Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2023

TRƯỜNG SA, NƠI TÌNH YÊU Ở LẠI

 Trong khi mọi người tham quan bảo tàng, Thủy với bộ quân phục hải quân đứng một góc, lẳng lặng nhìn ra xa xa, như tịnh tâm tưởng nhớ về người bố của mình. Người vãn bớt, Thủy lần ngón tay dò tìm tên của bố và đồng đội bố trên những tấm bảng, đôi mắt đỏ hoe...

Nhọc nhằn tuổi thơ
Trước ngày lên tàu KN390 xuất phát ra quần đảo Trường Sa, chúng tôi được đi thăm nghĩa trang liệt sĩ Trường Sa ở Khánh Hòa. Đồng chí Thiếu tá Lại Văn Tung, trợ lý Phòng Công tác quần chúng, Cục Chính trị hải quân giới thiệu, trong đoàn công tác chúng ta có một đồng chí là con của liệt sĩ Gạc Ma lần đầu ra viếng bố mình. Đó là Thiếu tá chuyên nghiệp Lê Thị Minh Thủy, con của liệt sĩ Lê Đình Thơ.
Bố Lê Đình Thơ đi Trường Sa khi Lê Thị Minh Thủy chưa tròn một tuổi. Đáng lẽ không phải bố của Thủy đi chuyến ấy nhưng một đồng đội có vợ vừa sinh con nhỏ nên bố Thủy tình nguyện đi thay. Bố Lê Đình Thơ hy sinh khi Thủy vừa tròn một tuổi 9 ngày. Mẹ của Thủy quá đau buồn, đã ra đi theo chồng vào cuối tháng 12 cùng năm đó. Lê Thị Minh Thủy mồ côi khi mới 18 tháng tuổi.
Không còn bố mẹ, Thủy về Hà Tây (nay là Hà Nội) ở với ông bà ngoại được vài năm, sau đó về ở với ông bà nội tại Thanh Hóa. Sau khi tốt nghiệp THPT, Thủy tình nguyện viết đơn xin được phục vụ tại Đoàn Đo đạc biên vẽ hải đồ và Nghiên cứu biển, nơi bố mẹ từng công tác. Tháng 11/2005, Thủy vui mừng nhận quyết định được tuyển dụng vào đơn vị. Chưa có bằng cấp, Thủy chỉ được bố trí ở bộ phận nấu ăn. Thấy chưa thể tiếp nối nghề của bố mình, Thủy âm thầm vừa làm việc, vừa tự ôn thi và đỗ vào Trường đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội, khoa Trắc địa bản đồ. Tốt nghiệp, Thủy được trở về Đoàn Đo đạc biên vẽ hải đồ và Nghiên cứu biển - Bộ Tham mưu Hải quân công tác.
Trong dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Thủy tham gia nhiệm vụ diễu binh, được Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc tặng bằng khen vì đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và được thăng quân hàm Đại úy trước niên hạn. Năm 2022, Thủy được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, quân nhân chuyên nghiệp tiêu biểu xuất sắc giai đoạn 2020-2022 cấp Bộ Tham mưu, Phụ nữ xuất sắc tiêu biểu cấp Quân chủng, Bằng khen cấp Bộ Quốc phòng.
Mơ một lần ra Trường Sa
Rất trùng hợp, chồng của Thủy trước kia cũng thuộc đội đo đạc của bố Thủy. Nay vợ chồng Thủy có hai con, các con Thủy chỉ thấy ông bà nội nhưng chưa được thấy ông bà ngoại đâu nên luôn hỏi. Thủy đưa con về thăm quê ngoại kể về ông bà ngoại cho con nghe. Đến ngày rằm, ngày giỗ, Thủy dắt con lên thắp nhang cho ông bà ngoại rồi tiếp tục kể ông ngoại đã hy sinh trong trận chiến bảo vệ biển đảo ở Trường Sa. Các con Thủy lắng nghe rồi vào mạng internet tìm kiếm và đọc những bài viết về Trường Sa và trận chiến Gạc Ma. Thủy cảm thấy ấm lòng.
Đi cùng đoàn công tác trên tàu, Thủy thấy không khí trên tàu rất vui. Các đại biểu khắp mọi miền đất nước đã đón nhận và dành tình cảm đặc biệt quý mến bộ đội cùng lực lượng hải quân. Nghĩ đến các chiến sĩ vất vả, dù say sóng rất mệt, các chị, các em vẫn ráng dậy giúp rửa chén bát, nhặt rau, phụ nấu ăn...
Đứng tựa hành lang boong tàu, trò chuyện với Thủy giữa biển xanh trời xanh mây trắng Trường Sa, tôi vô cùng mến phục, cô bé mồ côi cả cha lẫn mẹ khi mới một tuổi rưỡi, giờ đã là một thiếu tá hải quân chuyên nghiệp, rắn rỏi với đôi mắt cương nghị, giọng nói ấm, khỏe khoắn.
Bí ẩn Trường Sa
Tàu vừa rời cảng đi Trường Sa đã nhận tin dự báo thời tiết vài ngày tới có áp thấp nhiệt đới, sóng to sẽ ập đến. Thủy nằm bẹp trong phòng, đến bữa không dậy ăn cơm nổi. Đi ô-tô đã say xe huống gì sóng biển cấp năm, cấp sáu. Nhiều người trong đoàn đã lo lắng, sức khỏe Thủy có chịu nổi sóng biển, đi viếng bố Thủy lại vất vả đến thế này sao!
Lúc đoàn công tác chuẩn bị làm lễ tưởng niệm, sĩ quan thuyền viên tàu đã hạ một xuồng cứu sinh đưa nhóm phóng viên ảnh xuống biển để kịp ghi lại những hình ảnh thả lễ vật và vòng hoa. Sóng biển đang cấp ba, cấp bốn, xuồng cứu sinh dập dềnh. Nhưng kỳ lạ thay, lúc làm lễ tưởng niệm, sóng gió đột ngột lặng, biển êm đến lạ thường. Những vòng hoa, những cánh hoa đăng bồng bềnh cùng nến lung linh trên mặt biển cứ tản ra xa dần hòa vào biển trời đêm.
Sau khi làm lễ tưởng niệm và lấy một ít nước biển Gạc Ma, Thủy thấy hết say sóng. Hôm sau ngủ dậy, mọi mệt mỏi đã tan biến, Thủy ra ngoài boong tàu ngắm biển trò chuyện với mọi người, trong lòng vô cùng nhẹ nhõm. Không biết do tâm lý hay năng lượng vô hình từ bố truyền sang mà sau lễ tưởng niệm Thủy bỗng khỏe mạnh hơn.
Đoàn công tác chúng tôi may mắn khi đến thăm tất cả các điểm đảo và nhà giàn DK I, II Phúc Tần theo đúng kế hoạch, lịch trình. Được biết các chuyến ra đảo trước và sau đó vì sóng lớn chỉ cử đại diện lên thăm đảo thăm giàn mà thôi. Một chiến sĩ trên nhà giàn nói, gần hai năm nay mới có một đoàn mà tất cả các đại biểu được lên thăm nhà giàn thế này.
Dù kế hoạch lên thăm và rời đảo đã được định giờ giấc trước hàng tháng trời nhưng cả ba lần đoàn thăm đảo Sinh Tồn Đông, Trường Sa Lớn và Nhà giàn DK Phúc Tần, khách lên thăm đảo, thăm giàn nắng chói chang. Lúc chia tay, tàu vừa nhổ neo tiếp tục hành trình thì mưa dông ào đến, khách và chủ vẫy tay trong màn mưa cùng sấm chớp đì đùng. Mưa gió rất to như cùng tiễn biệt đoàn vậy./.
St

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

 Từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 1990, đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3.900 USD, gấp 39 lần. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để đảm bảo an sinh xã hội, an ninh con người và phát triển con người.

Đổi mới tư duy về chính sách xã hội được thể hiện rõ qua các chủ trương của mỗi kỳ đại hội. Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, gia đình, quan hệ giai cấp, dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” và “Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Các kỳ đại hội tiếp theo, vấn đề chính sách xã hội luôn được khẳng định “Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển”. Mục tiêu cơ bản của chính sách xã hội là bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển, hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Chính sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống con người, như: điều kiện lao động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe… và luôn gắn chặt, phụ thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Hội nghị Trung ương 5 khoá XI ngày 1/6/2012 ban hành Nghị quyết một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 xác định “chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ”.
Bên cạnh đó, nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng tiếp tục được ban hành nhằm cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về chính sách xã hội, như: Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020, xác định bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và phát triển kinh tế-xã hội. Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bổ sung thêm quan điểm coi việc tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động là nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các thị trường; đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất; huy động sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng xã hội thực hiện chính sách an sinh xã hội; khuyến khích người dân tự nguyện tham gia bảo đảm an sinh xã hội. Nghị quyết 28-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành yêu cầu thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân, bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ...
MỘT SỐ THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
Từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 1990, đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3.900 USD, gấp 39 lần. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để đảm bảo an sinh xã hội, an ninh con người và phát triển con người. Chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào nỗ lực phát triển vượt bậc con người Việt Nam, chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,703 vào năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo, từ chỗ hơn 60% dân số nghèo đói (1990) đến năm 2022 tỉ lệ hộ nghèo chỉ còn 2,23%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm khoảng 1,2%; Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4- 5%/năm. Chính sách bảo hiểm xã hội trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội. Đến hết năm 2022 có 17,5 triệu người tham gia, chiếm tỷ lệ 38,08% lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ 8,27 triệu người năm 2012 lên gần 14,3 triệu người năm 2022, chiếm 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi.
Công tác trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từng bước chuyển từ quan điểm nhân đạo sang hướng tiếp cận dựa trên quyền được hưởng an sinh của người dân. Các chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi, chiếm 3,5% dân số và 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên hàng tháng; trẻ em được bảo vệ và chăm sóc, được thực hiện đầy đủ quyền trẻ em và có môi trường sống an toàn; chăm sóc và phát huy tốt hơn vai trò người cao tuổi; người khuyết tật được trợ giúp phục hồi chức năng, đào tạo nghề và tạo việc làm góp phần cải thiện đời sống. Bảo hiểm y tế đã tạo đột phá về tỷ lệ bao phủ.
MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ CỦA CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HIỆN NAY
Thực hiện chính sách xã hội trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống các chính sách xã hội cơ bản đảm bảo công bằng, toàn diện, bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo cơ bản quyền an sinh của người dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song, chính sách xã hội hiện nay vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, như: chính sách bảo hiểm xã hội tỷ lệ bao phủ còn rất thấp; chưa có sự tương trợ, kết nối của các trụ cột chính sách trong tổ chức thực hiện; chênh lệnh mức sống giữa vùng miền, đối tượng còn cao; kết quả giảm nghèo chưa đồng đều, tái nghèo vẫn cao; thiếu liên kết giữa các chính sách trong tổ chức thực hiện. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em chậm được cải thiện; chất lượng dịch vụ y tế chưa tương xứng với tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt khu vực nông thôn, miền núi và công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu... Chất lượng dịch vụ xã hội còn hạn chế, hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, chăm sóc xã hội còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Hệ thống cơ sở dữ liệu, phân công, phân cấp quản lý nhà nước trong quản lý phát triển các chính sách xã hội từ Trung ương đến địa phương còn phân tán, thiếu đồng bộ. Nguồn lực thực hiện chính sách xã hội còn trông chờ nhà nước, chưa có cơ chế kinh tế để huy đông, phân bổ hiệu quả nguồn lực cho phát triển chính sách xã hội...
KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CẦN ƯU TIÊN
Một là, quan điểm về chính sách xã hội
Phát triển xã hội mang tính bền vững là hướng đến vì hạnh phúc con người, nhằm mục tiêu vì con người. Cho nên, văn hóa chính là mục tiêu của các chính sách xã hội. Chính sách xã hội hướng đến mục tiêu văn hóa, nhưng khi các vấn đề xã hội được giải quyết tốt, khi đó, vai trò văn hóa với tư cách là động lực sẽ bồi dưỡng nguồn lực con người, cải tạo và xây dựng một xã hội phát triển. Do vậy, mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phải mở đường cho văn hóa phát triển, phải tạo ra những điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc vun đắp những giá trị tinh thần tốt đẹp trong nhân dân, vì nhân dân.
Thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội là mục tiêu xây dựng đất nước. Nói đến công bằng xã hội là nói đến sự ngang bằng giữa người với người về phương diện xã hội, như giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Điều này khẳng định tầm quan trọng và vai trò của công bằng xã hội trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Để đạt được mục tiêu công bằng xã hội, chủ thể quản lý cần kiên quyết đấu tranh phòng chống căn bệnh tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Thực hiện sự đồng bộ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển, đảm bảo an sinh xã hội, để Việt Nam thật sự đạt đến mục tiêu phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; chính sách xã hội toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển.
Hai là, cần tiếp tục đổi mới tư duy về chính sách xã hội
Ban hành và thực hiện các chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, bảo đảm tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, đảm bảo quyền con người. Đầu tư cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội là đầu tư cho sự ổn định và phát triển kinh tế, với vai trò nguồn lực nhà nước là chủ đạo, cùng các nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp, xã hội, đóng góp của người dân thông qua các chính sách kinh tế. Từng bước cần nghiên cứu có sự điều tiết vĩ mô chính sách kinh tế gắn với quyền và nghĩa vụ của người dân trong việc thực hiện các chính sách xã hội, cũng như trách nhiệm chính quyền các cấp trong việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội; đồng thời, thực hiện các chính sách xã hội góp phần đảm bảo cân đối dân cư giữa các vùng, miền trên phạm vi cả nước.
Ba là, kết hợp hài hòa giữa chính sách xã hội với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế- xã hội
Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc vì sự phát triển bền vững, theo đó Việt Nam đang nỗ lực để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững với 17 Mục tiêu nhằm giải quyết những thách thức phát triển lớn mà người dân Việt Nam, trong đó có các chính sách gắn với chính sách xã hội, như: (1) Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; (2) Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; (3) Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi; (4) Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; (5) Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái; (6) Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người; (7) Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người; (
😎
Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người; (9) Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới; (10) Giảm bất bình đẳng trong xã hội; (11) Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn, phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng; (12) Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững; (13) Ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai; (14) Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững; (15) Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất; (16) Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh vì sự phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp; (17) Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững.
Bốn là, đảm bảo sự gắn kết thực hiện chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội, coi quản lý phát triển xã hội là một bộ phận cấu thành hệ thống các chính sách xã hội
Thực hiện mục tiêu đến năm 2030, nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; tầm nhìn Việt nam đến 2045 là trở thành quốc gia phát triển, thuộc nhóm các nước có thu nhập cao, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 nêu về phát triển các chính sách xã hội: “quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số”; “Phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới hải đảo và các đối tượng chính sách”; “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo”, theo đó cần tập trung vào quản lý phát triển xã hội đòi hỏi cần nghiên cứu ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển chính sách xã hội gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ; cần đổi mới cơ chế phân công, phân cấp trong huy động, phân bổ, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về thực hiện các chính sách xã hội và nghiên cứu đổi mới bộ máy tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong quản lý phát triển xã hội cho phù hợp giai đoạn phát triển mới. Ngoài ra, cần có cơ chế chủ động nghiên cứu, nắm bắt và dự báo được những vấn đề chính sách xã hội sẽ nảy sinh, dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội cũng chính sách huy động nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện chính sách xã hội.
Năm là, phát triển phúc lợi xã hội bao trùm cần ưu tiên hướng đến trong các chính sách xã hội
Phúc lợi xã hội bao trùm gắn kết chặt chẽ nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là bảo đảm các nhu cầu cơ bản, thiết yếu về giáo dục, y tế, văn hóa, nhà ở xã hội, giao thông công cộng, phúc lợi cho người lao động. Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, việc tăng cường phúc lợi xã hội đã trở nên cần thiết để nhà nước có thể đáp ứng những nhu cầu của người dân. Cần tập trung vào những vấn đề thiết yếu nhất của người dân lao động, bảo đảm các thành phần kinh tế được công bằng và khuyến khích người dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển nước nhà. Giáo dục là nội dung quan trọng hàng đầu của phúc lợi xã hội, bảo đảm nguồn nhân lực có chất lượng và hạ tầng xã hội cho phát triển đất nước, thúc đẩy công bằng về cơ hội phát triển đối với mọi thành viên xã hội.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh tính hiệu quả khi tăng mức đầu tư cho giáo dục, tức xác định chi ngân sách cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, tăng chi là cần thiết nhưng phải bảo đảm chi đúng đối tượng, đúng hạng mục chuyên môn, thay vì chi dựa trên tổng biên chế của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị mà không phân khai rõ hiệu quả của đối tượng thụ hưởng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ, cần thực hiện xã hội hóa giáo dục đúng hướng, mà vấn đề lớn là phân loại rõ đâu là hoạt động giáo dục theo yêu cầu của cá nhân người học cùng khả năng chi trả tài chính tương ứng, đâu là hoạt động giáo dục phi lợi nhuận gắn với cơ chế, chính sách tương ứng của Nhà nước. Đối với hoạt động giáo dục phi lợi nhuận, cần sự hỗ trợ của Nhà nước không chỉ chính sách, mà cả nguồn lực, như mặt bằng đất đai mở trường, miễn thuế cho những trường hợp sử dụng thu nhập cá nhân hoặc tài sản thừa kế để đầu tư cho phát triển giáo dục... Giáo dục mầm non có vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm phúc lợi xã hội, có lúc, có nơi đã từng thả nổi cho thị trường, dẫn tới những hệ lụy đáng tiếc, như giáo viên bạo hành trẻ nhỏ, chế độ nuôi dưỡng không bảo đảm dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn thực phẩm, thiếu phương pháp, phương tiện phù hợp với đặc điểm “giáo dục sớm”... Trong cơ chế thị trường, cần khuyến khích khu vực ngoài công lập đầu tư phát triển các trường đáp ứng yêu cầu những gia đình có khả năng chi trả tài chính gắn với những điều kiện tốt về cơ sở vật chất trường lớp, thiết bị giáo dục, đưa đón học sinh, chế độ bữa ăn,... nhưng các tiêu chuẩn cơ bản (chất lượng giáo viên, tài liệu học tập, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, điều kiện nuôi dạy...) thì không thể có sự phân biệt giữa khu vực công và khu vực tư.. Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe bảo đảm phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả, đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho người dân mà không làm “nghèo hóa” người có thu nhập thấp, nhờ bảo hiểm y tế toàn dân và giá dịch vụ y tế được kiểm soát bởi vai trò Nhà nước thể hiện tính chất phúc lợi xã hội tiến bộ, hiệu quả và nhân văn. Phúc lợi văn hóa được bảo đảm bằng phát triển các thiết chế văn hóa mang tính chất dịch vụ công cộng mà người thụ hưởng được miễn phí hoặc phí sử dụng thấp; được hưởng thụ các giá trị văn hóa cộng đồng, như công viên, lễ hội, tham quan các di tích, tín ngưỡng, tôn giáo do cộng đồng tự quản; được tiếp cận các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể thao miễn phí qua các kênh truyền thông công cộng. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân... Đây là những vấn đề rất lớn về phúc lợi xã hội cần chăm lo phát triển vì con người thông qua phát triển hạ tầng xã hội. Phát triển phúc lợi nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống và hạnh phúc của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.
St

TRÁCH NHIỆM NÊU GƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU

 Người đứng đầu cơ quan, đơn vị có vai trò quản lý, điều hành, dẫn dắt đồng thời chịu trách nhiệm về mọi hoạt động tại nơi mình phụ trách. Từ đây đòi hỏi vấn đề nêu gương của người đứng đầu phải luôn được đề cao. Tuy nhiên trên thực tế có lúc, có nơi vẫn còn tình trạng lơ là, buông lỏng, thiếu trách nhiệm của người đứng đầu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tập thể, tác động tiêu cực đến xã hội, làm mất niềm tin trong nhân dân.

NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN VỀ VAI TRÒ NÊU GƯƠNG
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị được hiểu là những cá nhân được trao quyền để thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị đó. Bởi vậy, họ cũng là người có quyền hạn cao nhất cũng như phải chịu trách nhiệm chính về những hoạt động của cơ quan, đơn vị do mình phụ trách. Ở đây có thể thấy rõ hai yếu tố gắn với người đứng đầu, đó là quyền hạn và trách nhiệm. Quyền hạn càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: "Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ" và "Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước".
Lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được quán triệt và cụ thể hóa trong nhiều văn kiện của Đảng. Tiêu biểu như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên... Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu". Như vậy có thể thấy đề cao việc nêu gương chính là một phương thức lãnh đạo của Đảng mang ý nghĩa, giá trị nhân văn sâu sắc, giúp quy tụ quần chúng nhân dân, góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.
Vấn đề nêu gương của người đứng đầu đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự. Bởi dù ở đâu, lĩnh vực nào, thời gian nào thì việc nêu gương của người đứng đầu luôn có vai trò to lớn đối với sự thành công hay thất bại của đơn vị. Nếu người lãnh đạo gương mẫu, chính trực có thể giúp tập thể đoàn kết, phát triển vững mạnh; nhưng nếu người lãnh đạo suy thoái về tư tưởng, đạo đức, không phát huy vai trò nêu gương có thể khiến nội bộ lục đục, suy yếu. Để tiếp tục quán triệt vai trò nêu gương của người cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu trước yêu cầu của tình hình mới, ngày 7/6/2012 Ban Bí thư đã ban hành Quy định số 101-QĐ/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; ngày 19/12/2016 Bộ Chính trị ban hành Quy định số 55-QĐ/TW về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; ngày 25/10/2018 Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; ngày 18/5/2021 Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Việc triển khai các quy định, kết luận nêu trên đã phát huy hiệu quả tích cực trên thực tế, góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nhiều cơ quan, đơn vị đã triển khai các phong trào thi đua sôi nổi bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong việc thực thi kỷ luật, kỷ cương; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu nhận thức rõ hơn về trách nhiệm nêu gương. Từ đây góp phần tích cực để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, có lúc, có nơi, vấn đề nêu gương của người đứng đầu chưa được đề cao, chưa được coi trọng, chưa làm đến nơi đến chốn; việc nêu gương chưa hình thành nền nếp thường xuyên, chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng. Vẫn còn tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm, buông lỏng công tác quản lý, điều hành của người đứng đầu, để xảy ra nhiều sai phạm. Cá biệt có tình trạng người đứng đầu ỷ thế, cậy quyền, áp đặt, lạm dụng quyền lực, coi quyền lực được tổ chức giao cho là "miếng bánh" mầu mỡ để tận dụng, đục khoét của công, chèn ép cấp dưới, coi thường người lao động, câu kết với các đối tượng xấu hòng trục lợi, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật, gây bức xúc trong dư luận.
Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW tháng 6/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: "Việc cam kết tu dưỡng, rèn luyện, gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiệu quả chưa cao". Tổng kết công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII cho thấy: Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.209 cán bộ, đảng viên có liên quan đến tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương chức và đã nghỉ hưu, trong đó, có 3 Ủy viên Bộ Chính trị, 1 nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 7 Ủy viên Trung ương Đảng, 16 nguyên Ủy viên Trung ương Đảng; 1 bộ trưởng và 4 nguyên bộ trưởng; 22 thứ trưởng và nguyên thứ trưởng; 12 bí thư và nguyên bí thư tỉnh, thành ủy; 3 phó bí thư và nguyên phó bí thư tỉnh ủy; 15 chủ tịch và nguyên chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố; 26 sĩ quan cấp tướng trong Quân đội, Công an.
Những sai lầm, khuyết điểm của người đứng đầu bị xử lý kỷ luật được Đảng ta nhận diện, đó là: thiếu gương mẫu trong quản lý, điều hành; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, các quy định của Đảng, Nhà nước và công tác cán bộ; thiếu trách nhiệm trong kiểm tra, giám sát; có hành vi tham nhũng, tiêu cực, "lợi ích nhóm"... gây hậu quả nghiêm trọng đến cơ quan đơn vị, thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Nổi cộm thời gian gần đây có thể kể đến các "đại án": kit test Việt Á; "chuyến bay giải cứu" liên quan đến lãnh đạo nhiều bộ, ngành, địa phương; vụ nâng khống thiết bị y tế xảy ra tại Bệnh viện Bạch Mai; vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí, vi phạm các quy định về quản lý đất đai xảy ra tại Bộ Công thương và Tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco); "đại án" buôn lậu ở Công ty Nhật Cường,…
Thẳng thắn nhìn nhận nếu không có sự tiếp tay, dung túng của một số lãnh đạo, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, chắc chắn "chiếc vòi bạch tuộc" của tham nhũng, tiêu cực không thể hoành hành, gây nên hậu quả nghiêm trọng đến như vậy. Thực tế này cho thấy cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực cần được thực hiện song hành với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có việc chấn chỉnh vai trò, trách nhiệm của đội ngũ lãnh đạo các cấp. Vai trò nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu phải được đề cao. Trong công tác tổ chức cần xem xét việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu là yêu cầu bắt buộc, làm căn cứ để phân công công tác, bố trí nhiệm vụ, làm cơ sở cho việc đánh giá, phân loại và giám sát cán bộ hằng năm. Mọi sai phạm của bất cứ cá nhân lãnh đạo nào cũng cần phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì". Tinh thần ấy tiếp tục được phát huy trong giai đoạn hiện nay với tiêu chí mà Đảng ta đề ra, đó là kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, "không có vùng cấm, không có ngoại lệ".
Tuy nhiên, để thực hiện tốt việc nêu gương của người đứng đầu, quan trọng nhất vẫn là sự tự ý thức, phát huy trách nhiệm cá nhân của người lãnh đạo trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Không có sự chủ động, tự giác đối với bản thân thì người lãnh đạo sẽ dễ nảy sinh tiêu cực, nói một đằng, làm một nẻo, quan liêu, tắc trách, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Cá nhân người lãnh đạo cần thường xuyên ý thức thật sâu sắc về vấn đề nêu gương, không ngừng tự kiểm điểm bản thân, soi chiếu vào các quy định của Đảng và Nhà nước làm cơ sở để điều hành công việc cũng như ban hành các quyết định đúng đắn, dẫn dắt cơ quan, đơn vị ngày càng phát triển.
Liên quan đến vấn đề nêu gương, người đứng đầu phải bảo đảm tốt các yếu tố bao gồm: tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống và tác phong sinh hoạt, công tác. Cùng với đó là những tiêu chuẩn không thể thiếu về trình độ, năng lực, phẩm chất, phong cách của người lãnh đạo dám chịu trách nhiệm, có quan điểm, phương pháp làm việc khách quan, toàn diện và cụ thể, liêm chính. Trong hoạt động quản lý, điều hành tại đơn vị mình, người đứng đầu cần tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, biết lắng nghe, phát huy trí tuệ của cấp dưới, tránh chuyên quyền, độc đoán; dám chịu trách nhiệm khi mắc sai lầm, khuyết điểm. Chỉ khi là "đầu tầu gương mẫu", người lãnh đạo mới thu phục được nhân tâm, sự tin yêu của cấp dưới, để từ đó tạo sự đoàn kết, đồng thuận trong nội bộ, cùng nhau hoàn thành tốt những nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Thực tiễn đã chứng minh, "cán bộ nào, phong trào nấy". Do đó, ở nơi nào người đứng đầu tiên phong, gương mẫu, nêu cao tinh thần trách nhiệm thì nơi đó nội bộ đoàn kết, tập thể vững mạnh, hoạt động nền nếp, hiệu quả, bảo đảm được kỷ cương, kỷ luật. Ở nơi nào người đứng đầu không gương mẫu, lợi dụng chức vụ, quyền hành để vun vén cá nhân thì cấp dưới sẽ thừa cơ làm bừa, làm ẩu, nội bộ rối loạn. Bởi vậy, việc nêu gương cần phải là việc làm thường xuyên, liên tục, thể hiện bằng hành động, việc làm cụ thể, mới thực sự phát huy tác dụng.
DÁM NGHĨ, DÁM LÀM, TỰ GIÁC CHỊU TRÁCH NHIỆM
Việc nêu gương của cán bộ lãnh đạo là vô cùng quan trọng, có tác động mạnh mẽ đến tập thể. Tuy nhiên, bên cạnh việc tự giác chịu trách nhiệm, tự giác nêu gương, cũng cần phải thiết lập cơ chế, luật pháp để cán bộ, nhất là người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm, nhất là trong việc xử lý các sai phạm, yếu kém.
Chỉ tính riêng trong năm 2022, đã có 539 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 47 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Trên cả nước đã khởi tố mới 493 vụ/1.123 bị can về tội tham nhũng (tăng 163 vụ/328 bị can so với năm 2021). Riêng các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo, đã khởi tố mới 11 vụ/37 bị can, khởi tố bổ sung 120 bị can trong 22 vụ án...
Những con số thống kê này cho thấy tính chất nghiêm trọng của vấn nạn tham nhũng, tiêu cực, nhưng cũng thể hiện sự quyết tâm của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đây là những hồi chuông cảnh tỉnh, răn đe, cảnh báo nghiêm khắc để đội ngũ cán bộ, nhất là những người đứng đầu ý thức, trách nhiệm hơn trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
Điều đáng nói, những kết quả quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã tạo hiệu ứng tích cực, góp phần bồi đắp, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, với sự phát triển cường thịnh, vững bền của đất nước. Kết quả ấy không hề làm suy giảm, nhụt ý chí, sợ sai không dám làm của cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu.
Trái lại, đó chính là cơ hội để cho cá nhân mỗi người đứng đầu có cơ hội sửa sai, là bài học quý báu trong quá trình rèn giũa sau này để mỗi cán bộ lãnh đạo ngày càng hoàn thiện bản thân, đóng góp được nhiều hơn cho đơn vị, địa phương. Đồng thời, đây cũng chính là cơ hội, thời vận để tạo ra đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm khi làm việc, hành động thực sự vì sự nghiệp chung, vì nhân dân, vì đất nước.
Yêu cầu về việc tự chịu trách nhiệm trong đội ngũ lãnh đạo đã hình thành từ lâu, tuy nhiên khi công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tăng cường trong thời gian qua thì vấn đề này càng trở nên cấp bách. Thực tiễn cho thấy cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh, có bước phát triển mới, đi vào chiều sâu đã tạo ra hiệu ứng rất tích cực trong công tác cán bộ.
Không chỉ bịt những “kẽ hở” pháp luật mà còn lấp những “khoảng trống” để tham nhũng, tiêu cực, lãng phí không có điều kiện nảy sinh, tác oai tác quái. Kết quả của những bước ngoặt, sự đột phá trong trận chiến chống “giặc nội xâm” đã buộc đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu phải cẩn trọng, thấu đáo, xác định rõ mục tiêu, lợi ích khi ban hành những chính sách, quyết định, cũng như trong quá trình quản lý, thực thi công việc. Họ ý thức được việc tự nguyện chịu trách nhiệm, trước khi buộc phải cho thôi giữ chức vụ, bị xử lý kỷ luật. Tinh thần ấy đã và đang từng bước lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội, chắc chắn sẽ có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước.
Trong công tác cán bộ, để tránh tình trạng chây ỳ, thủ thế, lo “giữ ghế” khi được bổ nhiệm, thay vào đó là khuyến khích sử dụng cán bộ năng động, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, ngày 17/11/2022, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.
Quan điểm chỉ đạo được Đảng ta xác định trong Nghị quyết là làm rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, gắn với nêu cao trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu; bảo đảm nguyên tắc quyền lực đi đôi với trách nhiệm; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở.
Một trong những mục tiêu của Nghị quyết số 28 là: Đề cao trách nhiệm của tập thể, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với kiểm soát quyền lực chặt chẽ.
Điểm mới của Nghị quyết số 28 về công tác cán bộ chính là khuyến khích cán bộ từ chức khi có khuyết điểm; kịp thời thay thế cán bộ bị kỷ luật, cán bộ năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm; kiên trì thực hiện “có vào, có ra, có lên, có xuống” trong công tác cán bộ.
Tổ chức thực hiện nghiêm kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ sau khi bị kỷ luật, góp phần bảo đảm kỷ cương, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng và chế độ.
Trước đó, ngày 3/11/2021 Đảng ta đã ban hành Quy định số 41-QĐ/TW về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm của người đứng đầu. Theo đó, không cần đến hết thời hạn bổ nhiệm, cán bộ lãnh đạo có thể bị xem xét việc miễn nhiệm, từ chức nếu thuộc một trong các trường hợp sau: Miễn nhiệm đối với người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách hoặc cấp dưới trực tiếp xảy ra tham nhũng, tiêu cực rất nghiêm trọng; Người đứng đầu lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực thì tùy tính chất, mức độ sai phạm để xem xét cho từ chức; Cho từ chức đối với người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách hoặc cấp dưới trực tiếp xảy ra tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng.
Thực tế, có làm thì có khả năng xảy ra sai sót, làm càng nhiều thì nhiều nguy cơ mắc sai lầm, nhất là trong hoàn cảnh người đứng đầu liên tục phải đưa ra những quyết định đòi hỏi sự nhanh chóng, chính xác. Nhưng không phải khi nào, không phải ai cũng luôn giữ được sự tỉnh táo, mẫn tiệp, kín kẽ, ai cũng có sự uyên thâm sâu rộng, sự hiểu biết đa lĩnh vực.
Đặc biệt, trước những tình huống mới xuất hiện, những việc chưa có tiền lệ, sự bảo đảm an toàn tuyệt đối trong các quyết định đưa ra là rất khó. Những rủi ro, sai lầm là nhiều lúc, nhiều khi khó có thể tránh khỏi nhưng quan trọng là người đứng đầu dám dũng cảm đối diện với những tình huống nảy sinh từ quyết định của mình và sẵn sàng đứng ra nhận trách nhiệm với những điều không mong muốn xảy ra.
Dám chịu trách nhiệm cũng chính là sự thể hiện lòng tự trọng của mỗi con người, là sự chính trực cần thiết phải có. Người đứng đầu càng cần thể hiện rõ nét điều này, có như thế ngay cả khi tự nguyện nhận trách nhiệm, xin từ chức, mất đi vị trí thì vẫn luôn nhận được sự tôn trọng của cấp dưới nói riêng, xã hội nói chung.
Tất nhiên, việc tự giác chịu trách nhiệm của người đứng đầu không dễ dàng trở thành văn hóa công vụ, bởi chưa nhiều người đủ dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm của bản thân cũng như đơn vị do mình quản lý; hoặc tự cho mình là yếu kém, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút, cho đến khi có sai phạm và bị pháp luật “gọi tên”. Bên cạnh đó, sự tự giác cũng chưa thật ăn sâu, thấm đẫm trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Với không ít người, trách nhiệm thực sự là “gánh nặng”, không dễ gì đón nhận. Một số người không muốn từ chối quyền lợi, sẵn sàng “phủi tay” trách nhiệm, đổ lỗi cho người khác, không dám đối diện, thừa nhận những việc mình đã làm sai. Thực tế này đòi hỏi việc thượng tôn pháp luật phải được chú trọng, đề cao, những cơ chế kiểm soát quyền lực cần phải được thực thi nghiêm minh, sát, đúng để việc “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” trở thành nếp sống thường xuyên hằng ngày của tất cả mọi cán bộ, đảng viên trong cả nước./.
ST

NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU ĐANG Ở ĐÂU?

 Những năm qua, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam đạt nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, khiến dư luận nhân dân phấn khởi, đồng lòng ủng hộ và nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận.

Thành công đó có sự đóng góp vô cùng quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhất là những người đứng đầu các cấp. Thế nhưng, với dã tâm thâm độc, các thế lực thù địch, phản động đã và đang cố tình xuyên tạc, "đổi trắng thay đen", phủ nhận hoàn toàn vai trò, vị trí và đóng góp của những cán bộ chủ chốt, người đứng đầu trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm”.
Cố tình xuyên tạc, bôi nhọ cán bộ chủ chốt
Mới đây, trên một số trang mạng, các đối tượng phản động đăng bài viết có nội dung đả kích, xuyên tạc, rêu rao rằng: Những người đứng đầu các cơ quan nhà nước đang “nêu gương đạo đức giả" trước người dân (!); tham nhũng ở Việt Nam diễn ra tràn lan là do hỏng từ người đứng đầu (!); đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ "tắm từ vai xuống" (!) và thực chất là "cuộc chiến phe phái" (!)...
Cùng với đó, một số bài viết của những kẻ chống phá đã cố tình vu khống, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội, người đứng đầu các cấp. Chúng tung tin nhảm rằng: Cán bộ A, cán bộ B đã nhúng chàm, cán bộ C đang bị giam lỏng...
Ở khía cạnh khác, có đối tượng phản động, bất mãn lại rêu rao: Ngoài hầu hết cán bộ đứng đầu tham nhũng thì số còn lại do “thế hèn sức mọn” nên cố tình né tránh, không dám đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực (!). Chúng còn đưa ra luận điệu vu cáo cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ là "bỏ sâu to, bắt sâu nhỏ” và "sâu to bắt sâu nhỏ”(?)... Rồi chúng dùng chiêu bài "phỏng vấn những người yêu nước” (thực chất là những người đang có tư tưởng bất mãn, phản động) để những người này bày tỏ ủng hộ những điều vu khống, xuyên tạc, quy chụp của chúng, bịa đặt rằng "người dân Việt Nam đã mất niềm tin vào những người đứng đầu" (!)...
Điều ai cũng nhận thấy là các thế lực thù địch, phản động, bất mãn đều tập trung vu khống, quy chụp, xuyên tạc, nói xấu đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhất là người đứng đầu, bởi âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng vô cùng nham hiểm, tinh vi: Làm mất niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào đội ngũ cán bộ chủ trì, chủ chốt. Chúng coi đó là biện pháp hiệu quả nhất, con đường ngắn nhất để làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng triệt để lợi dụng việc nhiều người dân không có điều kiện tiếp xúc với lãnh đạo cấp cao, khó kiểm chứng thông tin... để tăng cường thực hiện "mưu hèn kế bẩn" này.
Có phải “bỏ sâu to, bắt sâu nhỏ”?
Trước hết, phải khẳng định rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định: Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một trụ cột trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Đây là yêu cầu tất yếu, khách quan, là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. Vì vậy, phải kiên quyết, kiên định, kiên trì, đấu tranh trực diện, không khoan nhượng với tham nhũng, tiêu cực; bảo đảm "trên dưới đồng lòng", "dọc ngang thông suốt". Trong cuốn sách "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh" vừa xuất bản, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một việc làm cần thiết, tất yếu, là một xu thế không thể đảo ngược”... Đồng chí Tổng Bí thư đã cương quyết chỉ đạo: Phải tiến hành thật kiên quyết, kiên trì, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không chịu bất kỳ một sức ép nào của bất cứ tổ chức, cá nhân nào. Ai ngại đấu tranh, không làm được thì đứng sang một bên...
Thực tế đã chứng minh, trong những năm qua, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả mang tính đột phá với rất nhiều vụ án, vụ việc được phát hiện, xử lý nghiêm khắc từ Trung ương đến cơ sở. Nhận rõ thực tế đằng sau nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực, nhất là những vụ đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thường có bóng dáng của một số cán bộ đứng đầu đơn vị, địa phương, ngành, thậm chí cả cán bộ Trung ương, Đảng, Nhà nước ta đã kiên quyết chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra, thanh tra, điều tra làm rõ và xử lý nghiêm khắc, triệt để; kiên quyết không để sót lọt người vi phạm và những cán bộ làm ngơ, dung túng, tiếp tay, bao che.
Chỉ riêng năm 2022 đã thi hành kỷ luật 539 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 47 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (tăng 15 trường hợp so với năm trước); cho thôi giữ chức Ủy viên Trung ương Đảng (khóa XIII) đối với 5 đồng chí; cho thôi giữ chức vụ đối với 2 phó thủ tướng Chính phủ, 3 thứ trưởng và tương đương; các địa phương đã cho từ chức, miễn nhiệm 3 chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND tỉnh theo chủ trương sắp xếp, bố trí công tác đối với cán bộ bị xử lý kỷ luật, uy tín giảm sút. Qua công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đã chuyển 557 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật (tăng gấp hơn hai lần so với năm 2021). Trong năm 2022, trên cả nước đã khởi tố mới 493 vụ/1.123 bị can về tội tham nhũng (tăng 163 vụ/328 bị can so với năm 2021).
Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã kiên quyết xử lý và chỉ đạo xử lý nghiêm những người đứng đầu, cán bộ cấp cao có vi phạm. Theo thống kê của cơ quan chức năng, giai đoạn 2012-2022, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 190 cán bộ diện Trung ương quản lý (có 4 ủy viên Bộ Chính trị, 36 ủy viên và nguyên ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang)... Đặc biệt, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, Đảng, Nhà nước đã xử lý và chỉ đạo xử lý kỷ luật, xử lý hình sự, cho thôi chức vụ, nghỉ công tác... nhiều cán bộ cấp cao, trong đó có không ít người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, đơn vị... và báo chí đã đăng thông tin này rất công khai. Như vậy, không thể nói là cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam là "bỏ sâu to, bắt sâu nhỏ" như các đối tượng thù địch, phản động rêu rao, xuyên tạc.
Mặt khác, tuy Việt Nam đã xử lý không ít cán bộ cấp cao, người đứng đầu các cấp có hành vi tham nhũng, tiêu cực hoặc để xảy ra tham nhũng, tiêu cực trong cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của mình, thế nhưng đó chỉ là những "con sâu làm rầu nồi canh", hoàn toàn không phải như thông tin mà các thế lực chống phá rêu rao, quy chụp rằng "hầu hết cán bộ đứng đầu tham nhũng". Thực tế cho thấy, những cán bộ có vi phạm, tham nhũng, tiêu cực chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong đội ngũ cán bộ nói chung, những người đứng đầu các cấp nói riêng. Tuyệt đại đa số cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì, chủ chốt, người đứng đầu các cấp trong hệ thống chính trị đã nỗ lực phấn đấu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là điển hình tiêu biểu nhất. Theo kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành mới đây, tuyệt đại đa số ý kiến người dân (93%) bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của những người đứng đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Cũng cần nói thêm là, tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực, xấu xa mà thời nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có; đó là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực. Lịch sử nhân loại cho thấy, tình trạng tham nhũng trong bộ phận quan chức, những người đứng đầu đã trở thành vấn nạn nhức nhối, xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả những nước vốn được coi là kiểm soát quyền lực tốt. Việc các đối tượng thù địch, phản động, bất mãn cho rằng chế độ chủ nghĩa xã hội là nguyên nhân sinh ra tham nhũng ở Việt Nam và hầu hết cán bộ đứng đầu đều tham nhũng, tiêu cực là hoàn toàn không đúng sự thật, thể hiện góc nhìn chẳng những rất phiến diện mà còn là cố tình xuyên tạc, thổi phồng nhằm thực hiện mưu đồ thâm độc chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta.
Người đứng đầu đang đi đầu
Khác hẳn những luận điệu mà một số đối tượng thù địch, chống phá rêu rao, trong phòng, chống “giặc nội xâm”, tuyệt đại đa số cán bộ đứng đầu các cấp trong hệ thống chính trị ở Việt Nam đã và đang gương mẫu đi đầu. Họ không chỉ là tấm gương sáng để cán bộ, đảng viên, cấp dưới noi theo, mà còn thường xuyên giáo dục, quán triệt, nhắc nhở, yêu cầu cấp dưới thực hiện đúng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời chỉ đạo ban hành các quy định, quy chế, duy trì cơ quan, đơn vị thực hiện chặt chẽ, tăng cường kiểm tra, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những trường hợp tham nhũng, tiêu cực.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thái Học, Phó trưởng ban Nội chính Trung ương: Người đứng đầu có vị trí, vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ ở địa phương, cơ quan, đơn vị, trong đó có công tác phòng, chống tham nhũng.
Cổ nhân cũng đã đúc rút: "Thượng bất chính, hạ tắc loạn". Thử hỏi, nếu cán bộ đứng đầu nào cũng tham nhũng, tiêu cực (như các thế lực phản động rêu rao) thì các tổ chức, đơn vị, địa phương ở Việt Nam có giữ được sự ổn định, vững mạnh để phục vụ nhân dân, phát triển đất nước hay không? Đất nước Việt Nam có bảo đảm sự ổn định về chính trị, an ninh trật tự để trở thành điểm đến, điểm thu hút đầu tư từ nước ngoài hay không?
Ở nước ta hiện nay, người lãnh đạo đi đầu trong việc tuyên chiến với tham nhũng, tiêu cực và thường xuyên gióng lên tiếng trống xung trận chống "giặc nội xâm" là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Quyết tâm, sự gương mẫu đi đầu trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định từ những ngày đầu của nhiệm kỳ Đại hội XI: “Đấu tranh phòng, chống tiêu cực, tham nhũng là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, cần sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó, mỗi cán bộ, đảng viên và đặc biệt là cán bộ chủ trì phải gương mẫu đi đầu”.
Thực tế, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đều nhận rõ và vô cùng kính phục sự gương mẫu đi đầu, tinh thần kiên quyết, kiên trì và những chỉ đạo sáng suốt, hiệu quả trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Trên cương vị người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn có quyết tâm chính trị rất cao và đã chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá, gắn liền giữa phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Sự mẫu mực và ý chí "tuyên chiến" với tham nhũng, tiêu cực của người đứng đầu Đảng, của Trung ương đã lan tỏa trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta với tinh thần “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”; đẩy lùi hiện tượng “trên nóng dưới lạnh”. Kết quả là nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực đã bị phát hiện, xử lý nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn.
Trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm”, người đứng đầu không đơn độc đi đầu, mà Trung ương Đảng, cấp ủy đảng các cấp gắn trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của những “ngọn cờ đầu” với những tổ chức, cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng. Không chỉ Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hoạt động ngày càng hiệu quả, mà ban chỉ đạo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã được thành lập, bao gồm các cán bộ lãnh đạo chủ chốt, chỉ đạo chống “giặc nội xâm” đạt những kết quả đáng ghi nhận. Như vậy, những người đứng đầu thực sự là “tổng chỉ huy” của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở các cấp, được giao trách nhiệm nặng nề và có nghĩa vụ phải trở thành tấm gương để cán bộ, đảng viên, nhân dân noi theo. Điều đó khẳng định vị trí, vai trò tiên phong của những người đứng đầu trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm” chứ không phải luận điệu vu khống “người đứng đầu nêu gương đạo đức giả và càng tham nhũng" (!) như các phần tử thù địch trơ trẽn rêu rao./.
ST

THANH NIÊN LÀ KHỞI NGUỒN CỦA ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO

 Ở đâu có lực lượng thanh niên trí tuệ, thích ứng cao thì khu vực đó, cộng đồng đó càng vững mạnh và phát triển. Thanh niên chính là khởi nguồn của sáng tạo, đổi mới và thịnh vượng của mỗi quốc gia, khu vực, lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nhấn mạnh...

Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội nhấn mạnh quan điểm này tại hội nghị tuyên truyền về Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN, ngày 27/10.
Tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà cho biết, Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN là một trong ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN với 15 cơ quan chuyên ngành, phụ trách nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân như phúc lợi xã hội và phát triển, lao động - việc làm, thanh niên, phụ nữ, quyền của phụ nữ và trẻ em, y tế, giáo dục, văn hóa - nghệ thuật, công vụ - nội vụ, thông tin truyền thông, phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo, tài nguyên và môi trường, biến đổi khí hậu.
Theo Thứ trưởng, Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN mang một ý nghĩa đặc biệt khi đặt người dân là trung tâm, phục vụ cho người dân, khẳng định vị trí quan trọng của mình trong tiến trình phát triển của từng quốc gia cũng như khu vực.
Cộng đồng Văn hóa – Xã hội đã chủ động và tích cực hợp tác với hai trụ cột Chính trị – An ninh và Kinh tế để giải quyết những thách thức đối với phát triển bền vững, hòa bình và thịnh vượng trong khu vực ASEAN.
Trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn 2020-2022, Cộng đồng ASEAN với hơn 200 triệu thanh niên đã chứng tỏ năng lực thích ứng với tinh thần đoàn kết, cùng nhau vượt qua thách thức để phát triển.
Thứ trưởng cũng đánh giá cao vai trò của thanh niên, và nhấn mạnh, ở đâu có lực lượng thanh niên trí tuệ, thích ứng cao thì khu vực đó, cộng đồng đó càng vững mạnh và phát triển. “Thanh niên chính là khởi nguồn của sáng tạo, đổi mới, cống hiến và thịnh vượng của mỗi quốc gia và khu vực”, Thứ trưởng Hà nói.
Với vai trò là cơ quan chủ trì Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN tại Việt Nam, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội luôn chú trọng, ưu tiên cho nhiệm vụ tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, đặc biệt cho đối tượng học sinh sinh viên.
Thời gian qua, cùng với sự phát triển tốt đẹp của hợp tác ASEAN nói chung, quan hệ hợp tác ASEAN trong lĩnh vực thanh niên ngày càng được mở rộng. Các hoạt động hợp tác thanh niên ASEAN thời gian qua đã tạo cơ hội để thanh niên gặp gỡ, giao lưu, tìm hiểu về cộng đồng ASEAN và các nước thành viên, góp phần tăng cường hiểu biết và hợp tác giữa thanh niên và nhân dân Việt Nam với thanh niên và nhân dân các nước trong khu vực.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và nhằm tạo cơ hội để thanh niên tăng cường hiểu biết, cập nhật kiến thức cũng như nâng cao năng lực hội nhập, hội nghị đã tập trung chia sẻ về tình hình hợp tác ASEAN trên các trụ cột, sự tham gia của Việt Nam và những vấn đề đang được quan tâm hiện nay.
Chia sẻ tại hội nghị, các đại biểu đều thống nhất cho rằng, ASEAN có thể không phải là khu vực phát triển nhất nhưng là một trong những khu vực năng động nhất, triển vọng nhất và trẻ trung nhất.
Có được sức mạnh này là bởi ASEAN đang có một đội ngũ thanh niên trẻ ưu tú, không ngừng nỗ lực trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để thích ứng và làm chủ tương lai. Sức mạnh của khối đại đoàn kết với hàng trăm dân tộc trong ngôi nhà chung ASEAN đang là nguồn lực quan trọng, mạnh mẽ để Cộng đồng ASEAN vượt qua mọi khó khăn, thách thức.
Theo Đại sứ Vũ Hồ, Vụ trưởng Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao, với tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm, Việt Nam đã nghiêm túc hoàn thành các cam kết và nghĩa vụ của một nước thành viên, đồng thời có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển, lớn mạnh của ASEAN.
“Gần 30 năm vừa qua, nhờ là thành viên của ASEAN, và gánh vác các công việc của ASEAN mà vị thế, vai trò, hình ảnh của Việt Nam được nâng lên đáng kể”, Đại sứ Vũ Hồ khẳng định.
Đại sứ cũng cho rằng tham gia vào Cộng đồng ASEAN, Việt Nam có được nhiều lợi thế, mở ra cơ hội mới trong việc xây dựng một thị trường chung trong khu vực; đồng thời tạo ra một thị trường lao động dịch chuyển tự do, công bằng và phù hợp với luật pháp quốc tế./.
ST

PHỤ NỮ QUÂN ĐỘI TỰ TIN THỂ HIỆN KIẾN THỨC, TRÍ TUỆ VÀ TÀI NĂNG

 Hội thi Cán bộ hội phụ nữ giỏi cấp toàn quân năm 2023 góp phần đánh giá kết quả công tác hội và phong trào phụ nữ ở các cơ quan, đơn vị. Qua đó, góp phần lan tỏa những kết quả, kinh nghiệm hay, mô hình, điển hình tiêu biểu của phụ nữ Quân đội.

Chiều 27/10, tại Nhà Văn hóa Quân khu 5 (thành phố Đà Nẵng), Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam bế mạc Hội thi Cán bộ hội phụ nữ giỏi cấp toàn quân khu vực phía Nam năm 2023.
Theo đánh giá của Ban tổ chức, sau gần hai tháng triển khai thực hiện Kế hoạch tổ chức Hội thi cán bộ Hội phụ nữ giỏi cấp toàn quân năm 2023; đặc biệt là sau 2 ngày đua tài sôi nổi, lôi cuốn, hấp dẫn trên tinh thần đoàn kết, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, Hội thi cán bộ Hội phụ nữ giỏi cấp toàn quân năm 2023, khu vực phía Nam đã thành công tốt đẹp, để lại ấn tượng sâu sắc trên nhiều phương diện.
Trong đó, phần thi kiến thức được tổ chức qua hình thức thi trắc nghiệm và viết tự luận. Đây là lần đầu tiên được đưa vào chương trình hội thi và là một nội dung yêu cầu cán bộ hội phải nghiêm túc đầu tư thời gian nghiên cứu, trau dồi; với lượng kiến thức rộng, đòi hỏi cán bộ Hội phải nắm chắc các nội dung văn bản, chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của cấp trên về công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ; phải có khả năng tư duy khái quát, tổng hợp cao. Qua đánh giá của Ban Giám khảo, đa số cán bộ Hội dự thi nắm chắc nội dung; có kiến thức toàn diện, nhất là những nội dung liên quan trực tiếp đến công tác Hội và hoạt động của phụ nữ ở đơn vị.
Về kịch bản, các đơn vị đã đem đến Hội thi khu vực phía Nam 12 kịch bản tuyên truyền. Trong đó, có một số kịch bản được đầu tư xây dựng công phu, sáng tạo, thể hiện tính thẩm mỹ và nghệ thuật cao, mang tính thời sự, tính giáo dục sâu sắc.
Phần thi năng khiếu là phần thi sôi nổi, sinh động, hấp dẫn thể hiện được sự đa tài của cán bộ Hội. Các tiết mục năng khiếu đa dạng về hình thức, phong phú về loại hình nghệ thuật mang đậm tính đặc thù của các đơn vị như: kịch, hát, múa, vẽ tranh, hòa tấu nhạc cụ dân tộc...
Điểm nhấn ấn tượng của hội thi năm nay là phần thi ứng xử dành cho cán bộ hội phụ nữ toàn năng cấp toàn quân năm 2023. 3 thí sinh xuất sắc nhất bước vào phần thi này đã khẳng định sự toàn diện của cá nhân thông qua cách ứng xử thông minh, linh hoạt của cán bộ hội khi lồng ghép kiến thức công tác hội với kiến thức xã hội và khả năng vận dụng vào đặc thù thực tiễn của phụ nữ đơn vị, được Ban giám khảo và khán giả đánh giá cao.
Hội thi góp phần đánh giá kết quả công tác hội và phong trào phụ nữ ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Qua đó, góp phần lan tỏa những kết quả, kinh nghiệm hay, mô hình, điển hình tiêu biểu của phụ nữ Quân đội trong thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ Quân đội trí tuệ - bản lĩnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng gia đình hạnh phúc, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới” và các cuộc vận động gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trong thực hiện nhiệm vụ và xây dựng đơn vị.
Kết quả, Ban tổ chức trao Cờ xuất sắc tặng 9 tập thể có thành tích xuất sắc; Bằng khen tặng 3 tập thể đạt thành tích tốt. Bằng khen của thủ trưởng Tổng cục Chính trị tặng 3 thí sinh đạt giải nhất, nhì, ba toàn năng./.
St

CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN GÓP PHẦN THỰC HIỆN TỐT PHƯƠNG CHÂM “NƯỚC VINH, ĐẠO SÁNG”

 Trong những năm qua, nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, các tôn giáo trên địa bàn thị xã Hòa Thành, Tây Ninh đã tổ chức xây dựng đường hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật, hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước.

LỒNG GHÉP NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN TRONG HÀNH ĐẠO
Hằng tháng, trong buổi họp lệ định kỳ, sau khi triển khai những nội dung về hoạt động hành đạo, đạo sự, Giáo sư Thái Lịnh Thanh cai quản họ đạo liên phường Long Hoa, Long Thành Bắc, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh luôn dành thời gian để tuyên truyền, vận động tín đồ trong họ đạo chấp hành tốt những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Ông luôn nhắc nhở 420 chức việc và hơn 4.000 tín đồ, 30 tổ nghi lễ phải sống tốt đời, đẹp đạo, tổ chức xây dựng cơ sở tín ngưỡng tôn giáo văn minh gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”.
“Chúng tôi luôn tâm niệm, mình là công dân của đất nước Việt Nam, với trách nhiệm tuân thủ theo pháp luật, chăm lo cho cuộc sống bổn đạo đảm bảo an sinh xã hội và đảm bảo trật tự an toàn xã hội ở địa phương, không rượu chè, cờ bạc hoặc tệ nạn xã hội. Tất cả các hoạt động tuyên truyền đều nhằm một mục đích để cho bổn đạo có cuộc sống tốt đẹp hơn” - Giáo sư Thái Lịnh Thanh chia sẻ.
Giáo sư Thái Lịnh Thanh cho biết, ông luôn cố gắng học tập và noi theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận động bổn đạo học theo tấm gương của Bác bằng những công việc hằng ngày trong cuộc sống của mình.
Giáo sư Thái Lịnh Thanh cũng tích cực vận động các tín đồ xây dựng gia đình văn hóa, cơ sở tín ngưỡng tôn giáo văn minh, ký kết đảm bảo trật tự an toàn giao thông, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các hoạt động tôn giáo, hạn chế thấp nhất tình trạng trộm cắp, móc túi, đánh bạc, thanh niên chạy xe lạng lách trong khu dân cư… Tích cực tham gia vào các phong trào, cuộc vận động, công tác xã hội ở địa phương. Các hoạt động tôn giáo tại điện thờ như cúng đàn, lễ vía hằng tháng được thực hiện theo đúng quy định, treo cờ Tổ quốc trong những ngày lễ, ngày hội của đất nước.
“Ban Cai quản họ đạo chúng tôi thường xuyên vận động chức sắc, chức việc, tín đồ không vi phạm luật giao thông, không uống rượu bia khi tham gia giao thông, thường xuyên liên hệ với các tổ chức chính trị xã hội, chính quyền địa phương để tuyên truyền vận động các tín đồ trong họ đạo tham gia giữ gìn an ninh trật tự, cảnh giác với các loại tội phạm và thông tin kịp thời cho các ngành chức năng”. - Ông cho biết thêm.
SÁNG TẠO, LINH HOẠT TRONG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
Không chỉ riêng các các chức sắc, chức việc và tín đồ của họ đạo liên phường Long Hoa, Long Thành Bắc, phần lớn các tín đồ ở thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đều tin tưởng, chấp hành tốt chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, sinh hoạt tôn giáo thuần túy, tích cực, tham gia các hoạt động từ thiện, an sinh xã hội ở địa phương.
Trong các kỳ họp thường lệ của họ đạo, chính quyền địa phương phối hợp với chức sắc, chức việc lồng ghép các nội dung tuyên truyền cho tín đồ. Hằng tháng, trên cơ sở định hướng tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Thị ủy Hòa Thành xây dựng văn bản định hướng tuyên truyền cho sát và phù hợp với tình hình thực tiễn của thị xã, gửi xuống các chi, đảng bộ cơ sở. Đây cũng là căn cứ tuyên truyền trong các buổi họp lệ hằng tháng của họ đạo cho các tín đồ, tạo sự thống nhất trong cả nhận thức và hành động từ trên xuống dưới.
Ngoài ra, mỗi họ đạo cũng lập một nhóm Zalo riêng, có các tín đồ tham gia để các cơ quan chức năng kịp thời chuyển tải những nội dung cần thiết.
Các hoạt động tôn giáo luôn gắn với công tác an sinh xã hội, đồng hành cùng với Mặt trận tổ quốc và chính quyền địa phương.
“Chúng tôi có các hoạt động cứu trợ, tặng quà cho người già neo đơn, cho người có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ cho người bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19. Trong thời gian qua, đa số các bổn đạo của chúng tôi cùng các chính quyền các cấp góp công và vvật chất thực hiện “Bữa cơm 0 đồng” nhằm mang thực phẩm tươi đến tận nhà các hộ neo đơn, người cao tuổi, thuê trọ. Việc làm này giúp cho người dân có hoàn cảnh khó khăn có được bữa cơm ngon hằng, không phải ra đường, không phải đi chợ, góp phần phòng chống dịch”- Giáo sư Thái Lịnh Thanh cho biết.
Thị ủy Hòa Thành luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân hướng dẫn và tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động theo Luật tín ngưỡng tôn giáo. Quán triệt, thống nhất tư tưởng nhận thức, nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ, đoàn thể nhân dân và đội ngũ cán bộ cốt cán trong tôn giáo về những quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về các hoạt động tôn giáo, công tác tôn giáo. Các ban, ngành liên quan hướng dẫn tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt tôn giáo theo Hiến chương, điều lệ của tổ chức giáo hội đã được Nhà nước công nhận, đúng các quy định của pháp luật. Bảo đảm cho các chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo bình thường theo luật pháp.
Đồng chí Lương Thị Ngọc Thanh, Thị uỷ viên, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Thị uỷ Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh chia sẻ: “Thị ủy Hòa Thành đẩy mạnh mô hình Dân vận khéo, tranh thủ người có uy tín trong tôn giáo, cộng đồng trong công tác công tuyên truyền. Đây là lực lượng quan trọng, giúp cho cấp ủy và chính quyền địa phương nắm bắt được dư luận, hiểu được tâm tư nguyện vọng của người dân ở địa phương. Từ đó, cấp ủy và chính quyền địa phương có những quyết sách phù hợp, góp phần nâng cao đời sống của người dân. Chúng tôi cũng tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và và Nhà nước, vạch trần những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch về tình hình tôn giáo trong thị xã”.
Về thị xã Hòa Thành hôm nay, nhiều cơ sở thờ tự của tôn giáo được cải tạo và nâng cấp, xây dựng mới. Chương trình hành đạo, các lễ hội ở được tổ chức trang trọng, thu hút đông đảo tín đồ tham gia, với sự hỗ trợ trong việc giữ gìn an ninh, trật tự của các cấp chính quyền, cùng các ban, ngành, đoàn thể. Các tín đồ các họ đạo ở Hòa Thành ngày càng tin tưởng và chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, sinh hoạt tôn giáo thuần túy. Các tín đồ cũng thực hiện tốt việc hành đạo, tham gia tích cực vào công tác xã hội, công tác từ thiện, yên tâm làm ăn sản xuất.
Có thể khẳng định, nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, hoạt động các tôn giáo trên địa bàn thị xã Hòa Thành những năm qua đã đi vào ổn định. Các tôn giáo tổ chức xây dựng đường hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật, hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước, an tâm hoạt động đạo sự với phương châm “Nước vinh, đạo sáng”, “Tốt đời, đẹp đạo”./.
St