Trí tuệ khoa học, đạo đức cách mạng tận trung với nước, tận hiếu
với dân, kết hợp nhuần nhuyễn chiến lược với sách lược và phương pháp, thấm
nhuần chủ nghĩa lạc quan cách mạng, nắm bắt và dự báo sáng suốt xu thế của lịch
sử... là những phẩm chất và nhân tố làm nên đặc tính cách mạng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Biểu đạt tư tưởng cách mạng đã chạm đến điểm cốt lõi của chân lý
Hồ Chí Minh khi còn
là một thanh niên 21 tuổi với nhiệt huyết của tuổi trẻ nặng lòng yêu nước,
thương dân đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Sự kiện Nguyễn Tất Thành rời
Bến cảng Nhà Rồng ngày 5-6-1911 làm phụ bếp và thủy thủ trên con
tàu Latouche Tréville, bắt đầu cuộc đời lao động “vô sản hóa”, đi khắp các
châu lục, đại dương, qua hơn 30 nước và các vùng lãnh thổ khác nhau, lao động,
học tập và tranh đấu trong 30 năm để tìm ra con đường cứu nước là con đường
cách mạng đã mở đầu cho sự thay đổi số phận của dân tộc ta.
Từ mục đích và động cơ cao thượng tìm đường cứu nước, cứu dân,
Nguyễn Ái Quốc với ý chí, nghị lực phi thường, với trí tuệ khoa học và tinh
thần độc lập, sáng tạo, Người đã chọn đường, nhận đường và cuối cùng trở thành
người dẫn đường cho Đảng ta và dân tộc ta trên “Đường Kách mệnh”. Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là biểu tượng kiệt xuất của một lãnh tụ
cách mạng có tầm nhìn xa trông rộng, có bản lĩnh kiên định, vững vàng, nhất là
bình tĩnh, sáng suốt vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo của hoàn cảnh, hành động
sáng tạo, dũng cảm với niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vô địch của nhân dân,
vào chiến thắng của lực lượng cách mạng. Trí tuệ khoa học, đạo đức cách mạng
tận trung với nước, tận hiếu với dân, kết hợp nhuần nhuyễn chiến lược với sách
lược và phương pháp, thấm nhuần chủ nghĩa lạc quan cách mạng, nắm bắt và dự báo
sáng suốt xu thế của lịch sử... là những phẩm chất và nhân tố góp phần làm nên
đặc tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã đưa
ra quan niệm về cách mạng và cách mạng triệt để như những định nghĩa khoa học,
hết sức giản dị mà “chạm” đến điểm cốt lõi của chân lý. Người biểu đạt tư tưởng
cách mạng bằng ngôn ngữ dễ hiểu của đời sống, không hàn lâm, bác học mà vẫn
mang tầm kinh điển, đủ sức vượt qua mọi thử thách của thời gian, trở thành giá
trị bền vững. Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh là gì? Cách mệnh là phá cái cũ đổi
ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Đã làm cách mệnh thì phải cách mệnh
đến nơi (tức là triệt để), theo tấm gương của cách mạng Nga do Lênin và Đảng
kiểu mới của Người lãnh đạo. "... Cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều
lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”(1). Đó là dự cảm sáng suốt của Người. Từ
khi Đảng còn chưa ra đời, cách mạng còn đang trong mầm mống phôi thai, Người đã
tiên liệu trước nguy cơ cách mạng bị suy thoái, quyền lực có thể bị tha hóa nếu
không có sự kiểm soát quyền lực từ nhân dân.
“Đường Kách mệnh”
là tác phẩm lý luận, truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam nhưng Người lại
đặt lên hàng đầu vấn đề tư cách của một người cách mệnh, với 23 tiêu chí, chuẩn
mực, thấm vào các mối quan hệ cơ bản: Với tự mình, với người khác, với công việc
và đoàn thể... Người đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu “giữ chủ nghĩa cho vững”, “ít
lòng tham muốn về vật chất”(2). Đó là những đòi hỏi hết sức hệ trọng, tỏ rõ sự
nhạy cảm của một bậc thiên tài. Lịch sử của những biến cố, thăng trầm, nhất là
sự biến chính trị xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu làm đổ vỡ chế độ xã hội chủ
nghĩa, Đảng Cộng sản mất vai trò cầm quyền, hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới tan rã, cách mạng thoái trào (cho dù là tạm thời) cách đây
đã 3 thập kỷ vẫn còn nguyên tính thời sự cảnh báo đối với mỗi chúng ta,
với Đảng ta. Bài học phải trả giá đau đớn đó càng làm nổi bật giá trị, ý nghĩa
và tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là những bảo đảm về lý luận
tiên phong và đạo đức đối với chính trị, đối với Đảng Cộng sản cầm quyền.
Tính cách mạng thể hiện sâu sắc ở dũng khí tự phê phán và phê phán
Đặc tính cách mạng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn nổi bật trên bình diện đạo đức. Người cách mạng,
Đảng cách mạng phải suốt đời trau dồi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là đối lập với tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa. Đảng chân chính cách mạng phải tiêu biểu, mẫu mực về
đạo đức, văn hóa “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Trong lý luận về Đảng Cộng
sản cầm quyền, Người trù tính sâu xa phải đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về
đạo đức, về văn hóa. Chỉ dẫn ấy của Hồ Chí Minh đang soi sáng cho Đảng và nhân
dân ta trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện hiện nay.
Tính cách mạng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn biểu hiện đậm nét qua dũng khí tự phê phán và
phê phán của người cách mạng và Đảng cách mạng về những khuyết điểm, sai lầm đã
mắc phải, có thái độ khách quan khoa học trong phân tích, đánh giá thực trạng,
xem xét kỹ lưỡng những nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn đến những khuyết điểm, sai
lầm đó để kiên quyết sửa chữa, thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên. Đó là
phẩm chất cao quý, can đảm của những người cách mạng và Đảng cách mạng chân
chính. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh rằng, tự phê bình và phê bình là cách
tốt nhất làm cho Đảng tiến bộ không ngừng, thành một Đảng chắc chắn, mạnh khỏe
như người không có bệnh, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên giữ gìn và phát huy được
tính cách mạng, tính tiền phong gương mẫu, được quần chúng tin tưởng và ủng hộ,
giữ vững niềm tin với Đảng và thắt chặt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với quần
chúng.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu rõ yêu cầu, phương châm, phương pháp tự phê bình và phê bình và mấu
chốt là phải có động cơ, mục đích đúng, phương pháp khéo léo, thận trọng, kiên
quyết mà mềm mỏng, có lý có tình, thấu lý đạt tình. Mở đầu tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc” (năm 1947), Người đặt vấn đề phê bình và sửa chữa, chỉ ra 3 căn
bệnh nguy hiểm: Bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, thói ba hoa mà không ít cán bộ,
đảng viên mắc phải, nhất là bệnh hẹp hòi trong dùng người, trong công tác cán
bộ, gây nên lãng phí nhân tài, nhất là không chú trọng sử dụng nhân tài ngoài
Đảng, cản trở đoàn kết trong Đảng, trong dân(3). Người tỏ thái độ kiên quyết
phải tẩy sạch những chứng bệnh ấy, tẩy sạch quan liêu, tẩy sạch chủ nghĩa cá
nhân, đó là bệnh gốc, “bệnh mẹ”, đẻ ra trăm ngàn bệnh khác, những thói hư tật
xấu khác, làm hư hỏng cán bộ, suy yếu tổ chức, dân tình chán nản, hoài nghi.
Người cũng từng chỉ trích, phê phán những cán bộ, đảng viên mắc thói coi khinh
lý luận, khinh dân vận(4). Không chấn chỉnh kịp thời và nghiêm khắc những lỗi
lầm đó thì phong trào cách mạng sẽ không thể tiến triển. Trong bản Di
chúc, Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, phải giữ gìn
đoàn kết, nhất trí, thống nhất tư tưởng và hành động như giữ gìn con ngươi của
mắt mình(5).
Tính cách mạng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua dũng khí tự phê phán và phê phán mà Người chỉ
dẫn là tính Đảng, là nhân tố và điều kiện quan trọng làm cho cách mạng có sức
mạnh tự bảo vệ như Lênin nói. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh, cách mạng lấy sức mạnh
trong lòng dân. Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải làm cho dân tin, dân phục,
dân yêu, dân giúp đỡ, dân ủng hộ, dân bảo vệ thì muôn việc sẽ thành công.
Kiên định lập trường và giữ vững quan điểm cách mạng
Tính cách mạng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta phải thấm nhuần và kiên quyết bảo vệ còn
chính là lòng trung thành vô hạn với lý tưởng, mục tiêu cộng sản chủ nghĩa,
biểu hiện trực tiếp ở sự kiên định lập trường, quan điểm cách mạng, kiên định
con đường đi tới “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Việt Nam.
Để đi đến cùng con đường đó, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Tổ quốc, dân
tộc và nhân dân, trước hết phải giữ vững và bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng, phải trung thành một cách sáng tạo, khắc
phục những giáo điều xơ cứng, phải vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa
Mác-Lênin phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ dẫn
cho chúng ta dùng quan điểm, lập trường, phương pháp khoa học và cách mạng của
Chủ nghĩa Mác-Lênin để phân tích chính xác tình hình, đặc điểm của nước ta, độc
lập, sáng tạo tìm ra cách giải quyết những vấn đề mà cách mạng đặt ra, bằng con
đường nào, điều kiện nào, biện pháp nào để thực hiện mục tiêu, lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, không máy móc sao chép, bắt
chước, rập khuôn những kinh nghiệm từ bên ngoài, dù học tập, vận dụng những
kinh nghiệm đó là cần thiết và quý giá. Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo
giàu bản lĩnh của Hồ Chí Minh là thể hiện lòng trung thành với chủ nghĩa bằng
sức mạnh của trí tuệ khoa học, của đạo đức cách mạng, của đường lối chính trị
sáng suốt mà Đảng ta đang ra sức thực hiện theo chỉ dẫn của Người.
Lòng trung thành đó
biểu hiện thành sự nhất quán trong tư tưởng, phương pháp, ý chí quyết tâm không
gì lay chuyển và hành động kiên cường, dũng cảm, hy sinh để giành thắng lợi.
Tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Qua những thời kỳ lịch sử của cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh nêu cao ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc. Vào những thời điểm
bước ngoặt, Người đưa ra những thông điệp thiêng liêng, liên quan đến vận mệnh
dân tộc, trọng trách của Đảng, đồng thời truyền đến mỗi người dân niềm tin mãnh
liệt.
Điển hình là: “Dù
có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” (bên
thềm Cách mạng Tháng Tám năm 1945); “Thà hy sinh tất cả, nhất định không chịu
làm nô lệ” (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19-12-1946); “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do” (Lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước chống Mỹ, ngày
17-7-1966); “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” (Thơ mừng Xuân Kỷ Dậu năm
1969); “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian
khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều
chắc chắn” (Di chúc)...
Tính cách mạng kiên
quyết, triệt để trong cuộc đấu tranh giành lấy chính quyền về tay nhân dân còn
phải được tiếp nối trong xây dựng chính thể, bảo vệ chế độ và mọi thành quả
cách mạng, vì hạnh phúc và quyền làm chủ của nhân dân. Sáng suốt và kiên quyết
trong nhận biết và xử lý những tình huống suy thoái khi quyền lực có nguy cơ bị
biến dạng, không vì dân chủ của dân, lại biến thành “quan chủ”, không làm tròn
bổn phận đầy tớ, công bộc của dân, lại lên mặt “quan cách mạng” ở một số cán
bộ, công chức trong bộ máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập Thanh tra
Chính phủ, chọn người đủ đức, đủ tài, giao cho họ quyền hành và ràng buộc bằng
chế tài trách nhiệm để xử nghiêm các trường hợp quan liêu, hống hách, trù dập
dân chúng và nhận hối lộ, mắc tội tham ô, tham nhũng. Người lên án và yêu cầu
phải trừng trị nghiêm khắc theo luật pháp tội tham ô, tham nhũng, lãng phí,
quan liêu như trừng trị một tội ác.
Trên cương vị Chủ
tịch Chính phủ, Chủ tịch nước, nguyên thủ quốc gia, từ những ngày đầu gây dựng
chính thể cộng hòa, Người đã ban hành quốc lệnh, khen thưởng trọng đãi người có
công và trừng phạt những kẻ có tội. Trong 12 điều trừng phạt, Người đều ghi rõ
“tử hình”. Luật phải nghiêm, xử lý phải minh, nghiêm minh và quang minh chính
đại để bảo vệ cái thiện lớn nhất là dân. Pháp trị đi liền với đức trị. Phải dày
công giáo dục cho mọi người về lương tâm, trách nhiệm, trọng danh dự, trọng
liêm sỉ, để giữ trọn vẹn lòng trong sạch. Đó là tính cách mạng triệt để của tư
tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nền dân chủ và Nhà
nước pháp quyền.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét