Thứ Tư, 1 tháng 11, 2023

ĐẢNG MÃI LÀ ÁNH SÁNG SOI ĐƯỜNG

 Trên thế giới không có một chính đảng nào được nhân dân tự nhận là Đảng ta, trừ Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo Nhà nước, các tổ chức chính trị và toàn xã hội. Bởi lẽ, mục đích duy nhất và cao cả của Đảng là giành độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho Nhân dân.

Đảng ta ra đời ngày 3-2-1930 đã chấm dứt sự bế tắc, khủng hoảng kéo dài về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Nhân dân ta phải sống cuộc đời lầm than, cơ cực, bị bóc lột tận xương tủy dưới chế độ thực dân, phong kiến. Dân tộc và nhân dân ta đang cần “Ngọn đuốc” soi đường, chỉ lối và dẫn dắt, để nhân dân vùng lên xóa bỏ ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành lại cơm no, áo ấm. Chính lúc này Bác Hồ, Đảng đã đưa ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin về với dân tộc Việt nam, kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân lao động để thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam. “Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đêm đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong”. Những đảng viên Đảng Cộng sản đã hy sinh cả bản thân và gia đình để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài Trăng trối: “Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu/ Dấn thân vô là phải chịu tù đầy/ Là gươm kề tận cổ, súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa”.
Đảng ra đời là kết quả từ sự cần thiết tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Chỉ sau 15 năm ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân, phát triển rộng khắp trên cả ba miền: Bắc, Trung, Nam. Đặc biệt thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “long trời, lở đất”, làm nên kỳ tích trong lịch sử của dân tộc ta. Đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, đưa dân tộc Việt Nam sang một kỷ nguyên mới - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đưa “Nhân dân ta từ thân phận nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội”. Minh chứng là, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Song Thực dân Pháp quyết tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Đảng đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân trường kỳ kháng chiến, vượt qua khó khăn “Ngàn cân treo sợi tóc “để giành chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Nhà thư Tố Hữu đã viết: “Chín năm làm một Điện Biên/Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. Đây là chiến thắng chói lọi nhất của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược (1945-1954); đập tan dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chúng phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc chiến tranh tại Đông Dương, mở ra thời kỳ mới cho cách mạng ba nước Việt Nam, Lào và Căm-pu-chia. Đó là thắng lợi vĩ đại không chỉ của nhân dân ta mà còn là thắng lợi chung của ba nước Đông Dương và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Mỗi người dân Việt Nam, sâu thẳm trong trái tim mình đều biết ơn Đảng, Bác Hồ đã thay đổi cuộc đời họ từ người dân nô lệ trở thành người chủ đất nước, mang lại cho họ cơm no, áo ấm.
Giai đoạn 1954-1975, đất nước ta tạm chia cắt thành hai miền. Đảng ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960, xác định: “Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà”. Sự thật miền Bắc đã trở thành hậu phương lớn, vững chắc, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, với khẩu hiệu “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”… Miền Nam là tiền tuyến lớn, là Thành đồng của Tổ quốc, nhân dân tiếp tục chiến đấu anh dũng, chịu đựng gian khổ, hy sinh, song vẫn một lòng, một dạ, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ. Với tinh thần: Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Nhiều tấm gương anh hùng đã làm rung động triệu con tim không chỉ trong nước mà còn trên thế giới như: Anh hùng Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị Lý… Nhân dân miền Nam luôn hướng về trái tim miền Bắc, nơi có Đảng và Bác Hồ kính yêu, mong muốn cháy bỏng được đón Bác vào thăm sau ngày thống nhất. Đảng và Bác Hồ luôn tin tưởng và dõi theo những chiến công của đồng bào miền Nam. Bài thơ chúc Tết năm Kỷ Dậu 1969 cũng là bài thơ chúc Tết cuối cùng Bác dành cho đồng bào: “Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/ Vì độc lập, vì tự do/ Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào/ Tiến lên chiến sỹ đồng bào/ Bắc Nam xum họp xuân nào vui hơn”. Đây vừa là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, mệnh lệnh của trái tim, vừa là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Bác luôn dành tình cảm đặc biệt cho đồng bào miền Nam. Bác nói “Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”. Bác luôn mơ ngày thống nhất đất nước để vào thăm đồng bào miền Nam ruột thịt. “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà…”.
Khi Bác ra đi ngày 2-9-1969, nhân dân cả nước, từ già đến trẻ, từ miền ngược đến miền xuôi đều tuôn trào nước mắt, nhớ thương Bác không nguôi. “Người tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”. Đặc biệt, đồng bào miền Nam, đã bất chấp sự truy lùng, tra tấn của kẻ thù, nhân dân khắp nơi không chỉ tổ chức lễ tang Bác mà nhiều địa phương, nhiều gia đình còn lập bàn thờ, xây đền thờ để tưởng nhớ Người. Đồng bào dân tộc Pa Cô, Vân Kiều tại Quảng Bình còn xin được lấy họ Hồ của Bác (Hồ Chí Minh) cho cả dân tộc mình. Nghĩa cử này nói lên lòng tôn kính và biết ơn vô hạn của nhân dân cả nước đối với Đảng với Bác Hồ Kính yêu. Tại sao vậy? Bởi Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng mác-xít chân chính, lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng luôn đấu tranh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của Nhân dân. Nhân dân, dân tộc Việt Nam tin tưởng, tự nguyện đi theo Đảng và trao quyền lãnh đạo cho Đảng. Chính điều này đã phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước, cho Đảng ta là độc quyền lãnh đạo, không chịu chia sẻ quyền lãnh đạo cho các đảng phái khác, không vì Nhân dân.
Đại thắng mùa Xuân với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30-4-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, non song thu về một mối. Đây là mốc son chói lọi, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và CNXH. Vị thế dân tộc ta được nâng cao trên trường quốc tế lại một lần nữa chứng minh rằng, chỉ có sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam thì dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam mới giành được thắng lợi vĩ đại, là một nước nhỏ đã đánh thắng hai thực dân và đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, mở ra giai đoạn cả nước xây dựng một nước Việt Nam XHCN. “XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại…; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; …Có Nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Một Việt Nam hội nhập, muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi. “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN”. Nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và sẽ trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045. Với những thành tựu to lớn đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nói: Chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đất nước ta thực sự đã sánh vai với các cường quốc năm châu, như Bác Hồ từng mong muốn. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 190 quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có quan hệ ổn định lâu dài, đối tác chiến lược và chiến lược toàn diện với 30 quốc gia. Tham gia nhiều các tổ chức khu vực và quốc tế: Liên hiệp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF); Đại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA)…
Cùng với phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Xây dựng Đảng là đạo đức, là văn minh, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, Chính phủ liêm chính, hành động. Bác Hồ từng nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc… Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Đảng cũng luôn xác định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Từ đó Đảng ra luôn quan tâm công tác xây dựng Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Các kỳ đại hội Đảng toàn quốc đều dành một thời lượng nhất định nói về công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ. Các nhiệm kỳ, nhất là mấy nhiệm kỳ gần đây, Đảng ta đều ban hành các nghị quyết về công tác cán bộ, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương Đảng (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; ba Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị... Tại Đại hội XIII của Đảng, trong Báo cáo chính trị, Đảng ta đã đề ra mục tiêu tổng quát là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN”.
Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín. Đảng và Nhà nước luôn kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí... Đảng đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực từ Trung ương đến cấp tỉnh. Quốc hội ban hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Với phương châm phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh, kịp thời, với bất kỳ ai, ở bất cứ cương vị nào, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Từ đó nhiều cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp đã bị xử lý kỷ luật hoặc truy tố trước pháp luật. Điều đó càng củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên những thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước luôn xuyên tạc những thành tựu của Đảng và Nhà nước ta, bôi nhọ, vu cáo chủ trương phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Họ rêu rao đây là sự đấu đá, thanh trừng nội bộ. Song sự thật, chân lý luôn được chứng minh và tỏa sáng trong thực tiễn cuộc sống. Đó là đông đảo nhân dân tin tưởng, hoan nghênh, ủng hộ và cùng tham gia phát hiện, tố giác; đó là các nước trên thế giới tin tưởng, công nhận và tôn trọng. Chính vì thế Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam; là niềm tin, là chỗ dựa vững chắc, là niềm tự hào của dân tộc ta, Nhân dân ta./.
ST

5 NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ

 Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan tham mưu, giúp việc của BCH Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Đồng thời là cơ quan chuyên môn - nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ của Trung ương. Từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, hoạt động của Ban đã đạt được nhiều kết quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Kết quả
Được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; trên cơ sở kế thừa được những kết quả, kinh nghiệm của các nhiệm kỳ trước, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay Lãnh đạo Ban Tổ chức Trung ương đã bám sát Nghị quyết Đại hội XIII, Chương trình làm việc toàn khóa cũng như hằng năm của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tập trung lãnh đạo triển khai đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả nhiều đề án, nhiệm vụ, nhất là tham mưu với BCH Trung ương ban hành 1 nghị quyết, 1 quy định, 1 kết luận; tham mưu với Bộ Chính trị ban hành 9 kết luận, 7 quy định, 9 quyết định, 2 kế hoạch; Ban Bí thư ban hành 3 quy định, 1 quyết định, 4 kết luận và ban hành theo thẩm quyền 16 văn bản hướng dẫn về công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ. Công tác cán bộ đạt được nhiều kết quả tích cực nổi bật sau:
Một là, tham mưu về công tác nhân sự và bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương (khóa XIII) bảo đảm tiêu chuẩn, số lượng, cơ cấu, có tính kế thừa, phát triển và chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ, phân công Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng và nhân sự các chức danh lãnh đạo các cơ quan Nhà nước (khóa XIV, XV). Tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư giới thiệu 149 đồng chí thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV; nguyên tắc và địa bàn ứng cử đại biểu Quốc hội của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư (khóa XIII); giới thiệu bổ sung 18 nhân sự ứng cử chức danh chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND, trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định. Tham mưu thực hiện chế độ, chính sách và khen thưởng quá trình cống hiến đối với các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng (khóa XII) không tái cử, nghỉ hưu theo quy định; thực hiện chính sách lương đối với các đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị, Ban Bí thư (khóa XIII), các đồng chí giữ các chức vụ bộ trưởng và tương đương trở lên.
Hai là, tham mưu đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán bộ; góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy định, quy chế liên quan đến công tác cán bộ và quản lý cán bộ, như: Kết luận số 08-KL/TW ngày 15-6-2021 của Bộ Chính trị về tuổi bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định số 30-QĐ/TW ngày 19-8-2021 của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình bổ nhiệm, chính sách, chế độ đối với chức danh trợ lý, thư ký; Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; Quy định số 41-QĐ/TW ngày 1-11-2021 của Bộ Chính trị về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; Quy định số 50-QĐ/TW ngày 27-12-2021 của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ; Kết luận số 27-KL/TW ngày 21-2-2022 của Ban Bí thư về xử lý sai phạm trong công tác cán bộ theo Kết luận số 48-KL/TW ngày 26-4-2019 và Kết luận số 71-KL/TW ngày 24-3-2020; Kết luận số 33-KL/TW ngày 1-4-2022 của Ban Bí thư về việc thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ giữ chức vụ hàm; Kết luận số 35-KL/TW ngày 5-5-2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Quy định số 65-QĐ/TW ngày 28-4-2022 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ; Kết luận số 39-KL/TW ngày 18-7-2022 của Bộ Chính trị về chủ trương bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước; Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18-8-2022 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử; Thông báo Kết luận số 20-TB/TW ngày 8-9-2022 của Bộ Chính trị về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị xử lý kỷ luật. Kịp thời ban hành hướng dẫn một số nội dung về tuổi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử; về công tác quy hoạch cán bộ, về tuổi và thời gian công tác hội cựu chiến binh; về thực hiện Điểm 3, Thông báo số 20-TB/TW của Bộ Chính trị để các địa phương, cơ quan, đơn vị thực hiện.
Ba là, tham mưu thực hiện Kết luận của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực về kịp thời nghiên cứu, tham mưu ban hành cơ chế điều động, thay thế cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý bị xử lý kỷ luật do liên quan đến tham nhũng, tiêu cực (Thông báo số 21-TB/BCĐTW ngày 2-5-2022); theo đó, cùng với việc kiên trì thực hiện Quy định số 41-QĐ/TW ngày 1-11-2021 của Bộ Chính trị về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ đã tham mưu với Bộ Chính trị ban hành Thông báo Kết luận số 20-KL/TW ngày 8-9-2022 của Bộ Chính trị về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị xử lý kỷ luật, chủ động ban hành Hướng dẫn thực hiện Điểm 3, Thông báo số 20-TB/TW của Bộ Chính trị,… để triển khai thực hiện trong hệ thống chính trị. Từ khi ban hành Thông báo số 20 đến nay, Trung ương đã xem xét, cho thôi giữ chức vụ để nghỉ công tác, nghỉ hưu hoặc bố trí công tác khác đối với 13 cán bộ diện Trung ương quản lý bị kỷ luật; qua đó, bước đầu thực hiện hiệu quả chủ trương khuyến khích cán bộ từ chức nếu không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ khi có sai phạm và góp phần thực hiện phương châm “có vào, có ra, có lên, có xuống” trong công tác cán bộ.
Bốn là, tham mưu thực hiện tốt công tác nhân sự thường xuyên bảo đảm nguyên tắc, tiêu chuẩn, quy trình, nhất là kịp thời kiện toàn các chức danh lãnh đạo, quản lý của các địa phương, cơ quan, đơn vị thuộc diện Trung ương quản lý. Cụ thể: Phân công, chỉ định, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, luân chuyển cán bộ, xét phong, thăng quân hàm cấp tướng trong lực lượng vũ trang đối với 705 lượt nhân sự; phê duyệt rà soát, bổ sung quy hoạch đối với 243 lượt nhân sự bảo đảm tiêu chuẩn, thận trọng, dân chủ, chặt chẽ. Tham mưu nhân sự của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam..., góp phần ổn định tình hình, tổ chức thành công đại hội ở một số đơn vị. Tổ chức hội nghị gặp mặt các đồng chí Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng (khóa XIII) và cán bộ Trung ương điều động, luân chuyển để lắng nghe ý kiến góp ý, kinh nghiệm công tác của những cán bộ này. Đồng thời, quán triệt, yêu cầu các đồng chí tiếp tục nỗ lực phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ đang đảm nhiệm, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trước mắt cũng như lâu dài.
Năm là, tiếp tục đổi mới công tác thẩm định nhân sự theo hướng đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng và cá nhân liên quan. Theo đó, thực hiện nghiêm túc việc thẩm định các văn bản, đề án về công tác cán bộ theo quy định và thực hiện nghiêm Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thẩm định nhân sự thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, các chức danh cán bộ khác theo phân cấp và trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định. Tổ chức hội nghị phối hợp công tác thẩm định nhân sự phục vụ các đại hội của Đảng và công tác nhân sự thường xuyên; tăng cường phối hợp, nâng cao hiệu quả công tác thẩm định nhân sự. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan đã thẩm định, đề xuất không xem xét đối với 32 lượt cán bộ chưa bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định.
Sáu là, tăng cường kiểm tra, giám sát các cấp ủy, tổ chức đảng trong việc cụ thể hóa và triển khai thực hiện quy định, quy chế, kết luận về công tác cán bộ. Kịp thời trao đổi với một số địa phương, đơn vị, thường trực cấp ủy, tổ chức đảng có dư luận, vấn đề phức tạp trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Năm 2022, đã kiểm tra, giám sát 15 địa phương, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương về kết quả triển khai thực hiện công tác tổ chức xây dựng Đảng, nhất là trong công tác cán bộ, quản lý cán bộ. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác kiểm tra với khảo sát thực hiện các đề án được BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động tiêu cực đến tình hình chung của đất nước, đến việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc Ban Tổ chức Trung ương đã có nhiều nỗ lực, nêu cao trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao, tập trung nghiên cứu tham mưu, hoàn thành khối lượng công việc lớn, cơ bản bảo đảm chất lượng, hiệu quả, tiến độ thời gian trong việc sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện các quy chế, quy định liên quan đến công tác cán bộ, nhất là công tác quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; miễn nhiệm, từ chức và phân công, bố trí công tác đối với cán bộ bị kỷ luật… Công tác cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý cơ bản đáp ứng yêu cầu của Đảng; bảo đảm nguyên tắc, chặt chẽ, thận trọng, đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình; kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, phòng, chống chạy chức, chạy quyền. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện vẫn còn một số hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác tổ chức xây dựng Đảng trong giai đoạn mới với nhiều việc khó, phức tạp, mới phát sinh, đòi hỏi phải nghiên cứu sâu sắc, thận trọng, kỹ lưỡng.
Nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới
Để tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các chủ trương, nghị quyết của BCH Trung ương, quy chế, quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác cán bộ như sau:
1. Tiếp tục tổ chức nghiên cứu sâu những chủ trương, quan điểm về công tác cán bộ; tăng cường công tác nghiên cứu, phổ biến, quán triệt, tuyên truyền, hướng dẫn, tạo nhận thức thống nhất và quyết tâm cao trong triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết, quy định về công tác cán bộ trong toàn hệ thống chính trị.
2. Tập trung sơ kết, tổng kết, đánh giá kỹ lưỡng để tham mưu với BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo ban hành mới, sửa đổi, bổ sung Quy định số 262-QĐ/TW ngày 08-10-2014 của Bộ Chính trị về việc lấy phiếu tín nhiệm với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do BCH Trung ương bầu tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 8 (năm 2023); xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng; tham mưu thành lập các tiểu ban chuẩn bị phục vụ Đại hội XIV của Đảng; tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng; công tác quy hoạch BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (khóa XIV) và lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2026-2031; phương hướng công tác nhân sự BCH Trung ương (khóa XIV) và triển khai công tác nhân sự BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV, nhiệm kỳ 2026-2031; Quy chế làm việc và Quy chế bầu cử Đại hội XIV của Đảng.
3. Tiếp tục tham mưu triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 03-KH/TW của Bộ Chính trị thực hiện Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nhất là tham mưu xây dựng các quy định, quy chế về công tác cán bộ như sửa đổi, bổ sung Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; chính sách đối với cán bộ làm việc trong lĩnh vực, địa bàn đặc thù, phức tạp, trọng yếu; quy định về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng; cơ chế, chính sách phát hiện, lựa chọn, trọng dụng, bố trí, sắp xếp cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội, cán bộ trẻ vào vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp; quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tổ chức - cán bộ và quản lý cán bộ, thí điểm chủ trương người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên BTV và chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp.
4. Tiếp tục tham mưu thực hiện tốt công tác nhân sự thường xuyên, kịp thời kiện toàn chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, địa phương thuộc diện Trung ương quản lý bảo đảm nguyên tắc, tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình theo quy định. Hoàn thành việc phê duyệt quy hoạch các chức danh lãnh đạo thuộc diện Trung ương quản lý nhiệm kỳ 2025-2030, 2026-2031 của các địa phương, cơ quan, đơn vị. Triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu về tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị, góp phần thực hiện chuyển đổi số trong quản lý hồ sơ cán bộ và phục vụ hiệu quả công tác tham mưu.
5. Chú trọng đổi mới phương pháp, lề lối, tác phong làm việc gắn với cải cách hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành. Duy trì nền nếp, kịp thời tổ chức các hội nghị quán triệt, thông tin kịp thời các văn bản mới về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy của cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ý thức tự giác rèn luyện đạo đức, gương mẫu nêu gương trong công tác và cuộc sống./.
St

Ý NGHĨA SÂU SẮC CỦA CHỈNH ĐẢNG, CHỈNH HUẤN

 Làm thế nào để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc chỉnh Đảng, chỉnh huấn là vấn đề luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân Việt Nam quan tâm triển khai thực hiện với ý chí quyết tâm cao, chủ trương, giải pháp đúng, phù hợp, thật sự đem lại kết quả sâu sắc về mọi mặt.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh sớm đưa ra mục đích, ý nghĩa của việc cần phải chỉnh Đảng, chỉnh huấn. Theo Người: “Mục đích chỉnh Đảng là để dùi mài cán bộ và đảng viên thành những chiến sĩ xứng đáng là người đầy tớ của nhân dân”. Tại Lớp chỉnh huấn đầu tiên của Đảng vào tháng 5-1952, Người chỉ rõ: “Mục đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản”. Đến ngày 06-4-1961, Người tiếp tục nêu ra ý nghĩa của việc chỉnh huấn: “Chỉnh huấn nghĩa là huấn luyện cán bộ và nhân dân nhằm chỉnh đốn lại tư tưởng và tác phong, để sửa chữa những nhược điểm, phát triển những ưu điểm, làm cho mọi người, mọi việc đều tiến bộ hơn nữa”.
Từ mục đích, ý nghĩa của chỉnh Đảng, chỉnh huấn, Hồ Chí Minh xác định phải có những chủ trương, biện pháp đồng bộ, kiên quyết, kiên trì, phải thực hiện phương châm lấy cái đẹp, dẹp cái xấu... Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh phải phát huy cao nhất tinh thần tự nguyện, tự giác của cán bộ, đảng viên. Ví dụ, đối với công tác chỉnh huấn, tháng 4-1952, Hồ Chí Minh nêu: “Trong việc chỉnh huấn bộ đội, phải lấy chính trị làm gốc, phải khởi đầu từ cán bộ dần dần đến toàn thể nhân viên”. Hay với quan điểm “Kỷ luật là sinh mệnh của quân sự”, trong Thư gửi hội nghị chính trị viên vào tháng 3-1948 Người yêu cầu: “Kỷ luật phải được thi hành từ trên đến dưới”.
Những tư tưởng, sự chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã được Đảng ta tiếp thu, thực hiện nghiêm túc từ sớm. Tiêu biểu như trong tác phẩm “Tự chỉ trích”, ra đời từ năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ khi đó xác định việc chỉnh Đảng, phê bình Đảng là để tự rèn luyện, để thống nhất tư tưởng, để đề cao uy tín và ảnh hưởng của Đảng với mục tiêu “nhằm làm cho Đảng ngày càng mạnh và cách mạng ngày càng phát triển”. Muốn làm được điều đó, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chỉ ra: khi thực hiện phê bình thì “phải nắm vững mục đích xây dựng Đảng, xây dựng đồng chí mình, không được đả kích hoặc cường điệu những sai lầm khuyết điểm của đồng chí mình” và quan trọng là “phải phân tích xác thực hoàn cảnh để tìm ra nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa chữa và tiến thủ”. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến, kiến quốc, chống giặc ngoại xâm, thống nhất nước nhà có nguyên nhân quyết định từ sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có công tác chỉnh đốn, chỉnh huấn Đảng.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhất là thời kỳ đổi mới và hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục xác định mục đích, ý nghĩa của chỉnh đốn Đảng, thực hiện nguyên tắc phê bình và tự phê bình để Đảng và cách mạng phát huy ưu điểm, hạn chế, khắc phục khuyết điểm, vươn lên tiến bộ hơn, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín lãnh đạo, chỉ đạo thắng lợi cách mạng. Trong chỉnh đốn Đảng, chỉnh huấn, Đảng đặc biệt chú trọng công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, coi đây là giải pháp cơ bản, thiết thực để xây dựng Đảng, xây dựng chế độ trong sạch, vững mạnh, phát triển. Thực tế này trái ngược hoàn toàn với sự tuyên truyền xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, thế lực xấu luôn phá hoại công tác chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng tiêu cực ở Việt Nam khi chúng cho rằng, đó là “thanh trừng lẫn nhau”, là “đấu đá nội bộ”, rồi từ đó chúng tìm mọi cách phá hoại công tác chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của chúng ta, đòi từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng với đất nước, nhân dân.
Tình hình thực tiễn cho thấy, Đảng ta và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn khẳng định: “Mục tiêu của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhằm làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước, để phát triển đất nước”. Vì vậy, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực “đã được Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, ngày càng đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể, rất quan trọng, toàn diện, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự “đã trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược”, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình ủng hộ, đánh giá cao, được bạn bè quốc tế ghi nhận”.
Những kết quả đạt được từ công tác chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã giúp Đảng, Nhà nước, chế độ thêm vững mạnh, kinh tế - xã hội phát triển, an ninh, quốc phòng được củng cố, tăng cường, đời sống mọi mặt của nhân dân ngày càng được cải thiện, niềm tin và mối quan hệ máu thịt của nhân dân với Đảng tiếp tục bền vững. Thực tế đó khẳng định sự đúng đắn trong đánh giá của Đảng ta và Tổng Bí thư: “Càng đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chúng ta càng mạnh lên, Đảng ta càng được củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho bộ máy trong sạch”.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến thành công trên, có nguyên nhân quan trọng được Đảng và Tổng Bí thư xác định: “Sức mạnh và động lực to lớn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là sự đồng tình, ủng hộ, hưởng ứng, tham gia tích cực của nhân dân… Nếu không dựa vào dân thì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực khó có thể thành công”. Đây cũng là sự tự hào, là động lực, là cơ sở để chúng ta tiếp tục phấn đấu đóng góp cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”./.
St

XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC DÂN CHỦ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ, coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, khâu “then chốt” trong công tác xây dựng Đảng. Người thường xuyên căn dặn cán bộ phải rèn luyện phương pháp, tác phong công tác, trong đó phong cách làm việc dân chủ được Người đặc biệt coi trọng. Trong giai đoạn hiện nay, việc tiếp tục vận dụng sáng tạo, hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ rất cần thiết, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng dân chủ, coi thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Người khẳng định, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Trong Đảng, Người căn dặn: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ”; “Để lãnh đạo tốt, các cấp ủy phải thật đoàn kết, thật dân chủ, phải thực hành chế độ “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” và phê bình và tự phê bình để không ngừng tiến bộ”. Đối với Nhà nước, Người cho rằng: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”.
Người luôn coi trọng cán bộ, khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Phong cách, tác phong công tác của cán bộ rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả công việc. Bởi vậy Người luôn căn dặn cán bộ “Tác phong phải dân chủ, dựa vào lực lượng quần chúng, học hỏi sáng kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng”. Muốn có tác phong dân chủ, “cán bộ phải đi sát sản xuất, đi sát quần chúng và phải dân chủ với dân”. Như vậy, vừa là phát huy dân chủ nhân dân, vừa rèn luyện tác phong dân chủ của người cán bộ.
Trong cách thức, phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện phong cách làm việc giản dị, gần gũi nhưng sâu sắc, quyết đoán, hòa mình vào quần chúng nhân dân, coi nhân dân là cội nguồn của mọi thắng lợi. Người coi dân chủ là “chìa khóa vạn năng” để khơi dậy tính sáng tạo của nhân dân, huy động và sử dụng nguồn lực nhân dân vào các lĩnh vực, ngành, nghề hoạt động khác nhau, bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng ở mọi lúc, mọi nơi. Người đã nhấn mạnh: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”.
Bởi vậy, Người nhắc nhở cán bộ, trong phong cách làm việc, phong cách công tác, phong cách lãnh đạo của cán bộ phải chống bệnh hẹp hòi, nghĩa là phải tuyệt đối vì lợi ích của Đảng, của Nhân dân. Người chỉ rõ: nguyên nhân của bệnh có nhiều, nhưng chủ yếu là do ham danh vọng và địa vị, nên khi ở cương vị phụ trách thì lôi người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào, không ưa thì đẩy ra. Hậu quả của bệnh hẹp hòi là gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa cán bộ cấp trên phái đến và cán bộ địa phương, cán bộ cũ và cán bộ mới, giữa bộ phận và toàn cục, cán bộ cơ quan này và cán bộ cơ quan khác, địa phương này và địa phương khác…
Phong cách làm việc dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là phải “nói đi đôi với làm”. Người yêu cầu cán bộ phải thống nhất giữa nói và làm, tư tưởng phải chuyển hóa thành hành động cụ thể, hoàn thành nhiệm vụ, thực hiện lý tưởng cao cả của Đảng và dân tộc. Người từng căn dặn “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Tức là để dân tin, dân quý, dân ủng hộ, người đảng viên phải làm trước, đi trước, dù có gian khổ, hy sinh cũng không kêu ca, phàn nàn. Nói đi đôi với làm còn là cách để cấp trên gương mẫu với cấp dưới, là để cầm tay, chỉ việc giữa người có kinh nghiệm với người mới, người chưa có kinh nghiệm. Ở bất kỳ đâu, làm bất cứ việc gì, ở cương vị nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều tôn trọng, lắng nghe ý kiến của mọi người, phát huy trí tuệ của tập thể, đề cao những kinh nghiệm, sáng kiến, cách làm hay, sáng tạo đem lại hiệu quả cao trong công việc. Người chỉ rõ: “Gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống… Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước. Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ phải có ý thức tập thể cao, tạo được bầu không khí dân chủ, cởi mở trong làm việc, cũng như trong cuộc sống; từ đó, tạo động lực, niềm tin cho mỗi người có thể tham mưu, hiến kế, đề xuất những cách thức, biện pháp nâng cao năng suất lao động, xây dựng đơn vị, địa phương vững mạnh về mọi mặt. Đồng thời, đề cao phong cách làm việc dân chủ nhưng không đồng nghĩa với dân chủ quá trớn, mạnh ai người nấy làm, mà phải tuân theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”; làm bất kỳ việc gì phải đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; phải nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên…
Bồi dưỡng phong cách làm việc dân chủ cho đội ngũ cán bộ hiện nay
Trong những năm qua, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có phong cách làm việc dân chủ đã đạt nhiều kết quả, góp phần chuyển biến mạnh mẽ, tích cực trong nhận thức, hành động của đội ngũ cán bộ. Song, trước yêu cầu của tình hình mới, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược nâng cao hơn nữa về chất lượng, vững kiến thức chuyên môn, có năng lực quản lý, điều hành, phong cách làm việc dân chủ, khoa học... Có như vậy mới phát huy được trí tuệ của tập thể, đưa ra được những quyết định sáng suốt, hiệu quả, phù hợp, vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.
Tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), triển khai kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XIII) “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, ngày 12-6-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nhấn mạnh: “Phong cách Hồ Chí Minh là lối sống, tác phong khiêm tốn, giản dị, cầu thị, gần dân, trọng dân, tin dân, học dân, làm việc gì cũng phải vì lợi ích của nhân dân; là đầy tớ của dân chứ không phải “làm quan nhân dân”, không được lên mặt “làm quan cách mạng”. Có thể thấy, yêu cầu xây dựng, bồi dưỡng phong cách làm việc cho cán bộ, trong đó có phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm hết sức cần thiết.
Để công tác này thực hiện có hiệu quả, trước hết, cần thực hiện nghiêm các quy chế, quy định của Đảng, Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ như: Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4-8-2017 của Bộ Chính trị khóa XII về “Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Quy định số 90-QĐ/TW ngày 4-8-2017 về “Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”; Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19-12-2017 về “Phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử”; Quy định số 50-QĐ/TW, ngày 27-12-2021 về công tác quy hoạch cán bộ; Quy định số 80-QĐ/TW, ngày 18-8-2022 về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định số 65-QĐ/TW, ngày 28-4-2022 về luân chuyển cán bộ; Quy định số 41-QĐ/TW, ngày 3-11-2021 về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ… Việc thực hiện nghiêm các quy định trong công tác cán bộ là cách thức để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong mỗi tổ chức đảng. Đồng thời để cán bộ phải tự ý thức rèn luyện phong cách làm việc dân chủ.
Bên cạnh đó, cần phát huy dân chủ, bảo đảm tính chặt chẽ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Công tác cán bộ được thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch sẽ tạo điều kiện cho cán bộ có môi trường rèn luyện, phấn đấu, phát triển toàn diện. Tiếp tục đổi mới công tác tác đánh giá cán bộ, bởi đây là khâu mở đầu, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng liên quan đến các khâu khác của công tác cán bộ. Đánh giá không đúng về cán bộ dẫn tới bố trí, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ không đúng, có thể gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng; triệt tiêu nhân tố tích cực, thúc đẩy chủ nghĩa cơ hội, tiêu cực, suy thoái đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cán bộ được đánh giá khách quan, công tâm, được lựa chọn và bố trí đúng sẽ góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực… Để đánh giá đúng cán bộ, cần đánh giá đa chiều, thông qua năng lực, phẩm chất và uy tín; dựa vào kết quả, hiệu quả thực hiện từng công việc cụ thể. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, cần phải căn cứ vào kết quả, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, phải căn cứ vào kết quả đổi mới, sáng tạo; tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm; khả năng thích ứng nhanh với tình hình thực tiễn, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành. Đánh giá để bổ nhiệm và bầu cử phải trực tiếp khảo sát, gặp gỡ trao đổi với các tổ chức, cá nhân có liên quan và tham khảo ý kiến phản ánh, đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bản thân cán bộ tự đánh giá, tập thể đánh giá, cấp trên đánh giá, cấp dưới đánh giá, huy động các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia đánh giá cán bộ.
Cần có cơ chế, chính sách thu hút, lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng người có đức, có tài. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương gắn với các chế độ, chính sách như tiền lương, thu nhập, cải thiện cuộc sống, môi trường, điều kiện làm việc… cho cán bộ. Việc đổi mới, thực hiện tốt cơ chế, chính sách trên cơ sở kiểm soát tốt quyền lực, vừa đảm bảo chất lượng cán bộ, vừa phát huy dân chủ, phòng, chống được tiêu cực…
Thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm, trong đó có trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp cũng là cách để rèn luyện tác phong dân chủ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII) của Đảng đều nêu rõ vấn đề về vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương” cũng đã khẳng định quan điểm đó. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ, trong nhiệm kỳ qua, “việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội”.
Cán bộ phải sâu sát cơ sở, nắm vững thực tiễn, kịp thời giúp cơ sở giải quyết các khó khăn và vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Đây vừa là trách nhiệm, vừa là tác phong công tác cần phải có của mỗi cán bộ. Đặc biệt với cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, để có phong cách lãnh đạo sâu sát, cần phải dành thời gian đi cơ sở, trực tiếp trao đổi, đối thoại với người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức…, từ đó tránh được bệnh quan liêu, hạn chế tình trạng ra các quyết định, chủ trương thiếu tính thực tiễn, duy ý chí. Mặt khác, cần xem phong cách sâu sát cơ sở, thực tiễn là một tiêu chí, một yêu cầu cần thiết trong quy hoạch, đề bạt cán bộ giữ vị trí người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp.
Cùng với làm tốt các khâu trong công tác cán bộ, cần “có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân”. Như vậy đội ngũ cán bộ sẽ ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao về chất lượng, góp phần thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng./.
St

PHẠT NGHIÊM... LÀ RẤT ĐÚNG!

 

Nếu ai vừa uống rượu, bia cũng điều khiển phương tiện tham gia giao thông, khi bị thổi nồng độ cồn lại xin được bỏ qua thì còn gì là kỷ cương phép nước?

Tối chủ nhật, ông Hòa đang vui vẻ uống trà cùng 3 người bạn hàng xóm thì con trai ông tên là Minh đi bộ vào cổng. Cậu ta không chào ai mà thở dài, rồi than:

- Mấy ông công an "ác" thật. Con đi dự sinh nhật bạn, uống có 2 chén rượu thôi. Thế mà về đến đầu phố bị thổi nồng độ cồn, con xin thế nào cũng không tha dù đã nói nhà tôi ở ngay phố này. Họ lập biên bản phạt 3 triệu đồng, lại còn tước giấy phép lái xe trong một năm. Gọi là Công an nhân dân mà chẳng thông cảm cho dân gì cả.

Nghe cháu Minh than vãn, ông Hùng đặt chén trà đang nhâm nhi xuống mặt bàn, nói hùa theo với giọng oang oang:

- Tháng trước, khi bác đi ăn cỗ ở nhà bạn, về gần đến nhà thì cũng bị thổi nồng độ cồn. Mấy cậu công an trẻ tuổi hơn bác nhiều mà chẳng nể nang gì cả, bác đã xin được thông cảm, bỏ qua mà vẫn cứ phạt. Thật là quá đáng với dân!

- Bác để cháu đăng chuyện này lên Facebook và hỏi xem có bao nhiêu người quen của cháu bị phạt không hợp lý như bác cháu mình. Chắc chắn nhiều người cũng sẽ bất bình...

Minh chưa nói dứt lời thì ông Hòa đã lên tiếng:

- Thôi con ơi, việc uống rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông, bố đã dặn con rồi. Con có hành vi vi phạm pháp luật thì các chú công an xử phạt nghiêm túc là rất đúng, chứ sao lại bất bình? Mình đã sai, lại còn trách những người thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ để giữ gìn trật tự, an toàn giao thông cho mình và cộng đồng thì thật là vô lý. Nếu ai vừa uống rượu, bia cũng điều khiển phương tiện tham gia giao thông, khi bị thổi nồng độ cồn lại xin được bỏ qua thì còn gì là kỷ cương phép nước?

Người uống rượu, bia mà vẫn điều khiển ô tô, xe máy sẽ rất dễ gây tai nạn, làm hại chính mình và những người đang ở trên đường. Con bị xử phạt, nhưng lại được bài học sâu sắc, thiết thực để từ nay không vi phạm, hạn chế được nguy cơ gây tai nạn làm khổ gia đình và nhiều người khác. Đúng ra, con phải cảm ơn các chú công an đã xử phạt nghiêm khắc đấy!

Thấy ông Hòa bày tỏ thái độ khách quan, nghiêm túc, ông Hùng nghĩ cũng đúng, nhưng vẫn cố lý sự:

- Nói như ông thì chỉ hợp lý chứ chưa thật hợp tình. Người Việt Nam mình vốn duy tình hơn duy lý. Người dân chỉ uống chút rượu, bia cũng phạt, thậm chí đã đi xe máy về gần đến nhà rồi như tôi và cháu Minh đây mà vẫn phạt thì xem ra hơi "ác". Thế nên, các trang tin “lề trái” mới lấy cớ này để kích bác, chia rẽ đoàn kết giữa công an với nhân dân.

Ông Hòa nghe ông Hùng lập luận không hợp lý chút nào, nhưng cố kìm lòng, nói giọng nhẹ nhàng:

- Luật pháp phải rất nghiêm minh, không có châm chước thì đất nước, xã hội mới văn minh ông ạ. Nếu công an cứ nể tình mà bỏ qua vi phạm thì người dân sẽ càng nhờn luật, dần dần dẫn tới mất trật tự an ninh, xã hội rối loạn. Khi đó, chính chúng ta sẽ trở thành nạn nhân và các đối tượng phản động, bất mãn lại càng có cớ để nói xấu chế độ ta, đất nước ta.

Do đó, chúng ta phải ủng hộ cái đúng, ủng hộ lực lượng công an thực thi công vụ thật nghiêm túc để đất nước giữ vững sự ổn định, văn minh và để các thế lực thù địch, phản động không có cớ chống phá. Như thế là chúng ta đã góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho đất nước ngày càng tốt hơn, phải không nào?     

Nghe những lời phân tích rất thuyết phục của ông Hòa, tất cả mọi người đều hiểu ra và gật đầu đồng tình./.

ST

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI CHIẾN TRANH NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG

 Hiện nay, trước sự phát triển của vũ khí, phương tiện, hình thái chiến tranh, có quan điểm cho rằng, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là không phù hợp. Đây là nhận thức, quan điểm sai lầm, thiếu cơ sở khoa học, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Trước sự phát triển và tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc sản xuất vũ khí, phương tiện chiến tranh đã, đang có sự nhảy vọt về chất, với nhiều tính năng vượt trội cả về kỹ thuật, chiến thuật; trong đó, những ưu thế về sự thông minh, độ chính xác cao, uy lực lớn, tầm hoạt động xa, có thể hoạt động trong điều kiện thời tiết, khí hậu phức tạp và đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều lần so với các thế hệ vũ khí trước đây là đặc tính nổi bật. Vũ khí công nghệ cao ra đời và phát triển đã làm thay đổi căn bản một số quan điểm về chiến tranh, ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật quân sự, phương thức tác chiến, v.v.. Dựa vào đó, các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng nước ta cho rằng, trong điều kiện mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhất là chiến tranh địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, vũ khí thông minh,... thì đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam là lỗi thời và sai lầm. Từ đó, họ ca ngợi sức mạnh quân sự của phương Tây; tuyệt đối hóa vũ khí, trang bị và xem đó là vấn đề quyết định trong chiến tranh; thúc đẩy chạy đua vũ trang và khuyên ta nên liên minh, liên kết quân sự với các nước có tiềm lực lớn về quân sự. Đây là thủ đoạn không mới, nhưng rất nguy hiểm nhằm đánh vào lòng người, nhất là trong bối cảnh các nước lớn không ngừng phô trương và sử dụng vũ khí thông minh, áp dụngtrí tuệ nhân tạo trong các cuộc xung đột cục bộ để răn đe các nước khác. Mục đích thực sự của họ nhằm gieo rắc hoài nghi về sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam; về đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng; về phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,... để từng bước hướng lái nước ta theo con đường liên minh, liên kết dẫn tới phụ thuộc vào nước ngoài, v.v. Sự thực, xét cả về lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định, đường lối chiến tranh nhân dân là đường lối duy nhất đúng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và những kẻ cho rằng đây là đường lối sai lầm thì chính họ là sai lầm nhất.

Vì sao chúng ta lại khẳng định như vậy? Bởi đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng là đường lối đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, dựa vào phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh của toàn dân, sức mạnh toàn diện của đất nước trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Điều đó thể hiện sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với đặc điểm và điều kiện của nước ta, một dân tộc đất không rộng, người không đông nhưng luôn phải đối phó với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh, nếu không phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc thì không đủ sức mạnh để đánh thắng kẻ thù. Vì vậy, chưa có một đường lối nào có thể thay thế được đường lối chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược quân sự Việt Nam thời kỳ mới đã khẳng định: “Huy động sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đánh bại mọi hình thái chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn ven lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc”.

Chiến tranh nhân dân là đường lối duy nhất đúng để phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nếu buộc phải tiến hành chiến tranh. Chiến tranh nhân dân - một trong những sáng tạo về nghệ thuật tiến hành chiến tranh của Việt Nam là đường lối kế thừa xuất sắc truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, khi phải chống lại những đội quân xâm lược lớn mạnh hơn ta nhiều lần, tổ tiên ta đã vận hành thắng lợi nghệ thuật “lấy yếu chống mạnh, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”, dựa trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc. Thời bình thực hiện giữ nước từ khi nước chưa nguy, với các chính sách “ngụ binh ư nông”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”, dựa vào dân để giữ nước. Thời chiến đánh giặc bằng sức mạnh của toàn dân tộc “chúng chí thành thành, cử quốc nghênh địch”, cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc. Dựa vào dân làm kế “vườn không, nhà trống”, đánh giặc bằng mọi lực lượng, mọi loại vũ khí, ở mọi lúc, mọi nơi,… để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý, viết nên truyền thống vẻ vang, đánh giặc giữ nước bằng sức mạnh của toàn dân tộc. Thời nào cũng vậy, khi đã phát huy được cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, thì không một thế lực nào khuất phục được dân tộc ta - đó là thực tế mà không thế lực nào có thể phủ nhận.

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê nin: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân cũng như sự kế thừa xuất sắc truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, Đảng ta luôn khẳng định nhất quán đường lối chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhờ đường lối ấy, chúng ta đã phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, làm nên Cách mạng Tháng Tám lịch sử, kế tiếp đánh thắng hai đế quốc to là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập cho dân tộc. Trên cơ sở đường lối chiến tranh nhân dân, chúng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí, trang bị trong chiến tranh, coi trọng yếu tố con người với lòng yêu nước và ý chí quyết tâm cao độ, yếu tố nhân dân. Dựa vào đường lối chiến tranh nhân dân, chúng ta đã huy động được sức mạnh tổng hợp, toàn diện từ mọi mặt của đất nước, triển khai thắng lợi phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực. Thông qua chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, tính đúng đắn của đường lối chiến tranh nhân dân được kiểm nghiệm, trở thành nhân tố chủ yếu, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước, đường lối chiến tranh nhân dân vẫn là đường lối cơ bản, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong tổ chức, chuẩn bị và sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra). Tuy nhiên, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay có sự phát triển, thay đổi rất khác trước, dự báo đối tượng tác chiến sẽ sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao, vũ khí thông minh cùng những phương thức tác chiến mới. Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng cao, nhất là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, ly khai, giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong tình hình ấy, đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân trong đấu tranh bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn còn nguyên giá trị. Mọi luận điểm phủ nhận, xuyên tạc đường lối chiến tranh nhân dân chỉ là mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch. Trên thực tế, chúng ta chưa bao giờ coi nhẹ vũ khí công nghệ cao; tuy nhiên, vũ khí công nghệ cao không phải là “vũ khí vạn năng”, nó cũng có những hạn chế, bởi nó được chế tạo theo hệ thống, vận hành theo hành trình, quy luật, một số loại còn chịu ảnh hưởng rất lớn của địa hình, thời tiết, một số loại còn bay thấp, tốc độ không cao, v.v. Nếu có các giải pháp hợp lý vẫn có thể hạn chế hiệu quả của vũ khí công nghệ cao, kể cả các giải pháp thô sơ, truyền thống. Như Giám đốc Trung tâm kỹ thuật của NATO, M. Defourneaux đã thừa nhận: “Ngay với đối thủ yếu, họ chỉ cần làm hỏng một bộ phận cũng đủ xóa bỏ hiệu lực của toàn bộ hệ thống vũ khí hiện đại, ngược lại để xóa một nhóm du kích độc lập, có thể phải diệt đến người cuối cùng”; “nơi mà xe tăng hạng nặng, khí tài điện tử hoặc trí tuệ con người không hoạt động được, thì ở đó con người vẫn tiếp tục cuộc chiến”; “sức mạnh vũ khí không thể thay thế được cái vĩ đại từ hàng nghìn năm nay - sức mạnh con người”, v.v.

Vũ khí dù có hiện đại đến đâu vẫn do con người sử dụng, vì thế không thể coi nhẹ yếu tố con người, mà đường lối chiến tranh nhân dân là đường lối phát huy cao độ yếu tố con người, với phẩm chất kiên cường, bất khuất, có ý chí, quyết tâm cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chiến đấu vì quê hương, đất nước. Vũ khí công nghệ cao có thể phá hủy được một số mục tiêu cố định, sát thương được một bộ phận lực lượng vũ trang và nhân dân ta, nhưng không thể đánh được tất cả mọi nơi trên đất nước Việt Nam và càng không thể là vũ khí bất khả xâm phạm; còn Đảng, còn Quân đội, còn Nhân dân, chúng ta còn chiến thắng. Đó chính là chiến tranh nhân dân.

Dựa vào vũ khí công nghệ cao, kẻ địch có thể có ưu thế về làm chủ trên không và một số môi trường đặc thù, nhưng chiến tranh nhân dân lấy làm chủ mặt đất làm chủ yếu, thực tiễn chiến tranh đã chỉ rõ, ai làm chủ mặt đất người đó sẽ chiến thắng. Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh của những con người thông minh, sáng tạo, đặc biệt sáng tạo trong vận dụng cách đánh, đánh địch ở mọi nơi, trong mọi điều kiện địa hình, thời tiết, sáng tạo ra nhiều biện pháp tác chiến, nghi binh, lừa địch, cơ động, dịch chuyển, thật giả không phân biệt, kẻ địch khó mà xác định được các mục tiêu “thật” cho vũ khí công nghệ cao.

Lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân là lực lượng toàn dân, có mặt ở khắp mọi nơi, tạo thế trận rộng khắp, có thể bắn hạ tên lửa hành trình, máy bay không người lái, máy bay bay thấp, có thể đánh hiểm vào các khu vực bố trí vũ khí công nghệ cao của địch trên các môi trường, địa hình,... bằng các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ. Trong tương lai, nếu buộc phải tiến hành chiến tranh, chúng ta vẫn phải kiên trì đường lối chiến tranh nhân dân, nhưng có sự phát triển ở trình độ cao và vẫn phải đánh với đối phương có vũ khí, trang bị hiện đại hơn ta, thậm chí hiện đại hơn ta rất nhiều lần. Chỉ có chiến tranh nhân dân mới phát huy được cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc đánh thắng quân xâm lược, kể cả chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao và chỉ có chiến tranh nhân dân mới có nhiều giải pháp hạn chế vũ khí công nghệ cao. Đây cũng là câu trả lời đanh thép để bác bỏ luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.

Bảo vệ Tổ quốc bằng nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới, đánh địch bằng mưu kế, thắng địch bằng thế thời, đó là thượng sách giữ nước của dân tộc. Một cuộc chiến tranh nhân dân đích thực thì không một thế lực nào có thể đánh bại được. Để tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân đích thực, trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao, cần có các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ xung đột và chiến tranh, chuẩn bị mọi mặt để tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Một là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc, có sức mạnh tổng hợp cao, có sức đề kháng mạnh mẽ và có khả năng ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức đúng đắn cho toàn dân về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chuẩn bị thế trận chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới ngay từ thời bình. Tập trung giáo dục để mọi người có nhận thức đúng về tình hình các mặt, về đối tượng, đối tác, dự kiến các tình huống quốc phòng, an ninh, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Hết sức chú trọng bồi dưỡng để có nhận thức đúng về vũ khí công nghệ cao, khắc phục tư tưởng sợ sệt, lo ngại, thiếu niềm tin vào khả năng sức mạnh của đất nước. Từ đó, có quyết tâm cao trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, coi trọng xây dựng hệ thống chính trị, “thế trận lòng dân”, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng các thành phần của thế trận quân sự, gắn xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân không ngừng hiện đại là cơ sở chủ yếu để tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc thắng lợi. Về lực lượng, là cơ sở để mở rộng lực lượng, đáp ứng yêu cầu chiến tranh. Về tiềm lực, là cơ sở quan trọng huy động các khả năng tiềm tàng của đất nước phục vụ nhu cầu của chiến tranh. Về thế trận, là cơ sở chủ yếu để chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Xây dựng Quân đội nhân dân hiện đại phải toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trang bị kỹ thuật, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, huấn luyện và bảo đảm. Coi trọng nâng cao trình độ năng lực, tổ chức, trang bị, vũ khí và nghệ thuật tác chiến; trong đó, hiện đại hóa về vũ khí, trang bị có vai trò rất quan trọng trong chiến tranh sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao. Chúng ta luôn khẳng định con người là nhân tố quyết định nhưng cũng với những con người ấy, nếu có vũ khí, trang bị tốt hơn thì hiệu suất tác chiến sẽ cao hơn. Vì vậy, cùng với xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cần kết hợp chặt chẽ giữa cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị hiện có với sản xuất, mua sắm trang bị hiện đại cho Quân đội, tập trung trang bị các loại vũ khí chiến lược có tầm đánh xa, uy lực lớn, độ chính xác cao, nâng cao khả năng răn đe từ thời bình và đánh thắng nếu buộc phải tiến hành chiến tranh. Đầu tư hơn nữa xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, bảo vệ từng địa bàn, địa giới hành chính, phát huy cao nhất sức mạnh của nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chỗ dựa vững chắc cho toàn dân đánh giặc.

Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học quân sự, nhất là nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân. Coi trọng công tác nghiên cứu dự báo, nhất là dự báo chiến lược, dự báo các thách thức, tình huống quốc phòng, an ninh, hình thái chiến tranh có thể xảy ra. Trong nghiên cứu về đối tượng tác chiến, chú trọng đối tượng có thể tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn, không coi nhẹ đối tượng xâm lấn biên giới, biển, đảo. Nghiên cứu về chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao và các giải pháp phòng, chống vũ khí công nghệ cao. Nghiên cứu phát triển lý luận tác chiến chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhất là các loại hình tác chiến mới xuất hiện: tác chiến bảo vệ biển, đảo; tác chiến phòng thủ; tác chiến đánh địch tiến công hỏa lực; tác chiến tiến công tổng hợp; tác chiến không gian mạng; tác chiến điện tử,… kế thừa kinh nghiệm từ chiến tranh giải phóng, nhưng không sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, các nghiên cứu phải phù hợp các điều kiện tác chiến mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc./.

St

Ý NGHĨA TÍCH CỰC CỦA CỤM TỪ “TỪ SỚM, TỪ XA”

 

Có nhiều từ, cụm từ vốn ban đầu được sử dụng trong phạm vi, môi trường, lĩnh vực quân sự, quốc phòng như: ra quân, chiến dịch, phương án,... nhưng sau đó lan sang lĩnh vực khác và dần trở thành những từ, cụm từ được sử dụng rộng rãi trong xã hội. Thời gian gần đây, cụm từ “từ sớm, từ xa” cũng đang trở nên quen thuộc với nhiều ngành, nhiều người vì ý nghĩa tích cực của nó.
Cụm từ “từ sớm, từ xa” vốn chủ yếu sử dụng trong lĩnh quốc phòng, quân sự. “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” được hiểu là bảo vệ Tổ quốc từ bên ngoài lãnh thổ và bảo vệ, phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ Tổ quốc ngay trong thời bình, lấy việc phòng ngừa từ sớm, chuẩn bị từ trước làm chủ yếu, theo phương châm không phải sử dụng chiến tranh. “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa” được hiểu là kịp thời nhận diện, phát hiện và xử lý những nhân tố bất lợi từ “trong trứng nước” và dập tắt ngay những mầm mống yếu tố có thể gây đột biến làm phương hại đến toàn vẹn lãnh thổ, độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia.
Cụm từ “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” có cội nguồn sâu xa từ lịch sử. Cách nay gần 6 thế kỷ, vào mùa xuân Nhâm Tý năm 1432, sau khi dẹp cuộc nổi loạn của Đèo Cát Hãn - do tù trưởng Mường Lễ, châu Ninh Viễn (nay là tỉnh Lai Châu) cấu kết với Kha Lại (người Ai Lao) làm phản ở biên giới phía Tây Bắc - trên đường hồi Kinh, vua Lê Thái Tổ đã sáng tác hai bài thơ. Một bài được khắc trên vách núi đá tỉnh Lai Châu, một bài khắc trên vách núi đá tỉnh Hòa Bình. Trong đó, bài thơ lưu lại tại núi đá tỉnh Hòa Bình có câu: “Biên phòng hảo vị trù phương lược/ Xã tắc ưng tu kế cửu an” (dịch nghĩa là: Biên phòng phải lo sẵn phương lược/ Giữ nước cần tính kế lâu dài). Lời khẳng định của vua Lê Thái Tổ thể hiện tầm nhìn chiến lược về sự nghiệp giữ nước nói chung, kế sách bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia nói riêng.
Khởi nguồn từ hai cụm từ “lo sẵn phương lược”, “tính kế lâu dài” trong di sản văn hóa giữ nước của ông cha ta, các nhà nghiên cứu quân sự thời hiện đại đã chuyển hóa thành phương châm “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” để vừa khẳng định sự tiếp nối truyền thống lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, vừa nhấn mạnh tinh thần chủ động, tích cực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời bình. Thực chất của phương châm “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” là ý chí cách mạng tiến công, tư thế chủ động, tinh thần nhất quán “Lo giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Đó chính là chủ động chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cả về kế hoạch, phương án, lực lượng, thế trận và vật chất chất hậu cần - kỹ thuật để bảo vệ đất nước ngay trong thời bình, khi chưa xảy ra chiến tranh và không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Với ý nghĩa đó, thời gian gần đây, cụm từ “từ sớm, từ xa” đã lan sang các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, đối ngoại... Ví như: Công tác xây dựng pháp luật cần chuẩn bị từ sớm, từ xa; Quốc hội chuẩn bị từ sớm, từ xa cho hoạt động giám sát năm 2023; Chuẩn bị từ sớm, từ xa để thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2023; Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của cán bộ, đảng viên từ sớm, từ xa; Phòng ngừa tội phạm từ sớm, từ xa; Chiến lược quảng bá văn hóa cần chuẩn bị từ sớm, từ xa; Phòng ngừa bệnh tật từ sớm, từ xa; Hiệu quả hoạt động đối ngoại phụ thuộc vào công tác chuẩn bị từ sớm, từ xa...
Thời gian gần đây, trên các phương tiện truyền thông đại chúng và trong nhiều hội thảo, hội nghị, diễn đàn, tọa đàm, cuộc họp, nhiều người thường sử dụng cụm từ chuẩn bị “từ sớm, từ xa” với hàm ý tích cực là động viên, khích lệ, thúc giục, đôn đốc, nhắc nhở các tổ chức, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức phải luôn có tinh thần tự giác, chủ động trong mọi hoạt động, công tác.
Theo tâm lý học giải thích, chủ động là một thói quen mà mỗi người bằng ý chí của mình có thể rèn luyện được từ những điều nhỏ nhất trong cuộc sống, học tập, lao động, công tác. Từ góc độ cá nhân, tính chủ động không chỉ giúp con người suy nghĩ linh hoạt hơn, thái độ sống tích cực hơn, hành động nhiều hơn để đạt được kết quả tốt đẹp hơn; mà còn giúp mỗi người tự tin hơn, dễ tìm thấy và nắm bắt được nhiều cơ hội hơn, được đánh giá cao hơn, trách nhiệm hơn, lường trước được nhiều rủi ro hơn. Từ phương diện tổ chức, tính chủ động sẽ góp phần gắn kết các cá nhân và tạo động lực thúc đẩy tập thể làm việc, hoạt động, công tác đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Khi tính chủ động được thể hiện ở tư duy mẫn cảm, tầm nhìn xa trông rộng, nhận đúng diễn biến tình tình, dự đoán/tiên lượng những tình huống có thể xảy ra để tìm cách ứng phó hiệu quả, phòng ngừa những bất trắc, đẩy lùi những nguy cơ, đó chính là bản chất của kế sách, mưu lược, phương châm “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”. Nhìn rộng ra ở các lĩnh vực khác, khi các tổ chức, cơ quan, đơn vị đều chú trọng quan tâm xây dựng mọi kế hoạch, phương án hoạt động, công tác bảo đảm chặt chẽ, chu đáo, khả thi thì đó chính là thể hiện tinh thần, tư duy chuẩn bị “từ sớm, từ xa” để hướng tới giải quyết, xử lý mọi công việc được suôn sẻ, hanh thông và là tiền đề, cơ sở để có thể giành kết quả cao nhất, hiệu quả tốt nhất./.
St

 Thượng uý quân đội trả lại hơn 1,5 tỷ đồng chuyển nhầm vào tài khoản


Bất ngờ nhận được số tiền 1,523 tỷ đồng từ số tài khoản lạ chuyển đến tài khoản ngân hàng của mình, Thượng úy QNCN Trần Trung Kiên, lái xe đang công tác tại Văn phòng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng, (ngụ tại phường Lộc Sơn, thành phố Bảo Lộc) đã đến Công an thành phố Bảo Lộc trình báo, nhờ phối hợp cùng Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Bảo Lộc xác minh, tìm người chuyển nhầm để trả lại.

Chiều 25/10, Công an thành phố Bảo Lộc cho biết, đơn vị đã phối hợp với Thượng úy QNCN Trần Trung Kiên hoàn tất các thủ tục liên quan và rút số tiền 1,523 tỷ đồng để trao trả lại cho ông Bùi Sỹ Quỳnh (ngụ tại phường Linh Đông, thành phố Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh). Ông Quỳnh là cán bộ phòng Kinh doanh Công ty Cổ phần Đầu tư Y tế Ánh Dương (trụ sở đóng tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa) là đơn vị chuyển nhầm tiền vào tài khoản của anh Trần Trung Kiên. Sau khi nhận lại số tiền nói trên, ông Bùi Sỹ Quỳnh đã phối hợp với Công an thành phố Bảo Lộc tiến hành nộp vào Kho bạc Nhà nước để chuyển lại tài khoản của Công ty Cổ phần Đầu tư Y tế Ánh Dương đảm bảo các quy định.

Trước đó, vào ngày 19-10, tài khoản cá nhân của anh Trần Trung Kiên (mở tại Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Bảo Lộc) có nhận được số tiền lớn chuyển đến. Biết đây là số tiền có người chuyển nhầm, nên anh Kiên đã nhanh chóng đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công thành phố Bảo Lộc trình báo. Để tránh liên quan đến tội phạm “tín dụng đen”, trước yêu cầu của anh Kiên, cơ quan công an tiến hành rút số tiền 1,523 tỷ đồng từ tài khoản của anh Kiên nộp vào tài khoản tạm giữ của Công an thành phố Bảo Lộc theo quy định; đồng thời, tiến hành các biện pháp xác minh chủ tài khoản ngân hàng đã chuyển nhầm tiền vào tài khoản anh Kiên.

Sau khi xác minh, Công an thành phố Bảo Lộc xác định, số tài khoản chuyển nhầm tiền vào tài khoản của Thượng úy QNCN Trần Trung Kiên là của Công ty Cổ phần Đầu tư Y tế Ánh Dương (đóng tại đường Lê Hoàn, phường Trường Phi, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Người chuyển nhầm tiền vào số tài khoản của Thượng úy Kiên là chị Lê Thị Vân – Kế toán của Công ty Cổ phần Đầu tư Y tế Ánh Dương. Sau khi kết nối làm việc, chị Vân cho biết, số tiền nói trên được chị chuyển qua tài khoản của một công ty đối tác để thanh toán tiền công nợ, nhưng do nhập sai số tài khoản nên chuyển nhầm qua số tài khoản của anh Kiên.

Ông Bùi Sỹ Quỳnh, cán bộ Phòng kinh doanh của Công ty Cổ phần Đầu tư Y tế Ánh Dương gửi lời cám ơn chân thành tới Thượng úy Trần Trung Kiên và Công an thành phố Bảo Lộc, cùng các đơn vị liên quan đã tạo điều kiện giúp Công ty nhận lại số tiền đã chuyển nhầm.

Hành động nhân văn cao đẹp của Thượng úy QNCN Trần Trung Kiên, Bộ CHQS tỉnh Lâm Đồng là rất đáng trân trọng, cần lan tỏa để mọi người học tập, phát huy.

 Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu khoa học quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc

Trong chương trình thăm chính thức Trung Quốc và dự Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 10, ngày 29-10, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam và đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng Việt Nam đã đến thăm Viện Khoa học Quân sự Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc và Lữ đoàn hợp thành số 6 thuộc Tập đoàn quân số 82.
Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu khoa học quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc
Đại tướng Phan Văn Giang tham quan thư viện của Viện Khoa học Quân sự Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Viện Khoa học Quân sự Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, cơ quan trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc được thành lập năm 1958 do Nguyên soái Diệp Kiếm Anh làm Viện trưởng kiêm Chính ủy đầu tiên. Viện là trung tâm nghiên cứu và điều phối công tác nghiên cứu khoa học quân sự toàn quân. Trao đổi với ban lãnh đạo Viện, Đại tướng Phan Văn Giang mong muốn Viện Khoa học quân sự Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc tăng cường hợp tác nghiên cứu với các cơ quan, đơn vị của Quân đội. Đại tướng Phan Văn Giang cũng đề nghị Viện Khoa học Quân sự Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc và Viện Chiến lược Quốc phòng Việt Nam tích cực phối hợp để sớm hoàn thành công trình nghiên cứu chung “Sưu tầm tư liệu, kỷ vật về tình đoàn kết hữu nghị giữa hai Quân đội Việt Nam-Trung Quốc, tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh-Mao Trạch Đông trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ”.

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu khoa học quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc
Đại tướng Phan Văn Giang nghe giới thiệu về trang bị vũ khí khi thăm Lữ đoàn hợp thành số 6.
Tới thăm Lữ đoàn hợp thành số 6, đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng Việt Nam đã nghe chỉ huy lữ đoàn giới thiệu về lịch sử và cơ cấu tổ chức của đơn vị. Lữ đoàn hợp thành số 6 được thành lập năm 1938, trước đây đóng quân tại tỉnh Hà Nam. Sau đó, Lữ đoàn được chuyển về Bắc Kinh, thực hiện nhiệm vụ chính là tham gia bảo vệ Thủ đô của Trung Quốc. Lữ đoàn cũng nhiều lần thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, cứu trợ thiên tai và tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình.
Ngày mai (30-10), Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 10 sẽ chính thức được khai mạc với sự tham dự của đông đảo lãnh đạo Bộ Quốc phòng, quân đội, chuyên gia, học giả đến từ nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế. Đại tướng Phan Văn Giang sẽ có bài phát biểu tại phiên toàn thể mang chủ đề “Vai trò của các nước đang phát triển trong an ninh toàn cầu”.