Thứ nhất, Đảng ta từng bước đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại
hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ đổi
mới toàn diện và sâu sắc mọi mặt đời sống của đất nước, bắt đầu từ đổi
mới kinh tế, từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường. Đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), mô hình
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới được khẳng định
chính thức và làm rõ - đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận kinh
tế của Đảng, từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ
chế quản lý, sang nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ
sở kinh tế của sự phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XIII của Đảng đã thống nhất và nêu rõ: “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện
đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Trải
qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính
thống nhất và mâu thuẫn trong quá trình thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, Đảng từng bước đề ra quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử lý mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nắm
vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa ổn định, đổi mới và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo
các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;... giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường”.
Quá trình gần 40 năm đổi mới, nhất là hơn 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020, đã tạo những bước tiến quan trọng cả về nhận
thức lý luận và tổ chức thực hiện. Quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những nhận định, đánh
giá quan trọng về mặt khoa học và được thực tiễn chứng minh. Về lý luận,
nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng đầy đủ hơn: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước”. Về thực tiễn, xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập theo hướng
đầy đủ, hiện đại và hội nhập; “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của
nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Lần
đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được khẳng định trong Văn kiện
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994). Đến
năm 2001, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên thuật
ngữ này được hiến định, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Từ đó đến
nay, vấn đề xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam trở thành một nội dung quan trọng trong đường lối của Đảng và
dần được hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị
quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”; theo
đó, các hình thức thực hiện dân chủ từng bước được hoàn thiện và được
bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Dân chủ trong Đảng, trong các cơ
quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân được mở rộng. Việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xử lý hành vi vi
phạm quyền dân chủ được chú trọng.
Đảng
luôn sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng
nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; tập trung lãnh đạo đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, giải quyết kịp thời
những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân; xử lý nghiêm minh mọi
hành vi vi phạm pháp luật, với phương châm “không có vùng cấm, không có
ngoại lệ”. Tạo cơ chế thuận lợi để nhân dân tham gia giám sát, phản biện
xã hội; tổ chức hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát,
góp ý đối với hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thực
hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai
trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy
mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng tạo môi trường,
điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động tham gia tích cực, có trách
nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, từng bước nâng
cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội
Xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tiếp
cận, vận dụng chọn lọc giá trị phổ quát của các nền dân chủ đương đại
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thông qua các kỳ đại hội Đảng, các
văn kiện của Đảng qua các thời kỳ đã từng bước xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trong đó, vấn đề trọng tâm là
phát huy vai trò, vị thế của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Đảng, hoàn thiện phương thức lãnh
đạo, phương châm công tác dân vận trong thời kỳ mới. Đại hội XIII của
Đảng tiếp tục nhấn mạnh quyền lực thuộc về nhân dân để tạo tiền đề vững
chắc cho nhiệm vụ hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đại
hội XIII của Đảng khẳng định, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn
đó, chính là kết quả của ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn
kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung nhiều nội
dung mới về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, tập trung đề
cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát
triển đất nước, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát
huy cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
theo Hiến pháp và pháp luật; thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, xác định Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt. Nghị
quyết cũng xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ thắt chặt hơn nữa mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy, hệ
thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân
dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
trong tình hình mới.
Điểm
nổi bật là việc thể chế hóa và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng và ban hành Luật Thực hiện dân
chủ ở cơ sở năm 2022; hoàn thiện và thực hiện phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong tất cả
loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các ngành, trong các cơ
quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội, lực lượng vũ trang và các hội quần chúng.
Phát
huy hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền của nhân dân, trọng tâm là trách nhiệm của các cấp
ủy, tổ chức đảng, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là
người đứng đầu; chú trọng đến hoạt động quản lý nhà nước, những lĩnh vực
liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân và phát triển nhanh, bền
vững đất nước; xây dựng cơ chế, chính sách để giải phóng mọi tiềm năng,
sức sáng tạo của nhân dân; phát huy vai trò chủ thể của nhân dân tham
gia phát triển kinh tế, quản lý xã hội; bảo đảm công khai, minh bạch để
mọi tầng lớp nhân dân có cơ hội và quyền chủ động tiếp cận thông tin.
Thứ tư, xây dựng, hoạch định chủ trương, chính sách lấy người dân làm trung tâm
Trên
cơ sở phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, Đảng chủ
trương tập trung chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân -
đây là sứ mệnh của Đảng, là mục tiêu và bản chất của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quan điểm về chăm lo đời
sống nhân dân đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hóa trong
Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm; thể hiện trong từng chế độ,
chính sách phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất
nước, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chặng đường
gần 40 năm đổi mới là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất
nước, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã chứng minh sức sống trường
tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chứng minh sự
đúng đắn, sáng tạo trong đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện rõ
Đảng ta là Đảng của dân, do dân, dựa vào dân và vì dân. Từ khi bắt đầu
công cuộc đổi mới đến nay, Đảng đã trải qua 8 kỳ đại hội, từ Đại hội VI
của Đảng đến Đại hội XIII của Đảng - đây là quá trình hình thành và phát
triển đường lối đổi mới của Đảng. Trong quá trình đó, Đảng đã tạo được
sự đồng thuận, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tổ chức thực
hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng và đạt được những thành
tựu quan trọng, vượt bậc. Từ một đất nước cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp; đến nay, Việt Nam
đã vươn mình trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình,
nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không
ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được
giữ vững; độc lập, chủ quyền được bảo đảm. Đặc biệt, giai đoạn từ năm
1986 đến năm 2022, Việt Nam lọt nhóm 5 nước có quy mô nền kinh tế tăng
nhiều nhất thế giới, đứng thứ tư của ASEAN, đứng vị trí 40 trên thế
giới. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993, giảm xuống còn 2,93% theo
chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện giảm còn
khoảng 33%,... Những kết quả, thành tựu đất nước đạt được đã tạo tiền
đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những năm
tới.
Thứ năm, thực hiện hiệu quả công tác dân vận của Đảng và hệ thống chính trị
Trong
mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự
tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì
thực hiện đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng” và “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi
ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng đã chăm lo đầy
đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của nhân dân; xây dựng mối quan hệ
gắn bó mật thiết với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, lấy
kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí
quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Hơn 94 năm có Đảng, qua gần 40 năm thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước, là chặng đường vinh quang thể hiện sinh động sự
gắn kết giữa Đảng với nhân dân; thực tiễn đã chứng minh, đây không phải
là khẩu hiệu mà là bản chất mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân
- “Ý Đảng, lòng dân”. Nhân dân luôn là nhân tố quyết định sức mạnh của
Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thông qua mối quan hệ
này, Đảng đã phát huy được vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công
tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; tập hợp, phát huy được sức
mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân để thực hiện công cuộc
đổi mới ngày càng hiệu quả, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
Thứ sáu, xây dựng, củng cố và hoàn thiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân ngày càng thực chất, chặt chẽ
Là
một trong những nguyên tắc quan trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị, sự nhận thức, phát triển nguyên tắc này thể hiện sự
nhất quán, xuyên suốt trong tư tưởng, quan điểm của Đảng, được khẳng
định qua văn kiện các kỳ đại hội, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi
mới đất nước từ năm 1986 đến nay. Quá trình thực hiện công cuộc đổi
mới, mối quan hệ chính trị - pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” tiếp tục được xây dựng, ngày càng hoàn thiện. Hiến
pháp năm 2013 cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong mối quan hệ với nhân
dân tại khoản 2, Điều 4, khoản 2: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật
thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”; Hiến pháp
năm 2013 cũng quy định rõ tại khoản 1, Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; theo khoản 2, Điều 2 của Hiến pháp năm
2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; đồng
thời, Điều 3 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xuất phát từ thực tiễn, từ
nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương,
biện pháp để xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều thành
tựu quan trọng.
Những
thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo toàn diện của Ðảng là do có đường
lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế, quy luật vận động,
phát triển của cách mạng Việt Nam; phù hợp với quyền và lợi ích hợp
pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng
hộ, tích cực thực hiện. Cần khẳng định rằng, mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân là nội dung cốt lõi phản ánh bản chất của Đảng ta, thể
hiện rõ nét vị thế và sức mạnh của một Đảng lãnh đạo, cầm quyền; sức
mạnh và uy tín của Đảng được kết tinh, hội tụ từ sức mạnh của dân tộc và
nhân dân Việt Nam - Yếu tố quyết định sự thành công qua gần 40 năm thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước./.