Thứ Năm, 31 tháng 10, 2024

ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ CỦA VIỆT NAM

 Vùng đất Nam Bộ của Việt Nam từ lâu đã là điểm tựa vững chắc, nơi bảo vệ và phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội của dân tộc ta. Tuy nhiên, thời gian gần đây, các thế lực thù địch đang ra sức tung ra những luận điệu xuyên tạc, sai lệch về lịch sử và thực tiễn của vùng đất này. Họ nhằm mục đích gây hoang mang dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

🔴
Nhận diện các luận điệu xuyên tạc:
Họ cho rằng Nam Bộ không phải là vùng đất của Việt Nam, cố tình bẻ cong sự thật lịch sử.
Các luận điệu sai lệch về quyền lợi, đời sống của người dân Nam Bộ nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
🔴
Sự thật lịch sử:
Nam Bộ đã từ lâu là một phần không thể tách rời của Việt Nam, với những chứng cứ lịch sử rõ ràng về sự hình thành và phát triển qua các triều đại.
Nhân dân Nam Bộ luôn có tinh thần đấu tranh bảo vệ tổ quốc, góp phần quan trọng vào các cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước.
🔴
Phản bác mạnh mẽ:
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về lịch sử, văn hóa Nam Bộ.
Đưa ra các bằng chứng lịch sử, pháp lý khẳng định chủ quyền và quyền lợi hợp pháp của Việt Nam đối với vùng đất này.
Phát huy vai trò của các tổ chức, cá nhân trong việc đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc.
🔴
Lời kêu gọi:
Mỗi người dân hãy nâng cao cảnh giác, không tin vào những thông tin sai lệch, luôn kiểm chứng trước khi chia sẻ.
Cùng nhau đoàn kết, xây dựng và phát triển vùng đất Nam Bộ, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc./.
St

ĐỀ XUẤT BỎ QUY ĐỊNH TRƯỜNG THU TIỀN ĐỂ MUA BHYT CHO HỌC SINH

 Đại biểu Trần Thị Thu Hằng (Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông) đề nghị nghiên cứu bỏ quy định nhà trường thu tiền bảo hiểm y tế của học sinh.

Chiều nay 31.10, tiếp tục Kỳ họp thứ 8, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế.
Phát biểu tại tổ, đại biểu Trần Thị Thu Hằng (Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông) đề nghị nghiên cứu, đánh giá để sửa đổi Điều 7b về trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế hiện hành và các quy định có liên quan.
Qua đó, vị đại biểu này đề nghị nghiên cứu bỏ quy định việc nhà trường thu tiền để mua bảo hiểm y tế cho học sinh. Trách nhiệm này được giao cho chính quyền địa phương, cơ quan bảo hiểm.
“Nhà trường chỉ có trách nhiệm cung cấp danh sách học sinh cho cơ quan bảo hiểm và thực hiện việc phổ biến, tuyên truyền cho phụ huynh, học sinh trong việc mua bảo hiểm y tế” – đại biểu Trần Thị Thu Hằng nhấn mạnh.
Đồng thời, vị đại biểu này đề nghị cần nghiên cứu để lựa chọn hình thức đóng cho phù hợp, có phương án để học sinh được tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình, trong đó vừa được nhà nước hỗ trợ đóng và được giảm trừ mức đóng theo thứ tự.
Còn đối với việc giám định bảo hiểm y tế, đại biểu đề nghị bổ sung quy định giao Chính phủ quy định chi tiết Điều 29 của Luật Bảo hiểm y tế hiện hành; đồng thời, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra trong quá trình thực hiện quy định về giám định bảo hiểm.
Phát biểu tại hội trường, đại biểu Châu Quỳnh Dao (Đoàn ĐBQH tỉnh Kiên Giang) kiến nghị Nhà nước tiếp tục tăng mức hỗ trợ ngân sách nhà nước tối thiểu là 50% cho các học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế.
Đây là một trong những tiền đề rất quan trọng tiến tới đạt được mục tiêu bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân. Cùng với đó, cần bổ sung thêm nhóm các hộ thoát nghèo vào danh sách được ngân sách hỗ trợ.
Quan tâm tới quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm y tế là học sinh, sinh viên, đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung (Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Bình) đề nghị tăng hỗ trợ mức đóng lên 50% và đóng theo cơ sở giáo dục đào tạo mà không để tự lựa chọn hình thức đóng. Như vậy sẽ kéo theo 2,8% số học sinh, sinh viên còn lại chưa tham gia sẽ tham gia bảo hiểm y tế.
Phát biểu tranh luận tại hội trường, đại biểu Nguyễn Duy Minh (Đoàn ĐBQH TP Đà Nẵng) cho rằng, học sinh, sinh viên thuộc nhóm đối tượng đóng tại đơn vị trường học, nhưng trên thực tế quy định này có những khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện.
Đại biểu cho biết, quy định tham gia bảo hiểm y tế là bắt buộc nhưng lại không có chế tài để xử lý khi học sinh, sinh viên không tham gia đóng bảo hiểm y tế…
“Xét cho đến cùng thì học sinh, sinh viên vẫn lệ thuộc vào điều kiện kinh tế của gia đình. Việc điều chỉnh về mức đóng theo hộ gia đình sẽ tạo được sự công bằng và không còn sự so sánh như hiện nay đang xảy ra.
Đồng thời ngân sách nhà nước cũng không cần phải nâng lên 50% để hỗ trợ cho học sinh, sinh viên” – đại biểu Nguyễn Duy Minh nêu quan điểm./.
ST

Phản đối mọi hoạt động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa

 Chiều 31-10, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến việc có thông tin Trung Quốc triển khai các thiết bị quân sự tại đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam), Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Đoàn Khắc Việt cho biết: Việt Nam hết sức quan ngại về thông tin này và mạnh mẽ phản đối mọi hoạt động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền của Việt Nam bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

* Cũng tại họp báo, trả lời câu hỏi về quan hệ giữa Việt Nam và Nhóm các nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới (BRICS), Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Đoàn Khắc Việt cho biết: Là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã, đang và sẽ tích cực đóng góp có trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức diễn đàn đa phương, đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và trên thế giới, phù hợp với nhu cầu và lợi ích của Việt Nam. Việt Nam sẽ nghiên cứu các thông tin về quy chế nước đối tác của BRICS; việc Việt Nam tham gia vào các cơ chế hợp tác đa phương và khu vực, quốc tế luôn được nghiên cứu, xem xét trên cơ sở phù hợp với lợi ích và điều kiện, khả năng của Việt Nam. Đồng thời việc này cũng thể hiện đường lối nhất quán, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
St

MỘT TRONG NHỮNG CHÍNH SÁCH ĐÁNG LƯU Ý CÓ HIỆU LỰC TRONG THÁNG 11 NĂM 2024

  Xúc phạm danh dự người có thẩm quyền tố tụng.

Nghị định 117/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 82/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Có hiệu lực từ ngày 15/11/2024.
Về hành vi vi phạm quy định đối với hoạt động hành nghề luật sư, so với Nghị định 82/2020, nghị định mới bổ sung quy định phạt tiền 15 - 30 triệu đồng đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Đối tượng bị xử phạt là tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam...
Đối với hành vi nêu trên, nghị định bổ sung việc tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam từ 6 tháng đến 9 tháng./.
St

CHÍNH SÁCH MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 11 NĂM 2024

  Bỏ quy định giám sát CSGT bằng thiết bị ghi âm, ghi hình

Bộ Công an vừa ban hành Thông tư số 46/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 67/2019 quy định về thực hiện dân chủ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/11.
Cụ thể, nếu hiện nay điều 11 Thông tư 67/2019 quy định người dân được thực hiện giám sát hoạt động của lực lượng CSGT thông qua việc ghi âm, ghi hình (có điều kiện) thì tại Thông tư 46/2024, Bộ Công an đã bỏ quy định này.
Theo đó, từ ngày 15/11, người dân được giám sát thông qua 5 hình thức: Tiếp cận thông tin công khai của lực lượng công an và trên các phương tiện thông tin đại chúng; qua các chủ thể giám sát theo quy định của pháp luật; tiếp xúc, giải quyết trực tiếp công việc với cán bộ, chiến sĩ; kết quả giải quyết các vụ việc, đơn thư, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; quan sát trực tiếp công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
Việc giám sát của Nhân dân phải đảm bảo các điều kiện: Không làm ảnh hưởng đến hoạt động của cán bộ, chiến sĩ khi đang thực thi công vụ; không được vào khu vực thực thi công vụ quy định, trừ người có quyền và nghĩa vụ liên quan; tuân thủ các quy định pháp luật khác có liên quan./.
St

NGƯỜI NƯỚC NGOÀI ĐẦU TIÊN ĐƯỢC PHONG TẶNG DANH HIỆU ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG

 Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập nổi tiếng với câu nói: Việt Nam là máu thịt của mình.

Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập đã có một quãng đời trẻ trung, sôi nổi, cống hiến hết mình cho cách mạng Việt Nam. Ông coi Việt Nam như quê hương, Tổ quốc của mình.
Sinh ra trong một gia đình công nhân ở miền Bắc Hy Lạp, năm 1943 khi mới 16 tuổi, Kostas Sarantidis bị bắt đi lính để đưa sang Đức phục vụ cho các lực lượng phát xít.
Đến Nam Tư, ông trốn thoát, sống trên những chuyến tàu lửa ngược xuôi dọc biên giới Nam Tư - Hy Lạp.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, ông Kostas không thể trở về Hy Lạp vì không còn giấy tờ tùy thân. Sau đó, ông bị tham gia đội quân lê dương của Pháp và được điều tới Đông Dương để tham gia cuộc chiến chống phát xít và giải giáp quân Nhật.
Tuy nhiên, ngay khi tới Nam Bộ và Sài Gòn năm 1946, ông Kostas Sarantidis đã chứng kiến những cảnh tượng tố cáo tội ác và sự đàn áp của chủ nghĩa thực dân với nhân dân bản địa.
Tháng 6.1946, Kostas Nguyễn Văn Lập trốn khỏi đội quân lê dương Pháp tới vùng tự do ở tỉnh Bình Thuận và tham gia lực lượng Việt Minh kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Từ đó, trở thành người bạn, người đồng chí, đồng đội của Nhân dân Việt Nam, mọi người gọi ông là đồng chí với cái tên Việt Nam rất thân thương, gần gũi: Kostas Nguyễn Văn Lập.
Trong cuốn sách "Chiến sĩ quốc tế, Bộ đội Cụ Hồ Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập" do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành, Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập đã trực tiếp ghi lại những hồi ký, sự kiện quan trọng, giải thích lý do vì sao ông theo Việt Minh.
Đó là những trang nhật ký rất sinh động, không chỉ đơn thuần ghi sự việc xảy ra trong ngày mà còn là những trang tả cảnh, những thay đổi khi chứng kiến về sự tàn bạo của quân xâm lược Pháp.
Đó còn là những suy nghĩ dằn vặt của người thanh niên nước ngoài trẻ tuổi để rồi cuối cùng, chàng trai Hy Lạp đã dứt khoát chọn con đường theo chính nghĩa, đứng vào hàng ngũ cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập của Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông Kostas Nguyễn Văn Lập được giao nhiệm vụ làm công tác địch vận trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng, ông đã lập công xuất sắc khi cảm hóa được 40 lính lê dương buông súng trở về với gia đình.
Trong chiến đấu, ông Kostas luôn gan dạ, dũng cảm, lập nhiều chiến công…
Cấp bậc cao nhất của ông Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập là Đại tá. Năm 1949, ông Nguyễn Văn Lập vinh dự được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam.
Sau Hiệp định Geneva, năm 1954, ông Nguyễn Văn Lập tập kết ra Bắc và tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.
Năm 1958, ông lập gia đình với một cô gái Hà Nội và hai người có với nhau bốn người con, một trai ba gái, tất cả đều lấy tên Việt Nam.
Năm 1965, ông Nguyễn Văn Lập cùng gia đình xin phép trở về Hy Lạp sau khi biết tin người mẹ già đang sống tại quê nhà.
Dù không còn ở Việt Nam nhưng ông Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập luôn nỗ lực không ngừng để hỗ trợ Việt Nam và góp sức thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hy Lạp.
Ông từng có nhiều năm tận tụy làm công tác ngoại giao nhân dân và tâm huyết xây dựng cộng đồng người Việt tại Hy Lạp như một "Đại sứ tự nguyện" và được bà con Việt Kiều đánh giá là công dân Hy Lạp nhưng trái tim luôn hướng về Việt Nam.
Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập đã có một quãng đời trẻ trung, sôi nổi, cống hiến hết mình cho cách mạng Việt Nam. Ngay cả sau này, khi đã trở về Hy Lạp sinh sống, trái tim ông vẫn luôn hướng về nước Việt.
Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập từng nhiều lần chia sẻ, ông coi Việt Nam là máu thịt của mình.
Ông Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập được Đảng và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Hữu nghị, Huân chương Chiến thắng hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhì.
Đặc biệt, năm 2010, ông được Nhà nước ta công nhận quốc tịch Việt Nam. Năm 2013, ông vinh dự được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Ông mất ngày 25/6/2021.
St

PHỤ NỮ VIỆT NAM 🌹 🌹 🌹 ANH HÙNG DÂN TỘC TRIỆU THỊ TRINH

 Khi nói đến gương anh hùng liệt nữ, đến truyền thống đấu tranh xâm lược của ngoại bang, người Việt Nam qua nhiều thời đại thường không quên nhắc đến cái tên Bà Triệu bên cạnh các gương liệt nữ khác như Hai Bà Trưng, Lê Chân...

Triệu Thị Trinh hay Triệu Quốc Trinh, Triệu Ẩu, hay Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 nǎm 226 (Bính Ngọ) tại miền núi Quân Yên (hay Quan Yên), quận Cửu Chân (nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) trong một gia đình hào trưởng. Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: "lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị". Triệu Thị Trinh là một phụ nữ xinh đẹp, giỏi võ, có tướng mạo kỳ lạ, người cao lớn, có chí lớn. Truyền thuyết kể rằng, bấy giờ ở quê bà có con voi trắng một ngà rất hung dữ phá phách ruộng nương, làng xóm, cây cối không ai trị nổi. Bà bèn họp các bạn bày mưu, dùng kế lừa voi xuống một bãi đầm lầy, rồi bà nhảy lên đầu voi, dùng búa khuất phục nó. Từ đó voi trở thành người bạn chiến đấu trung thành của bà.
Khi nhà Ngô xâm lược đất nước, chế độ áp bức và bóc lột của nhà Ngô trên nước ta hồi bấy giờ vô cùng tàn bạo. Khi được vua Ngô cử sang làm thứ sử nước ta, Chu Phù và bọn tay chân của hắn ngang ngược hoành hành, thẳng tay cướp bóc tài sản của nhân dân Việt Nam. Nhân dân ta bị cưỡng bức phải đi kiếm các thứ như hương thơm, hạt trai, ngọc lưu ly, đồi mồi, ngà voi nộp cho vua Ngô. Mùa nào thức ấy, nhân dân ta còn phải nộp các thứ quả lạ như chuối tiêu, dứa, nhãn… để cung đốn cho bọn quan lại nhà Ngô. Chế độ bóc lột này làm cho tài sản người Việt Nam ngày càng kiệt quệ, đời sống ngày càng điêu đứng.
Triệu Quốc Trinh và anh trai là Triệu Quốc Đạt vô cùng căm giận bọn quan lại nhà Ngô ngay từ khi còn trẻ tuổi. Bà đã quyết hy sinh hạnh phúc cá nhân cho sự nghiệp cứu nước. Họ hàng khuyên bà lấy chồng, bà khảng khái nói: "Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người".
Với chí lớn ấy, từ năm 19 tuổi, bà đã cùng anh tập hợp nghĩa sĩ trên đỉnh núi Nưa, ngày đêm mài gươm, luyện tập võ nghệ để chuẩn bị khởi nghĩa.
Sau một thời gian chuẩn bị, Bà Triệu cùng nghĩa quân đã vượt sông Chu đến rừng núi Nưa (Nông Cống, Triệu Sơn ngày nay) để lập căn cứ, tập hợp lực lượng, chuẩn bị lương thảo, nhằm mở rộng địa bàn hoạt động xuống miền đồng bằng. Dưới ngọn cờ cứu nước của Bà Triệu, nhân dân khắp huyện Cửu Chân một lòng ủng hộ, nô nức tham gia nghĩa quân.
Cuộc khởi nghĩa của bà và Triệu Quốc Đạt bùng nổ vào nǎm 248 và được nhân dân trong quận Cửu Chân hưởng ứng nhiệt liệt và nhanh chóng lan tỏa ra quận Giao Chỉ. Bà làm hịch truyền đi khắp nơi, kể tội nhà Ngô và kêu gọi mọi người đứng dậy đánh đuổi quân Ngô. Từ núi rừng Ngàn Nưa, nghĩa quân Bà Triệu tấn công thành Tư Phố và đã mau chóng giành thắng lợi trọn vẹn. Bà Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền để xây dựng căn cứ địa. Về mặt quân sự, địa hình tự nhiên vùng Bồ Điền có đủ yếu tố để xây dựng một căn cứ thuận lợi cho cả “công” lẫn “thủ”. Từ đây có thể ngược sông Lèn, sông Âu ra sông Mã rút lên mạn Quân Yên (quê hương Bà Triệu), hoặc tới căn cứ núi Nưa lúc cần; lại có thể chủ động tấn công ra phía Bắc theo lối Thần Phù để khống chế địch ở mặt này.
Dựa vào địa hình hiểm yếu ở Bồ Điền, Bà Triệu đã cùng anh em họ Lý là Lý Hoằng Công, Lý Mỹ Công và Lý Thành Công chỉ huy nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn lũy vững chắc. Thanh thế nghĩa quân ngày càng lớn, khắp hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ nhân dân một lòng hưởng ứng công cuộc cứu nước của Bà Triệu. Các thành ấp của giặc Ngô ở Cửu Chân lần lượt bị hạ. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng lan ra Giao Chỉ và vào tận Cửu Đức, Nhật Nam. Thứ sử Châu Giao bị giết, bọn quan lại đô hộ ở Châu Giao hết sức hoảng sợ trước thanh thế và sức mạnh của nghĩa quân Bà Triệu. Sử nhà Ngô thú nhận: Năm 248 “toàn thể Châu Giao đều chấn động”.
Triệu Quốc Trinh chỉ huy chiến đấu vô cùng gan dạ. Mỗi khi ra trận, bà thường cưỡi voi, đi guốc ngà, mặc áo giáp vàng, chít khǎn vàng. Câu ca dao :
Có coi lên núi mà coi,
Coi bà quản tượng cưỡi voi bành vàng
đã vẽ lên hình ảnh oai hùng của nữ anh hùng Triệu Quốc Trinh khi bà ra trận. Bà đã đánh cho quân Ngô nhiều trận thất điên bát đảo.
Khi Triệu Quốc Đạt tử trận, Triệu Quốc Trinh lãnh đạo toàn bộ quân khởi nghĩa chiến đấu chống quân Ngô. Bà Triệu tự xưng là Nhuỵ Kiều tướng quân (Vị tướng yêu kiều như nhuỵ hoa). Nghĩa quân chiến đấu liên tiếp nhiều trận, thế lực ngày càng mạnh, quân số có tới hàng vạn người. Nghĩa quân của bà đánh thắng quân Ngô nhiều trận, giết chết viên thứ sử Châu Giao.
Quân Ngô ở miền Cửu Chân không đủ sức phá nổi nghĩa quân, vì vậy vua Ngô phải cử viên danh tướng Lục Dận làm thứ sử Giao Châu kiêm chức Hiệu úy, đem thêm 8.000 quân sang nước ta đàn áp phong trào khởi nghĩa. Lục Dận một mặt ra sức trấn áp nhân dân, mặt khác dùng thủ đoạn xảo quyệt, đem của cải, tiền bạc lung lạc một vài thủ lĩnh địa phương nhằm ổn định Giao Chỉ, tập trung lực lượng tấn công Cửu Chân.
Ổn định được Giao Chỉ, Lục Dận đã đem toàn bộ lực lượng tấn công Cửu Chân theo hai đường thủy: một mũi từ Tạc Khẩu qua hành lang Hoàng Cương - Chính Đại - Bạch Ác ngược sông Lèn vây bức phía bắc, một mũi theo đường biển vòng qua sông Sung và Vích (cửa Lạch Trường) đánh vào phía Nam.
Sau đó, y tập trung lực lượng tấn công vào các doanh trại của nghĩa quân. Quân Ngô hơn hẳn quân khởi nghĩa về mặt tổ chức cũng như về mặt vũ khí. Quân khởi nghĩa suy yếu dần và tan vỡ, lực lượng nghĩa quân còn non trẻ, không đủ sức chống lại đạo binh lớn hơn mình gấp bội.
Sau một cuộc bao vây ráo riết của quân giặc, Bà Triệu phải rút về núi Tùng Sơn. Bà quì xuống vái trời đất: "Sinh vi tướng, tử vi thần" (Sống làm tướng, chết làm thần) rồi rút gươm tự vẫn, đó là vào ngày 22 tháng 2 năm Mậu Thìn - 248.
Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu tuy thất bại, nhưng đã để lại một dấu son sáng ngời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Dân tộc ta nói chung, vùng đất Thanh Hóa nói riêng rất tự hào đã sinh ra vị nữ Anh hùng đã làm nên những chiến công rạng rỡ cho dân tộc. Tinh thần yêu nước, chí khí quật cường cùng sự hy sinh lẫm liệt của Bà Triệu không chỉ làm cho kẻ thù khiếp sợ mà còn là nguồn cổ vũ lớn lao đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự chủ của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử.
St

Xây dựng lực lượng Công an Thủ đô thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới

 Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, trực tiếp là Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an, của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Công an thành phố đã có đóng góp quan trọng trong lịch sử vẻ vang của Thủ đô Hà Nội. Phát huy kết quả đã đạt được, thời gian tới, Công an thành phố Hà Nội tiếp tục xây dựng lực lượng thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, góp phần xây dựng Thủ đô nghìn năm văn hiến và anh hùng.

1- Hà Nội là “trái tim” của cả nước, trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế; là nơi đặt trụ sở các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là vùng đất “địa linh nhân kiệt” với lịch sử hàng nghìn năm văn hiến, nơi hội tụ, kết tinh, lan tỏa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Trải qua 70 năm kể từ ngày giải phóng, Thủ đô Hà Nội đã có bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả lĩnh vực; chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô không ngừng được nâng lên; diện mạo Thủ đô có nhiều đổi thay, văn minh, hiện đại; vai trò, vị thế, uy tín của Thủ đô ngày càng được nâng cao cả trong nước và quốc tế. Thủ đô Hà Nội tự hào được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, danh hiệu “Thủ đô Anh hùng”; được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”, ghi danh tham gia Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO.

Trong lịch sử vẻ vang của Thủ đô Hà Nội, lực lượng Công an nhân dân nói chung, Công an thành phố Hà Nội nói riêng vinh dự, tự hào có nhiều đóng góp rất quan trọng. Tháng 6-1946, Ty Công an Hà Nội được thành lập dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thành ủy Hà Nội và chịu sự chỉ đạo công tác nghiệp vụ của Việt Nam Công an vụ (nay là Bộ Công an) đã nhanh chóng củng cố, phát triển lực lượng, cùng các đơn vị của Bộ Công an phát huy vai trò lực lượng vũ trang chuyên chính, mưu trí, dũng cảm đấu tranh, trấn áp, bóc gỡ các tổ chức đảng phái, phản động, đặc vụ Tưởng câu kết với mật thám, gián điệp Pháp và tay sai âm mưu đảo chính, lật đổ chính quyền cách mạng ở Thủ đô Hà Nội, góp phần xuất sắc vào chiến công đầu(1) của Công an nhân dân Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954), lực lượng Công an Thủ đô đã nhanh chóng phát triển lực lượng, tổ chức các đơn vị trinh sát, vũ trang, kề vai, sát cánh, phối hợp chặt chẽ với bộ đội, tự vệ Thủ đô dũng cảm chiến đấu, kiên cường, bất khuất với tinh thần “Cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh”, tiên phong mở đường xâm nhập vào nội thành nắm tình hình, xây dựng cơ sở, cài cắm lực lượng đi sâu vào các cơ quan đầu não chính trị, quân sự, tình báo của Pháp; tham gia tiếp quản, giải tán các tổ chức cũ của địch, nhanh chóng ổn định trật tự, trị an, bảo vệ an toàn cho Thủ đô, lập nhiều thành tích xuất sắc(2), góp phần cùng quân và dân ta đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Công an thành phố Hà Nội tiếp tục kiện toàn tổ chức, tăng cường xây dựng lực lượng, triển khai đồng bộ biện pháp góp phần quan trọng bảo vệ an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; bảo đảm trật tự, trị an trên địa bàn. Tháng 12-1972, khi đế quốc Mỹ ném bom rải thảm Hà Nội trong chiến dịch “Linebaker II”(3), Công an thành phố Hà Nội đã phối hợp làm tốt công tác bảo mật, phòng gian, bảo vệ bí mật quân sự; tổ chức, bảo vệ nhân dân sơ tán an toàn; tham gia cứu thương, cứu sập, tuần tra canh gác, giữ vững an ninh, trật tự địa bàn Thủ đô dù trong hoàn cảnh cam go nhất, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” vang dội. Cùng với đó, gần 1.000 lượt cán bộ, chiến sĩ Công an Thủ đô đã được chi viện cho an ninh miền Nam với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân Thủ đô, Công an thành phố Hà Nội đã triển khai đồng bộ kế hoạch, biện pháp bảo vệ tuyệt đối an toàn cho các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các sự kiện quan trọng của đất nước; đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự địa bàn Thủ đô. Quán triệt đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (năm 1986), Công an thành phố đã chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vững mạnh; nhanh chóng đổi mới tư duy, phong cách và biện pháp công tác; nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân; xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển rộng khắp, phối hợp với các lực lượng vũ trang, các sở, ban, ngành, đoàn thể bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Trong những năm gần đây, Công an thành phố Hà Nội đã có nhiều đổi mới sáng tạo trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự. Tham mưu cấp ủy, chính quyền các cấp huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, toàn dân trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự; nắm chắc, xử lý kịp thời từ sớm, từ cơ sở các vấn đề, vụ việc phức tạp, không để xảy ra bị động, bất ngờ; triển khai đồng bộ nhiều chương trình, kế hoạch, mô hình mới trong phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật đạt hiệu quả cao, được nhân rộng kinh nghiệm tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước (mô hình 141, 142); chủ động, tiên phong là một trong những điểm sáng về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội của người dân và doanh nghiệp. Với sự đoàn kết thống nhất, chung sức đồng lòng, nỗ lực phấn đấu, nhạy bén sáng tạo, Công an thành phố Hà Nội đã triển khai hiệu quả chủ trương, quan điểm, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an về bảo đảm an ninh, trật tự, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, giữ vững an ninh, trật tự trên địa bàn, tạo môi trường thuận lợi tối đa cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Thủ đô, góp phần xây dựng Hà Nội luôn là thành phố đáng sống, điểm đến thân thiện, an toàn của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.

Với chiến công, thành tích đạt được trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự, góp phần xây dựng Thủ đô nghìn năm văn hiến và anh hùng, Thành phố vì hòa bình, lực lượng Công an Thủ đô được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, trao tặng nhiều phần thưởng cao quý(4). Quan trọng hơn, đó là sự ghi nhận và tình cảm của nhân dân Thủ đô, nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế với lực lượng Công an Thủ đô ngày càng sâu sắc và tốt đẹp. Đây là phần thưởng xứng đáng, là động lực để cán bộ, chiến sĩ Công an thành phố Hà Nội tiếp tục nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, bảo vệ sự bình yên và hạnh phúc của nhân dân.

2- Thành tích, chiến công của Công an thành phố Hà Nội đạt được thời gian qua trước hết là do sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, trực tiếp là Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an; của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội qua các thời kỳ; sự phối hợp, hỗ trợ của các sở, ban, ngành, đoàn thể, sự ủng hộ, giúp đỡ của các tầng lớp nhân dân Thủ đô cũng như cả nước. Cùng với đó là sự nỗ lực, cố gắng phấn đấu của Đảng ủy, lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ Công an Thủ đô qua các giai đoạn; trong đó, quyết định nhất là việc luôn quan tâm xây dựng lực lượng Công an Thủ đô trong sạch, vững mạnh. Từ tổ chức ban đầu là Ty Công an Hà Nội (năm 1946), đến Sở Công an Hà Nội (năm 1954), Công an thành phố Hà Nội (từ tháng 6-1981) đã ngày càng phát triển theo hướng vững về tổ chức, mạnh về nghiệp vụ. Đặc biệt, từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15-3-2018, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”, cùng với quán triệt quan điểm, chủ trương, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn mới, công tác xây dựng lực lượng Công an Thủ đô được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, toàn diện; tập trung sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; từng bước hoàn thiện, chuẩn hóa quy trình, quy định về công tác tổ chức cán bộ, tạo sự liên thông, đồng bộ, thống nhất với quy trình, quy định trong công tác công an. Đội ngũ cán bộ được cơ cấu theo hướng “tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”; lực lượng trực tiếp chiến đấu, công an cơ sở được tăng cường biên chế kết hợp với rà soát, bố trí, sử dụng cán bộ theo năng lực, sở trường, trình độ, chuyên ngành đào tạo. Công tác kiện toàn, củng cố đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy được đặc biệt quan tâm và xác định là khâu đột phá. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, chiến sĩ được thực hiện theo phương châm “đào tạo vì yêu cầu công việc, không vì thực hiện chính sách cán bộ”, cơ bản đáp ứng kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng Công an Thủ đô có thể rút ra một số kinh nghiệm sau: 1- Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với công tác xây dựng lực lượng Công an Thủ đô; phối hợp thực hiện tốt cơ chế song trùng lãnh đạo giữa Đảng ủy Công an Trung ương và Thành ủy Hà Nội theo quy định của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; 2- Thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của thành phố Hà Nội, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, phức tạp trong bảo vệ an ninh, trật tự, giữ vững môi trường bình yên, an toàn của Thủ đô, để có chủ trương, chính sách, cơ chế huy động, đầu tư nguồn lực xứng đáng cho công tác xây dựng lực lượng Công an Thủ đô chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; 3- Phát huy truyền thống lịch sử nghìn năm văn hiến và anh hùng, kết hợp sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của thời đại và toàn dân trong xây dựng lực lượng Công an Thủ đô; 4- Thường xuyên quan tâm xây dựng hình ảnh đẹp của lực lượng Công an Thủ đô gần dân, trọng dân, sát dân, tận tụy, hết lòng phục vụ nhân dân, phấn đấu là hình mẫu điển hình của Công an nhân dân Việt Nam trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế; 5- Kế thừa, phát huy truyền thống, thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng Công an Thủ đô; tham khảo, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm xây dựng lực lượng an ninh, cảnh sát thủ đô các nước trên thế giới để xây dựng lực lượng Công an Thủ đô trong sạch, vững mạnh toàn diện.

3- Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực dự báo vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp; bên cạnh thời cơ, thuận lợi, sẽ gia tăng khó khăn, thách thức, áp lực đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự. Thủ đô Hà Nội tiếp tục là địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá, gây mất an ninh, trật tự. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, củng cố vững chắc môi trường an ninh, an toàn phục vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, phát triển nhanh, bền vững, có sức lan tỏa, thúc đẩy vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước cùng phát triển theo Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 5-5-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, cần tập trung cao độ xây dựng lực lượng Công an Thủ đô thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an phối hợp với Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng lực lượng Công an Thủ đô với các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Thứ nhất, tập trung thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Trọng tâm là rà soát, đẩy nhanh tiến độ thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được xác định trong Nghị quyết số 12-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 05/NQ-CP, ngày 14-2-2023, “Về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16 tháng 3 năm 2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”; Kế hoạch số 118-KH/ĐUCA, ngày 25-5-2022, của Đảng ủy Công an Trung ương, “Về thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16 tháng 3 năm 2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”; Nghị quyết số 22-NQ/TU, ngày 1-11-2023, của Thành ủy Hà Nội, về “Đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an Thủ đô thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” và Quyết định số 410/QĐ-UBND, ngày 15-12-2023, của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, “Về việc ban hành Đề án “Đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an Thủ đô thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới””. Quán triệt thực hiện phương châm “Xây dựng con người là trung tâm, hiện đại trước, kết hợp với hiện đại về phương tiện, hậu cần, kỹ thuật”, huy động mọi nguồn lực, phát huy tiềm năng, thế mạnh, lợi thế của Thủ đô, kết hợp với nguồn lực của Bộ Công an để xây dựng lực lượng Công an Thủ đô đạt mục tiêu mà Bộ Chính trị, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đề ra.

Thứ hai, xây dựng tổ chức đảng Công an thành phố trong sạch, vững mạnh, giữ vững đoàn kết nội bộ, lãnh đạo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Tập trung nâng cao năng lực, sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong Công an thành phố, phấn đấu là Đảng bộ gương mẫu, tiêu biểu, đi đầu trong công tác xây dựng Đảng của hệ thống chính trị toàn thành phố Hà Nội; thực hiện hiệu quả mô hình “chi bộ bốn tốt”, “đảng bộ cơ sở bốn tốt”; phát huy vai trò nêu gương, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, thực hiện tốt phương châm “Trên làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo”. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ, đi đôi với siết chặt kỷ luật, kỷ cương, lễ tiết, tác phong và việc chấp hành Điều lệnh Công an nhân dân. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm đảng viên, cán bộ, chiến sĩ tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Thứ ba, phát huy tổ chức bộ máy Công an Thủ đô tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Tiếp tục rà soát, cơ cấu lực lượng phù hợp giữa cấp phòng, cấp huyện, cấp xã. Làm tốt công tác đánh giá, quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ, bảo đảm hiệu quả, hợp lý, phù hợp với năng lực, trình độ, sở trường, kiến thức và có tính đến các yếu tố môi trường, xã hội và gia đình, cá nhân để cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác. Đặc biệt, chú trọng xây dựng, củng cố đội ngũ công an cấp cơ sở thực sự là những cán bộ gần dân, sát dân, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân. Mỗi cán bộ, chiến sĩ công an nói chung, Công an Thủ đô nói riêng phải luôn ghi nhớ và thực hiện tốt phương châm “Trọng dân, gần dân, lúc dân cần, lúc dân khó, có Công an”, phát huy mạnh mẽ truyền thống “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”. Chuẩn bị tốt các điều kiện tổ chức đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng bộ Công an thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2025 - 2030; lựa chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận thực sự có đức, có tài, đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, hiệu quả công tác và uy tín.

Thứ tư, tăng cường công tác phối hợp với các sở, ban, ngành, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị thành phố, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong xây dựng Công an Thủ đô chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Kết luận số 82-KL/TW, ngày 7-6-2024, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại Công an nhân dân đến năm 2030 và những năm tiếp theo”. Tổ chức hợp tác quốc tế toàn diện, sâu rộng, tranh thủ tối đa nguồn lực, tiếp thu kinh nghiệm, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại trên thế giới, nâng cao sức mạnh cho lực lượng Công an nhân dân nói chung, Công an Thủ đô nói riêng. Có kế hoạch cụ thể quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy có đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế.

Thứ năm, tăng cường tiềm lực vật chất, kỹ thuật, ứng dụng khoa học - công nghệ đáp ứng yêu cầu công tác của Công an Thủ đô. Ban hành cơ chế, chính sách đặc thù quy định định mức trang bị đối với lực lượng Công an Thủ đô để phát huy tối đa, huy động toàn diện nguồn lực phục vụ hiện đại hóa phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Quan tâm thu hút, phát triển nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật và công nghệ, chuyên gia giỏi cộng tác, làm việc trong lực lượng Công an Thủ đô. Tiếp tục quan tâm đầu tư xây dựng công an xã, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới./.

St

ĐẨY MẠNH THI ĐUA YÊU NƯỚC CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ CÁC CẤP TIẾN TỚI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIV

 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 39/CT-TTg ngày 15/10/2024 về việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước chào mừng Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ XI.

Chỉ thị nêu: Năm 2025 là năm diễn ra Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Đại hội Thi đua toàn quốc lần thứ XI; năm diễn ra nhiều sự kiện kỷ niệm các ngày lễ lớn của Đảng, đất nước, dân tộc: Kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, kỷ niệm 50 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng 8 thành công và Quốc khánh 2/9; năm có ngày kỷ niệm năm tròn chẵn của hầu hết các bộ, ngành và nhiều địa phương trong cả nước. Đây cũng là năm có ý nghĩa quan trọng, quyết định việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, tạo tiền đề phấn đấu thực hiện kế hoạch 5 năm (2026 -2030).
Để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 và năm 2025, phấn đấu hoàn thành Kế hoạch 5 năm (2021 - 2025) theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, lập thành tích chào mừng đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ XI và các ngày lễ lớn trong năm 2025, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp tục quán triệt, tuyên truyền sâu rộng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng, đặc biệt là Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 và các nghị định quy định chi tiết thi hành, Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát động thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và Kế hoạch 5 năm (2021 - 2025) theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; tuyên truyền, giáo dục về truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của công tác thi đua, khen thưởng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tổ chức thi đua bảo đảm thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm.
Các bộ, ngành, địa phương tổ chức phát động đợt thi đua đặc biệt từ nay đến hết năm 2025 nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tạo khí thế thi đua sôi nổi và rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, quyết tâm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị năm 2024, năm 2025 và kế hoạch 5 năm (2021 - 2025), các đề án, chương trình được Chính phủ giao theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các Nghị quyết của Quốc hội.
Xác định rõ mục đích, yêu cầu, mục tiêu, nội dung và phương thức tổ chức phong trào thi đua, bám sát các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tập trung giải quyết những nhiệm vụ trọng tâm, các chỉ tiêu, nhiệm vụ của từng ngành, từng cấp, từng địa phương, từng lĩnh vực công tác. Gắn phong trào thi đua của bộ, ban, ngành, địa phương với các phong trào thi đua trọng tâm đang được triển khai trong phạm vi cả nước: "Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí", "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới", "Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau", "Cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trong năm 2025", "Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở", "Cả nước thi đua xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh học tập suốt đời", cùng với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững; tổ chức phát động, triển khai có hiệu quả các phong trào chung tay khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, ổn định cuộc sống Nhân dân, khôi phục sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng... Thực hiện sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, kế thừa, phát huy những bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện, để đẩy mạnh các phong trào thi đua trong giai đoạn tiếp theo.
Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, vai trò, trách nhiệm của chính quyền, đoàn thể và người đứng đầu trong việc tổ chức các phong trào thi đua và thực hiện chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng. Thông qua các phong trào thi đua, kịp thời phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng các điển hình tiên tiến, để động viên, biểu dương, khen thưởng, tạo không khí thi đua sôi nổi, cổ vũ các tập thể, cá nhân phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, quyết tâm phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của bộ, ngành, địa phương. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án "Tuyên truyền gương điển hình tiên tiến" giai đoạn 2022 - 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1526/QĐ-TTg ngày 09 tháng 12 năm 2022.
Các bộ, ngành, địa phương tổ chức tốt Đại hội thi đua, hội nghị điển hình tiên tiến các cấp, các ngành và Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ XI, tạo động lực, khí thế thi đua sôi nổi trước thềm Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Đổi mới nội dung, hình thức tổ chức bảo đảm thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm. Đại hội thi đua, hội nghị điển hình tiên tiến các cấp, các ngành cần tập trung đánh giá đúng kết quả tổ chức triển khai các phong trào thi đua, những mô hình hay, nhân tố mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả trong 05 năm qua, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ công tác thi đua, khen thưởng giai đoạn 2026 - 2030; đồng thời ghi nhận, biểu dương, tôn vinh, khen thưởng các tập thể, cá nhân tiêu biểu đạt thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua, có sức lan tỏa trong cộng đồng và xã hội.
Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, tạo chuyển biến mạnh mẽ và thực chất, bảo đảm nguyên tắc khen thưởng chính xác, công khai, công bằng, kịp thời, có tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương. Chú trọng khen thưởng thông qua phát hiện các điển hình, nhân tố mới, khen thưởng người lao động trực tiếp, vùng sâu, vùng xa, khen thưởng đột xuất, khen thưởng theo chuyên đề. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai Chỉ thị này; theo dõi, tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Tiếp tục tham mưu triển khai các phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động, làm nòng cốt cho các phong trào thi đua của cả nước, của các bộ, ngành, địa phương; thực hiện sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua theo kế hoạch...
Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và các cơ quan có liên quan tăng cường các hoạt động thông tin, tuyên truyền sâu rộng nội dung của Chỉ thị, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong tổ chức triển khai phong trào thi đua. Tích cực đổi mới, đa dạng hóa phương thức để đẩy mạnh tuyên truyền tư tưởng về thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng; dành nhiều thời gian, thời lượng, mở các chuyên trang, chuyên mục để tuyên truyền về thành quả của các phong trào thi đua, gắn với biểu dương, tôn vinh, nhân rộng các điển hình tiên tiến; kịp thời phản ánh, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng./
St

Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

 Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sĩ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).

Tham dự buổi trao đổi có đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo lớp học.

Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử trân trọng giới thiệu nội dung trao đổi chuyên đề về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc của Tổng Bí thư Tô Lâm: 

Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Tổng Bí thư Tô Lâm chia sẻ, kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội - văn hóa - chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường. Ví dụ: Kỷ nguyên Công nghiệp, Kỷ nguyên thông tin, Kỷ nguyên Kỹ thuật số, Kỷ nguyên vũ trụ. Còn trước đây là Kỷ nguyên Đồ đá, Kỷ nguyên Cổ đại, Kỷ nguyên Trung cổ…

Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại.
Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dâu giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.

Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Tổng Bí thư nhấn mạnh, những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích (Kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là thời điểm ý đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Từ những vấn đề trên, có thể thấy, đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới.

Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã trao đổi về 7 định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

1. Về cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng

Trong hơn 94 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. 

Tổng Bí thư chỉ rõ, bên cạnh kết quả, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế: (i) Tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. (ii) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. (iii) Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. (iv) Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. (v) Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; hội họp vẫn nhiều.

Yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ đang đặt ra cấp thiết, một số giải pháp chiến lược, sau đây: (i) Thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. (ii) Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Trong đó, nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. (iii) Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện, xác định đúng, trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện Nghị quyết của Đảng. Xây dựng các chi bộ cơ sở vững mạnh, có tính chiến đấu cao, có năng lực đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống; đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng, đảm bảo hoạt động sinh hoạt chi bộ thực chất, hiệu quả.(iv) Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực.

2. Về tăng cường tính Đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

Sau 02 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế: (i) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao; (ii) hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế. (iii) Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân. Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, đặt ra yêu cầu cấp thiết phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, về quan điểm: Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Về giải pháp, đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, trong đó: (i) Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. (ii) Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành. Tuyệt đối không hành chính hóa hoạt động của Quốc hội; luật hóa các quy định của Nghị định và Thông tư. (iii) Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; vừa làm vừa rút kinh nghiệm; không nóng vội, nhưng cũng không cầu toàn, để mất thời cơ; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật. (iv) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. (v) Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”. (vi) Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo.

3. Về tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả

Tổng Bí thư chỉ rõ, nhiệm vụ này đang đặt ra rất cấp thiết: (i) Hiện nay 70% ngân sách dùng để nuôi bộ máy, trong khi đó công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác tinh giản biên chế gắn với vị trí việc làm, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức còn thiếu triệt để. (ii) Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến cản trở phát triển, tăng thủ tục hành chính, lãng phí thời gian công sức của doanh nghiệp, công dân, làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước.
Chủ trương chiến lược: (i) Tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. (ii) Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường của các địa phương. (iii) Sơ kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 18 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” trong toàn hệ thống chính trị trình Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII; làm cơ sở có những quyết sách mới đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ theo định hướng đã được Trung ương 10 thống nhất.
4. Chuyển đổi số

Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.

Tổng Bí thư lưu ý, quan hệ sản xuất chưa phù hợp đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất mới: (i) Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút các nguồn lực, nhất là nguồn lực trong dân. (ii) Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Vẫn tồn tại những thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu, qua nhiều khâu, nhiều cửa, mất nhiều thời gian, công sức của người dân và doanh nghiệp, dễ nảy sinh tham nhũng vặt, cản trở phát triển. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ người sử dụng chưa cao; việc tổ chức vận hành bộ phận “một cửa” các cấp ở nhiều nơi chưa hiệu quả.
Thực hiện cách mạng chuyển đổi số với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi do Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đem lại, đưa đất nước đi tắt đón đầu phát triển vượt bậc. Bộ Chính trị sẽ sớm nghiên cứu, ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số quốc gia để lãnh đạo thực hiện quyết liệt trong toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị.

Một số giải pháp chủ yếu: (i) Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... đảm bảo khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. (ii) Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. (iii) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. (iv) Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số. 

5. Chống lãng phí

Tổng Bí thư nêu rõ, thực tế cho thấy, “Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”[1], song lãng phí hiện nay diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng cho phát triển (gây suy giảm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí, gây cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo; gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước).

Một số dạng thức của lãng phí đang nổi lên gay gắt hiện nay, đó là: (i) Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn dẫn đến khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực. (ii) Lãng phí thời gian, công sức của doanh nghiệp, cá nhân khi thủ tục hành chính rườm rà, dịch vụ công trực tuyến chưa thuận tiện và thông suốt. (iii) Lãng phí cơ hội phát triển của địa phương, của đất nước do bộ máy nhà nước có nơi, có lúc hoạt động chưa hiệu quả, một bộ phận cán bộ thiếu năng lực, né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm; do chất lượng, năng suất lao động thấp. (iv) Lãng phí tài nguyên thiên nhiên; lãng phí tài sản công do quản lý, sử dụng chưa hiệu quả, trong đó giải ngân vốn đầu tư công; cổ phần hóa, xử lý thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước; sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước; thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia, các gói tín dụng hỗ trợ phát triển an sinh xã hội hầu hết rất chậm. (v) Lãng phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của Nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức. (vi) Lãng phí do hệ thống tiêu chuẩn, định mức, chế độ, một số chưa phù hợp thực tế nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Trong khi đó, xử lý lãng phí chưa được đề cao, thường gắn với xử lý tham nhũng như hệ lụy kéo theo; chưa tạo được phong trào thi đua rộng khắp về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cũng như dư luận xã hội mạnh mẽ để phê phán, lên án những hành vi gây lãng phí; việc xây dựng văn hóa tiết kiệm, không lãng phí trong xã hội chưa được quan tâm đúng mức. 

Giải pháp chiến lược những năm tới đó là: (i) Đẩy mạnh phòng, chống lãng phí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Từ ban hành quy định của Đảng để nhận diện, chiến lược quốc gia, quy định của pháp luật và thực thi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể có hành vi, việc làm gây thất thoát, lãng phí tài sản công theo tinh thần “xử lý một vụ cảnh tỉnh cả vùng cả lĩnh vực”. (ii) Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Hoàn thiện các quy định xử lý hành vi lãng phí; các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; thể chế trong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tạo sự đồng bộ trong chuyển đổi để giảm thiểu lãng phí. (iii) Giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, dự án hiệu quả thấp, gây thất thoát, lãng phí lớn; các ngân hàng thương mại yếu kém. Sớm hoàn thành cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. (iv) Xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày”.

6. Cán bộ

Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết.
Về phẩm chất, yêu cầu đối với cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: (i) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết. (ii) Có bản lĩnh, quyết tâm cao, sẵn sàng dấn thân, hy sinh lợi ích cá nhân. Dám đi đầu, đổi mới, loại bỏ cái cũ, cái lạc hậu; khơi thông điểm nghẽn, giải quyết vướng mắc, ách tắc trong thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; giải quyết những vấn đề sai sót tồn đọng, kéo dài hoặc đột phá đối với những vấn đề mới chưa có quy định hoặc quy định chồng chéo, thiếu thống nhất, khó thực hiện. (iii) Có năng lực cụ thể, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương chiến lược của Đảng vào thực tiễn từng bộ, ban, ngành, địa phương (chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng chiến lược, cải cách triệt để thủ tục hành chính…)

Tổng Bí thư nêu rõ giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới: (i) Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được. (ii) Tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số. (iii) Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế; bảo vệ đối với những trường hợp nguy cơ rủi ro, sai sót từ sớm, ngay khi có kế hoạch, không để nhụt chí. (iv) Sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín. (v) Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, thử thách đối với các đồng chí là nhân sự được quy hoạch tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, bảo đảm lựa chọn ra được cấp ủy, nhất là người đứng đầu có năng lực lãnh đạo, có sức chiến đấu cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp chung, có năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống trên từng lĩnh vực, địa bàn.
7. Về kinh tế

Tổng thể kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng liên tục từ khi thực hiện Cương lĩnh 1991, thường xuyên ở trong nhóm những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, đưa Việt Nam từ nước thu nhập thấp trở thành nước thu nhập trung bình.

Tổng Bí thư chỉ rõ, tuy tốc độ tăng trưởng cao, song nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu, nguy cơ kinh tế Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình và khó tiệm cận với các nước đang phát triển, thể hiện trên 5 điểm: (i) Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam giảm dần, thấp hơn nhiều nước trong khu vực (giai đoạn 2021-2025 ước đạt 4,8%, thấp hơn so với bình quân 3 năm 2016-2018 (6,1%), không đạt mục tiêu đề ra (6,5%), trong khi cùng xuất phát điểm với VN, TQ đầu những năm 1990 tăng liên tục mỗi năm đều đạt 9%. (ii) Năng suất các nhân tố tổng hợp - yếu tố quan trọng trong chất lượng tăng trưởng cũng có xu hướng giảm (giai đoạn 2015-2019 đạt 2,77%, đứng đầu khu vực ASEAN, năm 2022 là -1,36%, năm 2023 là -2%), cho thấy hiệu quả của nền kinh tế có xu hướng giảm. (iii) Tăng trưởng của Việt Nam từ năm 2021 đến nay chủ yếu phụ thuộc vào xuất khẩu, trong đó khối FDI chiếm trên 70% (tương đương 60% GDP); các doanh nghiệp này nhập khẩu trên 80% linh kiện, thiết bị, chỉ sử dụng những tư liệu sản xuất giản đơn của Việt Nam như lao động, đất đai, nguyên vật liệu cơ bản, không giúp Việt Nam xây dựng công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp nội địa có năng lực cạnh tranh cao trong chuỗi giá trị toàn cầu (doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng chỉ là các sản phẩm giản đơn). Khi thời kỳ dân số vàng kết thúc (khoảng năm 2027-2037), giá nhân công tăng, lợi thế cạnh tranh không còn, FDI dịch chuyển sang nước khác hoặc sụt giảm, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế Việt Nam. (iv) Tình trạng nhiều cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh trong xử lý công việc, sợ đổi mới, không dám nghĩ, dám làm, ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội. (v) Các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế chưa phát huy hiệu quả (nguồn nhân lực còn hạn chế khi năng suất lao động, động lực làm việc của cán bộ quản lý nhà nước giảm sút; nguồn vật lực còn lãng phí, nguồn tài lực chưa được khai thông): Lãng phí trong sử dụng đất đai (trong khi xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai chậm), khoáng sản (chủ yếu khai thác, chế biến thô); chưa hiệu quả trong phát triển hạ tầng giao thông (quy hoạch phát triển hạ tầng sân bay, cảng biển dàn trải, đầu tư manh mún ở nhiều địa phương có vị trí địa lý gần nhau, không có lợi thế khác biệt); mất cân đối về hạ tầng năng lượng; thị trường tài chính, tiền tệ thiếu bền vững khi lượng vốn lớn bị đóng băng vào bất động sản.

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên do: (i) Điểm nghẽn về thể chế và hạn chế trong thực thi pháp luật. Tình trạng sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám làm, né tránh trách nhiệm, đùn đẩy công việc lên cơ quan quản lý cấp trên hoặc sang bộ, ngành khác. (ii) Chuyển đổi mô hình kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu chậm. Đầu tư công tiến độ chậm, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, còn dàn trải, nhiều lãng phí, chưa phát huy vai trò dẫn dắt, kích hoạt hiệu quả các nguồn lực ngoài nhà nước. Hoạt động cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém chậm; tình trạng “sử hữu chéo”, cho vay tín dụng đối với doanh nghiệp “nội bộ”, “sân sau” còn phức tạp và chưa có biện pháp giải quyết triệt để. Xác định các ngành hàng chiến lược, quốc gia giá trị cao chưa được quan tâm. (iii) Hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị thiếu tính kết nối; xây dựng hạ tầng số chậm. (iv) Kinh tế tư nhân chưa trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, chưa tận dụng tốt các nguồn lực đầu tư nước ngoài. (v) Ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ chưa đem lại kết quả rõ nét; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, thiếu lao động trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ cao, phục vụ phát triển số. (vi) Các yếu tố bên ngoài tác động tiêu cực, làm gia tăng nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
Tổng Bí thư chỉ rõ một số giải pháp, định hướng chiến lược phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình: (i) Đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, phát triển khoa học và công nghệ đồng bộ, thông suốt, tất cả vì sự phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội của đất nước và phát triển nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là ưu tiên cao nhất. (ii) Tập trung xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh của Đảng đã xác định (dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng Cộng sản lãnh đạo). (iii) Tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới (kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất. (iv) Khởi xướng và thực hiện cách mạng chuyển đổi số. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển./.

St