Thứ Năm, 30 tháng 11, 2023

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐÃ TỰ KIÊU, TỰ ÁI THÌ KHÔNG THỂ ĐOÀN KẾT, KHÔNG ĐOÀN KẾT TỨC LÀ CÔ ĐỘC, ĐÃ CÔ ĐỘC THÌ CHẲNG VIỆC GÌ THÀNH CÔNG!

     Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Bệnh tự kiêu, tự ái”, dưới bút danh X.Y.Z, đăng trên báo Sự Thật, số 102, ra ngày 15 tháng 11 năm 1948!

Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta mới được hai năm, trong xã hội đã có một số cán bộ có biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, công thần, hẹp hòi, kèn cựa địa vị, cục bộ bè phái, mất đoàn kết, chủ quan khinh địch; thiếu cố gắng vươn lên, tự cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được, việc gì mình cũng giỏi hơn người, mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai; không can đảm tự phê bình, không ưa những lời phê bình thật thà ngay thẳng... nói tóm lại là đã mắc bệnh tự kiêu, tự ái. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Bệnh tự kiêu, tự ái”, vạch rõ thực chất của căn bệnh này và khẳng định: “... Đã tự kiêu tự ái, thì không thể đoàn kết. Không đoàn kết tức là cô độc. Ðã cô độc, thì chẳng việc gì thành công”.

Giá trị, ý nghĩa sâu sắc câu nói của Bác vẫn còn tính thời sự, là lời răn dạy đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và quần chúng Nhân dân phải luôn toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân; chống mọi biểu hiện vô cảm, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho Nhân dân. Phải ra sức thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn khiêm tốn, trung thực, dũng cảm, mạnh dạn tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình mình; kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm và phát triển ưu điểm. Luôn gương mẫu đi đầu, nói đi đôi với làm; không ngừng học tập nâng cao trình độ, cố gắng học hỏi để luôn luôn tiến bộ. Phải ra sức thực hành đoàn kết, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, cục bộ địa phương, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc các tiêu chí phẩm chất đạo đức cách mạng của quân nhân. Không ngừng học tập, phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện với tinh thần cầu thị, gắn với thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, học tập và công tác hàng ngày; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đề cao tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cán bộ, chiến sĩ tự lập kế hoạch, xác định nội dung và phương pháp tự học tập, rèn luyện cụ thể phù hợp với chức trách, nhiệm vụ của bản thân và điều kiện thực tế của đơn vị. Tự nghiên cứu, tự đọc tài liệu, sách, báo, cập nhật và xử lý thông tin hằng ngày để bổ sung tri thức, nâng cao hiểu biết, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm hay vào tổ chức thực hiện nhiệm vụ./.
Yêu nước ST.

Việt Nam vẫn là trọng điểm chống phá của “diễn biến hòa bình”

 

Cho dù có “khoác tấm áo mới” thì bản chất thực sự của chiến lược “diễn biến hòa bình” vẫn là hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch; vẫn là một kiểu “chiến tranh không có tiếng súng” nhưng vô cùng nguy hiểm với tính chất chính trị phản động, dân tộc chủ nghĩa, toàn cầu, phi vũ trang. Đã từng cay đắng thất bại trong chiến tranh, nay các thế lực thù địch lớn tiếng tuyên bố sẽ “thắng trong hòa bình”, “thắng bằng kinh tế thị trường” và Việt Nam vẫn là tiêu điểm, vẫn hội tụ đủ các yếu tố là trọng tâm chống phá của những thủ đoạn mới trên đây. Bởi lẽ, là một nước xã hội chủ nghĩa luôn tiên phong trong phong trào độc lập dân tộc, không chịu lệ thuộc vào bên ngoài, Việt Nam nắm giữ vị trí địa kinh tế - chính trị - quân sự chiến lược quan trọng trong khu vực, lại nằm ở vị trí địa - chiến lược, trung tâm của cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn. Hơn nữa, những thành tựu hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế đã tăng cường vị thế, uy tín, tiềm lực, thực lực và sức mạnh tổng hợp của đất nước ta, tuy nhiên trong nội bộ, hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tệ nạn xã hội... còn diễn biến khá phức tạp. Thêm vào đó, thay đổi được chế độ chính trị, bộ máy cầm quyền ở Việt Nam, các thế lực thù địch sẽ có nhiều lợi thế khi thực hiện các mưu đồ chính trị mới trong thế giới đương đại. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” vẫn là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, tiếp tục diễn ra vô cùng phức tạp, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Vấn đề quan trọng có ý nghĩa định hướng chiến lược trong cuộc chiến này là phải tăng cường nghiên cứu, dự báo, đánh giá và nhận diện đúng bộ mặt thật, “bình mới, rượu cũ” của chiến lược “diễn biến hòa bình”; đồng thời, xác định đấu tranh phòng, chống, làm thất bại “diễn biến hòa bình” là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, các cấp, các ngành, các địa phương. Về cơ bản lâu dài, kiên quyết đấu tranh, kiên trì quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm, giải pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của Đảng và Nhà nước đã xác định, trong đó, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, thống nhất nhận thức và tư tưởng, hành động, đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là cơ sở nền tảng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là giải pháp đột phá, nhất là khi “diễn biến hòa bình” đã chuyển trọng tâm, thay vì tác động từ bên ngoài vào sang tiến hành các hoạt động chống đối tại chỗ, thúc đẩy chúng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mũi nhọn xung kích chính là vũ khí phê phán thông qua đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Và cho dù “diễn biến hòa bình” có thay đổi phương thức, điều chỉnh thủ đoạn, diễn biến theo chiều hướng nào, mang bộ mặt nào đi nữa thì mục tiêu cuối cùng của họ không có gì khác là hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, hòng xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, tập trung xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” gắn với ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là vấn đề mang tính nguyên tắc, giữ vai trò quyết định trong bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam trong tình hình mới./.

Bộ mặt mới của chiến lược “diễn biến hòa bình” hiện nay

 

Thứ nhất, chủ thể và lực lượng tiến hành “diễn biến hòa bình” trong bối cảnh mới rất đa dạng, phức tạp, đan xen, không đồng nhất. Nếu như trước kia, chủ thể tiến hành “diễn biến hòa bình” là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thì nay, bên cạnh lực lượng này còn có cả các nước theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi với tư tưởng bành trướng, bá quyền. Để xác lập vị thế vượt trội hoặc tranh giành lợi ích, ảnh hưởng trong trật tự thế giới mới, một số nước lớn thâu tóm hoạt động của các tổ chức, diễn đàn quốc tế, khu vực để lôi kéo, khống chế các nước khác vào vòng kiềm tỏa của mình. Trong một số trường hợp cụ thể, có những nước bất chấp luật pháp quốc tế, trắng trợn xâm phạm chủ quyền, can thiệp sâu vào nội bộ các nước khác bằng các biện pháp tổng hợp nhằm thay đổi bộ máy chính quyền hoặc lật đổ chế độ chính trị nước khác theo hướng có lợi cho mình. Với chủ thể được mở rộng, lực lượng tiến hành sẽ là “đại quân công chúng” ngay trong nội bộ đối phương. Trước kia, khi thực hiện “diễn biến hòa bình”, những kẻ chủ mưu, thù địch, hiếu chiến bên ngoài trực tiếp tiến hành chống phá. Nay, họ chuyển sang hành động “sau bức màn che”, “bí mật giật dây”, tập trung “nhồi nhét” tư tưởng chống đối, đào tạo, huấn luyện những kẻ “theo đóm ăn tàn”, nội gián, tay sai một cách khá bài bản, trở thành những “kỹ sư lành nghề” lật đổ chế độ chính trị ngay trong nội bộ đối phương. Từ đó, họ ngụy biện rằng, nguyên nhân sụp đổ chế độ chính trị do sự tự thân vận động bên trong chứ không phải do sự chống phá từ bên ngoài (?!). Họ móc nối với những đối tượng cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất nhen nhóm thành các tổ chức chính trị đối lập hoạt động công khai, được “ngụy trang” dưới danh nghĩa các hội, đoàn, tổ chức xã hội dân sự... và rêu rao đó là “đại diện của người dân”; tập hợp các phần tử phản động, lưu manh, bất mãn đội lốt các chức sắc, chức việc, già làng, trưởng nhóm, trưởng hội... chỉ chờ cơ hội là “ngóc đầu”, “lột xác”; mua chuộc, lừa gạt, ép buộc quần chúng nhẹ dạ tham gia làm bình phong, lá chắn. Lực lượng này khi bị lôi kéo, kích động hợp thành “đại quân công chúng” tại chỗ, luôn chịu sự chỉ đạo của các “chuyên gia chống cộng” bên ngoài và đương nhiên đó hoàn toàn không phải là quần chúng theo đúng nghĩa là lực lượng cách mạng. Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, nhất là trong trường hợp số đông quần chúng nhân dân bị mê hoặc, tin theo lời hứa hão huyền bằng các khẩu hiệu lòe bịp, bị “sập bẫy” giương sẵn của các trung tâm quyền lực, các tổ chức phản động quốc tế luôn rắp tâm “đục nước béo cò”, tạo cớ can thiệp, chống phá.

Thứ hai, đối tượng chống phá của chiến lược “diễn biến hòa bình” được mở rộng và phương thức tiến hành đã có sự chuyển đổi. “Diễn biến hòa bình” trong tình hình mới không những nhằm vào các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa, mà còn chuyển sang chống phá các nước có chế độ chính trị mà chủ thể tiến hành cho là không phù hợp với lợi ích, giá trị, “khuôn mẫu” của họ. Đó là những nước độc lập, có chủ quyền nhưng “cứng đầu”, “không cùng quỹ đạo”, không tuân theo sự chỉ huy, chỉ đạo của họ, không có lợi cho họ trong giải quyết các vấn đề quốc tế. Đặc biệt, trọng tâm chống phá của chiến lược “diễn biến hòa bình” hiện nay là các nước có vị trí địa chính trị - kinh tế - quân sự chiến lược quan trọng, phức tạp, nhạy cảm hoặc ở những khu vực hội tụ sự cạnh tranh chiến lược, tranh chấp gay gắt về lợi ích, chủ quyền trên thế giới. Tính đa dạng, phức tạp, đan xen không đồng nhất giữa chủ thể và đối tượng được thể hiện trong mối quan hệ này, phạm vi này là chủ thể tiến hành, nhưng có thể trong mối quan hệ khác, phạm vi khác, chủ thể đó lại là đối tượng chống phá.

Phương thức chống phá của chiến lược “diễn biến hòa bình” đã chuyển trọng tâm từ bên ngoài tác động vào bên trong sang tiến hành các hoạt động chống đối tại chỗ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ đối phương. Nếu như những năm qua, “diễn biến hòa bình” coi trọng “dính líu để khuếch trương”, “can dự để mở rộng”, trực tiếp tiếp xúc để thẩm thấu các hành động chống phá từ bên ngoài vào bên trong nước khác thông qua thủ đoạn đặc trưng như “xóa bỏ cấm vận”, xúc tiến “bình thường hóa quan hệ”... thì nay đã chuyển sang tìm mọi cách khai thác và khoét sâu mâu thuẫn nội tại; triệt để lợi dụng những sơ hở, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành xã hội của các nước để chống phá. Như đã thành quy luật, mỗi khi ở các nước là đối tượng chống phá diễn ra các sự kiện chính trị trọng đại, xuất hiện các “điểm nóng”, các vấn đề xã hội phức tạp, nhạy cảm... thì đó là “cơ hội vàng” để các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”. Họ sử dụng chính lực lượng, phương tiện của đối phương; kết hợp công khai với bí mật; thực hiện đánh ngầm, mềm, sâu, hiểm, tiến công toàn diện, có trọng điểm; thường núp dưới danh nghĩa “hiến kế”, “chống tham nhũng”, “góp ý kiến xây dựng”... để lũng đoạn đối phương. Trong đó, lĩnh vực chính trị, tư tưởng được họ xác định là khâu trọng tâm, đột phá; kinh tế là mũi nhọn; dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền là “ngòi nổ”; ngoại giao để hỗ trợ; quân sự để răn đe, hậu thuẫn. Trong quá trình thực hiện, khi có điều kiện, thời cơ và cần thiết sẽ kết hợp với bạo loạn lật đổ, gây xung đột, nội chiến, can thiệp vũ trang, chiến tranh ủy nhiệm... để nhanh chóng đạt được mục tiêu chiến lược. Cách thức tiến hành rất công phu, bài bản để che đậy tính chất chính trị phản động, “ru ngủ” tinh thần cảnh giác cách mạng, làm cho đối phương mơ hồ, mất cảnh giác; mưu toan từng bước tạo sự suy thoái về tư tưởng chính trị, mục ruỗng về bộ máy, xuất hiện các mầm mống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở từng cá nhân, trong nội bộ các tổ chức và toàn xã hội và cuối cùng là sự sụp đổ chế độ chính trị giống như sự vận động “tự thân”, “tất yếu”, “hợp quy luật”.

Thứ ba, mục tiêu và động cơ chính trị của chiến lược “diễn biến hòa bình” đã có sự dịch chuyển và mở rộng hơn. Mặc dù mục tiêu cao nhất, suy đến cùng của chiến lược “diễn biến hòa bình” là lật đổ chế độ chính trị xã hội của các nước “không cùng quỹ đạo”, nhưng hiện nay, do sự tác động của các mối quan hệ quốc tế phức tạp, đa tầng nấc, nhiều cấp độ giữa các nước, các tổ chức, sự chế ước của các quy tắc, chế định quốc tế, khu vực; khi chưa lật đổ được chế độ chính trị thì “diễn biến hòa bình” sẽ nhằm đến mục tiêu thấp hơn là thay đổi đường lối, chính sách; cài cắm lực lượng thân cận vào bộ máy cầm quyền; làm phức tạp hóa thành phần lãnh đạo; thay đổi tính chất quốc gia, dân tộc khác theo hướng phục vụ lợi ích của chủ thể tiến hành. Trong đó, thay đổi bộ máy cầm quyền nước khác là mục tiêu trọng yếu hiện nay và để làm được điều này, chiến lược “diễn biến hòa bình” đã có những điều chỉnh mới gắn với “công nghệ lật đổ” cực kỳ tinh vi, phản động.

Từ sự ra đời của học thuyết chính trị “phản kháng phi bạo lực” (phản kháng hòa bình)(3), ngay lập tức, các “nhà dân chủ”, “nhà tiến bộ xã hội” phương Tây coi đó là “bảo bối thần kỳ”, “công cụ hữu hiệu” để lật đổ chính quyền ở nhiều quốc gia trong không gian hậu Xô-viết thông qua cái gọi là “cách mạng sắc màu” vào những năm 2004 - 2006; sau đó thay đổi chính thể của hàng loạt quốc gia ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi vào năm 2011 với cái tên mĩ miều “Mùa xuân Ả rập”. Đó không có gì khác là bạo loạn phi vũ trang bắt nguồn từ “diễn biến hòa bình”, là “kỹ năng lật đổ” thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh - một “dị bản” của việc kết hợp “diễn biến hòa bình” với bạo loạn lật đổ. Và hiện nay, “dị bản” ấy tiếp tục được “hoàn thiện”, phát triển thành một kịch bản dựng sẵn với “công thức” lật đổ qua các bước: Một là, hình thành các hoạt động “phản kháng mềm” trong nội bộ đối phương do sự cộng hưởng theo các phương tiện truyền thông; kích động tâm lý đám đông, tổ chức người dân tụ tập, tuần hành, biểu tình, “bất tuân dân sự”, đi ngược lại chính sách hiện hành, chống đối chính phủ, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo ra các “điểm nóng”, bất ổn. Hai là, nội công ngoại kích, bên trong thì biểu tình, bạo động; bên ngoài thì tập hợp đồng minh, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ... đồng loạt gây sức ép trên tất cả các lĩnh vực buộc chính quyền đương thời phải từ chức, giải tán. Ba là, tạo cớ để can thiệp, tiến hành bạo loạn trực tiếp lật đổ chính quyền nhưng núp dưới danh nghĩa “bảo vệ người dân”, “đấu tranh vì tự do, dân chủ”, “vì công lý”... Bốn là, cài cắm lực lượng đối lập, nhanh chóng tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân, bầu cử; công khai ủng hộ, công nhận chính quyền mới của lực lượng đối lập chịu sự kiểm soát của họ. Điểm mấu chốt trong kịch bản này là họ cố tình “bới móc”, lôi ra điểm yếu trong bộ máy cầm quyền của đối phương; thậm chí không ngần ngại thêm thắt, bịa đặt các khuyết điểm; sẵn sàng gán tất cả những sai trái, tiêu cực trong xã hội; châm ngòi cho làn sóng chống đối trong nước và làm cho bộ máy ấy dường như đã biến chất, “lỗi thời, không phù hợp”, do đó sẽ bị thay thế và đó là “lẽ thường tình” theo đúng quy luật(?!). Cho nên, một bộ máy cầm quyền thân cận do họ dựng lên nhưng lại được “hợp pháp hóa” thông qua một cuộc bầu cử theo luật định vô cùng tinh vi và họ luôn tự hào coi đây là sản phẩm sáng tạo của “công nghệ lật đổ” thông qua biểu tình, đảo chính bằng mô hình “bạo lực đường phố”. Theo đó, có tới “198 hành động phản kháng phi bạo lực”(4), nhưng trong đó bao hàm cả các hành động vô nhân đạo, bị pháp luật nhiều nước nghiêm cấm như làm tiền giả, in sao tài liệu giả, cướp bóc, ám sát, khủng bố... chứ không hoàn toàn phi bạo lực và không loại trừ sau đó sẽ lan rộng, bùng phát thành một kiểu dạng “chiến tranh lai ghép”(5) mới.

Nhận thức rõ về chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trong giai đoạn hiện nay

 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục điều chỉnh chiến lược “diễn biến hòa bình” trên nhiều phương diện ngày càng tinh vi hơn. Nhận diện đúng và vạch trần bộ mặt mới của chiến lược này có ý nghĩa định hướng chiến lược trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở nước ta hiện nay

  “Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. “Diễn biến hòa bình” có nhiều cách gọi khác nhau, đó là “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”, “chiến thắng không cần chiến tranh”, “chiến tranh không có tiếng súng”, v.v.

Nội dung cơ bản của chiến lược “Diễn biến hoà bình” là dùng mọi cách tác động vào các nước xã hội chủ nghĩa, làm xuất hiện các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản bên trong. Ủng hộ, giúp đỡ, nuôi dưỡng những nhân tố xa lạ và chống đối ngày càng lớn mạnh dẫn đến các nước bị tác động tự diễn biến, tự chuyển hoá thành chủ nghĩa tư bản. Đó là sự tiến công nhằm làm cho chủ nghĩa xã hội suy yếu, mất dần bản chất của mình để rồi bị hoà tan trong thế giới tư bản.

 Các thế lực thù địch dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện “diễn biến hoà bình”, nhưng nhìn chung tập trung vào các hướng cơ bản sau:

      Thứ nhất,  Dùng hệ thống truyền thông, tin học toàn cầu tác động liên tục, bền bỉ vào các nước xã hội chủ nghĩa, xuyên tạc hệ tư tưởng, phủ nhận những thành tựu, cường điệu những khuyến điểm, tuyên truyền những giá trị của chủ nghĩa tư bản. Từ đó, đầu độc về tư tưởng, làm đảo lộn nhiều tư duy, khái niệm làm chuyển hoá dần tư tưởng của nhân dân nhất là giới trẻ và cả tư tưởng của một bộ phận lãnh đạo.

Thứ hai,  Xây dựng, tiếp tay cho các lực lượng phản động, liên lạc với bọn phản động đội lốt tôn giáo, dân tộc…những phần tử bất mãn, đầu cơ chính trị, cài cắm gián điệp, nội gián…để hình thành lực lượng chống đối từ bên trong.

Thứ ba, Dùng đầu tư, viện trợ kinh tế và sử dụng ưu thế về khoa học và công nghệ tiến hành thay đổi nền kinh tế, gây sức ép đẩy nhanh quá trình tự do hoá, tư nhân hoá kinh tế, thông qua kinh tế để chuyển hoá chính trị. Dùng hệ thống tài chính, tiền tệ mạnh xâm nhập vào trong nước, làm công cụ khống chế, cải tổ hệ thống tài chính tiền tệ theo hướng tư bản chủ nghĩa

Thứ tư, Tác động trực tiếp vào lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa, ủng hộ những con người cụ thể, có khả năng hợp tác với phương Tây. Trên hướng này, chủ nghĩa đế quốc lợi dụng triệt để những mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo các nước, phân hoá, cô lập những người tốt, khuyến khích, ủng hộ những người có quan điểm hữu khuynh, có xu hướng cấp tiến, theo hướng dân chủ đa nguyên chính trị và kinh tế thị trường dựa trên cơ sở tư nhân hoá.

Tóm lại, chiến lược “diễn biến hoà bình”  là sử dụng tổng hợp các biện pháp tư tưởng, tổ chức, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao và hoạt động ngầm để tấn công chủ nghĩa xã hội trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa. Các biện pháp tư tưởng, kinh tế, ngoại giao, được đặc biệt coi trọng như là công cụ để “mở  cửa" đi vào trong nước, kích động các nhân tố bên trong nổi dậy thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Đây là những thủ đoạn vô cùng xảo quyệt và hết sức nguy hiểm của các thế lực thù địch hiện nay. Nếu các nước xã hội chủ nghĩa lơ là cảnh giác và không đánh bại âm mưu và hoạt động của chúng thì có khả năng tan rã Đảng Cộng sản, làm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đối với Việt Nam chúng ta, trong những năm qua các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách  thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch đặc biệt coi trọng việc chống phá nền tảng tư tưởng, coi đó là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh các biểu hiện chủ yếu như: tuyên truyền xuyên tạc nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đẩy mạnh hoạt động xuyên tạc lịch sử; thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và công an…

Đáng chú ý, trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch tích cực đẩy mạnh thực hiện một số thủ đoạn chống phá mới, đó là: Tìm cách đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chúng đưa ra những luận điệu lập lờ, lẫn lộn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đến đảng viên và nhân dân. Khuyến khích những quan điểm lệch lạc và những khuynh hướng xã hội “dân chủ” kiểu Mỹ và phương Tây hòng làm cho người dân thấy hoài nghi về “xã hội Việt Nam” và mơ tưởng về một “xã hội khác” được cổ xúy là tốt đẹp hơn.

Các thế lực thù địch điều chỉnh thủ đoạn chống phá, bằng cách ngoài việc công kích trực diện vào nền tảng tư tưởng, chúng tuyên truyền kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ. Với mưu đồ chính trị nhằm chia rẽ nội bộ, làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, chúng ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng công tác đấu tranh chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay để xuyên tạc là thanh trừng nội bộ. Chúng còn thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây tâm lý hoang mang, tạo sự bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây mất an ninh, trật tự...

Chúng còn sử dụng nhiều cách thức tác động tinh vi, xảo quyệt đối với từng đối tượng cụ thể, trong đó đối với các tầng lớp nhân dân, chúng lợi dụng việc tiếp cận thông tin còn hạn chế, đưa những thông tin sai lệch, nhằm tạo khoảng trống trong tư tưởng nhân dân, làm cho nhân dân hoài nghi, mất niềm tin với chế độ, Đảng và nhà nước, từ đó chúng kích động các hoạt động gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Âm mưu, thủ đoạn của chúng còn xuyên tạc, bóp méo các sự kiện chính trị, các vụ việc phức tạp, nhạy cảm. Lợi dụng các sự kiện chính trị quan trọng liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác cứu trợ bão lụt, công tác phòng chống covid-19, lợi dụng tung tin thất thiệt trên các trang mạng xã hội gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp.

Những biểu hiện trên đây không hoàn toàn là những thủ đoạn mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhưng về cơ bản đó là những dấu hiệu đặc trưng, nổi bật nhất, thể hiện tính chất tinh vi, xảo quyệt và sự nguy hiểm, thâm độc của nó đã và đang không ngừng tăng lên. Hiện nay, các thế lực thù địch thường xuyên thay đổi các chiến lược. Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, bình tĩnh xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này.

Cuộc đấu tranh này được Đảng và nhà nước ta xác định là vẫn còn tiếp tục, lâu dài. Vì thế, chúng ta cần đề cao cảnh giác, chủ động tấn công, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng, phản bác một cách mạnh mẽ, quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ hình thức nào.  Điều quan trọng là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là với thế hệ trẻ để chính họ là những chủ thể mạnh mẽ, vững chắc làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch.
      Để nhận thức rõ và đập tan âm mưu 
về chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau:

 Thứ nhất, cần xác định công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, phải được triển khai tích cực, thường xuyên và lâu dài. Phát huy vai trò của cấp uỷ, chính quyền các cấp nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững lập trường tư tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên.

 Thứ hai, Tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và Nhân dân nâng cao cảnh giác, tạo sức đề kháng trước những thông tin, quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, thường xuyên chỉ đạo, định hướng công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là giáo dục thế hệ trẻ nhận thức rõ về con đường mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân ta đã chọn là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Thứ ba, tiếp tục triển khai và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đến từng cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến địa phương, tuyên tuyền sâu rộng vào trong nhân

Thứ tư, thường xuyên mở các lớp Đào tạo, Bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên nhất là những cán bộ, đảng viên trẻ, để họ nắm bắt kịp thời, chính xác quan điểm, chủ trương của Đảng.

Thứ năm, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng để mỗi người dân làm một pháo đài vững chắc để đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch.

Thứ sáu, có cơ chế chính sách tuyên dương những cán bộ, đảng viên thực hiện tốt công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, lan toả những việc làm hay, thiết thực có ý nghĩa đối với đất nước, đối với nhân dân.  

Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay

 

Cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới

Luôn luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữa vững ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong giai đoạn mới.

Tích cực tham gia, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang lao động sản xuất trong giai 

Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang trong giai đoạn hiện nay Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị là vấn đề rất cơ bản, làm cơ sở tạo ra sức mạnh của lực lượng vũ trang. Chỉ có giác ngộ chính trị cao, lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng thì lực lượng vũ trang mới kiên định với mục tiêu lý tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao

Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh chính trị, tư tưởng, tinh thần, làm cơ sở tạo thành sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang. Lập trường, bản lĩnh chính trị còn là cơ sở để cán bộ, chiến sĩ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là điều kiện cơ bản để cán bộ, chiến sĩ nhận thức, xem xét và giải quyết đúng đắn các sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã hội; nhận thức đúng kẻ thù, không mơ hồ ảo tưởng, lẫn lộn bạn – thù, địch – ta; có thái độ kiên quyết, đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái xấu, cái sai.

Lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang còn là một trong những điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị, làm cho lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân

Nội dung nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang bao gồm:  Nâng cao nhân thức, giác ngộ cho cán bô, chiến sĩ về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kiên định, không giao động, hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; xây dựng ý chí, động cơ, quyết tâm thực hiện mục tiêu lý tưởng; đấu tranh với những quan điểm sai trái, hiện tượng hòai nghi, dao động về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Nghiên cứu, học tập, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tưởng của Đảng giữ vai trò chủ đạo chi phối, định hướng nhận thức và hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí minh, bổ sung, hoàn thiện đường lối. đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các trào lưu tư tưởng tư sản, phản động, những quan điểm, hiện tượng sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thường xuyên quán triệt, phổ biến tình hình, nhiệm vụ cách mạng nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, của từng đơn vị. Làm cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang luôn thấu triệt nhiệm vụ, nắm vững tình hình mọi mặt, có động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Giáo dục âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, xây dựng ý thức cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ.

Thường xuyên giáo dục truyền thống, lịch sử vẻ vang của dân tộc, của Đảng, của quân đội, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu Đảng, yêu chế độ, yêu nhân dân. Xây dựng tình cảm, trách nhiệm giữ gìn và phát huy truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc và quân đội.

Bồi dưỡng, xây dựng, hình thành ở cán bộ, chiến sĩ thế giới quan khoa học và cách mạng, có quan điểm và phương pháp xem xét, giải quyết các sự kiện, hiện tượng một cách đúng đắn, có lập trương, bản lĩnh chính trị vững vàng, có thái độ kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái mới, cái tiến bộ, phê phán cái xấu, cái sai, cái tiêu cực, lạc hậu

Đấu tranh khắc phục, ngăn chặn những hiện tượng thoái hoá, biến chất về chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu kiên định, thiếu nhạy cảm về chính trị, “dĩ hoà vĩ quý” “ gió chiều nào che chiều ấy”, cơ hội, thủ đoạn về chính trị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh… mới.


THÍCH TUỆ SỸ CHẾT, TỔ CHỨC KHỦNG BỐ VIỆT TÂN KHÓC NHƯ MƯA CŨNG ĐÚNG THÔI!

 THÍCH TUỆ SỸ CHẾT, TỔ CHỨC KHỦNG BỐ VIỆT TÂN KHÓC NHƯ MƯA CŨNG ĐÚNG THÔI!

Thích Tuệ Sỹ (tên thật là Phạm Văn Thương) là thành viên chủ chốt của Nhóm Hội đồng liên tôn Việt Nam liên kết một số tăng sư trong và ngoài nước có tư tưởng và chủ trương bài trừ Cộng sản.
Tuệ Sỹ là một tu pháp đạo Phật nhưng theo và ủng hộ chế độ ngụy quyền Sài Gòn, chống cộng khét tiếng thời Mỹ xâm lược Việt Nam.
Sau ngày miền Nam giải phóng, vì tiếp tục có nhiều hành vi tuyên truyền, liên kết với đám tàn quân ngụy chống phá chính quyền nên năm 1978 buộc phải đưa đi học tập cải tạo đến năm 1981 thì được trả tự do.
Tuy nhiên người đời thường nói "con báo không thể thay đổi các đốm của nó", "Thích phản động" chứ không "Thích Tuệ Sỹ" như cái tên ông ta đặt cho mình. Ông ta tiếp tục cấu kết với nhiều đối tượng nấp dưới vỏ bọc thầy tu cả Phật giáo và Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, các tà đạo, đạo không chính thống... có tư tưởng cực đoan hoạt động chống phá chính quyền, bị bắt và đưa ra xét xử tử hình nhưng sau đó nhận được sự khoan hồng nhân đạo của Pháp luật, chỉ cải tạo giam giữ đến năm 1988 tiếp tục được trả tự do.
Chính vì có bề dày chống phá nên luôn được Việt Tân và các thế lực thù địch nước ngoài cổ súy, tôn vinh. Ông ta từng được Tổ chức Theo dõi Nhân quyền - một tổ chức thù địch có sự kết nối với CIA nấp dưới vỏ bọc Nhân quyền chống Nhà nước Việt Nam đã trao giải thưởng Hellman năm 1998. Tổ chức Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam lưu vong trao giải Nhân quyền Việt Nam năm 2005...
Chiều ngày 24/11/ 2023, Thích Tuệ Sỹ ngừng thở tại chùa Phật Ân, tỉnh Đồng Nai sau thời gian lâm bệnh.
Mặc dù có bề dày chống phá hết sức ngông cuồng nhưng chính quyền vẫn luôn thể hiện tinh thần nhân đạo của Nhà nước Việt Nam, quan tâm tạo mọi điều kiện cho tu hành và chữa bệnh, thăm hỏi, động viên cho đến khi chết.
Thích Tuệ Sỹ chết, Tôi sợ rằng báo chí cách mạng nước ta khóc thương ông ta mới là điều khó hiểu nhưng đám Việt Tân khóc như mưa cũng đúng thôi, vì chính chúng đã mất đi một chân tay chống phá cộm cán, làm suy yếu thêm lực lượng phản động trong nước và không thể lợi dụng ông ta để ôm thùng đi lừa gạt kiều bào chuyển về làm thù lao chống phá trong nước.
Tôi mong bọn Tân ba que này khóc quanh năm cho tội lỗi một vị sư đi ngược dòng dân tộc có thời gian sám hối ở suối vàng!
_ Phật tử Phó Thường Dân_
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'Việt Tân Hôm qua lúc 23:12 VIỆT TÂN KÍNH TIỄN BIỆT ĐẠI LÃO HOÀ THƯƠNG THÍCH TUÊ Đại lão Hòa thu thương Thích Tuệ Sỹ, một giáo phẩm uyên bác đã viên tich chiều ngày 24 háng Mười Một, 2023 (12-10-Quý Mão), tại chùa Phật Ân (tỉnh Đồng Nai), thọ 80 tuổi.... Xen thêm (1943-2023)'
Tất cả cảm xúc:
11

VUN ĐẮP TÌNH HỮU NGHỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM - TRIỀU TIÊN

 

Những ngày này 65 năm trước, Chủ tịch Triều Tiên Kim Nhật Thành lần đầu thăm Việt Nam. Quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam-Triều Tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kim Nhật Thành đặt nền móng từ giữa thế kỷ 20 và các thế hệ lãnh đạo, nhân dân hai nước không ngừng vun đắp.
Việt Nam và Triều Tiên có mối giao lưu lịch sử và văn hóa lâu đời. Nhân dân hai nước đã ủng hộ, tương trợ lẫn nhau trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển của mỗi nước. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là một trong những quốc gia đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (tháng 1/1950). Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Triều Tiên tháng 7/1957. Chủ tịch Kim Nhật Thành thăm Việt Nam hai lần, lần đầu từ ngày 28/11 đến 2/12/1958, lần hai vào tháng 11/1964. Triều Tiên từng giúp đỡ Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh ác liệt nhất, trong đó có viện trợ máy móc, thiết bị và giúp đào tạo miễn phí hàng nghìn sinh viên Việt Nam.
Qua hơn 73 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam và Triều Tiên đã gặt hái nhiều thành tựu trong các lĩnh vực hợp tác và ký nhiều hiệp định quan trọng về thương mại, văn hóa, y tế, khoa học kỹ thuật... Giao lưu nhân dân cũng là điểm sáng trong quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Triều Tiên. Nhân dân Việt Nam đã hỗ trợ gạo giúp nhân dân Triều Tiên trong giai đoạn khó khăn. Hai nước thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực giáo dục. Từ năm 2013, hai năm một lần, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đều cử đoàn nghệ thuật dự Liên hoan nghệ thuật mùa xuân tháng 4 tổ chức tại Bình Nhưỡng.
Cuối tháng 2 và đầu tháng 3/2019, Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un đã dự Hội nghị cấp cao Hoa Kỳ-Triều Tiên tổ chức tại Hà Nội và thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Đây là dấu mốc rất quan trọng trong lịch sử quan hệ giữa hai Đảng, hai nước; khẳng định hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước luôn coi trọng và mong muốn củng cố, phát triển mạnh mẽ quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam-Triều Tiên phù hợp lợi ích của nhân dân hai nước, góp phần vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Tại cuộc tiếp Nhà lãnh đạo Triều Tiên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chúc mừng về những thành tựu to lớn mà nhân dân Triều Tiên đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Triều Tiên, nhân dân Triều Tiên tiếp tục đạt được nhiều thành tựu mới, to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước và nâng cao đời sống nhân dân.
Nhà lãnh đạo Kim Jong Un chúc mừng về những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế của nhân dân Việt Nam; khẳng định lập trường nhất quán của Đảng, Nhà nước Triều Tiên coi trọng và mong muốn tiếp tục củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Kim Nhật Thành và các vị lãnh đạo tiền bối của hai Đảng, hai nước xây dựng và vun đắp.
Hai bên nhất trí duy trì tăng cường các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao; mở rộng giao lưu, trao đổi đoàn các cấp theo kênh Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân thiết thực, hiệu quả nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và chia sẻ kinh nghiệm trên các lĩnh vực mà hai bên có nhu cầu; duy trì thường xuyên và hiệu quả các cơ chế đối thoại và hợp tác; mở rộng giao lưu và hợp tác văn hóa, nghệ thuật, thể thao và giao lưu nhân dân…
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước tin tưởng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước có truyền thống và lịch sử lâu đời sẽ ngày càng bền vững, không ngừng được củng cố và phát triển, tiếp tục đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, phù hợp lợi ích của nhân dân hai nước, góp phần vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới./.
Theo Báo Nhân dân

Sự phát triển của đất nước trong tiến trình đổi mới, đẩy mạnh cong nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra những vấn đè mới đối với xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.

 

Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đời sống xã hội những nhân tố kinh tế, chính trị xã hội, giai cấp, tư tưởng đang biến đổi và tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trên các mặt chủ yếu sau đây:

Sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị Sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của đất nước đã tác động tích cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang: lòng tin vào Đảng, vào chế độ được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, làm tăng thêm sức mạnh chính trị – tinh thần của lực lượng vũ trang . Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tích cực, thì mặt trái của nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới, tác động không nhỏ đến lực lượng vũ trang như: ý thức giác ngộ chính trị; nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự thoái hoá biến chất, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Vì vậy, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là vấn đề cốt tử trong xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.

Sự tác động của những biến đổi về cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta hiện nay đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Trong quá trình vận động, biến đổi, các giai cấp và tầng  lớp xã hội có xu hướng xích lại gần nhau, liên kết, hợp tác với nhau, trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Mặt khác với cơ cấu xã hội – giai cấp không thuần nhất, phát triển đa dạng, đan xen, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự không thuần nhất về chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng khác nhau thậm chí đối lập nhau sẽ tác động đến quá trình xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.

Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay phải giải quyết mâu thuẫn giữa việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang với thành phần tham gia lực lượng vũ trang từ các giai cấp, tầng lớp khác nhau của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Hiện nay cùng với những tàn dư của tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản là hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa chống cộng và chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, xét lại đang tấn công toàn diện và mạnh mẽ vào bản chất cách mạng của quân đội ta.

Bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch coi trọng chống phá ta về chính trị, tư tưởng và văn hoá, chúng tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng “về sự phá sản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, rêu rao luận điệu “ Phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang làm tha hoá về tư tưởng, đạo đức, lối sóng của cán bộ, chiến sĩ ta, làm cho lực lượng vũ trang biến chất về chính trị. Đây  là cuộc chiến tranh không có khói lửa, không có tiếng súng, không dễ dàng nhận rõ mặt kẻ thù như trong chiến tranh vũ trang trước đây, chúng ta không chỉ chống lại chiến lược “Diễn biến hoà bình” mà còn chống lại cả nguy cơ “Tự diễn biến” từ bên trong. Trong những điều kiện đó việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tư tưởng đó trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang, là một nội dung rất cơ bản, có tính chất quyết định đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị. TB


TỰ SOI, TỰ SỬA ĐỂ NÊU GƯƠNG

 TỰ SOI, TỰ SỬA ĐỂ NÊU GƯƠNG

1. Trong thực tế, có không ít cán bộ khi chưa bị phát hiện sai phạm thì hùng hồn rao giảng: Cán bộ, đảng viên, công chức phải làm việc vì dân; phải tuân thủ các giá trị đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ; phải ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh... Thế nhưng, sau đó không lâu, những cán bộ này bị “sờ gáy” với nhiều sai phạm.
Tại kỳ họp ngày 8-9 vừa qua, Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã xem xét, thi hành kỷ luật Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Lê Đức Thọ và nguyên Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hà Nam Phạm Gia Luật. Trong đó, Bộ Chính trị quyết định thống nhất đề nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng xem xét, thi hành kỷ luật đối với ông Lê Đức Thọ; Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật Khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Phạm Gia Luật. Đây là 2 trong nhiều trường hợp bị xem xét, thi hành kỷ luật thời gian qua, bởi vi phạm của họ gây hậu quả rất nghiêm trọng, khiến dư luận bức xúc, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước nhưng căn bản nhất vẫn là sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên, sinh ra những thói hư tật xấu, thiếu gương mẫu...
Nhìn vào “gương tày liếp” để rút ra bài học cho bản thân là việc cần làm của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần thường xuyên tự soi, tự sửa, liên hệ bản thân với nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để kịp thời có giải pháp khắc phục. Thực hiện nghiêm các nghị quyết của Trung ương về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, coi đây là một trong những công việc trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
2. Vì sao cán bộ, đảng viên phải tự soi, tự sửa, tự rèn luyện, tu dưỡng, điều chỉnh, vượt lên chính mình? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt...”. Nguy hiểm nhất là tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, đến nhân dân. Đảng viên hư hỏng sẽ đưa quần chúng đến hư hỏng. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải tự soi, tự sửa, tự thực hành cần, kiệm, liêm chính để làm mẫu cho dân.
Tự soi, tự sửa được hiểu là tự mình nhìn vào chính mình, tự mình đánh giá, nhận xét về mình trong cả nhận thức và hành động nhằm phát hiện sai phạm, yếu kém của bản thân, từ đó tìm ra nguyên nhân, giải pháp để ngăn ngừa, khắc phục, sửa chữa; là tự mình chẩn bệnh, bốc thuốc cứu mình. Khi đã nói tự soi, tự sửa là muốn nói đến sự tự nguyện, tự giác, sự dũng cảm, cầu thị đối với những hạn chế, khuyết điểm, với những thói hư, tật xấu... của “cái tôi”. Đây được coi là công việc đầy cam go, khó khăn, nhiều thử thách, bởi vì tự ái, vì thói quen, hoặc vì nhiều nguyên nhân khác. Đó cũng có thể vì sợ mất thể diện, mất uy tín mà không dám “vạch áo cho người xem lưng”, bởi không dám, sợ mang tiếng là “lấy tay mình vả vào mặt mình”. Đó chính là cuộc cách mạng diễn ra trong chính bản thân mình, là cuộc đấu tranh giữa mặt tốt và mặt xấu trong mỗi con người, là thử thách đối với bản lĩnh của mỗi người khi đứng giữa tình cảm và lý trí, giữa sự cầu thị và tính bảo thủ, giữa danh dự, lý tưởng cách mạng và lợi ích bản thân, người nhà; là thử thách thực sự đòi hỏi mỗi người muốn tiến bộ phải thật thà, trung thực, có quyết tâm cao, dũng khí lớn để vượt qua chính mình.
Có thể khẳng định rằng, tự soi, tự sửa chính là để bảo vệ “danh dự của bản thân”, “uy tín của tập thể”. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói, đối với cán bộ, đảng viên, thì “danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất”. Danh dự là một trong những phẩm chất cao quý của mỗi người, không chỉ được xã hội công nhận mà còn được pháp luật công nhận và bảo vệ. Danh dự, uy tín con người không thể đo đếm hay mua bằng vật chất, không bỗng dưng hoặc trong một chốc, một lát có được, mà phải trải qua quá trình tu dưỡng, rèn luyện dày công vun đắp; do mỗi con người tự xây đắp nên, không ai có thể làm thay, làm hộ được. Nó được thử thách qua thực tiễn cuộc sống hằng ngày của mỗi người. Người có danh dự, lòng tự trọng luôn ngay thẳng, cương trực, thấy sai thì đấu tranh, thấy đúng luôn bảo vệ, chứ không phải “ẩn mình” chỉ biết mình; không bao giờ tự kiêu, tự mãn với những gì đã làm được.
Chính vì lẽ đó, tự soi, tự sửa là việc làm góp phần bảo vệ, duy trì danh dự, uy tín mà mỗi cá nhân, tổ chức cần dày công gây dựng. Người thực hiện tốt tự soi, tự sửa sẽ luôn bảo vệ mình tránh khỏi những suy nghĩ, lời nói, hành động làm mất danh dự, uy tín của mình, luôn nhận được sự tin tưởng, coi trọng của người khác. Từ việc danh dự của mỗi cá nhân được bảo vệ thì uy tín của tập thể sẽ được bảo toàn.
Trong Di chúc, Bác Hồ căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Theo Người: “Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính”. Và cán bộ, đảng viên “không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”.
Thấm nhuần lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự soi xem mình đã “cần, kiệm, liêm, chính” chưa? Và phải luôn ghi nhớ, thực hiện. Đảng viên phải ghi tạc rằng, cùng với những điều đảng viên không được làm theo Quy định, Điều lệ Đảng, còn có nhiều điều đảng viên không được làm do lương tâm, đạo đức cắn rứt không cho phép làm; đạo lý dân tộc không cho phép làm. Đó mới là thiêng liêng, sâu xa, bền vững, tạo niềm tin vững chắc. Đảng viên, ngoài việc trung thành với Đảng còn phải trung thành với đất nước, với dân tộc và có trách nhiệm với chính bản thân mình.
BÌNH YÊN