Thứ Năm, 6 tháng 3, 2025

 “Tư tưởng DÂN” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, không phải đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta mới đưa ra “Tư tưởng DÂN”. Trong lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc, do yêu cầu tất yếu của quy luật dựng nước và giữ nước mà cha ông ta đã sớm ý thức được vị thế và vai trò to lớn, không thể thiếu của nhân dân. Và cũng chính từ đây, đã hình thành “Tư tưởng DÂN” (tức tư tưởng thân dân, cận dân) trong quan niệm của lịch sử tư tưởng dân tộc thông qua các đánh giá và ghi nhận về vai trò của nhân dân ở các triều đại phong kiến. Thể hiện rõ nhất và điển hình nhất về “Tư tưởng DÂN” là việc tổ chức Hội nghị Diên Hồng của nhà Trần. Như chúng ta đã biết, cuối năm 1284, nhằm thống nhất ý chí và cũng là để tập hợp sức mạnh của toàn dân, triều đình nhà Trần đã trân trọng mời các vị bô lão đại diện cho nhân dân các làng, xã về dự một cuộc hội nghị đặc biệt tại cung điện Diên Hồng để bàn về một quyết sách chống xâm lược, bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng của giặc Nguyên Mông đang đe dọa vận mệnh quốc gia. Có thể nói “Hội nghị Diên Hồng là một sáng tạo rất độc đáo của nhà Trần, là biểu hiện của ý thức tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của toàn dân. Mãi mãi “Hội nghị Diên Hồng” sẽ ăn sâu và trao truyền trong tâm thức của người dân Việt Nam như một sức mạnh của truyền thống gắn liền với mục tiêu phấn đấu cho nền dân chủ hiện đại. Kể từ đó hai chữ Diên Hồng đã trở thành biểu trưng cho ý chí thống nhất của một dân tộc, thể hiện sự đồng lòng nhất trí giữa Nhà nước với người dân trong mối quan hệ vua - tôi, trên - dưới... Hội nghị Diên Hồng cũng mang ý nghĩa như một nguyên lý tạo nên sức mạnh dân tộc trước những thử thách của lịch sử và trong chừng mực nào đó cũng biểu hiện nhân tố cận dân, thân dân”[1]. Đặc biệt, đến triều đại Hậu Lê, thì tư tưởng thân dân được bộc lộ và định hình rất rõ nét ở Nguyễn Trãi. Dân là mối quan tâm thường trực ở Nguyễn Trãi. Ông quan niệm “Dân” là nền tảng quan trọng của xã hội, lực lượng chính để bảo vệ đất nước và phát triển xã hội. Chữ“dân” được nhắc tới trực tiếp 155 lần, ông đặc biệt chú ý đến những tầng lớp nhỏ bé trong xã hội, “người dân trong thôn cùng xóm vắng”, “dân manh lệ”, “xích tử”, “sinh linh”, “bách tính”,…[2] Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi là một tư tưởng rất tiến bộ, đánh giá về vị thế và vai trò của nhân dân trên tất cả các phương diện: về sức mạnh quyết định của dân: “… mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”[3]về lực lượng tạo ra của cải cho xã hội: “thường nghĩ những quy mô lộng lẫy đều do sức lao khổ của quân dân”[4] và do đó, phải “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”; về mối quan hệ nhân quả, cộng sinh, phải nhận thấy rõ: dân gắn liền với nước, yêu nước là thương dân; về trách nhiệm và lòng nhân nghĩa: phải thương dân, trọng dân, chăm lo đến đời sống của nhân dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”[5]. Như vậy là, “từ vai trò quan trọng của dân đến nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, Nguyễn Trãi đã để lại cho hậu thế những tư tưởng lớn, vượt lên trên những khuôn khổ của học thuyết chính trị đạo đức nho giáo, đạt tới những giá trị văn hoá có tính phổ biến của nhân loại, có ý nghĩa phương pháp luận cho nhiều thế hệ người Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc, điển hình là tư tưởng thân dân.”[6] 

Tiếp nối và phát triển “Tư tưởng DÂN” của truyền thống tư tưởng tiến bộ của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển “Tư tưởng DÂN” lên một sắc thái mới, hoàn thiện hơn và cao hơn về chất. Điểm đặc biệt nổi trội trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở chỗ, nếu trong nội hàm của “Tư tưởng DÂN” trước đây chỉ đề cập đến phạm trù “nhân dân” (tức là thân dân, cận dân), thì “Tư tưởng DÂN” của Người đã đề cập đến hai phạm trù “nhân dân” (thân dân) và phạm trù “dân tộc” (tức là điểm hội tụ và nhân lên sức mạnh của nhân dân)

Tư tưởng thân dân ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm đậm tinh thần dân chủ thân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi: “Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Nói một cách khác, tức là "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”[7]. Như vậy, Hồ Chí Minh đã rất thấu hiểu điều này và chính Người là người đầu tiên đã cụ thể hóa “tư tưởng DÂN” và lãnh đạo tiến trình hiện thực hóa “tư tưởng DÂN” thông qua thực hành dân chủ ở Việt Nam. Trước hết, theo Hồ Chí Minh, thân dân chính là phải thừa nhận và triển khai thực hiện để dân làm chủ khi nhân dân Việt Nam đã là chủ đất nước mình, và do vậy, dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Với tâm niệm “nước lấy dân làm gốc”[8], Hồ Chí Minh cho rằng, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[9]. Song, không dừng lại đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để tư tưởng thân dân đuợc hoàn thiện hơn và phát huy được hết sức mạnh của nhân dân thì vị thế của người dân phải được gắn liền với nơi hội tụ sức mạnh của nhân dân - tức dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ thân dân, tức là nhân dân được hưởng quyền lợi và lợi ích chính đáng của mình. Quyền lợi của nhân dân với nghĩa rộng như Hồ Chí Minh đã nói: “nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”[10]. Với nghĩa hẹp, đó là những quyền lợi mà thiết thân hàng ngày của nhân dân. Nhiệm vụ của nhà nước là phải: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành"[11]. Đây là quan điểm rất nhân văn, rất hiện đại trong “tư tưởng DÂN” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.  

2. “Tư tưởng DÂN” là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà điều này được thể hiện rõ trong Di chúc của Người. Bởi vậy, ngay phần mở đầu của Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập ngay đến quá trình phấn đấu của mình, đó là phấn đấu trước hết là vì Tổ quốc và nhân dân. Người nói: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.”[12]

Như vậy, trong Di chúc, “tư tưởng DÂN” lại trở thành điểm nhấn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do đó, nên mọi việc khi thực hiện phải nghĩ đến nhân dân, không được làm ảnh hưởng đến nhân dân. Người đề nghị: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.”[13] Và cũng từ đây, Người yêu cầu sau khi thắng lợi, Đảng, Nhà nước và Nhân dân phải bắt tay ngay vào việc xây dựng đất nước, phục hồi sự phát triển của dân tộc. “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn.”[14]

Theo tư tưởng thân dân (quan tâm sát sao đến nhân dân) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải chú ý ngay đến “công việc đầu tiên” là “đối với con người”[15] (nhân dân). Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải quan tâm tỉ mỉ, sát sao và có những việc làm cụ thể, có những chính sách phù hợp cho tất cả các tầng lớp nhân dân: đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...); đối với các liệt sĩ; đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ); đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong; đối với phụ nữ; đối với đồng bào nông dân; thậm chí cả đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ;… [16] Bởi vậy, là lực lượng cầm quyền thì “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[17].

"Tư tưởng DÂN khi được tiếp cận dưới góc độ dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nhân dân phải được sống trong một dân tộc thống nhất, to đẹp; do đó, phải quyết tâm làm cho đất nước, dân tộc được “xây dựng hơn mười ngày nay”[18]. Tuy nhiên, theo Người, “công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”[19]. Bởi vậy, một điều tất yếu là phải dựa vào dân, chỉ có dựa vào lực lượng vĩ đại của dân mới thành công. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”[20]. Song, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ở đây không chỉ nên bó hẹp trong một quốc gia, mà dân tộc muốn có vị thế chân chính thì phải gắn với cộng đồng quốc tế. Bởi vậy, Người đã có dự định, sau khi nước nhà thống nhất, Người sẽ trước hết đi làm nghĩa vụ đối với dân tộc: “tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc”; song, “kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu…”[21]

Như vậy, một lần nữa, thông qua Di chúc của mình, “tư tưởng DÂN” (nhân dân và dân tộc) đã đuợc Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng và Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự trường tồn của dân tộc.

 3. Tư tưởng thân dân theo tinh thần trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được luật hoá trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Bản Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định:“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân... do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Điều này được quy định thống nhất, xuyên suốt trong toàn bộ Hiến pháp 2013. Đặc biệt, trong toàn bộ Hiến pháp 2013 từ “Nhân dân” luôn luôn được viết hoa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta từ Nhân dân được viết hoa. Đó không chỉ đơn thuần là thay đổi về kỹ thuật lập Hiến mà là sự thay đổi trong nhận thức, đề cao hơn nữa vai trò của nhân dân - chủ thể quan trọng, duy nhất của quyền lực nhà nước.

Tư tưởng thân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng ta. Qua các kỳ Đại hội Đảng, tư tưởng này ngày càng được bổ sung, phát triển. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, với việc bổ sung hai thành tố “dân giám sát, dân thụ hưởng”, tư tưởng thân dân đã có bước phát triển mới về chất, hệ thống hơn, hoàn thiện hơn cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”[22].

“Tư tưởng DÂN” của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới góc độ dân tộc cũng đuợc Đảng ta vận dụng, cụ thể hóa trong thực tiễn. Sinh thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, vị thế dân tộc và lợi ích dân tộc (quốc gia) là quan trọng, thiêng liêng và điều này được thể hiện ở độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Quán triệt và nhất quán và “tư tưởng DÂN” (dưới góc độ dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã khẳng định rõ mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Đặc biệt, đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc”[23] và đuợc đưa thành quan điểm chỉ đạo cho toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước và Nhân Dân trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng và cho cả trong nhiều thập kỷ tới. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, nhất là khi các quốc gia trên thế giới đương đại đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để xử lý các mối quan hệ và giải quyết mọi vấn đề đang diễn ra thì việc Đảng ta đưa ra quan điểm chỉ đạo trên là đúng đắn, kịp thời trước những tình thế và diễn biến phức tạp đang diễn ra trên thế giới. Do đó, hơn lúc nào hết, việc quán triệt và thấm nhuần “tư tưởng DÂN” (lợi ích dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các hoạt động đối ngoại là cơ sở quan trọng để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc./.
Nguồn: 
TS. Phạm Thị Vui

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Các cơ quan Trung ương

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2025

Bảo vệ Tổ quốc để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước

 Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến”; “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”. Như vậy, quyết tâm và chủ trương nhất quán của Đảng là kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc Tổ quốc một cách chủ động, coi đây là “thượng sách” để giữ nước. Đại hội XIV của Đảng sẽ diễn ra vào đầu năm 2026 là một dấu mốc quan trọng, đánh dấu thời điểm đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Do vậy, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc càng trở nên quan trọng, để giữ vững môi trường hòa bình, tạo tiền đề, nền tảng vững chắc để đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Trong lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, ông cha ta luôn thể hiện rõ tinh thần chủ động, tích cực bảo vệ Tổ quốc. Để giữ vững nền độc lập tự chủ, các triều đại phong kiến Việt Nam đã thực hiện nhiều kế sách như “tiên phát chế nhân”, “khoan thư sức dân”, “ngụ binh ư nông”, “tĩnh vi dân, động vi binh”..., đồng thời chăm lo xây dựng quân đội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân. Đó là cơ sở quan trọng để dân tộc Việt Nam viết nên những trang sử hào hùng với những chiến thắng như Bạch Đằng, Chi Lăng, Xương Giang, Ngọc Hồi - Đống Đa...

Trung tướng Nguyễn Đức Hải, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng cho rằng, điều đó đã cho thấy, trong bất kỳ thời điểm nào, dù chiến tranh hay hòa bình, dân tộc Việt Nam cũng luôn chăm lo công cuộc giữ nước, bảo vệ Tổ quốc. “Thượng tướng Trần Quang Khải khi chỉ đạo chuẩn bị kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 năm 1285, ông có nói: “Thái Bình nên gắng sức, non nước vững nghìn thu”. Rồi vua Lê Thái Tổ cuối đời cũng có lời căn dặn con cháu là “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”. Rõ ràng lịch sử dân tộc cho thấy, lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy là tư tưởng chiến lược mang tính chủ động rất cao, đã trở thành một quy luật trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc ta, là yếu tố chính trị tinh thần để tạo nên sức mạnh, cả nước đồng lòng. Như vậy, khẳng định việc giữ nước từ thời bình là khẳng định một tư tưởng chỉ đạo chiến lược sắc sảo, một giá trị văn hóa giữ nước đặc sắc của dân tộc ta” - Trung tướng Nguyễn Đức Hải nhấn mạnh.

Hiện nay, xu thế hòa bình, hợp tác là dòng chảy chủ đạo trong đời sống chính trị, xã hội của nhân loại. Tuy nhiên, thế giới đã và đang chứng kiến hàng trăm cuộc chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị ở nhiều quốc gia, khu vực. Điển hình như các cuộc chiến tranh vùng Vịnh, các cuộc cách mạng màu, lật đổ chính quyền đương nhiệm ở các quốc gia vùng Trung Đông, Bắc Phi, cuộc xung đột trên dải Gaza, cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina. Nhiều quốc gia đang giàu có, thịnh vượng bỗng chốc trở nên suy tàn, cạn kiệt sau chiến tranh, xung đột. Do vậy, chúng ta luôn phải có phương án dự phòng, chủ động và chuẩn bị cho chiến tranh. Đó cũng là cách tốt nhất để phòng ngừa chiến tranh, dập tắt mọi nguy cơ chiến tranh "từ sớm, từ xa".

Trong thế giới ngày nay, các quốc gia đi theo con đường chủ nghĩa xã hội như Việt Nam vẫn luôn được coi là một trong những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Họ chống phá Việt Nam bằng nhiều chiêu trò, hình thức thủ đoạn mới hơn, tinh vi hơn, nham hiểm và xảo quyệt hơn. Bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, các đối tượng ra sức tuyên truyền chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, kích động mâu thuẫn, chia rẽ đoàn kết dân tộc, âm mưu thiết lập các tổ chức phản động trong nước, khi thời cơ đến sẽ nội công ngoại kích lật đổ chính quyền. Trắng trợn hơn, các tổ chức phản động còn tấn công vũ trang, giết hại cán bộ và nhân dân. Vụ việc xảy ra ở Đắk Lắk vào tháng 6/2023 là một ví dụ điển hình.

Do vậy, theo Đại tá, Tiến sĩ Nguyễn Văn Trường, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị, trong bất kỳ tình huống nào, chúng ta cũng không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác. Đại tá, Tiến sĩ Nguyễn Văn Trường cho rằng: “Có những quốc gia bây giờ, họ vẫn có những quan điểm tư tưởng rất lạc hậu so với xu thế chung của nhân loại. Đó là luôn luôn tìm cách đe dọa sử dụng vũ lực. Vậy thì chúng ta muốn có hòa bình, thì chúng ta phải có sức mạnh để bảo vệ nền hòa bình. Chúng ta phải chuẩn bị tiềm lực của chúng ta trên tất cả mọi lĩnh vực, sẵn sàng xử trí các tình huống xảy ra”.

Hiện nay, để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, các quốc gia trên thế giới liên tục đầu tư, mua sắm nhiều loại vũ khí thông minh, hiện đại. Cũng vì thế, hình thái của cuộc chiến tranh đã có rất nhiều thay đổi so với chiến tranh truyền thống. Chiến tranh công nghệ cao đã trở nên phổ biến. Cùng với đó là những thách thức an ninh phi truyền thống nổi lên, chưa từng có trong tiền lệ. Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Hiền, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương phân tích, những điều đó, tất yếu sẽ có những tác động đến chủ quyền, lãnh thổ và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.

Do đó, để có thể bảo vệ Tổ quốc vững chắc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần phải xây dựng quân đội vững mạnh cả về con người, tổ chức và vũ khí trang bị. Đó là tinh thần thấy trước, chuẩn bị trước cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. “Cái thời đánh Pháp, gậy tầm vông có thể đánh được. Thời đánh Mỹ đã bắt đầu khác rồi. Đến thời nay, để bảo vệ Tổ quốc ở vùng biển, vùng trời thì không thể mang những thiết bị thông thường ra để đánh nhau ở trên trời, trên biển được. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay, nó còn vấn đề cả không gian mạng, bảo vệ Tổ quốc phải từ sớm, từ xa. Có nghĩa là từ khi nó chưa xuất hiện, hoặc nó có khả năng xuất hiện, thì mình có thể nắm chắc được và dập tắt nó”-Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Hiền nhấn mạnh.

Như vậy, có thể khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy” là quan điểm mang tính chiến lược được Đảng xác định trên cơ sở kế thừa bài học kinh nghiệm “lo giữ nước từ khi nước chưa nguy” của ông cha ta. Đồng thời, quan điểm này cũng là sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; phù hợp với tình hình thực tiễn thế giới, khu vực và trong nước hiện nay. Qua đó, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tính chủ động, sáng tạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quyết tâm không để Tổ quốc bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo thế, tạo lực và tạo đà để đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Bác bỏ mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch

Bác bỏ mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch

 Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, bác bỏ mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, góp phần tổ chức thành công đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, nâng cao tinh thần cảnh giác và khả năng “miễn dịch” cho các tổ chức Đảng, toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chủ động đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc, thù địch; kịp thời ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động phá hoại công tác chuẩn bị, đặc biệt là công tác nhân sự đại hội Đảng các cấp và Đại hội XIV của Đảng. Chú trọng hơn nữa đến việc nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, trình độ lý luận, trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sức “đề kháng” trước tác động tiêu cực của những luận điệu xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, chủ động thông tin đúng đắn, chính xác về đại hội Đảng các cấp và Đại hội XIV của Đảng. Công khai, minh bạch thông tin về những chủ trương, chính sách trong giải quyết các vấn đề bức xúc, nhất là những vấn đề có tính nhạy cảm trước thềm đại hội Đảng các cấp. Đây là vấn đề rất quan trọng, không nên để những thông tin giả, tin đồn thất thiệt lan truyền và hoành hành trong cộng đồng xã hội, rồi mới tìm cách khắc phục theo kiểu “chạy theo” tình hình.

Các phương tiện tuyên truyền của Đảng, Nhà nước cần chủ động, kịp thời, phản ánh các sự kiện đại hội Đảng các cấp và Đại hội XIV của Đảng. Tuyệt đối không để công chúng hoài nghi về công tác truyền thông và không để những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc tự tung, tự tác xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá đại hội Đảng các cấp mà không bị phản bác. Thông tin càng cởi mở, việc kết nối thông tin trong xã hội tới mọi người dân luôn thông suốt, thì càng có điều kiện để phòng, chống tin giả, tin xấu độc, bảo đảm thông tin chính thống giữ vững vai trò chủ đạo, định hướng dư luận. Kịp thời đấu tranh phê phán, phản bác mạnh mẽ với những thông tin, bài viết có nội dung xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, nhất là trên không gian mạng.

Báo chí chính thống phải là hạt nhân dẫn dắt, định hướng thông tin, hạn chế, ngăn chặn, phản bác thông tin xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, gây nhiễu, chống phá đại hội Đảng các cấp và Đại hội XIV của Đảng. Hệ thống báo chí nước nhà cần thống nhất, phối hợp chặt chẽ, dự báo và lường trước mọi luận điệu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, để vừa làm chủ trận địa truyền thông, vừa có đối sách thích hợp, nhanh chóng vạch trần và bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Các cơ quan chức năng cần chủ động nắm bắt diễn biến tình hình đại hội Đảng các cấp, nghiêm khắc xử lý mọi hành vi lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để phát tán tài liệu vu cáo, vu khống Ðảng và Nhà nước.

Thứ ba, tăng cường công tác quản lý nội bộ, kịp thời đấu tranh và xử lý đối với những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị đưa ra thông tin tuyên truyền chống phá, xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Làm cho mọi người dân thực sự bình tĩnh, tự mình có thể thẩm định, đánh giá các thông tin. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân phải thể hiện trách nhiệm với chính bản thân mình và cộng đồng ở việc hình thành một “bộ lọc” khi tiếp nhận mọi thông tin; tránh tự mình trở thành “con rối”, tiếp tay cho kẻ xấu trục lợi, cho các thế lực thù địch tuyên truyền xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá đại hội Đảng các cấp và Đại hội XIV của Đảng./.

Bài nghị luận về tinh thần vượt khó

 

Cuộc sống luôn đầy những khó khăn và thử thách mà không ai có thể lường trước được. Để vượt qua những khó khăn đó, tinh thần vượt khó là một yếu tố quan trọng cần có. Nhất là đối với giới trẻ, tinh thần này đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được mục tiêu và đến với hạnh phúc của mình.

Tinh thần vượt khó đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng đối mặt với khó khăn và thử thách trong cuộc sống với một tinh thần, năng lượng tích cực. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có ý chí kiên cường và sự dũng cảm để đứng lên sau mỗi lần gục ngã. Tinh thần vượt khó giúp chúng ta nỗ lực hết sức để đạt được những thành tựu và đến được với những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống.

Những người có tinh thần vượt khó thường là những người biết phấn đấu, vươn lên trong cuộc sống của mình và không bao giờ chán nản khi đối mặt với những thử thách khó khăn. Họ sẽ luôn tìm cách đứng lên sau mỗi lần gục ngã để tiếp tục đi đến đích của mình. Những người như vậy đáng được kính trọng và học tập theo.

Tuy nhiên, không phải ai cũng có tinh thần vượt khó. Những người bi quan, khi đứng trước khó khăn thử thách không dám đương đầu hoặc luôn chán nản mà gục ngã sẽ khó có thể đạt được thành công và hạnh phúc trong cuộc sống. Chính vì vậy, họ cần phải thay đổi để hoàn thiện bản thân và có được tinh thần vượt khó tích cực hơn.

Với giới trẻ, tinh thần vượt khó là yếu tố quan trọng để hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ cần rèn luyện cho bản thân một bản lĩnh can đảm để sẵn sàng đối diện với mọi khó khăn và thử thách của cuộc sống. Chỉ khi có tinh thần vượt khó tích cực, họ mới có thể đạt được mục tiêu và đến được với hạnh phúc.

Ngoài ra, tinh thần vượt khó còn giúp chúng ta phát triển những kỹ năng quan trọng trong cuộc sống như sự kiên nhẫn, sự tỉnh táo, khả năng tự lập và quyết đoán. Những kỹ năng này sẽ giúp chúng ta tự tin hơn khi đối mặt với những thử thách khó khăn trong cuộc sống.

Có một câu nói rất hay của Nelson Mandela: "Tôi không bao giờ thất bại, tôi chỉ có thể thất bại trong việc cố gắng." Tinh thần vượt khó không đơn giản chỉ là sự khăng khăng, mà nó còn là sự cố gắng không ngừng nghỉ và luôn đặt mục tiêu cao hơn để đạt được những thành công lớn hơn. Với tinh thần vượt khó, chúng ta sẽ không bao giờ từ bỏ ước mơ của mình, mà luôn đẩy mình vượt qua giới hạn để đạt được những điều mà mình mong muốn.

Mặc dù vậy, để có được tinh thần vượt khó, chúng ta cần phải rèn luyện và nuôi dưỡng nó. Đầu tiên, chúng ta cần có một mục tiêu rõ ràng và sự kiên trì để đạt được mục tiêu đó. Tiếp theo, chúng ta cần trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết để vượt qua những trở ngại trên đường đi. Cuối cùng, chúng ta cần có lòng quyết tâm và dũng cảm để đối mặt với những khó khăn và thử thách.

Trong cuộc sống, không ai tránh khỏi những khó khăn và thử thách. Tuy nhiên, tinh thần vượt khó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn đó và trở thành người mạnh mẽ hơn. Chúng ta cần luôn cố gắng rèn luyện và nuôi dưỡng tinh thần vượt khó để đạt được những thành công lớn trong cuộc sống. Hãy tin tưởng vào khả năng của mình và luôn đi đến cùng với tinh thần kiên trì và nỗ lực không ngừng nghỉ

 

Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969)

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội.
Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày.

Ngày 5-6-1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927).

Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.

Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ).

Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn.

Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).

Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.

Ngày 19-12-1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám.

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (1954).

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít-Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.

 

Tác phẩm “đời sống mới” và những vấn đề đặt ra trong xây dựng đời sống văn hóa

 

Cách đây hơn 70 năm, tháng 3/1947, với bút danh Tân Sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Đời sống mới”. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới” không chỉ có giá trị to lớn trong việc xây dựng con người, xã hội Việt Nam mới, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, mà còn có ý nghĩa thời sự đối với sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày nay, đặc biệt trong xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Ý nghĩa lịch sử của tác phẩm "Đời sống mới”

Sau Ngày Quốc khánh (ngày 2/9/1945), đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn. Chính quyền cách mạng non trẻ một lúc phải đương đầu với thù trong, giặc ngoài; một lúc phải chống “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”, nhiệm vụ mang tính chiến lược của Đảng, Chính quyền cách mạng và nhân dân Việt Nam lúc này là phải vừa kháng chiến vừa kiến quốc.

Ngày 15/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị nhấn mạnh: “Kháng chiến đi liền với kiến quốc, có kiến quốc tốt kháng chiến mới thắng lợi”. Về lĩnh vực văn hóa: “Về văn hóa, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động văn hóa cứu quốc, kiến thiết nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học hóa, đại chúng hóa, dân tộc hóa”. Tiếp đó, Đảng xác định: Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng lúc này chính là cải thiện đời sống của nhân dân, cần phải thay đổi, xóa bỏ những lề lối, nếp sống cổ hủ, lạc hậu. Đảng phát động phong trào “Xây dựng đời sống mới”. Ngày 3/4/1946, Ủy ban vận động đời sống mới Trung ương được thành lập và đến tháng 3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và cho công bố cuốn sách “Đời sống mới”, Người giải thích rằng: mặc dù “Trong lúc này, người thì lo đánh giặc, người thì lo phá hoại, người thì lo tản cư, toàn dân ai cũng khó nhọc vất vả”, nhưng "Chính trong lúc này càng phải thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. “Thực hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người giải thích: "Quân đội phải siêng tập, siêng đánh. Nhân dân tăng gia sản xuất, phải siêng làm, thì kháng chiến chắc chắn thắng lợi, thế cho nên phải Cần. Binh sĩ phải tiết kiệm đạn dược, mỗi viên đạn một tên thù. Cho nên phải Kiệm. Mọi người đều trong sạch, không tham lam, không đem của công dùng vào việc tư, thì mọi việc mới chạy. Cho nên ai cũng phải Liêm. Mỗi người quốc dân đều phải vì nước quên nhà, hăng hái ủng hộ kháng chiến, ra sức tăng gia sản xuất, trừ diệt bọn bán nước hại dân quyết làm cho Tổ quốc thống nhất độc lập. Thế là Chính".

Người cũng giải thích rằng, đạo đức mới không phải là gạt bỏ mọi cái cũ mà phải phát huy những tinh hoa về truyền thống yêu nước, cần cù lao động, đoàn kết chống giặc ngoại xâm, tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách,... Người viết: "Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm... Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích của đời sống mới".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đời sống mới bao gồm đời sống mới riêng cho từng người và đời sống mới chung cho cộng đồng, tập thể như các gia đình, làng xã, các bộ đội, các nhà máy, trường học, các công sở,... Về tinh thần, đời sống mới phải Cần, Kiệm, Liêm, Chính; nếu không làm được như vậy, thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Phải yêu Tổ quốc, quan tâm đến lợi ích chung, không kiêu căng, không nịnh hót, không tham lam, không bủn xỉn. Phải ham học, một người không biết chữ, biết tính thì như nửa mù nửa sáng, biết rồi thì học thêm nữa. Về hành động để thực hành đời sống mới không ngoài năm việc là ăn, mặc, ở, đi lại, làm. Đời sống mới không tách rời tăng gia sản xuất.

Thực hành đời sống mới là công việc của mọi người dân, bắt đầu từ cội nguồn là mỗi người, gia đình, làng, xã: "Do nhiều người nhóm lại mà thành Làng, do nhiều Làng nhóm lại mà thành Nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành Làng xấu, Nước hèn; nếu mỗi người cá nhân tốt, thì Làng tốt, Nước mạnh. Người là gốc của Làng, Nước, nếu mỗi người cố gắng làm đúng đời sống mới thì Dân tộc nhất định phú cường". Đối với mỗi người, việc gì có lợi cho Nước phải ra sức làm, việc gì hại cho Nước phải hết sức tránh; bất cứ việc to, việc nhỏ, có ích chung thì phải hăng hái làm. Đối với làng, xã, việc thực hiện đời sống mới, cần phải làm những việc sau: Về văn hóa phải làm cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và trách nhiệm của công dân. Về phong tục, phải cấm hẳn say sưa cờ bạc, hút sách, trộm cắp, đĩ điếm. Tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau. Làm cho làng mình trở thành một làng "thuần phong mỹ tục". Trong gia đình, thực hiện đời sống mới về quan hệ thì trên thuận, dưới hòa, bình đẳng, tôn trọng, tin cậy lẫn nhau, không thiên tư, thiên ái; về vật chất từ ăn mặc, đến việc làm đều tiêu pha có kế hoạch, ngăn nắp; cưới hỏi giỗ tết nên đơn giản tiết kiệm; quan tâm tới con cái, đến việc tu dưỡng học hành, kỷ cương nề nếp; giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng.

Nhìn lại tác phẩm “Đời sống mới” chúng ta thấy rằng, thực chất tư tưởng xây dựng đời sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Xây dựng con người mới, xã hội mới của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và xây dựng đời sống mới tức là thực hiện đường lối “Kháng chiến - Kiến quốc”, đường lối “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” sáng tạo của Đảng.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống mới, trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Đảng và Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị hướng dẫn xây dựng đời sống văn hóa. Nổi bật trong thời kỳ này là tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”,“Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam”, “Bàn về văn hóa Việt Nam” của Tổng Bí thư Trường Chinh,...

Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ, cùng với kháng chiến về quân sự, kinh tế, ngoại giao,... lĩnh vực văn hóa đã trở thành mặt trận quan trọng, góp phần xây dựng một xã hội mới, xã hội dân chủ nhân dân, hình thành con người Việt Nam mới, con người sẵn sàng phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, đưa đến thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chính nhờ tiếp tục xây dựng xã hội mới, con người mới xã hội chủ nghĩa mà miền Bắc đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, đẩy mạnh sản xuất, chi viện tích cực cho chiến trường miền Nam đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân năm 1975.

Giá trị thực tiễn của tác phẩm “Đời sống mới”

Từ Đại hội Toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc Đổi mới, nhằm đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội kéo dài gần 10 năm sau chiến tranh. Cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc xóa bỏ chế độ bao cấp, công nhận và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; đồng nghĩa với việc cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,...

Cơ chế thị trường đã tác động mạnh mẽ xã hội và con người Việt Nam, đưa đến sự cạnh tranh mọi mặt trong cuộc sống và tất yếu không tránh khỏi sự cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm pháp luật về kinh doanh, thương mại, về an sinh xã hội, môi trường,... Cơ chế thị trường có thể làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên. Sẽ có cán bộ, đảng viên lạm dụng chức quyền, thực thi công vụ trái nguyên tắc và đạo lý, chỉ lo vun vén lợi ích cá nhân, thiếu trách nhiệm, vô cảm với đời sống người dân, gây những hậu quả nghiêm trọng.

          Vấn đề đô thị hóa và sự hình thành các khu công nghiệp đã đưa đến những sự biến động đất đai, cư dân và môi trường. Sự hình thành các khu công nghiệp đã gây xáo trộn dân cư ở nông thôn và thành thị. Số lượng lớn lao động từ các vùng nông thôn về đô thị, kéo theo vấn đề nhà ở cho công nhân, trường học cho con cái họ và các thiết chế văn hóa, sinh hoạt văn hóa cho người lao động; gia tăng các dịch vụ và cơ sở dịch vụ từ giao thông, ăn uống, sinh hoạt văn hóa, nhà cho thuê, du lịch,... tác động cả tích cực lẫn tiêu cực đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Cùng với việc tạo môi trường phát triển, vấn đề đô thị hóa và sự phát triển các khu công nghiệp đã làm xáo trộn môi trường sống truyền thống của nhân dân, như: cạnh tranh việc làm, cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm, sự phức tạp về môi trường văn hóa và xã hội, về an ninh trật tự, về giao thông... Sự mở cửa và hội nhập mang lại nhiều yếu tố tích cực, đồng thời kéo theo những tiêu cực. Về văn hóa, việc mở cửa với sự liên thông trong lĩnh vực truyền thông đã đưa người dân Việt Nam tiếp cận trực tiếp, hàng ngày, hàng giờ với văn hóa thế giới bao gồm cả những yếu tố văn hóa tiên tiến, lành mạnh đến những văn hóa thực dụng, phản động, đồi trụy.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả Trí, Lực và Mỹ, xây dựng xã hội Việt Nam dân chủ, công bằng và văn minh.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì và phát động Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, để đoàn kết tham gia phát triển kinh tế, tích cực giúp nhau giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống, khuyến khích làm giàu chính đáng. Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, chăm lo sự nghiệp giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân; xây dựng gia đình văn hóa; phát huy truyền thống đền ơn, đáp nghĩa, tương thân, tương ái. Đoàn kết tham gia bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng cảnh quan môi trường sáng, xanh, sạch, đẹp. Đoàn kết chấp hành pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Đoàn kết phát huy dân chủ, tích cực tham gia giám sát và phản biện xã hội, góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch vững mạnh.

Thực tiễn của cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” thời gian qua cho thấy, phát triển sản xuất hàng hóa luôn đi đôi, gắn liền với xây dựng đời sống văn hóa; phải lấy văn hóa làm nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Xây dựng đời sống văn hóa cần gắn với cội nguồn mà nhân tố trung tâm là con người và cộng đồng trong các gia đình, làng xã. Trong xây dựng nông thôn mới, mỗi cá nhân, gia đình, làng xã, nhất là người nông dân là chủ thể. Bên cạnh xây dựng đời sống mới ở khía cạch tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật và văn hóa tiên tiến, chúng ta cần phát huy đức tính tốt đẹp của người nông dân như lòng yêu nước, tính cần cù, trung thực, lối sống “tình làng, nghĩa xóm” và xóa bỏ tâm lý tiểu nông hạn hẹp. Đối với cư dân thành thị, đã bước đầu xây dựng và phát huy nếp sống đô thị, nếp sống văn minh và thượng tôn pháp luật trong sản xuất, kinh doanh và trong cách ứng xử.

Thực tiễn cho thấy, trong cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” thì vai trò của cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu trong hệ thống chính trị và từng người dân đồng sức đồng lòng, thấy rõ việc làm là thiết thực, hữu ích, bằng sự năng động, sáng tạo, quyết tâm cao mới thực hiện được chương trình, mục tiêu đặt ra. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã từng bước nâng cao trách nhiệm lãnh đạo và phối hợp chặt chẽ tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung cuộc vận động và trước hết nêu gương xây dựng đời sống mới trong mỗi gia đình, ngoài xã hội.

Học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đời sống mới, thực hiện nghiêm túc, có trách nhiệm, hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng về chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh sẽ góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tầm quan trọng của đại hội Đảng các cấp

 Tầm quan trọng của đại hội Đảng các cấp

Khẳng định tầm quan trọng của đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng, trong bài viết “Tổ chức tốt Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2025-2030”, Tổng Bí thư Tổ Lâm nhấn mạnh: “Thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng và văn kiện đại hội đảng bộ cấp trên trực tiếp theo hướng thực chất, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, tránh góp ý theo kiểu hình thức. Căn cứ điều kiện cụ thể của tổ chức Đảng và đại hội để định hướng, gợi mở những nội dung cốt lõi, những vấn đề mới, những vấn đề có nhiều phương án cho thảo luận; lựa chọn hình thức trao đổi, góp ý cho phù hợp, từ đó tiếp nhận, tiếp thu được nhiều ý kiến tâm huyết, có chất lượng. Trong quá trình thảo luận, bàn bạc, cần hết sức cầu thị, lắng nghe, tôn trọng ý kiến lẫn nhau, nhất là đối với những vấn đề mới, vấn đề khó, đồng thời kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, không được phép ngả nghiêng, dao động; luôn tỉnh táo, cảnh giác với mọi âm mưu lợi dụng việc góp ý để xuyên tạc, chống phá”.

Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu: Quá trình chuẩn bị, tổ chức đại hội, đặc biệt ở các đảng bộ mới thành lập, kiện toàn, cần giữ vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc “tập trung dân chủ”, “đoàn kết thống nhất”, “tự phê bình và phê bình”; quán triệt các nguyên tắc kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển để chuẩn bị thật nghiêm túc, chu đáo, toàn diện các nội dung đại hội, vừa tập trung chuẩn bị cho đại hội, vừa lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị. Tổ chức đại hội theo hướng thiết thực, tiết kiệm, tránh phô trương, lãng phí, bảo đảm trang trọng, ý nghĩa; gắn với đổi mới cách thức xây dựng, ban hành, quán triệt nghị quyết; tăng cường trao quyền và ủy quyền, giảm thiểu các ban bệ và đầu mối trung gian; phát huy sự chủ động, gương mẫu của cán bộ, đảng viên và sự tham gia đóng góp, ủng hộ tích cực của quần chúng nhân dân. Chủ động, tích cực làm tốt công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền để tạo sự thống nhất trong toàn Đảng bộ và sự đồng thuận trong tập thể quần chúng, nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với tổ chức cơ sở Đảng. Tạo điều kiện và môi trường thật tốt để phát huy trí tuệ và sự tham gia của các tầng lớp nhân dân trong xây dựng các văn kiện và công tác cán bộ, góp phần tích cực, có hiệu quả vào thành công của đại hội, sớm đưa nghị quyết đại hội Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người dân.

Giá trị lịch sử và hiện thực của tác phẩm “Đường kách mệnh"

 

Tác phẩm “Đường kách mệnh” là một trong những di sản tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng, Nhà nước ta công nhận là bảo vật quốc gia1. Tác phẩm ra đời cách đây đã 90 năm (năm 1927), nhưng vượt qua thời gian, nó không chỉ có giá trị lịch sử, mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Cuốn sách “Đường Kách Mệnh” . (Ảnh tư liệu)

Đúng như tên gọi của nó, Tác phẩm đã vạch ra con đường cách mạng Việt Nam; trong đó, xác định đường lối, mục tiêu, lý tưởng, động lực cách mạng, vai trò của lý luận cách mạng và nhiều vấn đề quan trọng khác, tạo tiền đề về tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930). Dù đã trải qua 9 thập kỷ, nhưng những giá trị lý luận và thực tiễn của Tác phẩm có vai trò to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay và mai sau.

1. Bối cảnh ra đời và giá trị lịch sử của Đường kách mệnh

Đường kách mệnh là tác phẩm tập hợp những bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho lớp huấn luyện cán bộ cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) từ năm 1925 - 1927, được xuất bản lần đầu tiên năm 1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông ấn hành.

Trong hoàn cảnh phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới phát triển mạnh mẽ, phong trào giải phóng dân tộc ở trong nước đã xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc màu chính trị khác nhau, đòi hỏi phải có một tổ chức mới, có đường lối đúng đắn và tổ chức chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công. Bởi vậy, Tác phẩm ra đời có ý nghĩa và vai trò như kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam. Để đảng cách mạng chân chính - Đảng Cộng sản Việt Nam - ra đời, đảm đương sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta đi đến thành công, cần có sự chuẩn bị những tiền đề, điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lịch sử đã chọn lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người gánh vác trọng trách to lớn này trước dân tộc và trước cách mạng Việt Nam.

Trên cương vị là phái viên của Quốc tế Cộng sản, trong khoảng thời gian từ năm 1924 - 1927, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Quảng Châu (Trung Quốc), tiến hành truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng, theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước; trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 6-1925, để xây dựng đội ngũ cán bộ cho cách mạng, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tập hợp những người yêu nước Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc. Tại đây, Người đã tổ chức nhiều lớp huấn luyện, bồi dưỡng cho các hội viên của Hội và trực tiếp giảng các bài về lý luận cách mạng. Với sự ra đời và hoạt động mạnh mẽ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, đã làm cho phong trào yêu nước ở nước ta có sự chuyển biến tích cực, tạo những điều kiện căn bản cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.

Như vậy, Đường kách mệnh không chỉ là tài liệu huấn luyện cán bộ, mà còn là tác phẩm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin, thổi “luồng gió mới” vào phong trào cách mạng Việt Nam; đồng thời, là sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, nội dung của Tác phẩm có mối liên hệ trực tiếp với các văn kiện quan trọng của Hội nghị thành lập Đảng, do chính lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, như: Chánh cương vắn tắtSách lược vắn tắtĐiều lệ vắn tắt và Chương trình tóm tắt. Đồng thời, đánh dấu sự chín muồi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự thành thục trong phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, là bước ngoặt trong hành trình tìm đường cứu nước của Người. Đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào phong trào cách mạng Việt Nam đương thời. Tác phẩm chứa đựng những tư tưởng sâu sắc về lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, nhưng được diễn đạt bằng văn phong giản dị, trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, đã gây ấn tượng mạnh trong nhận thức, tư tưởng của quần chúng. Đây có thể xem là kiểu mẫu tuyên truyền, cổ động để giác ngộ cách mạng cho quần chúng. Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ mục đích viết: “Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”.

Thời gian đã trôi qua, tình hình thực tiễn có nhiều thay đổi, song những tư tưởng bất hủ của Nguyễn Ái Quốc thể hiện trong tác phẩm Đường kách mệnh vẫn sống mãi cho tới ngày nay trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

2. Giá trị lý luận và thực tiễn của Đường kách mệnh

Đường kách mệnh là một hệ thống luận điểm sâu sắc về cách mạng, về đường lối cách mạng, về Đảng cách mạng, về đạo đức cách mạng, về quan hệ giữa Đảng với công hội, nông hội, đoàn thanh niên, về xây dựng và phát triển hợp tác xã, v.v. Mỗi luận điểm trong Đường kách mệnh chứa đựng chiều sâu về tư tưởng, tính tích cực trong hành động, tính nhân văn trong quan hệ con người và đều có ý nghĩa cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

Tác phẩm đã làm rõ cách mạng là gì, có mấy thứ cách mạng, những điều kiện để làm cách mạng, cách thức tổ chức lực lượng cách mạng, tư cách người cách mạng, v.v. Mỗi tiêu đề được Người nêu lên dưới dạng câu hỏi để tác động mạnh vào nhận thức của quần chúng. Xin làm rõ một số luận điểm, tư tưởng chủ yếu sau:

Thế nào là cách mạng? Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một định nghĩa kinh điển về cách mạng: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”, và theo Người, sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm, xây dựng xã hội mới là một công việc rất khó khăn. Muốn làm cách mạng phải “làm cho dân giác ngộ”, phải “giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”. Ở đây, Người đã nêu rõ vai trò quan trọng của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tự giác đứng lên làm cách mạng. Tiếp tục tư tưởng trong Đường kách mệnh, sau này, trong tác phẩm “Đời sống mới” (năm 1947), Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm biện chứng về cái cũ và cái mới, cái xấu và cái tốt để tránh nhận thức máy móc, cứng nhắc. Người viết: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới… Cái gì  mà tốt thì phải phát triển thêm,... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”.

Bôn ba nhiều nước trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu, khảo sát cách mạng tư sản Pháp, cách mạng tư sản Mỹ,... Người nhận ra rằng, những cuộc cách mạng đó “không đến nơi”, tức không triệt để, vì nó thay thế thiểu số giai cấp bóc lột này bằng thiểu số giai cấp bóc lột khác, nên đa số nhân dân lao động vẫn cực khổ, vì bị áp bức, bóc lột. Vì vậy, Người cho rằng: “… đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”7.

So sánh Cách mạng Tháng Mười Nga với các cuộc cách mạng đó, Người chỉ ra sự khác nhau về bản chất giữa hai loại cách mạng. Đồng thời khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”. Phát triển tư tưởng này, trong nhiều tác phẩm kế tiếp, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phải làm cho mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, ai cũng được hưởng độc lập, tự do, hạnh phúc; nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc thì nền độc lập đó có ý nghĩa gì; cách mạng là phải đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Muốn cách mạng thành công phải làm gì? Từ kinh nghiệm cách mạng Nga, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra: “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta, muốn cách mạng thành công trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Rõ ràng, nhiệm vụ cấp thiết trước hết lúc đó đối với cách mạng Việt Nam là phải thành lập đảng cách mạng để lãnh đạo cách mạng. Đồng thời, Người xác định động lực của cách mạng: “…muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc và cách mạng phải đoàn kết”; công nông là đội quân chủ lực của cách mạng.

Khi nói về Đảng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đặc biệt coi trọng vai trò của lý luận cách mạng, đó là lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Ngay trên trang bìa của Tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc đã viết câu nói nổi tiếng của V.I. Lê-nin: “Không có lý luận kách mệnh thì không có kách mệnh vận động,...”. Trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, chỉ khi đến được với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Người mới tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân và coi đó là “Cái cẩm nang thần kỳ”, “mặt trời chói lọi” đối với cách mạng Việt Nam. Theo Người, Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy; Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam; bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin (tức chủ nghĩa Mác – Lê-nin). Người kết luận “Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê-nin”.

Thế nào là tư cách một người cách mạng? Tư cách của người cách mạng đã được Nguyễn Ái Quốc xem xét một cách toàn diện trên 23 tiêu chí, phản ánh tổng hợp những yêu cầu một người cách mạng phải có cả về đạo đức, năng lực, phương pháp và phong cách. Tư cách người cách mạng được Nguyễn Ái Quốc xem xét trên 03 mối quan hệ: đối với mình (14 tiêu chí), đối với người (05 tiêu chí) và đối với việc (04 tiêu chí). Những tiêu chí về đạo đức cách mạng đã được Người nhấn mạnh: “cần kiệm”, “nhẫn nại (chịu khó)”, “vị công vong tư”, “không hiếu danh, không kiêu ngạo”, “giữ chủ nghĩa cho vững”, “hy sinh”, “phục tùng đoàn thể” và đặc biệt là “ít lòng tham muốn về vật chất”. Theo Người, lòng tham muốn về vật chất dễ dẫn con người đến chỗ bất chấp tất cả, miễn đạt mục đích, dễ dẫn đến chủ nghĩa cá nhân mà chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của biết bao nhiêu căn bệnh như về sau này Người đã chỉ ra trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947). Hồ Chí Minh đã phát triển những tư tưởng về đạo đức trong Đường kách mệnh thành lý luận về đạo đức cách mạng và cho rằng: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”; đồng thời, nêu lên tiêu chí đạo đức cách mạng là: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, phải chống chủ nghĩa cá nhân. Và bản thân Người là một tấm gương sáng về thực hành đạo đức cách mạng. Trong Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc còn nêu ra những tiêu chí về phương pháp và phong cách của người cách mạng, như: “hay nghiên cứu, xem xét”, “xem xét người”, “xem xét hoàn cảnh kỹ càng”, “cả quyết sửa đổi mình”, “cẩn thận mà không nhút nhát”, “trực mà không táo bạo”, “nói thì phải làm”, “quyết đoán”, “dũng cảm”, v.v. Có thể nói, những tiêu chí về tư cách của người cách mạng trong Đường kách mệnh là cơ sở tư tưởng, lý luận quan trọng để Đảng ta xây dựng những tiêu chí, chuẩn mực trong đánh giá cán bộ, đảng viên, góp phần thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Tác phẩm Đường kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc chứa đựng những giá trị đặc sắc về tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người; là sự chuẩn bị trực tiếp về chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc dù 90 năm đã qua đi kể từ thời điểm Tác phẩm được xuất bản, nhưng những giá trị cốt lõi của các luận điểm được kết tinh trong Đường kách mệnh đến nay vẫn còn nguyên vẹn giá trị lý luận và thực tiễn, làm cơ sở để Đảng ta từ khi ra đời đến nay, vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng đã rút ra bài học lớn: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Đảng phải kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho phù hợp với tình hình mới; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch nhằm xuyên tạc, bác bỏ, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đối lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời khẳng định: “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức do Đảng lãnh đạo”.

Ngày nay, trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, trước những khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Vì vậy, tiếp tục nghiên cứu, khai thác và tuyên truyền sâu rộng nội dung của Tác phẩm để Đảng ta xây dựng phương pháp cách mạng phù hợp với tình hình hiện nay là rất quan trọng; nhất là trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.