Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2023

A TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TIÊN PHONG TRÊN MỌI TRẬN TUYẾN!

     Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, đảng viên cũng phải là người chiến sĩ đi đầu trên mọi mặt trận. Sứ mệnh đó đòi hỏi người đảng viên phải có nhiều phẩm chất hơn là chỉ “hiền lành, không làm gì hại ai”!

Là người đi trước để “làng nước theo sau”, trước hết đảng viên cần phải thấm nhuần quan điểm, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và không chần chừ, e ngại tiên phong trên mọi trận tuyến, nhất là những khâu khó, việc khó, đòi hỏi phải chịu đựng nhiều hy sinh, gian khổ.

Đảng viên dù là cán bộ có chức vụ hay là công nhân, người lao động, nông dân, chiến sĩ cũng cần có kiến thức, năng lực hành động, có chuyên môn giỏi để đi đầu trong lao động sản xuất, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong thời đại ngày nay, yêu cầu này càng phải cao hơn bởi khoa học, công nghệ đã đi sâu vào mọi ngõ ngách đời sống, gắn liền với mọi ngành nghề, lĩnh vực. Bác Hồ từng chỉ dạy: “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp gì được ai”.

Ở một trận tuyến khác cam go, khó khăn hơn đòi hỏi đảng viên phải có thêm cả dũng khí là đấu tranh với những thói xấu của chính mình và đồng chí của mình. 

Thời kỳ nào cũng vậy, trong mỗi con người đều tiềm ẩn "giặc nội xâm". Đó là tệ si mê quyền lực, vun vén lợi ích cá nhân, quan liêu, lạm quyền, vô trách nhiệm trước khó khăn của đồng bào, đồng chí, đồng đội... 

Để “đánh thắng kẻ địch bên trong của mỗi chúng ta”, người đảng viên phải dám nhìn thẳng vào sự thật, chống mọi biểu hiện của tư tưởng bảo thủ; dũng cảm nhận ra sai lầm, khuyết điểm; không che giấu hạn chế, luôn cầu thị sửa sai; mạnh dạn, thẳng thắn góp ý, phê bình, đấu tranh với các biểu hiện sai trái, lệch lạc của đồng chí, đồng đội, với cả cấp trên và cấp dưới trên tinh thần “giúp bạn là giúp mình”, góp phần diệt trừ thói hư, tật xấu.

Điều quyết định uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng nằm ở chất lượng đảng viên. Vì vậy, cần lựa chọn những quần chúng ưu tú, thực sự xứng đáng để kết nạp vào Đảng. Cùng với đó, Đảng cần kiên quyết đưa ra khỏi hàng ngũ những đảng viên đã mất đi nhiệt huyết, tính tiên phong, gương mẫu, ngại va chạm, thiếu dũng khí đấu tranh./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHỦ TỊCH NƯỚC VÕ VĂN THƯỞNG DỰ CHỈ ĐẠO HỘI NGHỊ QUÂN CHÍNH TOÀN QUÂN NĂM 2023!

Sáng 29-12, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị Quân chính toàn quân năm 2023. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng dự, chỉ đạo hội nghị!

Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì hội nghị. Dự hội nghị có Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam.

Các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Trần Văn Sơn, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; Lê Khánh Hải, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; Bùi Thanh Sơn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; Huỳnh Thành Đạt, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; Đặng Quốc Khánh, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; Hầu A Lềnh, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; Ngô Văn Tuấn, Tổng Kiểm toán Nhà nước; Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước…

Tham dự hội nghị có các đồng chí Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng; đại biểu lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương; thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam; chỉ huy các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Tại hội nghị, các đại biểu tập trung thảo luận, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng năm 2023; xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện nhiệm vụ năm 2024. Theo chương trình, hội nghị được tiến hành trong cả ngày hôm nay; trong đó phát biểu chỉ đạo của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng được tiến hành vào buổi sáng./.


Yêu nước ST!

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BẢO VỆ DI SẢN HỒ CHÍ MINH LÀ GÓP PHẦN BẢO VỆ "NỀN TẢNG VĂN HÓA TƯƠNG LAI" - HỒ CHÍ MINH KHAI SÁNG NHIỀU GIÁ TRỊ PHÙ HỢP VỚI SỨ MỆNH CỦA UNESCO !

“Những giá trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo đuổi suốt cuộc đời mình cũng rất gần với những giá trị mà UNESCO đã và đang thúc đẩy kể từ khi thành lập năm 1945 đến nay. Nhiều triết lý, tư tưởng, phương châm sống và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có giá trị với chúng ta ngày nay. UNESCO vui mừng nhận thấy các giá trị Hồ Chí Minh đã và đang tiếp tục được thúc đẩy không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nơi trên toàn thế giới”. Đó là chia sẻ của ông Michael Croft, Quyền Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc) tại Việt Nam!

Sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông - Tây trong một nhân cách lớn
Phóng viên (PV): Trong nghị quyết vinh danh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam” từ năm 1987, UNESCO khuyến nghị các nước thành viên triển khai các biện pháp thích hợp nhằm “làm cho mọi người hiểu rõ tầm vóc vĩ đại của những tư tưởng và những cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh”. Sự khuyến nghị đó mang ý nghĩa gì, thưa ông?

Ông Michael Croft: Tôi cảm thấy vinh dự và xúc động khi được trả lời về Chủ tịch Hồ Chí Minh, một con người không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là chính khách mang tầm vóc thời đại của nhân loại trong thế kỷ 20.

Chúng ta biết Đại hội đồng UNESCO năm 1987 đã thông qua một nghị quyết nhằm khuyến nghị các quốc gia thành viên cùng tham gia kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam (1890-1990). Tôi cho rằng, đây là một sự kiện rất có ý nghĩa, thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế, ở đây chính là sự ghi nhận của các quốc gia thành viên UNESCO, đối với vai trò của hệ tư tưởng và những cống hiến cho cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Những giá trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo đuổi suốt cuộc đời mình cũng rất gần với những giá trị mà UNESCO đã và đang thúc đẩy kể từ khi thành lập năm 1945 đến nay là xây dựng hòa bình thông qua hợp tác quốc tế. Ngày nay, hệ tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam. Vì vậy, sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế từ năm 1987 giúp khơi gợi thêm niềm tự hào của người dân Việt Nam về một nhân vật lịch sử đã có những đóng góp vĩ đại không chỉ cho đất nước mình mà còn cho nền hòa bình trên thế giới.

PV: Sinh thời, Hồ Chí Minh từng nói: “Quan sơn muôn dặm một nhà, vì trong bốn biển đều là anh em”. Điều này cũng phù hợp với tinh thần, ý nghĩa của Ngày Quốc tế Khoan dung 16-11-1995 mà UNESCO đã thông qua với sự đồng thuận của 185 quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam. Ông có thể nói rõ hơn về vấn đề này?

Ông Michael Croft: Đúng là như vậy, chúng ta nhìn thấy văn hóa khoan dung, lòng yêu thương sâu sắc đối với con người và thiên nhiên được thể hiện rõ ràng trong triết lý, trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Văn hóa khoan dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở nhận thức, tư duy, phương pháp cách mạng của ông. Trong hành trình cứu nước và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chọn lọc hầu hết các giá trị tư tưởng lớn của loài người từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây: Từ tư tưởng nhân nghĩa, đề cao sự tu dưỡng cá nhân của Nho giáo; sự từ bi, vị tha của Phật giáo; tư tưởng dân chủ, bình đẳng của phương Tây đến tư tưởng duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu giá trị tư tưởng tiến bộ trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1791.

Tôi cũng được biết, ngay từ những ngày đầu tiên ở cương vị lãnh đạo đất nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ, Việt Nam sẽ luôn thể hiện tinh thần hữu nghị, hợp tác với bất kỳ quốc gia nào coi Việt Nam là một quốc gia tự do và độc lập. Những ví dụ đó cho thấy, Hồ Chí Minh là một trong những chính khách đi tiên phong cổ vũ về giá trị tinh thần khoan dung, đối thoại văn hóa, tin tưởng vào những giá trị tốt đẹp của các dân tộc khác.

Chúng ta công nhận các quyền phổ quát của con người và các quyền tự do cơ bản của người khác. Chỉ có lòng khoan dung mới có thể bảo đảm sự tồn tại của những cộng đồng hỗn hợp ở mọi khu vực trên thế giới. Đây chính là giá trị mà Liên hợp quốc và UNESCO mong muốn thúc đẩy và lấy ngày 16-11 hằng năm để khuyến khích mọi quốc gia, dân tộc và mọi người cùng hưởng ứng Ngày Quốc tế Khoan dung.

Ngày nay, Việt Nam đã làm hết sức mình cho cộng đồng quốc tế thấy rằng: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điều này có nghĩa là văn hóa khoan dung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng vẫn được các thế hệ người Việt Nam phát huy hiệu quả.

PV: Việc UNESCO khẳng định: “Hồ Chí Minh là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc” chứa đựng thông điệp gì, thưa ông?

Ông Michael Croft: Khẳng định điều này bởi vì Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực của sự tiếp thu tinh hoa các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Bôn ba qua các đại dương và lục địa, từ phương Đông sang phương Tây, Chủ tịch Hồ Chí Minh hình thành một quan điểm độc đáo về tầm quan trọng của đối thoại liên văn hóa làm nền tảng cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc và là một công cụ ngoại giao quan trọng. Di sản Hồ Chí Minh trở thành "sức mạnh mềm" của văn hóa quốc gia.

Tôi được biết, tư duy Hồ Chí Minh rất cởi mở, thể hiện đối thoại văn hóa sâu sắc khi ông cho rằng: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại. Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”.

Những yếu tố cấu thành di sản văn hóa Hồ Chí Minh là sự chắt lọc, tổng hợp những tinh hoa văn hóa Việt Nam kết hợp với những tinh hoa nhân loại vì sứ mệnh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đây là một lý tưởng nhân văn cao cả, cần thiết cho Việt Nam, cho các nước và cho nhân loại.

PV: Từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra triết lý: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự tổ chức, đoàn thể, phục vụ Tổ quốc, dân tộc và nhân loại”. Gần nửa thế kỷ sau, năm 1996, UNESCO đưa ra 4 trụ cột là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tồn tại”. Đề nghị ông cho biết tầm nhìn văn hóa của Hồ Chí Minh về giáo dục và mối quan hệ của tầm nhìn đó với triết lý giáo dục mà UNESCO đã đưa ra?

Ông Michael Croft: Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của bất kỳ cá nhân, tổ chức, quốc gia, dân tộc nào. Chúng ta cũng thấy rõ Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà lãnh đạo của Việt Nam coi trọng giáo dục hơn cả, ngay khi ông đang lãnh đạo các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tôi đánh giá rất cao Chủ tịch Hồ Chí Minh ở điểm này, vì việc đề cao vai trò giáo dục của ông chính là hướng tới tương lai, bởi giáo dục là nền tảng của mọi công cuộc xây dựng và phát triển.

UNESCO đã xây dựng 4 trụ cột học tập để thúc đẩy giáo dục, trong đó, tôi muốn chú trọng vào 2 trụ cột là “học để làm” và “học để chung sống”. Các trụ cột này nhấn mạnh vào việc học nghề để nâng cao trình độ chuyên môn, gắn việc học với những yêu cầu tại môi trường làm việc để đáp ứng được những tình huống ngoài dự kiến trên tinh thần làm việc nhóm. Hơn nữa, học tập còn là để hiểu biết về nhau, về lịch sử, về truyền thống và tín ngưỡng của nhau để góp phần thúc đẩy một giá trị tiến bộ chung.

Tôi cho rằng, những trụ cột này của UNESCO tương đồng với phương châm học tập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khuyến khích người dân. Rõ ràng Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa của một nhà giáo dục lớn của thế giới.

Giá trị Hồ Chí Minh đã, đang lan tỏa ở nhiều nơi trên thế giới
PV: Cách đây tròn một thế kỷ, ngày 23-12-1923, nhà thơ, nhà báo Xô viết O.Mandelstam đã viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”. Ông bình luận gì về nhận định này?

Ông Michael Croft: Đây là điểm mà tôi đánh giá rất cao ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là luôn hướng về tương lai và ông đặt nền móng xây dựng tương lai ngay trong các hành động của mình thời bấy giờ. Chúng ta thấy rất nhiều triết lý, tư tưởng, phương châm sống và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay các giá trị mà ông đã kêu gọi cộng đồng chung tay xây dựng vẫn rất thiết thực và giá trị với chúng ta ngày nay. Đó là lý tưởng về hòa bình, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa nhân văn, tự do, dân chủ và công bằng xã hội. Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng tôi tin rằng, nhân dân Việt Nam và các dân tộc trên thế giới sẽ nhớ mãi về những lý tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

PV: Theo góc nhìn của UNESCO, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp, cống hiến gì cho văn hóa nhân loại?

Ông Michael Croft: Tham dự và phát biểu tại lễ kỷ niệm 35 năm Ngày UNESCO ra Nghị quyết số 24C/18.65 tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức ngày 6-9-2022 tại Hà Nội, bà Audrey Azouley, Tổng giám đốc UNESCO đã khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sinh ra nước Việt Nam độc lập, mà ảnh hưởng của ông còn vượt ra xa khỏi biên giới đất nước. Trong suốt cuộc đời, ông đã duy trì mối quan hệ rất chặt chẽ, kết nối với nhiều nền văn hóa khắp nơi trên thế giới. Với UNESCO, giáo dục, văn hóa chính là trụ cột của một nền độc lập. Về mặt này, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một tầm nhìn sâu rộng và đúng đắn”.

Chúng ta đều thấy rõ những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho văn hóa của nhân loại, đó là việc đề cao lòng khoan dung, tình nhân ái, yêu thương giữa con người, giữa các dân tộc hay giữa con người với thiên nhiên; đó là việc coi trọng ngoại giao văn hóa, thúc đẩy sự hiểu biết chung giữa các nền văn hóa để có thể tôn trọng những bản sắc văn hóa riêng, tôn trọng sự khác biệt và tính đa dạng của các biểu đạt văn hóa. UNESCO vui mừng khi thấy các giá trị Hồ Chí Minh đã và đang tiếp tục được thúc đẩy không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nơi trên toàn thế giới.

PV: Sứ mệnh của UNESCO là bằng nỗ lực không mệt mỏi của mình để góp phần thúc đẩy đối thoại văn hóa, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc trên thế giới. Theo ông, Việt Nam cần phát huy giá trị văn hóa Hồ Chí Minh như thế nào để góp phần vào mục tiêu cao cả trên của UNESCO?

Ông Michael Croft: Để có thể phát huy hơn nữa các giá trị đó, tôi cho rằng, các bạn cần xây dựng một kế hoạch hành động bao trùm và huy động sự tham gia của mọi thành phần xã hội. UNESCO sẵn sàng đồng hành và hỗ trợ các bạn trong hành trình này.

Nhân dịp này, tôi xin được chia sẻ thêm, Việt Nam luôn là một thành viên chủ động và tích cực, mang đến nhiều bài học thành công của mình cho các quốc gia thành viên của UNESCO kể từ khi gia nhập năm 1976 đến nay. Chúng tôi đánh giá cao kết quả mà Chính phủ Việt Nam đã đạt được trong việc thực hiện những cam kết với UNESCO và Liên hợp quốc. Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng ghi nhận trong việc thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững. Trong đó có những mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng từ rất sớm, như: Chấm dứt đói nghèo; bảo đảm cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; thúc đẩy bình đẳng giới; vệ sinh môi trường; xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, công bằng, văn minh...

Tôi cũng hy vọng rằng, thông qua việc tích cực học tập, nghiên cứu, vận dụng những di sản tư tưởng Hồ Chí Minh để lại, dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục thu được những thành quả tiến bộ về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển chung của nhân loại. Điều này cũng là mong muốn, khát vọng cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!
“Những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam; và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc” (Nghị quyết số 24C/18.65 của UNESCO năm 1987 về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1990)./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BẢO VỆ DI SẢN HỒ CHÍ MINH LÀ GÓP PHẦN BẢO VỆ "NỀN TẢNG VĂN HÓA TƯƠNG LAI" - BIỂU TƯỢNG NIỀM TIN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ LƯƠNG TRI THỜI ĐẠI!

     Cách đây tròn 100 năm, trên báo Ogoniok (Ngọn lửa nhỏ) của Liên Xô số 39 xuất bản ngày 23-12-1923 đã đăng bài báo mang tên “Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản-Nguyễn Ái Quốc” của nhà thơ, nhà báo người Nga Osip Emilyevich Mandelstam. Bài báo có đoạn: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”.Sau một thế kỷ nhìn lại nhận định sâu sắc này của O.Mandelstam, các học giả, chuyên gia uy tín trong nước và nước ngoài thêm một lần khẳng định những giá trị nổi bật trong di sản Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc Việt Nam mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển tiến bộ xã hội và văn hóa nhân loại, qua đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu sai trái, xuyên tạc về Hồ Chí Minh!
“Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh cho trí tuệ, đạo đức, phẩm giá, khí phách, lương tri của dân tộc và thời đại, có sức lan tỏa và tầm ảnh hưởng vượt không gian, thời gian. Vì vậy, bảo vệ di sản Hồ Chí Minh không chỉ là bảo vệ chân lý và đạo lý mà còn góp phần bảo vệ những giá trị di sản bền vững mà Hồ Chí Minh đã cống hiến cho văn hóa nhân loại”. Đó là khẳng định của GS, TS Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, một trong những nhà nghiên cứu uy tín hàng đầu về Hồ Chí Minh học ở Việt Nam.

Đại diện nổi bật của “nền văn hóa tương lai”
Phóng viên (PV): Qua nghiên cứu, ông có thể cho biết bối cảnh ra đời về lời nhận định của nhà thơ, nhà báo O.Mandelstam: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Khi mới 33 tuổi, trong điều kiện ngặt nghèo, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vẫn quyết tâm đến nước Nga với một khát khao được gặp Lênin, vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân thế giới mà Nguyễn Ái Quốc vô cùng ngưỡng mộ. Do Lênin ốm nặng không thể gặp được, thời điểm này Nguyễn Ái Quốc đã gặp, trò chuyện bằng tiếng Nga với nhà báo, nhà thơ O.Mandelstam. Trong cuộc gặp, O.Mandelstam cảm thấy cuộc trò chuyện với Nguyễn Ái Quốc diễn ra tự nhiên, thân tình, thú vị và ông rất ấn tượng với phong cách, thần thái của Nguyễn Ái Quốc. Xúc động và cảm nhận sâu sắc sau cuộc trò chuyện đó, O.Mandelstam đã viết bài “Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản-Nguyễn Ái Quốc” đăng trên Báo “Ngọn lửa nhỏ” của Liên Xô, ra ngày 23-12-1923. Trong bài viết, tác giả thốt lên: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”.

PV: Nhận định đó của nhà thơ, nhà báo O.Mandelstam về Hồ Chí Minh nói lên điều gì, thưa ông?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Đó không chỉ là điều dự báo mang tính chất khoa học mà còn là cảm nhận sâu sắc về tâm hồn, trí tuệ, đạo đức, cốt cách văn hóa mang tầm vóc vĩ nhân của Hồ Chí Minh khi Người mới 33 tuổi. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh luôn có sức hấp dẫn, thuyết phục với những người trò chuyện, đối thoại dù bất kỳ họ là ai; đồng thời tự thân lời nói, cử chỉ, phong thái của Người đã tạo niềm tin, niềm cảm hứng đối với người nghe trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Vì thế, O.Mandelstam đã cảm nhận: “Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”.

Ý nghĩa sâu xa hơn, dự báo “Hồ Chí Minh là nền văn hóa tương lai” xuất phát từ việc O.Mandelstam cảm nhận được trong tư duy Hồ Chí Minh đã kết hợp sự am hiểu cả tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, cả giá trị văn hóa truyền thống và giá trị tiến bộ của văn minh nhân loại thời hiện đại.

PV: Là chuyên gia lâu năm nghiên cứu về Hồ Chí Minh học, theo ông, đâu là những giá trị di sản nổi bật của Hồ Chí Minh mang tầm vóc văn hóa nhân loại?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Theo tôi, tầm vóc văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh tập trung nổi bật ở hai điểm rực rỡ nhất: Hồ Chí Minh là biểu tượng văn hóa hòa bình và biểu tượng của văn hóa khoan dung.

Văn hóa hòa bình Hồ Chí Minh thể hiện ở các luận điểm giàu ý nghĩa nhân văn và mang tầm thời đại như: Hòa bình phải gắn với độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân; bảo đảm hòa bình cho dân tộc mình và tất cả các dân tộc khác; cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc không thể tách rời cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới. Theo thống kê, trong các bài nói, bài viết, phát biểu, phỏng vấn báo chí của mình, có hơn 1.000 lần Bác đã đề cập đến hai từ “hòa bình”. Điều đó nói lên sự quan tâm của Bác đến hòa bình sâu sắc đến nhường nào.

Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh mang nội hàm rất rộng, khoan dung không dừng lại ở sự độ lượng, vị tha, mà là dân chủ, lắng nghe, tôn trọng, thuyết phục người khác; biết tạo ra tiếng nói đồng cảm, chia sẻ và niềm tin cho người khác; chấp nhận tiếng nói đa dạng, khác biệt nhưng không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung. Hạt nhân của văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh là nhân ái, nhân đạo, nhân văn, là sự kết tinh chân-thiện-mỹ. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính hòa quyện làm một với chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn cộng sản mang tầm tư tưởng Hồ Chí Minh, vươn tới tầm thời đại và được soi sáng bởi tư tưởng thời đại, phấn đấu, hy sinh trọn đời cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để giải phóng con người.

Tôi muốn nhấn mạnh thêm, trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc thế kỷ 20, sở dĩ dân tộc ta nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế, kể cả nhân dân tiến bộ ở các nước thực dân, đế quốc xâm lược nước ta, một phần bắt nguồn từ tư duy, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh vừa có lý, vừa có tình và bởi Hồ Chí Minh là vĩ nhân và danh nhân ở tầm vóc tư tưởng-văn hóa, là sứ giả của hòa bình và hữu nghị.

Gần đây, tôi được mời tham gia Hội thảo khoa học “Sáu điều dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh-di sản tinh thần vô giá của lực lượng Công an nhân dân” do Bộ Công an phối hợp với một số cơ quan tổ chức nhân dịp kỷ niệm 75 năm Ngày Bác Hồ có 6 điều dạy Công an nhân dân (11-3-1948 / 11-3-2023). Qua tìm hiểu, tôi biết được một vị chỉ huy cấp cao của lực lượng cảnh sát Hoàng gia Anh khi sang làm việc với đại diện lãnh đạo công an Việt Nam tỏ ra rất ngạc nhiên khi nhận thấy 6 điều Bác Hồ dạy công an Việt Nam có nội dung sâu sắc. Ông ấy cho rằng, 6 điều Hồ Chí Minh huấn thị công an Việt Nam (với mình, với cộng sự, với chính phủ, với nhân dân, với công việc, với quân địch) rất giàu ý nghĩa mà lực lượng cảnh sát nước Anh cũng có thể tham khảo, nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn hoạt động của họ.

Từ câu chuyện này cho thấy, di sản Hồ Chí Minh đã vượt qua ý thức hệ chính trị để dần trở thành một phần của văn hóa nhân loại và có sự ảnh hưởng, lan tỏa và “ngấm dần” vào dân tộc khác. Đó là điều chúng ta rất đỗi tự hào!

Giữ gìn, phát huy di sản Hồ Chí Minh để “ngọc càng mài càng sáng”
PV: Bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao tầm vóc văn hóa, di sản Hồ Chí Minh như vậy, nhưng tại sao vẫn có những tiếng nói lạc lõng, xấu xa nhằm xuyên tạc, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân Việt Nam, thưa ông?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Vì những kẻ chống phá luôn hiểu rằng, Hồ Chí Minh là “linh hồn” của Đảng, của dân tộc và của nhân dân Việt Nam. Di sản Hồ Chí Minh là di sản tư tưởng của Đảng, di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam và giá trị tinh thần của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, muốn phá hủy tận gốc rễ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, muốn cho người dân Việt Nam chênh chao niềm tin vào thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa hiện nay thì phải tìm mọi cách để xuyên tạc, bôi nhọ, hạ bệ tư tưởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ hình tượng Hồ Chí Minh trong trái tim, khối óc của người dân Việt Nam.

Sự gian manh, xảo quyệt, nham hiểm của chúng là chống phá cả về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Về tư tưởng, chúng coi những luận điểm về chính trị, cách mạng của Hồ Chí Minh chỉ là bản sao của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Về đạo đức, chúng cố tình xuyên tạc, bôi nhọ đời tư của Bác, coi đạo đức Hồ Chí Minh chỉ là “chủ nghĩa khổ hạnh” không thể học tập, làm theo. Về phong cách, chúng coi Hồ Chí Minh không để lại dấu ấn đáng kể gì, thậm chí những lời nói của Bác là sáo rỗng, xa rời thực tiễn, viển vông.

Trong bối cảnh thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, với âm mưu “mưa dầm thấm lâu”, chúng lấy giới trẻ, những người nhẹ dạ cả tin và một bộ phận trí thức có tư tưởng đa chiều, phức tạp để lung lạc niềm tin Hồ Chí Minh, từ đó từng bước “chuyển hóa” nhận thức, tư tưởng của họ theo chiều hướng tiêu cực, đối trọng, đối lập với tư tưởng chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam.

PV: Khi các thế lực thù địch và phần tử xấu hạ bệ được thần tượng Hồ Chí Minh thì chúng ta không còn biểu tượng niềm tin văn hóa của cả dân tộc và từ đó có thể mất phương hướng chính trị?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Đó là một nguy cơ nên đòi hỏi chúng ta không bao giờ được phép chủ quan, lơ là trong “cuộc chiến” chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh. Bởi vì suy cho cùng, chúng ta bảo vệ di sản Hồ Chí Minh cũng là thiết thực góp phần bảo vệ “nền văn hóa tương lai”.

PV: Ông có thể nói rõ hơn về việc bảo vệ di sản Hồ Chí Minh với tư cách là bảo vệ “nền văn hóa tương lai” trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Hồ Chí Minh đi vào lịch sử với dấu ấn không thể phai mờ, là một lãnh tụ hiếm hoi trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống như đánh giá của bạn bè quốc tế. Khi Bác qua đời ngày 2-9-1969, đã có hàng nghìn bức điện và thư chia buồn từ khắp nơi trên thế giới gửi tới Đảng và nhân dân ta, trong đó có dân tộc Cuba anh em với lời đánh giá sâu sắc của đồng chí Fidel Castro Ruz: “Đồng chí Hồ Chí Minh thuộc lớp những người đặc biệt mà cái chết lại gieo mầm cho sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”.

“Người sống mãi trong lòng dân và trong trái tim nhân loại”, đó không chỉ là lời ngợi ca thành kính và thiêng liêng dành cho Hồ Chí Minh mà còn là chứng thực của lịch sử, vượt thời gian và không gian, từ dân tộc tới nhân loại. Đó cũng là sự khẳng định chân giá trị Hồ Chí Minh. Vì vậy, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ di sản Hồ Chí Minh không chỉ là thái độ tôn trọng sự thật lịch sử, bảo vệ chân lý và đạo lý mà còn góp phần bảo vệ những giá trị di sản bền vững mà Hồ Chí Minh đã cống hiến cho văn hóa nhân loại. Hay nói cách khác, đó cũng là một cách bảo vệ lương tri thời đại.

Nhân đây, tôi muốn đề cập đến câu chuyện thời sự nóng bỏng mà cả nhân loại đang quan tâm, đó là vấn đề bảo vệ môi trường, sống chung với thiên nhiên, chống biến đổi khí hậu. Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến phong trào/việc làm trồng cây gây rừng, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, vệ sinh thân thể và vệ sinh đường làng ngõ xóm, phòng xói mòn đất đai, phòng, chống lũ lụt, phòng ngừa ô nhiễm môi trường... Ngay bản thân Người cũng là biểu hiện mẫu mực của nếp sống giản dị, chung sống hài hòa với thiên nhiên, mà nói theo các chuyên gia môi trường, Hồ Chí Minh là người tiên phong của thời đại về thực hiện “lối sống xanh”, lối sống thân thiện với môi trường. Đó chính là biểu hiện sinh động “nền văn hóa tương lai” của Hồ Chí Minh.

Có thể khẳng định rằng, di sản Hồ Chí Minh qua thử thách của thời gian trở thành những giá trị bền vững, là một tài nguyên văn hóa của Đảng và dân tộc ta, mà càng nghiên cứu, càng khai thác, càng mang lại cho chúng ta những giá trị mới mẻ, bổ ích. Trách nhiệm của chúng ta là phải giữ gìn, phát huy để tài nguyên đặc biệt này trở thành một trong những động lực chính trị-tinh thần vô giá, giúp chúng ta khẳng định vị thế văn hóa Việt Nam, thương hiệu quốc gia Việt Nam trong dòng chảy văn hóa nhân loại.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!

“Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay từ khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”. (Phát biểu của Tiến sĩ Modagat Ahmet, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á-Thái Bình Dương tại Hội thảo quốc tế “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn”, tháng 3-1990)./.
Ảnh: GS Hoàng Chí Bảo.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỌC VIÊN CỦA QUÂN ĐỘI GIÀNH GIẢI NHÌ HỘI THI OLYMPIC TIẾNG ANH HỌC SINH GIỎI, SINH VIÊN TOÀN QUỐC!

     Sau nhiều phần thi gay cấn và sôi nổi, Hội thi Olympic tiếng Anh học sinh, sinh viên toàn quốc lần thứ V năm 2023 đã tìm ra chủ nhân của những vị trí đầu bảng. Đại diện tuổi trẻ Quân đội là Hạ sĩ Lê Đỗ Đức Anh, học viên Trường Sĩ quan Chính trị giành giải nhì bảng sinh viên!
Năm nay, Hội thi Olympic tiếng Anh học sinh, sinh viên toàn quốc lần thứ V thu hút hơn 600.000 thí sinh từ gần 2.750 trường đại học, cao đẳng, học viện, trung học phổ thông, trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên trên cả nước (tăng gần 35% so với cùng kỳ năm ngoái).

Hội thi được tổ chức trên quy mô cả nước, dành cho 2 đối tượng học sinh và sinh viên với 3 vòng sơ loại, chung kết toàn quốc trực tuyến và chung kết toàn quốc trực tiếp, diễn ra từ ngày 17-4 đến 28-12.

Với việc bàn giao công cụ thi cho các Tỉnh đoàn, Thành đoàn chủ động về thời gian, hình thức thi vòng loại, vòng thi cấp tỉnh và tối ưu hóa hình thức sử dụng, giao diện và hướng dẫn, hội thi năm nay ghi nhận sự hưởng ứng mạnh mẽ từ thí sinh cả nước.

Cụ thể, đã có hơn 600.000 bạn trẻ từ gần 2.750 trường đại học, cao đẳng, học viện, trung học phổ thông, trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên trên cả nước tham gia thi. Qua đây, các thí sinh đã hoàn thành hơn 1,4 triệu lượt thi, trả lời tổng cộng hơn 35 triệu câu hỏi.

Kết thúc phần thi trực tuyến, Ban tổ chức hội thi tìm ra được 10 thí sinh bảng học sinh có tổng điểm cao nhất để triển khai vòng chung kết toàn quốc trực tiếp vào ngày 27-12. Tương tự, 10 thí sinh bảng sinh viên tổng điểm cao nhất đã bước vào tranh tài trong buổi chiều 28-12, tại Thủ đô Hà Nội.

Sau nhiều phần thi gay cấn và sôi nổi ở mỗi bảng, Ban tổ chức trao 1 giải nhất trị giá 10 triệu đồng; 2 giải nhì, mỗi giải 6 triệu đồng; 2 giải ba, mỗi giải 4 triệu đồng; 5 giải khuyến khích, mỗi giải 2 triệu đồng. Tất cả các giải thưởng đều kèm theo Bằng khen của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. 

Trong đó, thí sinh giành giải nhất ở bảng học sinh là Lê Ngọc Phương Anh, Trường THPT Đoàn Thị Điểm (Hà Nội). Ngôi đầu của bảng sinh viên thuộc về Cao Thùy Trang, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội. Đại diện tuổi trẻ Quân đội là Hạ sĩ Lê Đỗ Đức Anh, học viên Trường Sĩ quan Chính trị giành giải nhì bảng sinh viên.

Hội thi Olympic tiếng Anh học sinh, sinh viên toàn quốc lần thứ V là hoạt động do Trung ương Đoàn, Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam phối hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hệ thống Anh ngữ Quốc tế AMES tổ chức nhằm chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ XI, góp phần cụ thể hóa Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025”./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỪ 01/01/2024, KHÔNG BẮT BUỘC CÓ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KHI XÉT CHIẾN SĨ THI ĐUA!

     Từ 01/01/2024, đạt tiêu chuẩn có sáng kiến là một lợi thế nhưng không bắt buộc phải có khi xét một số danh hiệu thi đua, khen thưởng!

Luật gồm 8 chương, 96 Điều, các quy định trong Luật đã thể chế các quan điểm, định hướng đổi mới công tác thi đua, khen thưởng của Đảng vào 4 phương án chính sách xây dựng dự án Luật đã được Chính phủ thông qua. Trong đó, tập trung sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống danh hiệu thi đua; hoàn thiện hệ thống hình thức khen thưởng; hoàn thiện chế định về thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; cải cách thủ tục hành chính trong thi đua, khen thưởng.

Luật Thi đua Khen thưởng có hiệu lực từ ngày 01/01/2024, với rất nhiều đổi mới về nội dung, hình thức, nguyên tắc,…xét thi đua, khen thưởng được kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến tích cực trong việc xét thi đua, khen thưởng, hướng đến việc thi đua, khen thưởng thực chất hơn, tạo động lực phấn đấu hơn cho tổ chức, cá nhân. Trong đó, có điểm mới vô cùng quan trọng là tiêu chuẩn về sáng kiến cải tiến kinh nghiệm (xin gọi chung là sáng kiến) không còn là tiêu chuẩn bắt buộc trong việc xét một số danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng.

Đối với lĩnh vực giáo dục, hàng chục năm qua, việc xét danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở bắt buộc phải có tiêu chuẩn sáng kiến kinh nghiệm được cấp có thẩm quyền công nhận khiến nhiều giáo viên giỏi cấp tỉnh, nhiều người công tác rất tốt, được đồng nghiệp tin tưởng, tín nhiệm cao nhưng không thể đạt được danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở vì thiếu sáng kiến.

Nên từ 01/01/2024, đạt tiêu chuẩn có sáng kiến là một lợi thế nhưng không bắt buộc phải có khi xét một số danh hiệu thi đua, khen thưởng trong đó có danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở sẽ là tin vui rất lớn đối với giáo viên cả nước.

Từ 01/01/2024, không cần sáng kiến kinh nghiệm vẫn có thể đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở
Tại Điều 23 Luật Thi đua, Khen thưởng 2022 quy định Danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” tặng cho cá nhân đạt các tiêu chuẩn sau đây:
1. Đạt tiêu chuẩn danh hiệu “Lao động tiên tiến” hoặc “Chiến sĩ tiên tiến”;

(Trích khoản 1 Điều 24 quy định về tiêu chuẩn đạt danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến”:
1. Danh hiệu “Lao động tiên tiến” để tặng cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đạt các tiêu chuẩn sau đây:

a) Hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên;

b) Có tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết, tương trợ, tích cực tham gia phong trào thi đua…)

2. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hoặc có sáng kiến được cơ sở công nhận hoặc có đề tài khoa học, đề án khoa học, công trình khoa học và công nghệ đã được nghiệm thu hoặc mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu được đơn vị công nhận.

Như vậy, tiêu chuẩn đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở ngoài việc phải đạt danh hiệu Lao động tiên tiến, phải đạt 1 trong 2 điều kiện sau:

Một là, phải được thủ trưởng đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đối với giáo viên là viên chức nên việc đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được quy định tại Nghị định 90/2020/NĐ-CP được sửa đổi bởi Nghị định 48/2023/NĐ-CP về đánh giá công chức, viên chức.

Từ năm 2024, tỷ lệ GV được đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ không quá 20%?
Cụ thể, tại Điều 12. Tiêu chí xếp loại chất lượng viên chức ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ:
“1. Viên chức không giữ chức vụ quản lý đạt được tất cả các tiêu chí sau đây thì xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ:

a) Thực hiện tốt các quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Nghị định này;

b) Hoàn thành 100% nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết, theo kế hoạch đề ra hoặc theo công việc cụ thể được giao bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả cao, trong đó ít nhất 50% nhiệm vụ hoàn thành vượt mức;

2. Viên chức quản lý đạt được tất cả các tiêu chí sau đây thì xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ:

a) Thực hiện tốt các quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 và điểm a khoản 5 Điều 3 Nghị định này;

b) Các tiêu chí về kết quả thực hiện nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết, theo kế hoạch đề ra hoặc theo công việc cụ thể được giao đều hoàn thành đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, hiệu quả cao;

c) Đơn vị hoặc lĩnh vực công tác được giao phụ trách hoàn thành tất cả các chỉ tiêu, nhiệm vụ, trong đó ít nhất 50% chỉ tiêu, nhiệm vụ hoàn thành vượt mức;

d) 100% đơn vị thuộc thẩm quyền phụ trách, quản lý trực tiếp được đánh giá hoàn thành nhiệm vụ trở lên, trong đó ít nhất 70% hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.”

Tại Điều 1 Nghị định 48/2023/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2020 về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức

Bổ sung khoản 5 và khoản 6 vào sau khoản 4 Điều 2 như sau:
“…. 6. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức xếp loại "Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ" trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức tại cùng cơ quan, tổ chức, đơn vị và đối với từng nhóm đối tượng có nhiệm vụ tương đồng không quá tỷ lệ đảng viên được xếp loại "Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ" theo quy định của Đảng. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị có thành tích xuất sắc, nổi trội, hoàn thành vượt kế hoạch các công việc được giao, hoàn thành tốt các công việc đột xuất, có đề xuất hoặc tổ chức thực hiện đổi mới sáng tạo, tạo sự chuyển biến tích cực, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực thì cấp có thẩm quyền quyết định tỷ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phù hợp với thực tế, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức.”

Hiện nay quy định của Đảng, tỷ lệ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ không quá 20% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Như vậy, để được đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không quy định phải có sáng kiến.

Hoặc, giáo viên để đạt được danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở phải có sáng kiến được cơ sở công nhận hoặc có đề tài khoa học, đề án khoa học, công trình khoa học và công nghệ đã được nghiệm thu (gọi chung là sáng kiến).

Luật Thi đua, khen thưởng 2022, không còn quy định bắt buộc tiêu chuẩn cứng phải có sáng kiến kinh nghiệm để xét các danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở là một bước tiến lớn, được đông đảo cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đồng tình, hoan nghênh.

Qua trao đổi, các đồng nghiệp là giáo viên, cán bộ quản lý tại địa phương, đa số đều phấn khởi với quy định mới này, kỳ vọng thi đua, khen thưởng sẽ thực chất hơn, khen đúng đối tượng, người công tác tốt, nhiều thành tích sẽ được tôn vinh, khen thưởng.

Từ 01/01/2024, quy định bằng khen của Bộ, ngành, tỉnh và Thủ tướng cũng không bắt buộc phải có sáng kiến kinh nghiệm

Tại Điều 74. Bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh
“1. Bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân gương mẫu chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đạt một trong các tiêu chuẩn sau đây:

a) Có thành tích xuất sắc được bình xét trong các phong trào thi đua do Bộ, ban, ngành, tỉnh phát động;

b) Lập được nhiều thành tích hoặc thành tích đột xuất, có phạm vi ảnh hưởng ở một trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ban, ngành, tỉnh;

c) Có đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công tác xã hội, từ thiện nhân đạo;

d) Có 02 lần liên tục được tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” hoặc có liên tục từ 02 năm trở lên được công nhận hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trong thời gian đó có 02 sáng kiến được công nhận và áp dụng có hiệu quả trong phạm vi cơ sở hoặc có 02 đề tài khoa học, đề án khoa học, công trình khoa học và công nghệ đã được nghiệm thu và áp dụng hiệu quả trong phạm vi cơ sở;…”

Như vậy, để được đề nghị tặng bằng khen của Bộ, ngành, tỉnh, giáo viên phải có 02 lần liên tục được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở (không nhất thiết phải có sáng kiến) hoặc nếu đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (nhưng không đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua) thì phải kèm thêm có 02 sáng kiến được công nhận.

Đối với quy định bằng khen của Thủ tướng Chính phủ được quy định tại Điều 73. “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ”

“1. “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ” để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đạt một trong các tiêu chuẩn sau đây:
a) Có thành tích xuất sắc tiêu biểu, được bình xét trong phong trào thi đua;

b) Đã được tặng bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh và có liên tục từ 05 năm trở lên đến thời điểm đề nghị được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong thời gian đó có 03 lần được tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”;

c) Lập được nhiều thành tích hoặc thành tích đột xuất, có phạm vi ảnh hưởng trong Bộ, ban, ngành, tỉnh hoặc được giải thưởng ở khu vực;

d) Có đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công tác xã hội, từ thiện nhân đạo….”

Giáo viên để được đề nghị tặng bằng khen Thủ tướng Chính phủ phải đạt tiêu chuẩn: Đã được tặng bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh (không nhất thiết phải có sáng kiến) và có liên tục từ 05 năm trở lên đến thời điểm đề nghị được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong thời gian đó có 03 lần được tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” (cũng không nhất thiết phải có sáng kiến kinh nghiệm)./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: KHỞI TỐ BỊ CAN, KHÁM XÉT NƠI Ở VÀ CẤM ĐI KHỎI NƠI CƯ TRÚ VỚI ÔNG TRỊNH VĂN CHIẾN-NGUYÊN BÍ THƯ TỈNH UỶ THANH HOÁ!

     Ngày 29/12/2023, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa đã ra Quyết định khởi tố bị can, khám xét nơi ở và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Trịnh Văn Chiến, sinh năm 1960, nơi ở hiện tại 12 Nguyễn Duy Hiệu, phường Đông Hương, thành phố Thanh Hóa (trước khi bị cách hết chức vụ trong Đảng là nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa) về tội "Vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí" theo Khoản 3 Điều 219 Bộ luật Hình sự…

️Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa xác định: Thời điểm năm 2013, lúc đó ông Trịnh Văn Chiến, với vai trò là Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã trực tiếp chỉ đạo việc tính tiền sử dụng đất cho Công ty Cổ phần Sông Mã tại dự án Hạc Thành Tower theo đơn giá xác định trước đó 04 năm gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước số tiền 55.870.162.500 đồng.

Vụ việc đang được Công an tỉnh Thanh Hoá tiếp tục điều tra làm rõ theo quy định của pháp luật./.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BAN TUYÊN GIÁO CHÍNH PHỦ YÊU CẦU LÀM RÕ VỤ VIỆC “XÁ LỢI CỦA ĐỨC PHẬT CÓ THỂ TỰ CHUYỂN ĐỘNG”!

     Từ ngày 23 - 27/12, chùa Ba Vàng (thành phố Uông Bí, Quảng Ninh) tổ chức Đại lễ kính mừng 765 năm Phật Hoàng Trần Nhân Tông đản sinh. Có một sự kiện trong khuôn khổ Đại lễ, đó là chiêm bái xá lợi tóc của Đức Phật!

Sẽ không có điều gì đáng nói, nếu không xảy ra sự việc “rùm beng”, đã được các cơ quan báo chí đề cập, đó là việc chiêm bái xá lợi tóc của Đức Phật “có thể tự chuyển động mà không cần sự tác động của ngoại lực”. Sự kiện này không được trụ trì chùa Ba Vàng thông báo cho cơ quan có thẩm quyền và việc xá lợi tóc của Đức Phật “có thể tự chuyển động” đã gây nhiều ý kiến khác nhau trong dư luận xã hội, trong đó có người tin điều này là có thật, nhưng cũng không ít người bày tỏ hoài nghi.

Theo thông tin cung cấp trên trang web của chùa Ba Vàng, “đó là một trong tám sợi tóc mà Đức Phật tự tay nhổ trên đầu mình, trao cho hai thương buôn người Myanmar hơn 2600 năm trước… Xá lợi tóc Phật được lưu giữ hàng nghìn năm tại Myanmar, nay xuất hiện lần đầu tiên tại chùa Ba Vàng… Trải qua hơn 2600 năm, sợi tóc vẫn còn nguyên vẹn. Hàng vạn nhân dân, Phật tử đã tận mắt chứng kiến sợi tóc quay liên tục với nhiều hình dáng khác nhau, dù xung quanh không có gì để căng kéo hay điều khiển, khác hoàn toàn so với tóc của người bình thường”.
Dư luận đặt câu hỏi về nguồn gốc, ai chịu trách nhiệm thẩm định “xá lợi tóc của Đức Phật” và có cơ sở khoa học nào để khẳng định đó là “xá lợi tóc của Đức Phật”. Việc chùa Ba Vàng đăng tải “ai dù chỉ một lần cung kính đảnh lễ, chiêm bái, cúng dường cũng được vô lượng phúc báu cho hiện đời và nhiều đời về sau” nhằm mục đích gì, có phải là “trục lợi” niềm tin và tiền bạc?

Chiều 29/12, phóng viên TTXVN đã trao đổi với bà Trần Thị Minh Nga, Phó Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ (Bộ Nội vụ) về vụ việc. Bà Trần Thị Minh Nga cho biết, “các hoạt động tại chùa Ba Vàng mà TTXVN nêu thuộc thẩm quyền giải quyết của địa phương”.

Tuy nhiên, ngay sau khi nhận được thông tin về vụ việc, Ban Tôn giáo Chính phủ đã tham mưu Bộ Nội vụ có văn bản đề nghị UBND tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương kiểm tra, xác minh lại sự việc. Làm rõ việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với các hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam và việc tổ chức trưng bày cho phật tử và nhân dân đến chiêm bái “xá lợi tóc Đức Phật” tại chùa Ba Vàng của sư trụ trì, chấn chỉnh và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật và theo thẩm quyền nếu có vi phạm.

Ban Tôn giáo Chính phủ cũng đã trao đổi và có văn bản gửi Giáo hội Phật giáo Việt Nam đề nghị thẩm định nguồn gốc “xá lợi tóc Đức Phật” được trưng bày tại chùa Ba Vàng trong những ngày qua để có thông tin chính thức về sự việc; đề nghị Giáo hội Phật giáo Việt Nam chỉ đạo Ban Phật giáo Quốc tế và Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh chấn chỉnh các hoạt động không đúng với truyền thống của Phật giáo và xử lý nghiêm theo giới luật Phật giáo, Hiến chương và Quy chế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nếu các tổ chức, cá nhân chức sắc Phật giáo liên quan đến vụ việc có sai phạm./.
Môi trường ST.

ĐẠI TƯỚNG LƯƠNG CƯỜNG CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ TỔNG KẾT CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TOÀN QUÂN NĂM 2023!

     Sáng 30-12, tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị (TCCT) Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam tổ chức Hội nghị tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) năm 2023 và triển khai nhiệm vụ năm 2024 theo hình thức trực tiếp và trực tuyến. Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương (QUTƯ), Chủ nhiệm TCCT QĐND Việt Nam chủ trì hội nghị tại điểm cầu Hội trường TCCT!
Dự hội nghị tại điểm cầu Hội trường TCCT có các đồng chí: Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm TCCT QĐND Việt Nam; Trung tướng Nguyễn Văn Gấu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm TCCT QĐND Việt Nam; Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam.

Thay mặt lãnh đạo TCCT QĐND Việt Nam, Trung tướng Nguyễn Văn Gấu trình bày Báo cáo tổng kết hoạt động CTĐ, CTCT năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2024.
Báo cáo tổng kết đánh giá: Năm 2023, hoạt động CTĐ, CTCT trong toàn quân được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, bám sát chức năng, nhiệm vụ và tình hình thực tiễn, hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ cả thường xuyên và đột xuất, nổi bật là:

Thực hiện tốt công tác tham mưu xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ, Quân đội vững mạnh về chính trị. Tổ chức quán triệt, cụ thể hóa, triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, nhất là các văn bản mới ban hành, bảo đảm phù hợp với thực tiễn Quân đội. Công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng tiếp tục được đổi mới, đạt hiệu quả thiết thực.

Chủ động, nhạy bén thông tin, tuyên truyền, định hướng tư tưởng, dư luận tạo sự thống nhất trong toàn quân về nhận thức và hành động; tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; tiến hành sơ, tổng kết và hoàn thành các báo cáo về công tác xây dựng Đảng. Hoạt động kiểm tra, giám sát được tăng cường, kịp thời chỉ đạo khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương.

Kịp thời tham mưu cụ thể hóa, triển khai hiệu quả các quy định của Trung ương về công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo đảm bí mật, an ninh, an toàn; công tác dân vận, chính sách, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được triển khai đồng bộ, sâu rộng, góp phần thực hiện tốt chức năng “Đội quân công tác” và nhiệm vụ “chiến đấu” của Quân đội trong thời bình. Hoạt động của các tổ chức quần chúng sáng tạo, hiệu quả, tạo sự lan tỏa sâu rộng trong xã hội.

Công tác phối hợp với các ban, bộ, ngành, các tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương, địa phương, phối hợp với Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam đảm bảo chặt chẽ, ngày càng đi vào chiều sâu; giữ vững định hướng chính trị trong hoạt động đối ngoại quốc phòng.

Tiến hành hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT trong các nhiệm vụ, nhất là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, diễn tập, thực hiện ba khâu đột phá; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh... Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn đoàn kết, thống nhất cao, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ tiếp tục được tỏa sáng.

Tại hội nghị, đại biểu các cơ quan, đơn vị tập trung thảo luận đánh giá kết quả, làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế nguyên nhân; những khó khăn, vướng mắc trong tiến hành hoạt động CTĐ, CTCT năm 2023; đề xuất, bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT trong thời gian tới./.


Yêu nước ST.

Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2023

Tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bài học trong xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ hiện nay

Tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nội dung cơ bản, quan trọng và xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người, đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng “trọng dân” của Người trong xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ với người dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh_Ảnh: TTXVN

Nội dung tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân dân: Trên cơ sở kế thừa truyền thống dân tộc và văn hóa nhân loại, Người đã đưa ra quan niệm về dân với nội hàm rất rộng và chủ yếu đề cập đến nhân dân Việt Nam, Người thường gọi nhân dân bằng nhiều cách gọi khác nhau, như “dân”, “dân ta”, “dân chúng” hay “đồng bào”, thể hiện sự gần gũi và dễ hiểu. Theo Người, dân là tập hợp đa số những người khác nhau về dân tộc, tôn giáo, giới tính, giai tầng khác nhau, sống ở trong nước hay ở nước ngoài, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo. Trong điều kiện là một nước nông nghiệp, thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ yếu đề cập đến lực lượng trực tiếp sản xuất, có tiềm lực vật chất và tinh thần to lớn, đó là những người dân lao động, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức; Người chỉ rõ: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”(1). Trong nhiều bài viết, bài phát biểu, Người đề cập đến nhân dân với nội hàm là mọi người dân nước Việt, là mỗi người con Rồng cháu tiên, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện, trong đó công nông chiếm tuyệt đại đa số. Đó là nền tảng của quốc dân.

Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt sự khác nhau giữa quốc dân và nhân dân. Quốc dân là mọi người Việt Nam chung gốc tích, văn hóa, lịch sử, không phân biệt trong đó tính chất tiến bộ hay phản động. Người cho rằng: “Nhân dân và quốc dân khác nhau. Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân. Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân. Nhưng chúng không được ở trong địa vị nhân dân, không được hưởng quyền lợi như nhân dân. Chúng không có quyền tuyển cử, ứng cử; không có quyền tổ chức tuyên truyền, v.v.. Song chúng cần phải làm tròn nghĩa vụ, như phục tùng trật tự, tuân theo pháp luật của nhân dân”(2). Như vậy, dân trong quan điểm của Người là tập hợp tất cả người Việt Nam thuộc các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, chủ yếu là những người lao động, nhưng không bao hàm những kẻ tay sai, bán nước, phản động, xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Quan niệm về dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa tư tưởng “trọng dân”, thân dân trong lịch sử và phù hợp với quan điểm của các nhà lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chỉ ra khi khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân.

Đề cao vai trò và sức mạnh của nhân dân: Từ khi có xã hội loài người đến nay, lịch sử xã hội là do quần chúng nhân dân sáng tạo, xây dựng và là động lực thúc đẩy lịch sử tiến lên không ngừng. Mọi sự kiện lớn lao hay các cuộc cách mạng xảy ra trong xã hội đều có sự ủng hộ, tham gia tích cực của đông đảo quần chúng nhân dân. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, đã hình thành tư tưởng “trọng dân”, coi dân là gốc, chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân.

Tiếp thu tinh hoa của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tư tưởng “trọng dân” trong nhiều bài nói, bài viết và thực hành trong thực tiễn cách mạng theo chân lý “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(3). Người nhiều lần khẳng định tư tưởng lấy dân làm gốc, “Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(4); có lực lượng dân chúng thì việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được.

Vai trò, sức mạnh của nhân dân càng được phát huy, nhân lên gấp bội khi được tập hợp lực lượng hùng hậu, kết thành một khối thống nhất. Theo Người, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(5). Có thể thấy, Người đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, sánh cùng trời, đất và xác định rõ không có gì quý bằng nhân dân; không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân và cũng không có gì chống được dân chúng - “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”(6). Từ việc tổng kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến khẳng định một nguyên lý sâu sắc: Có dân là có tất cả, mất dân là mất hết, “Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”(7).

Chính vì đề cao, coi trọng vai trò, sức mạnh của dân nên Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”(8), bởi “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại. Đó là lời nói chí lý của thánh hiền đời xưa”(9).

Coi trọng và xác định nhân dân là mục tiêu, động lực của cách mạng: Đây là một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng “trọng dân” Hồ Chí Minh, bởi dân là điểm xuất phát và cũng là điểm đến cuối cùng trong toàn bộ quan điểm và hoạt động cách mạng của Người. Ngay từ sớm, khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than nô lệ, các khuynh hướng cứu nước của các bậc tiền bối thất bại, Người dần hình thành chí hướng cứu nước gắn liền với cứu dân và quyết định ra đi tìm đường cứu nước; từ đó, thâm nhập sâu rộng vào đời sống của nhân dân (công nhân, nông dân) ở các nước chính quốc và thuộc địa để thấu hiểu, thấu cảm và khơi dậy tinh thần đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức nô lệ. Toàn bộ sự nghiệp cách mạng, Người chưa bao giờ nguôi nghĩ đến nhân dân, “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”, đến khi về với thế giới người hiền, Người cũng “không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những quan điểm mang tính chiến lược của cách mạng đến những mong muốn thiết thực hằng ngày, như tương, cà, mắm, muối, áo cho dân mặc, nhà cho dân ở... đều là mục tiêu cách mạng của Người. Từ nhận thức đến chủ trương, quan điểm, nghị quyết, cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tôn chỉ và chương trình hành động của Mặt trận, đoàn thể... đều hướng vào mục tiêu vì nhân dân; nhân dân là mục tiêu, lý tưởng của toàn bộ sự nghiệp cách mạng chứ không chỉ là vấn đề mang tính nhất thời. Trong đó, tập trung cốt lõi vào các vấn đề, như dân tộc độc lập, nhân dân tự do, đồng bào hạnh phúc, “Nhân dân luôn là tâm điểm của quá trình tư tưởng Hồ Chí Minh và sự quan tâm của Người đối với nhân dân không bị giới hạn trong các ranh giới địa lý. Mục đích của Người không chỉ là giải phóng đất nước mình khỏi sự thống trị ngoại bang mà trong chiều sâu tư tưởng của mình, bên cạnh mục đích giành độc lập dân tộc, Người còn mong ước đến sự công bằng, bình đẳng và no ấm cho nhân dân mình”(10). Mục tiêu mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên phải vì dân phục vụ.

Nhân dân không chỉ là lực lượng lao động chủ yếu, trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, mà còn là động lực thúc đẩy cách mạng phát triển. Người khẳng định: “Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển”(11). Quần chúng nhân dân có mặt khắp mọi nơi, nếu được dẫn dắt bởi một tổ chức chính trị với đường lối đúng đắn, khoa học thì lực lượng quần chúng sẽ thành một khối thống nhất, có sức mạnh vô địch. Ngay từ khi hoạt động chính trị, Người đã nhận thấy “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”(12). Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tổ chức và lãnh đạo giành được chính quyền về tay nhân dân, Người càng nhận thấy sức mạnh to lớn của nhân dân, không chỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, mà còn trong xây dựng xã hội mới.

Nhân dân không chỉ đóng góp tài lực, vật lực để giúp đỡ cán bộ, đảng viên và tổ chức cách mạng, mà còn để tổ chức và giải quyết thắng lợi nhiệm vụ của các phong trào cách mạng. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, ở mỗi giai đoạn có những phong trào khác nhau được tổ chức nhằm giải quyết nhiệm vụ đặt ra. Không chỉ trong đấu tranh chống ngoại xâm, mà còn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thói quen và truyền thống lạc hậu. Các phong trào được tổ chức thành công đều có sự đóng góp rất lớn và hiệu quả của nhân dân. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những ngày đầu giành được chính quyền, Người kêu gọi sự đóng góp của nhân dân, dựa vào nhân dân để giải quyết nạn đói, nhờ sự ủng hộ cơ sở vật chất, tiền của của nhân dân mà tổ chức phong trào diệt giặc dốt trên toàn quốc.

Nhân dân là người làm chủ chính quyền nhà nước: Sau khi nước nhà giành độc lập, xây dựng chính quyền nhà nước mới, Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(13). Trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục quán triệt và cụ thể hóa quan điểm “trọng dân” trong chính quyền nhà nước. Đó là “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(14).

Tư tưởng “trọng dân” trong xây dựng chính quyền nhà nước được thể hiện rõ trong những nội dung cơ bản của Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước dân là chủ và dân làm chủ. Dân làm chủ nghĩa là tất cả quyền lực trong nhà nước đều thuộc về nhân dân, người dân có quyền bầu ra người đại diện cho mình, kiểm soát nhà nước và có thể bãi nhiệm chức vụ khi họ không hoàn thành nhiệm vụ. Dân là chủ tức là người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm. Dân làm chủ và dân là chủ, nên cán bộ từ Trung ương đến cơ sở đều là công bộc, là “đầy tớ” của dân. Người nhiều lần nhấn mạnh: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”(15)Nhà nước do dân là nhà nước do nhân dân lập nên thông qua việc lựa chọn, bầu ra những vị đại biểu của mình và được dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước hoạt động. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Muốn vậy, cán bộ, công chức phải tin dân, “trọng dân”, kính dân và không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm xây dựng nhà nước phục vụ nhân dân. Nhà nước vì dân là nhà nước hoạt động vì lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu. Một nhà nước vì dân là nhà nước có đội ngũ cán bộ từ người đứng đầu nhà nước đến công chức bình thường đều là công bộc, làm đầy tớ cho dân, chứ không phải làm quan cách mạng, đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Nói đi đôi với làm, Người là một tấm gương sáng về tận trung với nước, tận hiếu với dân, tận hiến cả cuộc đời cho cách mạng. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó”(16).

Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ được sinh ra từ nhân dân, sống trong lòng dân và cuối đời lại về với nhân dân, “làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”. Người để lại cho toàn Đảng và toàn dân ta quan điểm về “trọng dân” hết sức giá trị cho công cuộc đổi mới đất nước nói chung, xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ nói riêng hiện nay.

Vận dụng tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận của Đảng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt thực tiễn cách mạng Việt Nam. Mọi chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng đều dựa vào nguồn lực và sức mạnh của nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân. Trong hơn 37 năm đổi mới đất nước (1986 - 2023), Đảng ta luôn chú trọng xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ và đã có những bước tiến mới. Giai đoạn 2021 - 2030, Đảng ta định hướng: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch...”(17).

Nền hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở được thể chế hóa trong thực tiễn đời sống xã hội. Từ năm 2012 đến nay, tổng số văn bản quy phạm pháp luật do các bộ ban hành là hơn 8.600 văn bản; mỗi năm các bộ trình Chính phủ ban hành hơn 140 nghị định hướng dẫn, đã thiết lập khuôn khổ thể chế cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(18),... tạo thuận lợi cho người dân tham gia vào hoạt động của chính quyền, đồng thời tạo lập cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương. Hệ thống hành chính nhà nước đã và đang được tiếp tục sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả để phục vụ tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp. Các bộ, ngành và địa phương đã giảm được nhiều đầu mối bên trong mỗi đơn vị, đặc biệt là giảm trên 25% đơn vị sự nghiệp; giảm 3.980 đơn vị sự nghiệp; thực hiện tích cực việc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã (đã giảm 8/713 đơn vị hành chính cấp huyện và 557/11.160 đơn vị hành chính cấp xã; 38.369/98.455 thôn, bản, tổ dân phố, tương ứng giảm 39%); về tinh giản biên chế gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy: đã giảm trên 27.500 biên chế công chức (tương ứng giảm 10,01% so với năm 2015); giảm gần 243.000 biên chế viên chức (tương ứng giảm 11,98% so với năm 2015), và vượt so với mục tiêu giảm 10% mà Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17-4-2015, của Bộ Chính trị, “Về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức” đề ra đến năm 2021. Công chức từ cấp huyện trở lên giảm 40.000 người; giảm gần 148.000 cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở thôn, bản, tổ dân phố; hợp đồng lao động giảm gần 7.000 người(19).

Cán bộ Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an thành phố Hà Nội đến tận nhà dân để cấp căn cước công dân gắn chip_Nguồn: tuoitre.vn

Đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo ngày càng bài bản, có năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công việc, có tinh thần trách nhiệm và tính chuyên nghiệp ngày càng cao, qua đó phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Công tác quản lý cán bộ, công chức hiệu quả hơn, như giảm thiểu cấp trung gian, giảm số lượng cán bộ lãnh đạo, tinh giản biên chế; thực hiện cơ cấu lại, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, giảm chi phí hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động(20). Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII đánh giá: “Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế “Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(21).

Tuy vậy, việc xây dựng nền hành chính vì nhân dân phục vụ đến nay vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước, bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục, cụ thể: 1- Vẫn còn tình trạng nợ văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh đã có hiệu lực pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của các bộ, cơ quan ngang bộ, dẫn đến gây khó khăn trong công tác tổ chức thi hành luật; 2- Hệ thống hành chính nhà nước chưa thật sự tinh gọn, hiệu quả. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; năng lực của một số địa phương chưa đáp ứng yêu cầu. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương thiếu chặt chẽ; thực hiện đổi mới lề lối làm việc, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan nhà nước chưa đi vào thực chất...; 3- Công tác chỉ đạo, tổ chức thi hành pháp luật, cơ chế phối hợp giữa Chính phủ, các bộ, ngành với Ủy ban nhân dân các cấp hiệu quả chưa cao, “trong nhiều trường hợp, việc phối hợp còn tạo thêm nhiều tầng nấc trung gian, mất nhiều thời gian, tạo ra sự đùn đẩy trách nhiệm, ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng công việc”(22).

Trong giai đoạn 2021 - 2030, Đảng ta định hướng: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(23). Để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, cần tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ ở các nội dung sau:

Thứ nhất, quán triệt quan điểm dân là chủ và dân làm chủ làm nguyên tắc chỉ đạo xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ. Xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ cần phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong hoạt động của Nhà nước. Đại hội XIII của Đảng khẳng định, cần “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. “Tổ chức một cách có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ”(24). Muốn xây dựng chính quyền vì nhân dân, phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân và khuyến khích, động viên nhân dân sử dụng quyền công dân và làm tròn nghĩa vụ công dân; tham gia bầu đại biểu đại diện cho mình để thực thi chủ trương, chính sách và các hoạt động quản lý, phát triển xã hội của Nhà nước. Từ đó, quyết định của cơ quan nhà nước phản ánh và đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của nhân dân, góp phần gia tăng sự hài lòng đối với cơ quan nhà nước. Mặt khác, phải không ngừng nâng cao dân trí, giáo dục ý thức chính trị của nhân dân tham gia tích cực vào các hoạt động của Nhà nước.

Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền là chủ, làm chủ của nhân dân trong các hoạt động hành chính của nền công vụ. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân, có cơ chế để nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện.

Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hóa; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước, như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, có lời nói, hành xử thiếu chuẩn mực với nhân dân gây bức xúc xã hội. Đồng thời, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý là cơ sở xây dựng Chính phủ điện tử tiến tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật theo hướng khoa học, hiện đại, chuyên nghiệp. Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu trong xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đây vừa là xu thế khách quan, vừa là yêu cầu đòi hỏi cấp thiết trong thời đại 4.0 hiện nay nhằm xây dựng chính quyền phục vụ nhân dân.

Thứ ba, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thật sự là công bộc của dân. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay, phải lấy tiêu chí phục vụ lợi ích nhân dân, hướng tới chân lý “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(25). Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức để họ trở thành những công chức chuyên nghiệp, thạo việc, công tâm và từng bước hoàn thiện tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm nhằm bảo đảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức phải gần dân, lắng nghe, tiếp thu và phản hồi ý kiến của nhân dân để vừa nắm bắt tâm tư tình cảm của dân, vừa kịp thời điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện nền công vụ trọng dân. Có cơ chế “khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân;... bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”(26) theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng./.

ST.