hình thành từ ngày mở cửa Lăng và được bổ sung hoàn thiện trong nhiều năm qua. Để nâng cao chất lượng công tác nghi lễ mang tầm quốc gia, Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, báo cáo và được Chính phủ phê duyệt từ ngày 19-5-2001 đã tổ chức trọng thể nghi lễ chào cờ hằng ngày trước Lăng Bác. Đây là một hoạt động góp phần giáo dục niềm tự hào, tự tôn dân tộc, trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc, với Bác Hồ kính yêu, gắn kết trang trọng biểu tượng thiêng liêng của Tổ quốc với lãnh tụ.

Xứng danh người lính cận vệ bên Lăng Bác Hồ
Thực hiện nghi thức thượng cờ tại Quảng trường Ba Đình. Ảnh: TRUNG HIẾU 

Đối với nhiệm vụ đón tiếp, tuyên truyền, đơn vị đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trong Ban Quản lý Lăng, Cụm di tích lịch sử - văn hóa Ba Đình từng bước nâng cao chất lượng phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân và khách quốc tế đến viếng Bác, tổ chức các sinh hoạt chính trị và tham quan khu vực. Từ khi mở cửa Lăng Bác đón khách đến nay, đã đón tiếp hơn 60 triệu lượt đồng bào và khách quốc tế, trong đó có hơn 10 triệu lượt khách quốc tế của hầu hết các quốc gia và tổ chức quốc tế; phục vụ 2.767 đoàn sinh hoạt chính trị; đón tiếp 1.123 đoàn với 124.690 lượt Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người có công với cách mạng vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng Bác, Quảng trường Ba Đình là nơi tổ chức nhiều sự kiện chính trị lớn của đất nước. Sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát, số lượng khách đến viếng Bác nhiều hơn, trung bình mỗi ngày gần 10 nghìn người, ngày lễ lên tới hơn 20 nghìn người.

Để xứng đáng với niềm vinh dự tự hào và trách nhiệm được giao, đơn vị luôn coi trọng và làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; kết hợp chặt chẽ việc giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng; làm cho mọi cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ có phẩm chất chính trị trong sáng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trung thành, tận tụy, gắn bó với sự nghiệp giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Bác, giữ vững phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, trung thực, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội và pháp luật Nhà nước. Đảng ủy, Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng tập trung bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực và trình độ chuyên môn cao, với nguồn kế cận và kế tiếp vững chắc. Với bao nhiêu khó khăn, thử thách nhưng với tinh thần năng động, sáng tạo, tự lực tự cường, lớp lớp cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây đắp nên truyền thống "Trung hiếu vẹn toàn, đoàn kết hiệp đồng, tự lực tự cường, chủ động sáng tạo", "Xứng danh người lính cận vệ bên Lăng Bác Hồ".

Bước vào giai đoạn mới của cách mạng, để hoàn thành được trọng trách vẻ vang mà Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân đã tin tưởng giao phó, mỗi cán bộ, nhân viên, chiến sĩ trong toàn đơn vị tiếp tục nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy nội lực, chủ động sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, mở rộng quan hệ hợp tác với những cơ sở nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học, hoàn thiện lý luận cơ bản và thực nghiệm về công tác y tế, vươn lên làm chủ vững chắc nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Bác. Quản lý, vận hành an toàn, hiệu quả hệ thống thiết bị kỹ thuật; thay thế, đổi mới các hệ thống thiết bị kỹ thuật với công nghệ hiện đại, đồng bộ, tiêu hao ít năng lượng; tôn tạo kiến trúc công trình Lăng, Đài tưởng niệm các Anh hùng, liệt sĩ, Quảng trường Ba Đình ngày càng khang trang, sạch đẹp xứng đáng là công trình có ý nghĩa chính trị, văn hóa của cả nước. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trong Ban Quản lý Lăng, Cụm di tích lịch sử, văn hóa Ba Đình, bảo đảm an ninh, an toàn tuyệt đối cho công trình, thuận tiện chu đáo cho nhân dân, khách quốc tế đến viếng Bác, tưởng niệm các Anh hùng, liệt sĩ và thăm quan Khu Di tích Đá Chông để thi hài Bác, Công trình Lăng và tư tưởng, đạo đức cách mạng của Người mãi mãi trường tồn cùng dân tộc.      

Nguồn: QĐND.

Huấn luyện gắn với thực tiễn chiến đấu

 

Những ngày cuối tháng 8, có mặt tại phường Phú Thượng, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng tôi được chứng kiến buổi luyện tập “Thiết quân luật”-một nội dung trong diễn tập khu vực phòng thủ của Trung đoàn 19, Sư đoàn 968 phối hợp với lực lượng dân quân, công an và Bộ CHQS tỉnh Thừa Thiên Huế.

Quan sát hành động của bộ đội, chúng tôi nhận thấy, mặc dù cùng lúc phối hợp, hiệp đồng với nhiều lực lượng, ở địa hình mới lạ, thời gian luyện tập chưa nhiều nhưng từ động tác cá nhân đến hiệp đồng giữa các lực lượng, được cán bộ, chiến sĩ đơn vị thực hiện khá thuần thục. Nhiều tình huống phức tạp đưa ra đều được các anh xử trí nhanh, gọn, hiệu quả.

Có mặt chỉ đạo đơn vị luyện tập, Trung tá Nguyễn Văn Thụ, Phó trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Trung đoàn 19, cho biết: “Có được kết quả đó là nhờ những năm qua trung đoàn đã có nhiều giải pháp nâng cao chất lượng huấn luyện, gắn huấn luyện với thực tiễn chiến đấu. Đơn vị luôn xác định huấn luyện toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu; lấy huấn luyện chiến thuật làm trung tâm, huấn luyện kỹ thuật làm cơ sở, bảo đảm cho bộ đội giỏi tác chiến độc lập cũng như tác chiến hiệp đồng ở mọi địa hình. Trung đoàn đã chỉ đạo các phân đội tăng cường thời gian huấn luyện thực hành, huấn luyện đêm, huấn luyện dã ngoại ở những địa hình mới lạ; kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu bộ binh với huấn luyện chuyên ngành, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, thể lực...”.

Huấn luyện gắn với thực tiễn chiến đấu
Một buổi huấn luyện của Đại đội ĐKZ 15, Trung đoàn 19. 

Để huấn luyện đạt kết quả cao, Trung đoàn 19 thực hiện phân cấp trong huấn luyện, phân rõ trách nhiệm của cơ quan, chỉ huy các cấp; nâng cao hiệu quả phối hợp, hiệp đồng giữa các cơ quan, đơn vị trong việc tham mưu, chỉ đạo, điều hành huấn luyện. Hằng tuần, kết hợp thông qua giáo án, các đại đội, tiểu đoàn tổ chức huấn luyện mẫu để đội ngũ cán bộ học tập, bổ sung cho nhau những nội dung còn yếu, còn thiếu, từ đó rút kinh nghiệm và tìm ra nguyên nhân, hướng khắc phục những hạn chế trong từng khoa mục.

Đặc biệt, với phương châm "yếu khâu nào bồi dưỡng khâu đó", Trung đoàn 19 đã kết hợp giữa mở các lớp tập huấn theo kế hoạch với bồi dưỡng cán bộ thông qua hoạt động thực tiễn. Trong đó, chú trọng bồi dưỡng phương pháp huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu bộ binh, diễn tập vòng tổng hợp có bắn đạn thật, phương pháp soạn giáo án và thông qua giáo án huấn luyện tại thực địa; khuyến khích cán bộ tự học, tự nghiên cứu để nắm chắc nội dung, phương pháp huấn luyện.

Đại úy Đỗ Bá Tùng, Phó tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 19, cho rằng: “Muốn có kết quả huấn luyện tốt, trước hết phải có cán bộ giỏi. Từ suy nghĩ đó, trước và trong huấn luyện, đơn vị luôn bồi dưỡng cho cán bộ, nhất là cán bộ trung đội, tiểu đội những nội dung sát với yêu cầu nhiệm vụ; đồng thời phân công cán bộ bám thao trường, bãi tập, chỉ bảo, hướng dẫn cụ thể cho từng chiến sĩ; kịp thời uốn nắn, động viên, khích lệ tinh thần để chiến sĩ vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đơn vị còn chú trọng phương pháp chia nhỏ, tập nhiều, bồi dưỡng thêm ngoài giờ cho các chiến sĩ về nội dung còn yếu. Ngoài thời gian huấn luyện, cán bộ, chiến sĩ còn tham gia các hoạt động thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ, tạo môi trường thân thiện, đoàn kết và mọi người đã thực sự coi đơn vị là nhà, cán bộ, chiến sĩ đều là anh em”.

Việc triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp trong thời gian qua đã góp phần để trung đoàn luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Qua những lần kiểm tra của sư đoàn, quân khu và Bộ Quốc phòng, đều đánh giá đơn vị hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ. Trung đoàn nhiều năm liên tục được Bộ Quốc phòng tặng Cờ đơn vị huấn luyện giỏi. Riêng trong 8 tháng đầu năm 2022, đơn vị đã tổ chức diễn tập chiến thuật tổng hợp cho 9 trung đội đều đạt giỏi về kỹ thuật, khá về chiến thuật, an toàn tuyệt đối về mọi mặt; tham gia diễn tập chỉ huy-cơ quan 1 bên 2 cấp trên bản đồ đạt kết quả giỏi; kiểm tra các bài bắn đều đạt khá, giỏi; tham gia Hội thi trung đoàn trưởng, chính ủy trung đoàn giỏi cấp quân khu đoạt giải nhì cặp đôi và 2 giải nhì cá nhân; Hội thi cán bộ giảng dạy chính trị giỏi cấp sư đoàn đoạt 2 giải nhất, 2 giải nhì, 2 giải ba, cấp quân khu có 1 giải nhì, 1 giải ba... Những kết quả đó đã trở thành động lực thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ trung đoàn tiếp tục phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

Nguồn: QĐND.

DANH LỢI KHÔNG MÀNG!


Trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài, đăng trên báo Cứu quốc ngày 21/1/1946, Bác Hồ nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
St
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG "BỐN KHÔNG"

 

Các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên mọi lĩnh vực; trong đó, có lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Gần đây, nhân sự kiện chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga đang diễn ra ở Ukraine, chúng tìm mọi cách lại xuyên tạc chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam.
Trong thời gian qua, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã và đang tìm mọi cách xuyên tạc, suy diễn vô căn cứ về bản chất chính sách quốc phòng nước ta. Với nhan đề “Nga thiếu may mắn vì Ukraine không chọn “chính sách 4 không” của Trân Văn đăng trên Tiếng Dân News, ngày 04/3/2022... Họ đã viết: “Nếu Ukraine xác lập chính sách quốc phòng “ba không”: “Không tham gia liên minh quân sự”. “Không liên kết với nước này để chống nước kia”. “Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác” và đến năm 2019, long trọng bổ sung thêm một “không” nữa vào “Bạch thư Quốc phòng”: “Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” như Việt Nam, vị thế chính trị của Ukraine sẽ không như mọi người đã thấy suốt thời gian qua”. Viết vậy, nhưng Trân Văn suy diễn: “Khi phải làm hàng xóm với một quốc gia vừa nuôi tham vọng chi phối, dẫn dắt các lân bang... một dân tộc quật cường như dân Ukraine chắc chắn sẽ không bao giờ chấp nhận bất cứ đảng nào, chính phủ nào định ra và đeo đuổi “chính sách ba không”, thậm chí tạo thêm một... “không” chỉ để duy trì... “sự toàn vẹn của đặc quyền, đặc lợi” cho đảng của mình, chính phủ của mình, chứ không phải giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, duy trì và phát triển các lợi ích của quốc gia, dân tộc”(!).
Thưa Trân Văn, chính sách quốc phòng “ba không”, rồi “bốn không” của Việt Nam là để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nói đến Tổ quốc có thể khái quát là sự hợp thành của hai phương diện: tự nhiên lịch sử và chính trị - xã hội. Nếu thiếu một trong hai phương diện trên thì chưa phải Tổ quốc hoàn chỉnh. Đúng thế! Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 về phương diện tự nhiên lịch sử của đất nước ta vẫn còn nguyên đó, thực dân Pháp có “bê” được vùng đất, trời, biển của Việt Nam về lắp ghép với vùng đất, trời... của nước Pháp đâu mà nhân dân ta vẫn nói là nước mất nhà tan. Vì chính quyền phong kiến Việt Nam lúc đó chỉ là bù nhìn, làm tay sai cho thực dân Pháp mà thôi...
Mặt khác, nếu không có phương diện tự nhiên lịch sử, thì dù có đầy đủ bộ máy nhà nước thì họ cũng đâu có Tổ quốc. Trên thực tế, một số tổ chức lưu vong có thâm thù với Đảng, Nhà nước Cộng sản Việt Nam luôn tìm cách nhằm lật đổ chế độ, như: Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời (từ 1990 đến nay), do Đào Minh Quân lãnh đạo; Việt Nam Quốc dân Đảng (1927 đến nay), do Trần Tử Thanh, Trần Thắng lãnh đạo; Đại Việt Cách mạng Đảng (1965 đến nay) do Trần Dzũng Minh Dân, Nguyễn Văn Lung lãnh đạo; Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng (1982 đến nay) do Hoàng Cơ Minh, Đỗ Hoàng Điềm, Lý Thái Hùng, Hồng Thuận lãnh đạo,... dù các tổ chức này có bộ máy, nhưng họ đâu có Tổ quốc. Vì họ làm gì có vùng đất, vùng trời, biển... nào để mà làm chủ. Thế mà, Trân Văn lại cho rằng: “...định ra và đeo đuổi “chính sách ba không”, thậm chí tạo thêm một... “không” chỉ để duy trì... “sự toàn vẹn của đặc quyền, đặc lợi” cho đảng của mình, chính phủ của mình, chứ không phải giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, duy trì và phát triển các lợi ích của quốc gia, dân tộc”! Xin nhắc lại, chính sách quốc phòng “ba không”, rồi “bốn không” của Việt Nam là để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên cả hai phương diện: tự nhiên lịch sử và chính trị - xã hội; không thể chỉ bảo vệ “sự toàn vẹn của đặc quyền, đặc lợi” cho Đảng và Chính phủ mà không “giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, duy trì và phát triển các lợi ích của quốc gia, dân tộc”. Vì hai mặt này thống nhất biện chứng với nhau tạo nên Tổ quốc; nên không thể chỉ có mặt này mà không có mặt kia và ngược lại.
Việc cố tình lờ đi tính lịch sử của chính sách quốc phòng Việt Nam nói trên của Trân Văn để y hòng “buộc tội” cho việc “sai lầm” của chính sách này. Đây là việc làm không khách quan với chủ ý xấu của kẻ tiểu nhân. Nhân đây xin nhắc lại chính sách quốc phòng “ba không” lần đầu tiên xuất hiện trong sách trắng quốc phòng của Việt Nam năm 1998 và sau đó, tái xuất hiện trong sách trắng quốc phòng các năm: 2004 và 2009. Chính sách này cũng được nêu ra trong Luật Quốc phòng của Việt Nam, được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 01/01/2019. Chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam (từ ba không thêm một không: “Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”) xuất hiện trong sách trắng quốc phòng năm 2019. Nguyên tắc này không mâu thuẫn với mục đích hiện đại hóa quân đội cũng như nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng vũ trang Việt Nam, đó là bảo vệ đất nước, kể cả bằng cách sử dụng vũ lực khi cần thiết. Nếu đất nước có chiến tranh, người Việt Nam buộc phải cầm súng bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ hòa bình. Chúng ta kiên định chính sách quốc phòng "Không liên kết với nước này chống nước kia". Việt Nam không liên minh quân sự, đồng thời mở rộng quan hệ đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng nhằm mở rộng sự ủng hộ quốc tế, phát triển năng lực nhận thức, hiểu biết của chúng ta.
Thực tế cho thấy, đối với nước nhỏ trước những nước lớn, thế lực lớn đan xen thì phải khôn khéo trong chính sách đối ngoại, làm sao để dân tộc mình giữ được mối quan hệ tốt với các nước, đặc biệt là với các nước lớn, để tận dụng tốt thời cơ phát triển đất nước. Chính sách quốc phòng “ba không”, “bốn không” của Việt Nam là nhằm mục đích đó.
Mới đây, trả lời phỏng vấn của Báo Tuổi trẻ về chiến dịch quân sự đặc biệt giữa Nga và Ukraine, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã nhấn mạnh: Chúng ta không thể đứng ngoài sự việc này, bởi trước hết Nga và Ukraine đều là bạn của Việt Nam, những bên can dự vào đều là đối tác của chúng ta. Việt Nam chúng ta có 3 thế mạnh để có thể tham gia, đóng góp giúp tạo lập lại hòa bình. Thứ nhất, chúng ta đã chiến thắng trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, để kiến lập nền hòa bình bền vững cho đất nước. Thứ hai, chúng ta cũng có kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ nhưng vẫn giữ được hòa bình. Trong hơn 1/4 thế kỷ qua, sóng gió như vậy nhưng Việt Nam giữ vững được toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, giữ được độc lập tự chủ và những gì chúng ta đang có, đồng thời giữ được hòa bình. Thứ ba, chúng ta có quan hệ đa phương rộng rãi với hầu hết các quốc gia, các vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, THẮNG LỢI CỦA KHÁT VỌNG ĐỘC LẬP, HÒA BÌNH VÀ PHÁT TRIỂN


Độc lập, hòa bình và phát triển là khát vọng của dân tộc Việt Nam, được đánh dấu bằng thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là mốc son chói lọi của dân tộc, mang tầm vóc quốc tế và ý nghĩa thời đại sâu sắc. Phát huy tinh thần đó, 77 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, từng bước đổi mới để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám
Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX theo lập trường phong kiến hay dân chủ tư sản, tiểu tư sản đều có mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, nhưng lại sai lầm trong xác định đường lối, con đường phát triển và phương pháp đấu tranh nên lần lượt bị thất bại. Chỉ có xu hướng yêu nước theo lập trường của giai cấp vô sản, gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội được khẳng định cả về phương diện khoa học và thực tiễn, được phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chấp nhận và thực hiện. Sự phát triển theo quỹ đạo cách mạng vô sản đã đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, Nhân dân đã giành lại và củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc, là cơ sở để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện khát vọng của dân tộc, trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc khảo nghiệm thực tiễn tại nhiều nước tư bản chủ nghĩa, nhưng Người không lựa chọn con đường cách mạng tư sản, vì cho rằng: con đường đó không mang lại quyền lợi thực sự cho quần chúng lao động và không mở đường cho độc lập của các dân tộc thuộc địa. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm thấy ở lý luận cách mạng đó con đường cứu nước đúng đắn: gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, tức là phải đi tới chủ nghĩa xã hội. Sự gặp gỡ giữa Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa Mác – Lênin là sự gặp gỡ tất yếu giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của thời đại. Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, gieo hạt giống chủ nghĩa xã hội vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).
Trên cơ sở mục tiêu được xác định trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, qua thực tiễn các cao trào cách mạng (1930 - 1931), (1936 - 1939) và những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng bổ sung, phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Đặc biệt, khi thời cơ đến, Hội nghị Trung ương 6 (11/1939) của Đảng xác định: “tất cả mọi vấn đề của cách mệnh, kể cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào các mục đích ấy mà giải quyết”. Đến Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), Đảng ta nhấn mạnh: “nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương,... cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”.
Để thực hiện đường lối đúng đắn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, phát động khởi nghĩa từng phần, đồng thời chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, quân đội Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động đến cực độ, chính quyền tay sai suy yếu là lúc thời cơ thuận lợi nhất xuất hiện. Chớp thời cơ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Thực hiện lời kêu gọi của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên tạo thành cơn bão táp cách mạng lật đổ ách thống trị tàn bạo của phát xít Nhật, giành lại quyền độc lập cho dân tộc. Đây là đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh đoàn kết toàn dân, thể hiện tầm cao trí tuệ dân tộc và sức mạnh của thời đại, mở ra trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất và là một trong những bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Với Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”, đánh dấu sự khởi đầu thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; từ thân phận nô lệ, nhân dân ta trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ý nghĩa đó đã khẳng định tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không chỉ với dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Đúng như Đảng ta khẳng định, đó còn là sự kiện: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Khát vọng độc lập, hòa bình và phát triển trong Cách mạng Tháng Tám - động lực tinh thần của 30 năm trường chinh chống các thế lực ngoại xâm và công cuộc đổi mới hiện nay
Thành quả vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trở thành động lực và sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để tiến hành cuộc trường chinh 30 năm chống các thế lực ngoại xâm hung bạo của thế giới, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (năm 1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và niềm tin sắt đá “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”, dân tộc Việt Nam một lần nữa đứng lên đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Trải qua hơn 20 năm chiến đấu anh dũng, với đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta; với một phương pháp cách mạng đúng đắn; với phương châm toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, “mỗi người dân là một dũng sĩ diệt Mỹ”; với sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ trên thế giới,... quân và dân ta đã đánh bại các chiến lược, biện pháp chiến tranh của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi đó “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX”.
Bước vào thời kỳ đổi mới, phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám, dưới ngọn cờ của đường lối đổi mới mà Đại hội VI đã xác định, của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và tiếp đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân và toàn quân, vượt lên những khó khăn, thử thách, đất nước ta đã giành được những thành tựu rất đáng tự hào. Nổi bật là, kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định; lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi: chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố; thế và lực của đất nước được tăng cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, như Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Nhằm phát huy những giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thành quả sau 77 năm xây dựng và phát triển đất nước, khắc phục những hạn chế trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, xây dựng nước ta phát triển toàn diện, bền vững, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”10. Để thực hiện quan điểm này, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam. Bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững với ý chí, khát vọng độc lập, hòa bình và phát triển theo tinh thần Cách mạng Tháng Tám.
Lịch sử tuy đã lùi xa nhưng những giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành quả của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc với khát vọng độc lập, hòa bình và phát triển vẫn mãi là động lực to lớn để dân tộc ta vững bước trên con đường xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

ĐẤU TRANH CHỐNG SỰ PHÁ HOẠI, XUYÊN TẠC LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.


Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện từ mùa Xuân năm 1930 và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhờ đó đất nước Việt Nam “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Hiện thực lịch sử vẻ vang đó được toàn dân tộc thừa nhận, tự hào và bạn bè quốc tế khâm phục, quý trọng. Đó là sự thật, không ai có thể phủ nhận. Nhưng vẫn có những thế lực thù địch, phản động ở trong nước và ở nước ngoài cố tình xuyên tạc lịch sử Đảng hòng hạ thấp và chống phá sự lãnh đạo của Đảng.
1. Có một số thế lực cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và tầm vóc, giá trị lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Họ coi đó chỉ là sự “ăn may” của cộng sản, Việt Minh. Thực tế lịch sử đã khẳng định Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng diễn ra liên tục suốt 15 năm với sự lãnh đạo của Đảng từ cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, phong trào dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.
Trong phong trào giải phóng dân tộc, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện đường lối, đặt mục tiêu giành độc lập dân tộc lên hàng đầu; xây dựng lực lượng chính trị rộng lớn, đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh; xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng rộng khắp trên cả nước; xác định phương pháp đấu tranh đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành độc lập và chính quyền; dự báo và nắm bắt thời cơ cách mạng. Đó là những điều căn bản và quyết định thắng lợi của cách mạng.
Điểm nổi bật có giá trị lý luận và thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý đúng đắn vấn đề tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ. Thời cơ bảo đảm cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi là: Cao trào cách mạng của nhân dân cả nước phát triển mạnh mẽ (Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945); kẻ địch lâm vào khủng hoảng, hoang mang, mất sức chiến đấu (Pháp chạy, Nhật hàng Đồng minh); các tổ chức đảng và Việt Minh đủ mạnh trên cả nước, quyết tâm lãnh đạo đưa quần chúng vào hành động cách mạng. Cùng với nắm bắt thời cơ, Đảng đã chỉ rõ nguy cơ: Quân Đồng minh (Anh và Trung Hoa dân quốc) kéo vào giải giáp quân Nhật và lợi dụng danh nghĩa đó để xâm chiếm Việt Nam; lợi dụng sự thất bại của Nhật, quân Pháp quay lại áp đặt sự cai trị như trước ngày 9-3-1945. Đảng đã lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước khi quân Đồng minh vào và trước khi quân Pháp quay lại.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang từ ngày 14 đến 15-8-1945 quyết định tổng khởi nghĩa với nguyên tắc chỉ đạo: Tập trung, thống nhất, kịp thời và nhanh chóng giành thắng lợi trong nửa cuối tháng 8-1945. Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã xóa bỏ chế độ thuộc địa gần một thế kỷ và chế độ quân chủ phong kiến hàng nghìn năm, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do với bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945-1954) do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là cuộc kháng chiến thần thánh với những chiến công vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”. Bạn bè quốc tế nhắc đến Điện Biên Phủ gắn liền với Việt Nam-Hồ Chí Minh-Võ Nguyên Giáp. Vậy mà đến nay vẫn có thế lực cố tình xuyên tạc. Họ cho rằng có thể tránh được cuộc chiến tranh "nếu phía Việt Nam không hiếu chiến".
Sự thật đã bác bỏ quan điểm sai trái đó. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”.
Lập trường hòa bình và sự nhân nhượng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa rất rõ ràng. Khi kháng chiến diễn ra ở Nam Bộ, ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh đã ký với J.Sainteny, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Hà Nội bản Hiệp định Sơ bộ cho phép 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân đội Trung Hoa dân quốc; Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và tài chính riêng trong liên bang Đông Dương và thuộc khối liên hiệp Pháp. Đó là sự nhân nhượng rất lớn nhưng cần thiết mặc dù Pháp chưa công nhận Việt Nam độc lập và còn phải ở trong khối liên hiệp Pháp. Nhân nhượng đó thể hiện mong muốn hòa bình và quan hệ thân thiện với nước Pháp. Để thúc đẩy quá trình đó, ngày 25-4-1946, đoàn Quốc hội Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu thăm nước Pháp. Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội thăm chính thức nước Pháp với mong muốn hòa bình và hợp tác giữa hai nước. Ngày 6-7-1946, cuộc đàm phán Việt-Pháp bắt đầu ở Fontainebleau (Pháp). Do phía Pháp không thành thật muốn đàm phán nên giải pháp hòa bình không thành. Trước khi trở về nước ngày 14-9-1946, Hồ Chí Minh ký bản Tạm ước với Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Moutet nhân nhượng một số quyền lợi của Pháp ở Việt Nam. Ngày 18-10-1946, về đến cảng Cam Ranh, Hồ Chí Minh gặp Cao ủy Pháp D’Argenlieu trao đổi về thực hiện Tạm ước 14-9.
Sau khi ra miền Bắc, quân đội Pháp liên tiếp gây hấn, vi phạm Hiệp định Sơ bộ 6-3. Ngày 20-11-1946, Valluy, Quyền Cao ủy Pháp, ra lệnh cho quân Pháp tấn công Hải Phòng. Ở Hà Nội, quân Pháp trắng trợn dùng vũ lực và đòi kiểm soát thành phố. Trước hành động chiến tranh của Pháp, dân tộc Việt Nam buộc phải chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội Pháp mong muốn chấm dứt chiến sự, nối lại đàm phán nhưng phía Pháp không đáp lại. Bàn tay hòa bình của Việt Nam đưa ra nhưng phía Pháp đã không đáp lại bằng thái độ hòa bình. Chính phủ Pháp đã lao sâu vào cuộc chiến tranh mà chính người Pháp gọi là chiến tranh phi nghĩa, “chiến tranh bẩn thỉu” để cuối cùng nhận lấy thất bại đau đớn.
3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) phải vượt qua nhiều gian khổ, hy sinh mới đi đến Ngày toàn thắng 30-4-1975, thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc. Chính giới Hoa Kỳ và các tướng lĩnh Mỹ thừa nhận hành vi chiến tranh của họ ở Việt Nam, những bài học và nguyên nhân thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nhiều cựu binh Mỹ đã trở lại Việt Nam có lời sám hối về cuộc chiến tranh phi nghĩa của Chính phủ Mỹ và những tội ác do họ gây ra, mong muốn được góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh, nhất là sự tàn phá của chất độc da cam/dioxin. Vậy mà vẫn có những tiếng nói lạc lõng, trắng trợn, coi chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc “nội chiến” giữa phe cộng sản và phe quốc gia. Đó là sự xuyên tạc lố bịch nhất.
Năm 1950 mở đầu sự can thiệp của Mỹ khi tàu chiến Mỹ đến cảng Sài Gòn và ngày 19-3-1950, 30 vạn nhân dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ can thiệp. Sau thảm bại của Pháp ở Điện Biên Phủ (7-5-1954), tháng 6-1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng trong Chính phủ Bảo Đại do Pháp dựng lên từ ngày 13-6-1949. Đó là sự chuẩn bị để Mỹ thay thế Pháp ở Việt Nam. Sau Hiệp định Geneva được ký kết (tháng 7-1954), Việt Nam tạm chia làm hai miền với Vĩ tuyến 17. Ở miền Nam, Mỹ chính thức thay chân Pháp khi quân Pháp rút hết về nước (28-4-1956). Mỹ dựng lên chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, từ chối hiệp thương với miền Bắc để tổng tuyển cử thống nhất đất nước như quy định của Hiệp định Geneva, mưu toan chia cắt lâu dài nước Việt Nam.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên là bất hợp pháp, giả hiệu; là phản dân, hại nước. Ngụy là giả. Vì vậy, chính quyền và quân đội do Mỹ xây dựng được gọi là ngụy quyền, ngụy quân. Họ không đại diện cho quốc gia, dân tộc dù họ tự gọi mình là "chính phủ quốc gia", “chính nghĩa quốc gia”. Ngày 13-5-1957, tại Mỹ, Ngô Đình Diệm trắng trợn tuyên bố: “Biên giới của Hoa Kỳ kéo dài đến Vĩ tuyến 17”. Lời tuyên bố đó và cả hành động thực tế đã cho thấy bản chất của một chính quyền tay sai, bán nước, công cụ chiến tranh của Mỹ, hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ suốt đến sau này. Khi chính quyền đó không đáp ứng được lợi ích của Mỹ thì Mỹ sẵn sàng gạt bỏ, “thay ngựa giữa dòng”. Cái chết bi thảm của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu trong cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 đã chứng tỏ điều đó.
Mỹ đã lần lượt thất bại trong mô hình thực dân mới ở miền Nam Việt Nam; trong “Chiến tranh đặc biệt” 1961-1964, “Chiến tranh cục bộ” 1965-1968 và “Việt Nam hóa chiến tranh” 1969-1975. Có những hành động chiến tranh vô cùng tàn bạo của Mỹ như rải chất độc hóa học hủy diệt sự sống ở miền Nam (10-8-1961); ném bom miền Bắc từ ngày 5-8-1964; ồ ạt đưa quân Mỹ tham chiến ở miền Nam (8-3-1965); sử dụng lượng vũ khí lớn ở Thành cổ Quảng Trị; ném bom hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972. Cuối cùng, quân Mỹ đã thất bại, chấp nhận ký Hiệp định Paris (27-1-1973), rút hết quân Mỹ về nước. Cách mạng Việt Nam phát triển, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
4. Vào những năm 1988-1991, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Do chủ nghĩa xét lại, cơ hội, sự suy thoái trong các Đảng Cộng sản cầm quyền và sự phản bội đã dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động ở Việt Nam cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội đã thất bại. Họ coi việc truyền bá lý luận Mác-Lênin vào Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm. Họ đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ sự lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng và đa nguyên chính trị, xóa bỏ con đường xã hội chủ nghĩa.
Đảng đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm thực tiễn, đề ra các nguyên tắc chỉ đạo đổi mới kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ dứt khoát lựa chọn từ năm 1930; trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bác bỏ đa nguyên, đa đảng. Đảng đề ra "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (1991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, hội nhập quốc tế và đối ngoại ngày càng mở rộng, đời sống về mọi mặt của Nhân dân không ngừng được nâng cao.
Việt Nam vẫn vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã công bố tác phẩm quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Đó là công trình tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới, làm sáng tỏ mục tiêu, mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, các giải pháp và quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với lý luận khoa học và thực tiễn Việt Nam, đóng góp vào kho tàng lý luận về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là vì nhân dân, vì con người. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”.
Đất nước và dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo đang phát triển mạnh mẽ, vững chắc trên con đường đúng đắn dựa trên cơ sở khoa học và hiện thực. Mọi sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng và sự lãnh đạo của Đảng không cản trở được khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam.
Nguồn: Báo QĐND