Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

Hội nghị Ban Soạn thảo xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam

 Chiều 21/6, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị Ban Soạn thảo xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban Soạn thảo chủ trì hội nghị.

Dự hội nghị có Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Phó Trưởng ban Thường trực; Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Trưởng ban Soạn thảo; các đồng chí thành viên Ban Soạn thảo, thành viên Tổ Biên tập; lãnh đạo, chỉ huy một số cơ quan, đơn vị trong toàn quân.

Tại hội nghị, Thiếu tướng Hàn Mạnh Thắng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Quốc phòng công bố quyết định thành lập Ban Soạn thảo Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam. Trung tướng Đỗ Xuân Tụng, Cục trưởng Cục Cán bộ, thay mặt Ban Soạn thảo báo cáo tóm tắt kết quả bước đầu triển khai xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam. Các đồng chí thành viên Ban Soạn thảo cho ý kiến làm rõ nội dung, phạm vi sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; dự thảo Kế hoạch phân công nghiên cứu, soạn thảo Dự án Luật và các văn bản dưới Luật.

Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Đại tướng Phan Văn Giang đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của các đồng chí thành viên Ban Soạn thảo trong thời gian ngắn đã chuẩn bị chu đáo, đầy đủ các tài liệu và văn bản phục vụ xây dựng dự án Luật. Đại tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh, về quan điểm, nguyên tắc sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam cần bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng QĐND Việt Nam để xây dựng dự thảo Luật trên cơ sở kế thừa những nội dung còn hợp lý, phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những nội dung đang vướng mắc, bất cập; việc sửa đổi, bổ sung phải đảm bảo giữ được chất lượng, vị thế, uy tín của sĩ quan quân đội, nhất là sĩ quan cấp tướng; cân đối giữa các cơ quan, đơn vị trong toàn quân; đồng thời, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và phù hợp với điều kiện thực tế công tác cán bộ trong Quân đội.

Đại tướng Phan Văn Giang yêu cầu Cơ quan Thường trực Ban Soạn thảo tiếp thu đầy đủ, triệt để các ý kiến phát biểu tại hội nghị và các ý kiến tham gia bằng văn bản của các đồng chí thành viên Ban Soạn thảo; nghiên cứu, chỉnh lý, điều chỉnh chương trình, kế hoạch soạn thảo, đảm bảo việc xây dựng Dự án Luật chất lượng, hoàn thành từng nội dung công việc theo kế hoạch. Quá trình thực hiện, nếu có phát sinh vướng mắc, kịp thời báo cáo, đề xuất biện pháp giải quyết để Trưởng ban Soạn thảo xem xét, quyết định.

Theo báo cáo, ngay sau khi có kết luận của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tại Hội nghị Thủ trưởng Bộ Quốc phòng cho ý kiến vào nội dung tổng kết Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam ngày 03/6/2024, Vụ Pháp chế Bộ Quốc phòng và Cục Cán bộ (Tổng cục Chính trị) đã chủ động phối hợp trình Thủ trưởng Bộ Quốc phòng ký Báo cáo tổng kết thực hiện Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam, quyết định thành lập Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập; Quy chế hoạt động của Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập; Kế hoạch soạn thảo Dự án Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam. Tiến hành rà soát toàn bộ nội dung Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam hiện hành; dự kiến đề xuất sửa đổi một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam; dự thảo Kế hoạch phân công nghiên cứu, soạn thảo Dự án Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; gửi xin ý kiến và tổng hợp, tiếp thu ý kiến các Bộ, ngành liên quan; hoàn thiện hồ sơ lập đề nghị xây dựng Dự án Luật, báo cáo Thủ trưởng Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định. Trên cơ sở tổng kết Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam và kiến nghị, đề xuất của các cơ quan, đơn vị, dự kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung 10 điều của Luật gồm: Về chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan (Điều 11); Về tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan (Điều 13); Về cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan (Điều 15); Về rút ngắn thời hạn xét thăng quân hàm cấp úy (Điều 17); Về bổ sung quy định về nâng lương trước thời hạn (Điều 18); Về tiền lương, phụ cấp, nhà ở, đất ở và điều kiện làm việc đối với sĩ quan tại ngũ (Điều 31); Về tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị (Điều 38); Về bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm sĩ quan dự bị (Điều 41); Về trách nhiệm của các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong tổ chức thực hiện Luật (Điều 46, Điều 47). Cơ quan Soạn thảo dự kiến sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới 13 văn bản (05 nghị định, 08 thông tư) để phù hợp với việc sửa đổi các điều của Luật.

 

Thói đạo đức giả và bộ mặt thật của chủ nghĩa cá nhân-Bài 1: Thói đạo đức giả - kẻ thù của nhân dân lao động

 

“Đạo đức giả”-dân gian hay gọi là thói đạo đức giả, là những hành vi dùng vỏ bọc đạo đức bề ngoài; nói và làm những điều tưởng như chuẩn mực, giống y như những người có đạo đức, để che đậy bản chất cơ hội bên trong, đánh lừa cá nhân, tập thể, nhằm mưu lợi riêng, trục lợi cá nhân, gây hại cho xã hội.

Những năm gần đây, thói đạo đức giả trong xã hội, đặc biệt ở một số cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng nhanh. Biểu hiện của thói đạo đức giả, cá nhân, vị kỷ trong không ít cán bộ, đảng viên vô cùng phức tạp, tinh vi. Vậy nhưng, điều này chưa được các cơ quan chức năng đánh giá đúng mức những nguy hại, hệ lụy mà nó gây ra để phòng tránh.

Cháy nhà... mới ra mặt chuột

Qua những câu chuyện từ nhiều chuyến đi thực tế, chúng tôi nhận thấy, khi số ít cán bộ thoái hóa biến chất còn chưa bị các cơ quan chức năng xử lý, họ là những người thực sự có quyền lực ở các cơ quan, địa phương, thậm chí ở bộ, ngành, Trung ương; là những người “nói có người nghe, đe có kẻ sợ”. Khi chưa bị phát hiện "nhúng chàm", họ đã dùng bộ mặt đạo đức giả “qua mặt” được nhiều cơ quan chức năng, tổ chức đảng các cấp; được tin tưởng giao giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý.

Đến thời điểm có quyền lực, được trao quyền, họ củng cố quyền lực bằng những phát biểu rao giảng đạo đức cách mạng, sự gương mẫu cho cấp dưới, cho nhân dân. Thật buồn, chỉ đến khi “cháy nhà mới ra mặt chuột”, bộ mặt đạo đức giả bị bóc trần.

Thói đạo đức giả và bộ mặt thật của chủ nghĩa cá nhân-Bài 1: Thói đạo đức giả - kẻ thù của nhân dân lao động
 Minh họa: MẠNH TIẾN

Thói đạo đức giả với người dân đã nguy hại, với những người có chức vụ, chủ doanh nghiệp có tầm ảnh hưởng lớn càng nguy hại hơn. Địa vị càng lớn, thói giả dối càng được che đậy tinh vi; gây ra những hành động phi đạo đức với hậu quả càng lớn cho nhân dân. Dùng thói đạo đức giả không chỉ che đậy những âm mưu và hành động bất chính, đục khoét của công, tham nhũng của Nhà nước, nhân dân; tư lợi cho bản thân, họ hàng, mà nó còn làm bại hoại đạo đức ở đơn vị, địa phương, tổ chức. Những kẻ đạo đức giả ấy, xét đến cùng là điển hình của chủ nghĩa cá nhân.

Hậu quả mà những cán bộ đeo mặt nạ đạo đức giả gây ra là vô cùng to lớn về kinh tế, về tinh thần, làm rối loạn tổ chức, gây mất niềm tin của nhân dân vào cán bộ. Theo thống kê của cơ quan chức năng, con số hàng chục nghìn đảng viên, trong đó có những cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý kỷ luật liên quan đến tham nhũng, tham ô, nhận hối lộ mỗi năm cho thấy tình trạng này đã đến mức báo động.

Vì thế, thói đạo đức giả cần được chỉ mặt rõ ràng để dùng mọi biện pháp giáo dục nghiêm khắc bằng những hình thức nghiêm minh của pháp luật; bằng những quy định chặt chẽ của Đảng và các tổ chức chính trị, xã hội; bằng sự đồng lòng thông qua những hương ước của cộng đồng, xã hội. Xử lý nghiêm những cán bộ này là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc cho những cán bộ đang giấu giếm bộ mặt đạo đức giả, giấu giếm ý định thu lợi cá nhân, chủ nghĩa cá nhân mà chưa bị phát hiện.

Những kẻ đạo đức giả là ai? Biểu hiện thường thấy là gì?

Xin lấy một ví dụ điển hình nhất về thói đạo đức giả của một số cán bộ, các chủ doanh nghiệp trong thời gian qua là sự kiện hàng chục cán bộ các cấp, doanh nghiệp liên quan tới chuyến bay giải cứu, thời gian diễn ra đại dịch Covid-19, đưa người dân ở nước ngoài về nước, đã phải ra hầu tòa và chịu các mức án thích đáng.

Từ một chủ trương đúng đắn, nhân văn của Đảng, Nhà nước chia sẻ khó khăn với nhân dân, đưa nhân dân ra khỏi những vùng nguy hiểm của dịch bệnh, thế mà nhiều cán bộ cấp cao, doanh nghiệp đã lợi dụng vị trí công tác để tìm mọi cách ăn chặn tiền của người dân.

Trong khi đó, họ vẫn lớn tiếng, mạnh miệng, trắng trợn lừa dối các cơ quan báo chí, truyền thông về đạo đức, về trách nhiệm, về tinh thần phục vụ, sự vất vả của họ cùng những cán bộ thuộc quyền và doanh nghiệp. Nhiều người dân ban đầu không biết, đã nhẹ dạ tin theo, nộp tiền để họ trục lợi... Chỉ đến khi thông tin bị phanh phui, người dân mới hiểu ra bộ mặt đạo đức giả của nhóm cán bộ, doanh nghiệp này.

Thật xót xa, tiếc nuối khi gần đây, các cơ quan chức năng liên tục công bố hàng loạt quyết định kỷ luật đối với không ít cán bộ cấp bộ, cục; bí thư, chủ tịch các tỉnh, huyện, xã... và thậm chí còn cả cán bộ cấp cao hơn. Không ít người cảm thán, mới hôm qua còn ngồi ghế lãnh đạo, ra sức rao giảng đạo đức cho bao người, vậy mà, khi cơ quan chức năng vào cuộc, cơ quan công an điều tra, họ lại hiện nguyên hình chính là những con mọt chúa đục ruỗng mọi ngóc ngách, vươn cái vòi tham lam vơ vét. Những kẻ đạo đức giả đã cấu kết với nhau để làm sai, ký sai, tham ô, tham nhũng, biển thủ... những khoản tiền, những dự án nhiều tỷ đồng, là mồ hôi xương máu, là tiền thuế của nhân dân, doanh nghiệp.

Bóc từng lớp phủ những khuôn mặt đạo đức giả

Tại sao họ lại làm vậy, phải chăng vì khó khăn trong cuộc sống? Không hề! Tất cả cán bộ bị xem xét kỷ luật và bị cơ quan chức năng điều tra thời gian gần đây không hề nghèo, yếu, thiếu trình độ. Họ ban đầu thậm chí còn là những “hạt giống”, người có trình độ, có quá trình phấn đấu rất tốt, có gia đình trong sáng, là nền tảng vững chắc cho sự phát triển, thăng tiến trong sự nghiệp.

Buồn thay, chỉ sau một thời gian làm cán bộ, họ giàu, rất giàu! Điều này tỷ lệ thuận với sự biến chất của cán bộ. Càng biến chất, bộ mặt đạo đức giả lại càng phải dày lên để che đậy những mưu đồ bất chính ngày càng lớn hơn.

Cũng vì thế, phi vụ sau lại lớn hơn phi vụ trước. Số lượng tiền bạc, nhà đất, xe cộ cũng vì thế mà càng nhiều lên. Nhưng tiền, xe, đất, quyền lực... với họ mãi chẳng bao giờ đủ. Dục vọng cá nhân luôn như chiếc thùng không đáy thì càng khiến bộ mặt đạo đức giả ngày càng dày lên với biết bao lớp phủ, khiến bản thân họ cũng khó nhận ra mình của lúc ban đầu, những câu từ sáo rỗng được họ phát ra trái ngược với hành động, khiến nhân dân nghi ngờ, giảm sút niềm tin vào các cơ quan lãnh đạo. Chỉ khi bị kỷ luật, bị điều tra, nhân dân mới nhận ra bộ mặt thật của họ.

Vẫn biết, khi tiến hành đổi mới, kinh tế thị trường phát triển, cùng với cơ hội, những cơn gió lành, thì những làn gió độc, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng khiến nhiều người dân, doanh nghiệp và một bộ phận cán bộ không giữ được mình. Trong cuộc chiến giữa lối sống chân thành và giả dối luôn vô cùng giằng co, phức tạp. Người cán bộ, đảng viên luôn bị giằng xé giữa lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động chân chính, có tự trọng bản thân, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của tập thể, của Nhà nước thì nghèo, vất vả với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền thì sẽ giàu có, hưởng lạc. Nhiều cán bộ đã không vượt qua được cái xấu, cái ích kỷ cá nhân, vì thế, họ chọn bộ mặt đạo đức giả che đi tham vọng của mình, từ đó hành động một cách bất chấp để vinh thân phì gia.

Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp. Biểu hiện cụ thể chính là suy thoái về đạo đức, lối sống như cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, thu lợi cá nhân, thói háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, vô cảm, tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi... được ví như những mọt chúa, mối chúa đẻ ra hàng vạn, hàng triệu mối con, mọt con, từng ngày gặm nhấm, đục ruỗng không ít cơ quan; thậm tệ hơn, chúng đục ruỗng tinh thần, ý chí của một bộ phận cán bộ, đảng viên kém ý chí, kém rèn luyện.  

                                                                                                                                   Nguon: Bao qdnd.vn

Phòng, chống xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng

 

Không gian mạng là mạng lưới kết nối toàn cầu của các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm internet, hệ thống máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, là môi trường đặc biệt mà con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian.

    Nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, những năm qua, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng thế mạnh của không gian mạng để triển khai các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia (ANQG) nước ta.

    Chúng triệt để lợi dụng các kênh truyền hình trên internet, trang web và mạng xã hội để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc, bóp méo thực tế những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong dân tộc, tôn giáo nhằm vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo, tạo cớ để bên ngoài can thiệp nội bộ nước ta.

    Chúng còn lợi dụng công nghệ để cắt dán, trích dẫn sai lệch các hình ảnh, tài liệu nhằm làm cho nhân dân và cộng đồng quốc tế hiểu không đúng về chính sách, pháp luật của Nhà nước ta và các thành tựu đã đạt được trong việc xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội, qua đó hòng xuyên tạc tình hình thực tế trong nước. Điển hình như năm 2022, tổ chức phản động Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS) đã tổ chức Diễn đàn trực tuyến với chủ đề “Hội luận về Thiên Chúa giáo ở vùng Tây Nguyên-thách đố và triển vọng” nhằm xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, kích động hận thù, vận động người dân trong nước tham gia diễn đàn, kêu gọi quốc tế gây sức ép yêu cầu Nhà nước Việt Nam “cải thiện tự do tôn giáo, tín ngưỡng”.

    Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã phát hiện hơn 3.000 trang web, blog, tài khoản mạng xã hội và gần 100 hội, nhóm trên mạng xã hội Facebook thường xuyên đăng tải thông tin chống Đảng, Nhà nước Việt Nam, kích động gây rối an ninh, trật tự, kích động biểu tình, bạo loạn, thực hiện “cách mạng màu”,“cách mạng đường phố”...

    Bên cạnh đó, các tổ chức và lực lượng phản động, thù địch lợi dụng không gian mạng để tiến hành các hoạt động gián điệp, thu thập tin tức chống Việt Nam thông qua việc tung ra những phần mềm chứa các mã độc, phần mềm gián điệp được cài sẵn, các ứng dụng miễn phí trên điện thoại. Chúng sử dụng kỹ thuật hiện đại lợi dụng lỗ hổng bảo mật để xâm nhập chiếm đoạt bí mật nhà nước, lấy cắp phát minh, sáng chế nhằm gây thiệt hại cho kinh tế nước ta.

Phòng, chống xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng
Ảnh minh họa  / TTXVN 

    Chúng còn lợi dụng internet, mạng xã hội để chia sẻ công cụ, cách thức, thủ đoạn phạm tội hoặc làm lây nhiễm virus, phần mềm gián điệp, mã tin học độc hại... nhằm phá hoại kinh tế, cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn của nước ta. Theo cơ quan chức năng, tính từ đầu năm 2023 đến nay, đã có hơn 13.750 cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam gây ra sự cố nghiêm trọng. Riêng trong quý I-2024, các cơ quan chức năng đã phát hiện 32.265 nguy cơ tấn công mạng nhằm vào các mạng công nghệ thông tin trọng yếu của các cơ quan Đảng, Chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2023.

        Nghiêm trọng hơn, chúng lợi dụng internet, mạng xã hội để kích động, lôi kéo người dân tham gia hoạt động chống phá an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở nước ta; đồng thời, móc nối, cấu kết với cán bộ, đảng viên có biểu hiện tha hóa, biến chất, số có tư tưởng "cấp tiến" là lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành để mua chuộc, lôi kéo hình thành tổ chức phản động. 

    Dưới chiêu bài “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, “yêu nước”, chúng âm mưu hình thành, phát triển “xã hội dân sự” và các tổ chức chính trị-xã hội, hội nhóm bất hợp pháp như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“Nhóm công dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”... Thông qua internet, mạng xã hội, các đối tượng bên ngoài và trong nước cấu kết, móc nối với nhau để lôi kéo, mua chuộc người tham gia tổ chức phản động. Trong đó, bên ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động; số đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thành lập tổ chức, hội nhóm, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài xuyên tạc; điển hình như các tổ chức phản động: "Việt Tân", "Tuổi trẻ yêu nước"... 

    Cùng với đó, cũng phải thấy một thực tế là, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động xâm phạm ANQG trên không gian mạng, thời gian qua, công tác này còn tồn tại những khó khăn, hạn chế nhất định. Đó là công tác quản lý công nghệ viễn thông, bảo mật thông tin nội bộ của không ít cơ quan nhà nước, cá nhân tại Việt Nam còn sơ hở, chưa được bảo mật tốt. Hệ thống pháp luật của nước ta trong lĩnh vực quản lý mạng xã hội, internet và đấu tranh, xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao đang trong quá trình đồng bộ để đáp ứng tình hình thực tế. Công tác tuyên truyền, định hướng thông tin và đấu tranh phản bác các thông tin xấu, độc, quan điểm sai trái, thù địch vẫn có lúc thụ động, thiếu sắc bén.

    Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm lợi dụng internet, mạng xã hội còn mỏng; trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật còn khó khăn. Trong khi đó, tội phạm lợi dụng internet, mạng xã hội là những đối tượng có nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và liên tục thay đổi phương thức hoạt động trên phạm vi hoạt động rộng, đặc biệt là từ nước ngoài, gây khó khăn trong phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn.   

    Nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm ANQG nước ta trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:

    Một là, tiếp tục chủ động tăng cường công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự báo, phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, đặc biệt là phương thức hoạt động mới của các thế lực thù địch lợi dụng không gian mạng để chống phá nước ta; chú trọng nắm tình hình từ xa, nắm tình hình ngay từ trung tâm phá hoại tư tưởng ở bên ngoài để triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn. Chủ động xây dựng hệ thống thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng có khả năng chỉ huy, kết nối, chia sẻ thông tin, tiếp nhận và xử lý sớm các thông tin gây hại tới không gian mạng quốc gia. 

    Hai là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm ANQG nước ta, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị. Làm cho cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên thấy rõ tính hai mặt của không gian mạng; có khả năng nhận diện và “miễn dịch” với các nội dung thông tin xấu, độc, nguy hại đối với xã hội; kịp thời tố giác hành vi lôi kéo người dân vào các hoạt động vi phạm pháp luật thông qua không gian mạng.

    Xây dựng ý thức và phong cách văn hóa khi tham gia mạng xã hội, internet; không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật nhà nước. Phát huy hơn nữa lợi thế của internet, mạng xã hội trong việc cập nhật thường xuyên các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những thành tựu đã đạt được trong xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.  

    Ba là, phát huy vai trò của Ban chỉ đạo An toàn, an ninh mạng quốc gia, Hiệp hội An ninh mạng quốc gia trong việc tham mưu với Đảng, Nhà nước chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương hướng dẫn cán bộ, đảng viên và người dân cùng tham gia công tác bảo vệ an toàn, an ninh mạng, phát huy sức mạnh tổng hợp chung trong công tác phòng, chống hoạt động xâm phạm ANQG trên không gian mạng.   

    Bốn là, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm ANQG có phẩm chất đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh nhuệ, hiện đại, có trình độ chuyên môn sắc bén trong điều tra, khám phá âm mưu, hoạt động lợi dụng không gian mạng để chống phá nước ta. Tiếp tục đầu tư, trang bị các trang thiết bị nghiệp vụ chuyên dụng và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống hoạt động này. Đầu tư trọng điểm xây dựng các đơn vị an ninh mạng, tác chiến điện tử đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ phòng thủ quốc gia trên không gian mạng. 

    Năm là, tăng cường, mở rộng hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế có trình độ phát triển cao về công nghệ thông tin và an ninh mạng để trao đổi kinh nghiệm trong bảo đảm an toàn, an ninh mạng và đấu tranh phòng, chống hoạt động vi phạm pháp luật trên lĩnh vực này; tranh thủ tiếp thu công nghệ mới và hợp tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng làm công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội nước ta. 

    Tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước về viễn thông, truyền thông, internet, bảo vệ bí mật nhà nước và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực này. Nghiên cứu sử dụng các giải pháp công nghệ thông tin để ngăn chặn triệt để những tin tức xấu, độc trên các trang mạng, vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung độc hại.

                                                                                                                                        Nguon: Bao qdnd.vn           

Bộ đội thông tin liên lạc chính xác, bí mật, sáng tạo trên mọi mặt trận

 

Là lực lượng thầm lặng, đi trước, về sau, bộ đội thông tin liên lạc luôn đảm bảo bí mật, chính xác, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trên mọi mặt trận.

Từ chân đất mũ nan, vũ khí thô sơ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã dần lớn mạnh, chiến thắng những đội quân hùng mạnh nhất thế giới, xoay chuyển lịch sử, giành lại hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc. Đóng góp vào những chiến thắng ấy có công sức của lực lượng bộ đội thông tin liên lạc.

Năm 1967, Quảng Bình - điểm khởi đầu tuyến chi viện chiến lược 559 - đường Hồ Chí Minh, Trạm thông tin A69 đã được thành lập trong hang sâu Lèn Hà, xã Thanh Hóa, huyện Tuyên Hóa. Dù ngày đêm bị địch bắn phá, các chiến sĩ A69 vẫn anh dũng, kiên cường giữ liên lạc thông suốt giữa Bộ chỉ huy và chiến trường.

Bà Nguyễn Thị Thanh, chiến sĩ của Trạm A69, vẫn nhớ như in ngày 2/7/1972. Máy bay Mỹ ập tới, liên tục dội bom. Trạm 69 bị đứt liên lạc; 13 chiến sĩ anh dũng hy sinh, gửi lại thanh xuân nơi chiến trường.

13 chiến sĩ liên lạc đã anh dũng hy sinh để mạch máu thông tin không ngừng nghỉ. Tinh thần vượt muôn vàn gian khổ cũng là tinh thần của toàn lực lượng kể từ những ngày đầu thành lập năm 1945.

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, lần đầu tiên các chiến sĩ thông tin liên lạc đã tổ chức mạng liên lạc vô tuyến điện thoại bảo đảm cho chỉ huy chiến dịch trên trận địa quy mô lớn.

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, bộ đội thông tin liên lạc lại bắt rừng mở lối, bắt núi cúi đầu.

Năm 1973, Đường dây Thống Nhất hoàn thành, đảm bảo thông suốt từ Bộ Quốc phòng đến Bộ tư lệnh 559 đến các chiến trường, kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam.

Đường dây thắng Mỹ trở thành mốc son của bộ đội thông tin, là con đường thứ thách ý chí và lòng quyết tâm góp phần thống nhất đất nước.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, bộ đội thông tin liên lạc đã chuyển, nhận hàng chục nghìn bức điện, chuyển tiếp hàng triệu cuộc điện thoại, hàng trăm tấn công văn, tài liệu; trong đó có bức điện của Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng".

Nnhững chiến sĩ thông tin liên lạc "đi trước, về sau" trong kháng chiến lại tiếp tục xây dựng xây dựng lực lượng trở thành "binh chủng điện tử", "mạch máu" quốc gia, tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tô thắm hình ảnh cao đẹp "Bộ đội Cụ Hồ", "Người chiến sĩ Thông tin ưu tú" trong lòng nhân dân.

 

 

Ông cha ta đánh giặc: Du kích đánh địch, giữ làng

 

Giữa tháng 3-1959, với vũ khí thô sơ gồm ná và mũi tên độc, 12 du kích (trong đó có 2 chiến sĩ nữ) của xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định đã đẩy lùi một đại đội bảo an càn quét vào làng Tà Lók thuộc xã Vĩnh Hiệp. Chiến thắng này đã củng cố niềm tin, quyết tâm đánh thắng địch của bộ đội và du kích địa phương.

7 giờ sáng 17-3-1959, đại đội bảo an của địch bắt đầu cuộc hành quân càn vào hai làng Tà Lók và Tà Lék (xã Vĩnh Hiệp). Hơn 2 tiếng đồng hồ sau, chúng cách tổ cảnh giới của ta khoảng 50m. Du kích dùng loa kêu gọi binh lính địch dừng lại, không tiến vào làng mà chuốc lấy cái chết uổng mạng. Thế nhưng địch vẫn tiến lên. Khi chúng đến gộp Nước Ló, bất ngờ bị những mũi tên tẩm thuốc độc lao thẳng vào đội hình, 2 tên chết tại chỗ (trong đó có tên Trung úy chỉ huy đại đội), một số hốt hoảng chạy sang hai bên thì lao vào bãi chông, bẫy đá của ta đã chuẩn bị sẵn làm 7 tên bị thương. Sau khi lui về củng cố đội hình, địch xung phong bắn mạnh vào khu vực gộp Nước Ló. Từ các hướng, những mũi tên tẩm thuốc độc phi thẳng vào quân địch, làm chết 1 tên và bị thương 6 tên, buộc chúng phải lùi lại.

Sau khi đánh lui hai đợt tiến công của địch, du kích chuyển về trận địa cuối làng, sẵn sàng đánh địch. 15 giờ ngày 17-3, địch tiếp tục tiến công, khi đến ngã ba suối ở làng Tà Lók lại bị những mũi tên độc bắn chết 1 tên, 5 tên bị thương. Đến 16 giờ, địch tiến công lần thứ tư, lần này, chúng tiến công ồ ạt hòng tiêu diệt lực lượng của ta và đánh chiếm làng. Nhưng cũng như lần trước, đợt tiến công lần này cũng bị du kích đẩy lùi và diệt thêm 2 tên, làm bị thương 5 tên. Thấy không thể vào làng, chúng gọi máy bay đến ném bom đánh phá và lui quân về quận lỵ Vĩnh Thạnh.

Sau một ngày chiến đấu, du kích xã Vĩnh Hiệp đã diệt 6 tên, làm 23 tên bị thương, thu 1 súng trường, 1 bản đồ và một số đồ dùng quân sự. Trận đánh để lại những kinh nghiệm quý về chọn thế hiểm của địa hình, bố trí các khu vực diệt địch phù hợp, kết hợp chặt chẽ và sáng tạo các loại vũ khí thô sơ, tự tạo của du kích trong chiến tranh nhân dân địa phương đánh địch, giữ làng.

 

Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân qua gần 40 năm đổi mới

 

Thứ nhất, Đảng ta từng bước đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi mặt đời sống của đất nước, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới được khẳng định chính thức và làm rõ - đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận kinh tế của Đảng, từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng đã thống nhất và nêu rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính thống nhất và mâu thuẫn trong quá trình thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng từng bước đề ra quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;... giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.

Quá trình gần 40 năm đổi mới, nhất là hơn 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, đã tạo những bước tiến quan trọng cả về nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện. Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những nhận định, đánh giá quan trọng về mặt khoa học và được thực tiễn chứng minh. Về lý luận, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Về thực tiễn, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập theo hướng đầy đủ, hiện đại và hội nhập; “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”.

Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được khẳng định trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994). Đến năm 2001, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên thuật ngữ này được hiến định, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Từ đó đến nay, vấn đề xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trở thành một nội dung quan trọng trong đường lối của Đảng và dần được hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”; theo đó, các hình thức thực hiện dân chủ từng bước được hoàn thiện và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Dân chủ trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân được mở rộng. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xử lý hành vi vi phạm quyền dân chủ được chú trọng.

Đảng luôn sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; tập trung lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, giải quyết kịp thời những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân; xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Tạo cơ chế thuận lợi để nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội; tổ chức hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, góp ý đối với hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, từng bước nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội

 Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tiếp cận, vận dụng chọn lọc giá trị phổ quát của các nền dân chủ đương đại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thông qua các kỳ đại hội Đảng, các văn kiện của Đảng qua các thời kỳ đã từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trong đó, vấn đề trọng tâm là phát huy vai trò, vị thế của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa và phát triển quan điểm của Đảng, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, phương châm công tác dân vận trong thời kỳ mới. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh quyền lực thuộc về nhân dân để tạo tiền đề vững chắc cho nhiệm vụ hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng khẳng định, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn đó, chính là kết quả của ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung nhiều nội dung mới về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, tập trung đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật; thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, xác định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt. Nghị quyết cũng xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới.

Điểm nổi bật là việc thể chế hóa và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng và ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022; hoàn thiện và thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong tất cả loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các ngành, trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang và các hội quần chúng.

Phát huy hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của nhân dân, trọng tâm là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; chú trọng đến hoạt động quản lý nhà nước, những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân và phát triển nhanh, bền vững đất nước; xây dựng cơ chế, chính sách để giải phóng mọi tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân; phát huy vai trò chủ thể của nhân dân tham gia phát triển kinh tế, quản lý xã hội; bảo đảm công khai, minh bạch để mọi tầng lớp nhân dân có cơ hội và quyền chủ động tiếp cận thông tin.

Thứ tư, xây dựng, hoạch định chủ trương, chính sách lấy người dân làm trung tâm

Trên cơ sở phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, Đảng chủ trương tập trung chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân - đây là sứ mệnh của Đảng, là mục tiêu và bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quan điểm về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hóa trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm; thể hiện trong từng chế độ, chính sách phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chặng đường gần 40 năm đổi mới là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Trong thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã chứng minh sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo trong đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện rõ Đảng ta là Đảng của dân, do dân, dựa vào dân và vì dân. Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, Đảng đã trải qua 8 kỳ đại hội, từ Đại hội VI của Đảng đến Đại hội XIII của Đảng - đây là quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng. Trong quá trình đó, Đảng đã tạo được sự đồng thuận, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tổ chức thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng và đạt được những thành tựu quan trọng, vượt bậc. Từ một đất nước cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp; đến nay, Việt Nam đã vươn mình trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền được bảo đảm. Đặc biệt, giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2022, Việt Nam lọt nhóm 5 nước có quy mô nền kinh tế tăng nhiều nhất thế giới, đứng thứ tư của ASEAN, đứng vị trí 40 trên thế giới. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993, giảm xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện giảm còn khoảng 33%,... Những kết quả, thành tựu đất nước đạt được đã tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những năm tới.

Thứ năm, thực hiện hiệu quả công tác dân vận của Đảng và hệ thống chính trị

Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” và “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng đã chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hơn 94 năm có Đảng, qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, là chặng đường vinh quang thể hiện sinh động sự gắn kết giữa Đảng với nhân dân; thực tiễn đã chứng minh, đây không phải là khẩu hiệu mà là bản chất mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân - “Ý Đảng, lòng dân”. Nhân dân luôn là nhân tố quyết định sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thông qua mối quan hệ này, Đảng đã phát huy được vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; tập hợp, phát huy được sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân để thực hiện công cuộc đổi mới ngày càng hiệu quả, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Thứ sáu, xây dựng, củng cố và hoàn thiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân ngày càng thực chất, chặt chẽ

Là một trong những nguyên tắc quan trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, sự nhận thức, phát triển nguyên tắc này thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong tư tưởng, quan điểm của Đảng, được khẳng định qua văn kiện các kỳ đại hội, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay. Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mối quan hệ chính trị - pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được xây dựng, ngày càng hoàn thiện. Hiến pháp năm 2013 cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong mối quan hệ với nhân dân tại khoản 2, Điều 4, khoản 2: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”; Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ tại khoản 1, Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; theo khoản 2, Điều 2 của Hiến pháp năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; đồng thời, Điều 3 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, biện pháp để xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Những thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo toàn diện của Ðảng là do có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế, quy luật vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam; phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện. Cần khẳng định rằng, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là nội dung cốt lõi phản ánh bản chất của Đảng ta, thể hiện rõ nét vị thế và sức mạnh của một Đảng lãnh đạo, cầm quyền; sức mạnh và uy tín của Đảng được kết tinh, hội tụ từ sức mạnh của dân tộc và nhân dân Việt Nam - Yếu tố quyết định sự thành công qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước./.

 

Nhận thức về vị trí, vai trò của nhân dân qua gần 40 năm đổi mới

 

Năm 1986, khởi đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI của Đảng đúc kết 4 bài học kinh nghiệm có ý nghĩa sâu sắc, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới; trong đó, bài học hàng đầu là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc” được Đại hội VII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh trong bài học kinh nghiệm thứ hai của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”. Năm 1996, tổng kết chặng đường 10 năm đầu đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đúc rút sáu bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ tư là “Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc”, khẳng định “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”. Bước vào thế kỷ XXI, sau chặng đường 15 năm đổi mới, Đảng vẫn nhất quán quan điểm đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn tìm tòi, đổi mới, sáng tạo. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), rút ra một trong những bài học kinh nghiệm lớn của Đảng ta là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”.

Tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Vị trí trung tâm của nhân dân trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Trong những bài học kinh nghiệm quý báu được rút ra từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, Đảng ta xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong công cuộc đổi mới. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội” và “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”. Có thể nhận thấy rằng, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục quán triệt quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm”, thể hiện nhất quán, xuyên suốt và bao trùm trong tất cả văn kiện, trên tất cả nội dung, lĩnh vực. Trong bài phát biểu tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên triển khai Chương trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh: “Đảng và Nhà nước đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc”.

Từ quan điểm “dân làm gốc” trong lịch sử, các kỳ đại hội của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, tập trung ở sức mạnh to lớn, nguồn lực vô tận của nhân dân; nhân dân là nền tảng, chỗ dựa vững chắc của hệ thống chính trị, lực lượng rộng lớn trong mọi phong trào cách mạng. Đại hội XIII của Đảng đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, là chủ thể trong chiến lược phát triển đất nước; sự lãnh đạo của Đảng phải hướng vào vị trí trung tâm là nhân dân, phải khơi thông những nguồn lực và sự sáng tạo của nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực của nhân dân.

Trong tiến trình đổi mới, Đảng ngày càng quan tâm đến việc thể chế hóa thành những quy định về quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội XII của Đảng đưa ra yêu cầu, thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đến Đại hội XIII, Đảng nhấn mạnh thêm về trách nhiệm làm chủ của nhân dân; đồng thời, nêu rõ vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân, gắn liền với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nêu rõ phương hướng: “Lãnh đạo thể chế hóa Hiến pháp về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nhằm phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Nghiên cứu, ban hành cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ. Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận”(12).

Điểm mới, rất quan trọng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chính là tiếp tục nhất quán quan điểm “dân là gốc”, giữ vai trò nền tảng, thống nhất vai trò của nhân dân ở “vị trí trung tâm”, lan tỏa và hội tụ, tác động nhiều chiều đến mọi lĩnh vực, lực lượng, tổ chức khác; tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc, cụ thể hóa quan điểm “dân là chủ”; đồng thời, xác định “vai trò chủ thể” của nhân dân khi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là một điều kiện quan trọng để nhân dân giữ vững và phát huy vai trò chủ thể trong sự nghiệp cách mạng. Tinh thần đổi mới của Đảng là việc khẳng định bản chất “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” trong thời kỳ mới.

Ở đây, nhân dân được đặt ở vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của mọi chiến lược phát triển đất nước, của công cuộc đổi mới. Đảng lãnh đạo nhân dân, nhân dân là đối tượng lãnh đạo của Đảng, nhưng nhân dân không đứng ngoài các hoạt động xây dựng Đảng và các hoạt động lãnh đạo của Đảng, mà phải tham gia tích cực vào các hoạt động này. Công cuộc đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, do nhân dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, toàn diện và đồng bộ, càng đòi hỏi sự đổi mới tự thân của nhân dân; quần chúng nhân dân cũng phải tự đổi mới, nâng cao trình độ, đổi mới nhận thức và hành động. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới, trực tiếp là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, là cơ sở quan trọng để nâng cao trình độ mọi mặt của các tầng lớp nhân dân, để nhân dân nâng cao năng lực làm chủ, năng lực chủ thể của công cuộc đổi mới.

Chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng, những đánh giá qua hơn một nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cho thấy, nhìn nhận đúng đắn vị trí, vai trò của nhân dân trong xây dựng, phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu của cả hệ thống chính trị; đánh giá thực chất, hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đây chính là cơ sở thực tiễn để Đảng xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong mọi chiến lược phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

 

 Bài: PHẢI SỐNG VỚI NHAU CÓ TÌNH, CÓ NGHĨA

Cách đây 56 năm, vào tháng 6-1968, khi làm việc với đội ngũ cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương về việc xuất bản cuốn sách “Người tốt, việc tốt” nhằm tuyên truyền, nêu gương những nhân tố tích cực, những cách ứng xử đúng đắn, đối đãi với nhau chân tình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Hiểu chủ nghĩa Mác -Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, lời căn dặn của Bác vẫn còn nguyên tính thời sự.  Lời Bác nói cũng chính là ngôn ngữ thường ngày của mỗi người dân Việt, truyền đời, tiếp nối qua bao thế hệ. “Sống với nhau có tình có nghĩa” từ trong suy tư được thể hiện ra thành lời nói, việc làm, hướng nội và hướng ngoại, tự nhủ và khuyên bảo nhau, là mệnh lệnh của lương tâm, trái tim cá nhân và là sức mạnh của dư luận xã hội mang ý nghĩa bình phẩm, đánh giá, phê phán điều chỉnh ý nghĩa, thái độ, hành vi ứng xử của mỗi người. Thay vì là những phạm trù đạo đức vốn mang tính trừu tượng, lý thuyết sách vở, “Sống với nhau có tình, có nghĩa” lại như những gì diễn ra trong cuộc sống thực sinh động, cụ thể, trực tiếp với sự trải nghiệm của mỗi người.   
Sống có tình của con người không chỉ là những phản ánh tâm lý thông qua lăng kính nhu cầu có tính bản năng. Cả tình cảm và nhu cầu của con người đều có nguồn gốc xã hội và mang tính lịch sử, tức là nó chịu sự định hướng, điều chỉnh bởi các chuẩn mực xã hội, cái mà ta gọi là nghĩa. Nghĩa là điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội; nghĩa còn là quan hệ tình cảm thủy chung, phù hợp với những quan niệm đạo đức nhất định. 
Sống với nhau có tình, có nghĩa trong các quan hệ xã hội hiện thực của mỗi con người, từ tuổi thơ, trong suốt cả cuộc đời, trong gia đình vợ - chồng, cha mẹ - con cái, ông bà - cháu, anh chị em; ngoài xã hội là xóm làng, đến trường học là thầy trò, bạn đồng học - đồng môn, đi làm là đồng nghiệp. Mỗi người thực hiện đúng bổn phận của mình cũng là làm tròn nghĩa vụ của mình, tạo nên sự cố kết xã hội, bền chặt để vượt qua những thử thách do thiên tai, địch họa, cả những rủi ro, sa sảy của mỗi cá nhân. Tình sâu nghĩa nặng là như vậy, cho nên cho dù sống với nhau chỉ là một ngày thì cũng “một ngày nên nghĩa” và nếu như vì một lý do nào đó mà cái tình phải đứt đoạn thì cái nghĩa vẫn còn để con người chẳng thể nào quên được tình xưa, nghĩa cũ, để con người luôn nghĩ và làm sao có thể đáp nghĩa đền ơn và do vậy càng sống với nhau có nghĩa, có tình, trọn nghĩa, vẹn tình.
Thời gian gần đây, công tác cán bộ được Đảng ta đặc biệt quan tâm, vì thế, chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng cao. Nhiều cán bộ trẻ năng động,  có học hàm, học vị cao, sớm được quy hoạch vào các chức danh chủ chốt, được cử đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, có trình độ lý luận chính trị cao cấp, nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... với rất nhiều bằng cấp, chứng chỉ theo yêu cầu. Nhìn chung, đó là tín hiệu tích cực, điều đáng mừng.
Thế nhưng có một thực tế đáng buồn rằng, trong số cán bộ ấy, có một số người tuy nhiều bằng cấp thật, nhưng trong đời sống và công tác, họ lại tỏ ra là người sống quá ít tình, ít nghĩa! Trong công việc, bộ phận cán bộ này chỉ chăm chăm tìm cách nịnh nọt, lấy lòng cấp trên, còn ở cơ quan thì tuy không đến mức “quát nạt” cấp dưới, nhưng trong thâm tâm, họ luôn tự coi mình như “quan phụ mẫu”, chẳng coi ai ra gì. Có vị thì chỉ “tình nghĩa” với cấp trên thôi, luôn “chăm sóc” cực kỳ chu đáo, gọi dạ, bảo vâng, còn đối với người khác trong cơ quan, đơn vị thì không mấy khi quan tâm. Đặc biệt, có người sống theo kiểu “thực dụng chủ nghĩa”, chỉ biết việc mình, cứ khi có việc gì khó thì nhờ vả đồng nghiệp, cán bộ dưới quyền, ra bộ tình cảm “anh anh, em em” ngọt xớt, nhưng xong việc rồi thì... quên luôn; “qua cầu, rút ván” ngay, chẳng bao giờ quan tâm, tạo điều kiện cho anh, chị, em cấp dưới thăng tiến, vì lo sợ một số người tài giỏi trong cơ quan có thể phát triển... bằng mình! Có người rao giảng làu làu “như cháo chảy” về chủ nghĩa Mác - Lênin, về đạo đức cách mạng, về “tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau”, nhưng lại luôn tìm cách kéo bè, kéo cánh...
Những cán bộ ấy đã quên lời dạy sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính vì lý do này, nên loại bỏ khỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý những người đó càng sớm càng tốt để đáp ứng sự kỳ vọng và niềm tin của nhân dân./.

 ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG TỰ DO TÔN GIÁO 


Cần khẳng định rằng, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách để lợi dụng tôn giáo, coi đây là một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện “diễn biến hoà bình”. Chúng luôn phát tán lên các trang mạng xã hội, hòng lôi kéo, kích động dư luận xã hội bằng các thông tin sai lệch, xuyên tạc quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam. Vừa qua, trên trang “Quyenduocbiet” Nguyên Anh có bài viết: “Tự do tôn giáo là quyền căn bản – không phải xin - cho”, cho rằng Việt Nam đang đàn áp tự do tôn giáo, điển hình là việc xúc phạm và cấm tu hành theo phương pháp du tăng đối với nhà sư bộ hành Thích Minh Tuệ. Thực tế, Nguyên Anh đang xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam.

1. Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định, tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đã, đang và sẽ đồng hành cùng dân tộc. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của nhân dân. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 của Việt Nam ghi rõ, mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo,…. Đồng thời, quy định nghiêm cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo;… lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi. Tất cả các tổ chức, cá nhân vi phạm Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Ngày 11/10/2022, với 145 phiếu ủng hộ, Việt Nam là một trong 14 thành viên trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc. Đây là lần thứ hai Việt Nam trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc. Điều này, khẳng định uy tín và vị thế của Việt Nam trong thực hiện quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

2. Về hiện tượng nhà sư bộ hành Thích Minh Tuệ. Ban Tôn giáo Chính phủ và Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội phật giáo Việt Nam khẳng định, ông Thích Minh Tuệ tên thật là Lê Anh Tú sinh năm 1981 tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, đang sinh sống tại huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai, không phải là tu sĩ Giáo hội Phật giáo Việt Nam; không là nhân sự của bất cứ ngôi chùa, cơ sở tự viện nào của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Điều này cũng đã được chính ông Lê Anh Tú khẳng định trong các clip trên mạng xã hội. Sau khi từ bỏ công việc đo đạc địa chính tại tỉnh Phú Yên, Ông đã ba lần đi bộ theo hình thức thực hành phương pháp tu tập “hạnh đầu đà” từ miền Nam ra miền Bắc và ngược lại nhưng không thu hút sự quan tâm của nhiều người. Đến lần thứ tư, hành trình của ông Minh Tuệ đã thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân, có thời điểm lên tới hàng trăm người đi theo khiến các con đường tắc nghẽn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự và giao thông trên các địa bàn, gây bức xúc đối với người dân. Trong đoàn đi theo có tín đồ phật tử, có những người hiếu kỳ và nhóm tiktoker, youtuber quay clip, livestream đăng tải trên các trang mạng xã hội tạo nên “hiện tượng Thích Minh Tuệ”, thu hút sự quan tâm của dư luận vì mục đích bán hàng thu lợi, cùng với nhiều bình luận theo các chiều hướng khác nhau, trong đó có việc bội nhọ, nói xấu quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo; qua đó kích động tính hiếu kỳ của mọi người, nhất là giới trẻ. Đặc biệt, ngày 30/5/2024 vừa qua, đã xảy ra việc một người đàn ông trong đoàn người đi theo bị sốc nhiệt, suy đa tạng, xuất huyết tiêu hóa dẫn tới tử vong. Tiếp theo đó, ngày 2/6/2024 có 2 người phụ nữ khi đi theo cũng bị sốc nhiệt, đuối sức, nằm gục trên mặt đường. Các cơ quan chức năng đã kịp thời đưa đến bệnh viện để điều trị. Trước sự việc đáng tiếc nêu trên, các cơ quan chức năng đã gặp gỡ, trao đổi với ông Thích Minh Tuệ về việc Đảng, Nhà nước nhất quán chủ trương tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; chính quyền các địa phương đã luôn quan tâm, tạo điều kiện để ông Thích Minh Tuệ được đi bộ và hành trì theo ý nguyện, song cần phải bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe cho người dân và sự ổn định xã hội. Ông Thích Minh Tuệ đã nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ của công dân, tự nguyện dừng việc đi bộ khất thực. Vậy, xin hỏi Nguyên Anh chính quyền có xúc phạm và cấm tu hành theo phương pháp đi bộ khất thực đối với công dân Lê Anh Tú không?

Việc các thế lực thù địch bôi nhọ, vu cáo, trắng trợn, xuyên tạc tự do tôn giáo ở Việt Nam, là đi ngược lại chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và lợi ích nguyện vọng, chính đáng của nhân dân ta, đã đến lúc hoạt động của những nhà sản xuất nội dung trên mạng xã hội phải được kiểm soát chặt chẽ hơn, nghiêm ngặt hơn bằng các chế tài đủ mạnh theo quy định pháp luật nhằm răn đe, cảnh báo, cảnh tỉnh các phần tử cơ hội để đảm bảo trật tự an toàn xã hội và an ninh, an toàn cho người dân./.