Thứ Hai, 12 tháng 12, 2022

Kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng, từng bước hoàn thiện đã làm thay đổi cơ bản diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

 


Hiện nay có 98,6% số xã có đường ô tô đến trụ sở UBND xã; 99,8% số xã và 95,5% số  thôn có điện lưới quốc gia; 99,5% số xã có trường tiểu học, 93,2% số xã có trường trung học cơ sở, 12,9% số xã có trường trung học phổ thông và 96,6% số xã có trường mẫu giáo, mầm non; 99,39 % số xã có trạm y tế, 77,8% xã đạt chuẩn quốc  gia về y tế. Đã hình thành các vùng cây công nghiệp: Cà phê, chè, cao su, hạt tiêu, điều,…Các vùng cây ăn quả: Cam (Hòa Bình, Hà Giang), vải thiều (Bắc Giang), nhãn (Sông Mã, Sơn La),…Công nghiệp khai khoáng: Than (Quảng Ninh), Apatit (Lào Cai), Đồng (Lào Cai), Thiếc (Cao Bằng), Bô xit (Tây Nguyên),…Thủy điện: Sơn La, Hòa Bình, Lai Châu,…Thu nhập bình quân các vùng dân tộc tăng nhanh: Tây Nguyên tăng 1,5 lần; Đông Bắc bộ 1,4; Tây Bắc 1,3 lần. Tỷ lệ giảm nghèo các tỉnh Đông Bắc 3,62%, Tây Bắc 4,4%, Tây Nguyên 3,04%; trong DTTS 3,55%/năm (BQ cả nước 1,83%). Khoảng cách nghèo trong dân tộc thiểu số giảm từ 24,3 xuống còn 19,2. Mức độ trầm trọng của hộ nghèo giảm từ 11,3% xuống còn 8,2%. 98,6% ý kiến của cán bộ cơ sở và người dân đánh giá đời sống đồng bào DTTS khá hơn. Nhờ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế  và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho toàn bộ người nghèo, người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng khó khăn, một số dịch bệnh trước đây phổ biến ở vùng dân tộc như sốt rét, bướu cổ, phong, lao được ngăn chặn và đẩy lùi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét