Những bài thơ chúc Tết của Bác Hồ vượt lên trên ý
nghĩa của một phong tục văn hóa, mang ý nghĩa kêu gọi, động viên đồng bào, còn
là một đối thoại với thế giới, với nhân loại. Thế nên, cứ thường vào dịp Tết
đến, xuân về, Bác đều làm thơ chúc Tết, mỗi lời chúc đều tỏa những ánh sáng ý
nghĩa văn hóa rất đặc biệt. Bài thơ "Chúc năm mới" năm 1942 có thể
xem là bài thơ xuân đầu tiên Bác dành tặng toàn thể đồng bào mình. Cũng năm
1942, Bác còn công bố bài thơ "Lịch sử nước ta", một tác phẩm mang
rất nhiều ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta
hiện nay..
Cách đây 80 năm, dịp Tết Nhâm Ngọ 1942, ở hang
Cốc Bó, Bác Hồ viết bài thơ “Chúc năm mới” in trên Báo Việt Nam độc lập, số
114, ngày 1-1-1942. Thời điểm này, Chiến tranh thế giới thứ hai đang căng
thẳng, phát xít Đức cùng phe xâm lược đang tạm chiếm ưu thế, nhưng với nhãn
quan chiến lược toàn cầu, tác giả có lời chúc: “Chúc phe xâm lược sẽ diệt
vong!/ Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi”. Hai câu thơ ở hai thế tương phản trời
vực có hai chữ “sẽ” khẳng định chắc chắn một tương lai. Lịch sử chứng minh lời
chúc này là lời chúc của chân lý, của chính nghĩa, của lịch sử, của thời đại.
Tiếp đó là lời chúc, đồng thời là một nguyên lý chiến lược: “Chúc đồng bào ta
đoàn kết mau!/ Chúc Việt Minh ta càng tấn tới!”.
Đáng chú ý, hình tượng Quốc kỳ đã bay phấp phới
trong thơ để “nói” với thế giới về một Việt Nam mới sắp ra đời: “Chúc toàn quốc
ta trong năm này/ Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới!/ Năm này là năm rất vẻ vang/
Cách mệnh thành công khắp thế giới”. Bài thơ 10 câu là một hình thức phá cách
truyền thống (8 câu) để nói về sự phá cách ở nội dung: Sự thay đổi của tình
hình thế giới và Việt Nam. Đến đây, ta hiểu lý do lời chúc mở đầu là “chúc năm
mới” theo thông lệ phong tục, rồi chúc: “Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong...”,
tiếp đó mới là lời chúc “Chúc đồng bào...”: Cách mạng Việt Nam vận động gắn
liền, chịu sự chi phối của tình hình đại cục thế giới. Sự tinh tế này chỉ có ở
những thiên tài chính trị như Bác Hồ!
Cũng cách nay 80 năm, ngày 1-2-1942, trên Báo
Việt Nam độc lập, số 117 có in bài báo "Nên học sử ta". Cùng tháng
đó, "Lịch sử nước ta" được Việt Minh Tuyên truyền Bộ xuất bản. Kế
thừa truyền thống diễn ca, cụ thể là "Thiên Nam ngữ lục" (viết theo
lệnh chúa Trịnh) và "Đại Nam quốc sử diễn ca" (viết theo yêu cầu của
triều đình nhà Nguyễn) nhưng đứng trên quan điểm nhân dân, "Lịch sử nước
ta" lý giải sự thăng trầm, thành bại của lịch sử là do dân: “Xét trong
lịch sử Việt Nam/ Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng...”. Tác phẩm gồm 208 câu
diễn ca lịch sử nước nhà từ thời “Hồng Bàng là tổ nước ta” đến thời điểm công
bố tác phẩm-năm 1942, trong tổng số 1.456 chữ, có tới 18 chữ dân.
"Lịch sử nước ta" diễn ca khoảng 30
nhân vật lịch sử nhưng không miêu tả diện mạo ngoại hình mà chú trọng vào
phương diện phẩm chất, miêu tả tính cách theo nguyên tắc khái quát hóa cao độ,
nhân vật luôn gắn liền với một giai cấp, tầng lớp nào đó. Thánh Gióng gắn liền
với “thiếu niên”, “trẻ con” nhưng đã là bậc “cứu nước”: “Thiếu niên ta rất vẻ
vang/ Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời/ Tuổi tuy chưa đến chín mười/ Ra tay
cứu nước dẹp loài vô lương”. Bà Triệu tiêu biểu cho “tài năng dũng cảm” của phụ
nữ: “Tài năng dũng cảm hơn người/ Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương/ Phụ
nữ ta chẳng tầm thường/ Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời”. Nhân vật lịch sử
được đề cập nhiều nhất (6 câu thơ) là Trần Quốc Toản, một tấm gương của “trẻ
con Nam Việt”: “Thật là một đấng anh hùng/ Trẻ con Nam Việt nên cùng noi
theo...”. Rõ ràng, "Lịch sử nước ta" được viết ra với mục đích khơi
gợi niềm tự hào dân tộc, ý thức về giá trị, bổn phận và trách nhiệm của các
tầng lớp, giai cấp trong xã hội đối với đất nước.
Có thể coi "Lịch sử nước ta" là một
cuốn chính sử rút gọn được viết bằng văn vần thể hiện ở tính chính xác, khoa
học, hệ thống, toàn diện, không thiên kiến. Tác phẩm nhấn mạnh cội nguồn sức
mạnh của lịch sử là sự đoàn kết toàn dân, có đoàn kết thì có thắng lợi và ngược
lại: “Ta không đoàn kết bị người tính thôn.../ Vì dân hăng hái kết đoàn/ Nên
khôi phục chóng giang san Lạc Hồng...”. Đặc biệt, ở đoạn cuối, các từ đoàn kết,
kết đoàn, đồng lòng được nhắc đi nhắc lại như nhắn nhủ, như tâm tình, như tha
thiết kêu gọi: “Người chúng ít, người mình đông/ Dân ta chỉ cốt đồng lòng là
nên/ Hỡi ai con cháu Rồng Tiên/ Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau/ Bất kỳ nam
nữ, nghèo giàu/ Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn...”.
"Lịch sử nước ta" bám sát vào cái lõi
lịch sử, diễn ca đúng với phong cách thơ Hồ Chí Minh, dễ hiểu, ngắn gọn, hàm
súc, giàu sức khái quát. Sức lôi cuốn của tác phẩm thể hiện ở sự trung thực với
lịch sử; ở quan điểm biện chứng coi dân là nhân tố cơ bản nhất tạo ra, làm nên
lịch sử; nhất là ở vấn đề phân tích, lý giải lịch sử thời hiện tại. Các tính từ
ngợi ca được dùng với mật độ dày đặc: Rực rỡ, thuận hòa, vẻ vang, tiếng vang,
đại tài, tiếng thơm, tạc đá vàng, tài năng, dũng cảm, làm gương, phi thường,
hiền thần, quang vinh, hiền minh, hiển vinh... mà tác giả dùng để ghi nhận,
khẳng định các bậc tổ tiên đã xứng đáng “Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu
Tiên”. Điều này hoàn toàn tương phản với đoạn nói về hiện tình nô lệ: “Ngày nay
đến nỗi nghèo hèn/ Vì ta chỉ biết lo yên một mình/ Để người đè nén, xem khinh/
Để người bóc lột ra tình tôi ngươi”. Đoạn thơ mang cấu trúc nhân quả đáng chú
ý, chỉ một nguyên nhân: "Vì ta chỉ biết lo yên một mình" nằm ở vị trí
giữa đoạn như cái bản lề khép mở 3 kết quả (nghèo hèn; để người đè nén; để
người bóc lột) ở 3 câu thơ còn lại. Như vậy, "Lịch sử nước ta" không
chỉ tái hiện lịch sử, làm sống lại niềm tự hào dân tộc trong quá khứ, quan
trọng hơn là chỉ ra nguyên nhân của bi kịch nô lệ và giải pháp “khôi phục nước
nhà tổ tông”. Không chỉ là một công trình khoa học lịch sử, tác phẩm còn là một
đề cương chính trị cho cách mạng Việt Nam. Lời diễn ca đã vượt thoát giới hạn
lời của một cá nhân để vươn tới tầm là lời của lịch sử, có giá trị phổ quát
rộng rãi. Không ngẫu nhiên, trong tài liệu gốc lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt
Nam, tác giả không đề tên hay bất cứ bút danh nào, trong suốt diễn ca, cái tôi
tác giả hoàn toàn vắng bóng. Điều này hoàn toàn khác với diễn ca lịch sử thời
trung đại, cái tôi tác giả nhiều khi cứ "nhảy xổ" ra lộ liễu. Vì thế,
lời văn trong "Lịch sử nước ta" hướng tới tất cả cộng đồng, ai cũng
cảm thấy cá nhân mình có trong đó. Do vậy, chữ “ta”: Nước ta, dân ta, thiếu
niên ta, phụ nữ ta, ta, chúng ta mang sắc thái tu từ vừa như ràng buộc, vừa như
nhắc nhở mọi người ý thức về bổn phận và nghĩa vụ của mình với cộng
đồng.
Sau phần chính văn "Lịch sử nước ta" là
NHỮNG NĂM QUAN TRỌNG (in hoa) ghi lại những sự kiện trọng đại, kết lại là một
tiên đoán: 1945-Việt Nam độc lập. Đây là một tiên đoán chỉ có được ở tầm một
thiên tài nhờ nắm chắc những diễn biến, quy luật của lịch sử và sự nhạy cảm của
một nhãn quan chính trị không chỉ trong một quốc gia, khu vực mà còn của toàn
cầu, của cả thời đại.
Nằm trong mạch diễn ca lịch sử của dân tộc, kế
thừa thành tựu có trong truyền thống, "Lịch sử nước ta" kết tinh một
đỉnh cao mới. Chất văn của tác phẩm là tình yêu dân, yêu nước tha thiết, là tâm
huyết sâu nặng với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đi theo hình thức lục bát quen
thuộc dễ đọc, dễ nhớ, dễ truyền khẩu nhưng lại để diễn tả một nội dung mang
tính chính luận mạnh mẽ, hấp dẫn, lôi cuốn. Ý nghĩa văn học của tác phẩm còn
thể hiện ở hiệu ứng xã hội. Đặt vào thời điểm năm 1942, khi ấy toàn dân ta đang
khao khát một cuộc cách mạng. Nhà Nguyễn ngày càng bộc lộ sự thối nát, phản
động. Cả xã hội đang mong chờ một tiếng nói phản biện lịch sử với quan điểm sai
trái có trong "Đại Nam quốc sử diễn ca": Triều Tây Sơn là giặc, triều
Nguyễn có công với nước. Nhất là cả dân tộc đang cần một tiếng nói kêu gọi thức
tỉnh... "Lịch sử nước ta" ra đời đáp ứng những đòi hỏi ấy có tác động
rất lớn đến mọi người dân yêu nước, đến phong trào cách mạng đang ở thời điểm
bản lề có tính quyết định đến vận mệnh cả dân tộc!
Giới nghiên cứu sử học sẽ trả lời giúp chúng ta
câu hỏi: Trong hoàn cảnh rất thiếu về tư liệu nhưng tại sao tác phẩm lại có
những cứ liệu, những nhận định chính xác, thỏa đáng như vậy? Soi chiếu từ góc
nhìn triết học văn hóa, chúng ta khẳng định hai tác phẩm trên là mẫu mực của
đối thoại văn hóa cùng một giải pháp văn hóa cách mạng nhất! VD
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét