Thứ Ba, 5 tháng 9, 2023

CỰU CHIẾN BINH NGUYỄN KHÁNH THIỆN: NỖ LỰC HỌC HỎI, QUYẾT TÂM LÀM GIÀU

 Sau gần 20 năm công tác trong Quân đội, đầu năm 2005, khi đang là Thiếu tá QNCN, nhân viên điện nước, Phòng Hậu cần (Trường Quân sự Quân khu 5), tôi xin phục viên vì lý do sức khỏe. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, thời gian đầu, tôi phải đi làm phụ hồ để có tiền trang trải cuộc sống và điều trị bệnh.

Ít lâu sau, nhờ sự giới thiệu, giúp đỡ của người thân, bạn bè, tôi được nhận vào làm công nhân cho một công ty xây dựng có quy mô lớn trên địa bàn TP Đà Nẵng. Qua 3 tháng thử việc, giám đốc công ty cử tôi đi học lái xe con, xe tải, xe công trình để có thể kiêm thêm nhiều việc.
Với những kiến thức, kinh nghiệm và số vốn tích lũy được sau nhiều năm gắn bó với các công trình xây dựng, năm 2015, tôi quyết định vay vốn thành lập Công ty TNHH MTV Phương Thiên Nguyên, địa chỉ tại số 94 đường Trường Sơn, quận Cẩm Lệ (TP Đà Nẵng) chuyên sản xuất, cung ứng bê tông, nhựa đường. Giai đoạn cao điểm, mỗi ngày công ty cung ứng cho thị trường hàng trăm tấn bê tông, nhựa đường. Từ 30 công nhân khi mới khởi nghiệp, đến nay, công ty đã giải quyết việc làm cho gần 60 lao động.
Thấu hiểu những vất vả của quân nhân, tôi luôn quan tâm tiếp nhận, đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm cho lao động trẻ là quân nhân xuất ngũ, con em các cựu chiến binh với mức thu nhập bình quân 8-12 triệu đồng/người/tháng, tùy từng vị trí, yêu cầu chuyên môn, trình độ.
Những năm gần đây, do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 và sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, đầu ra gặp nhiều khó khăn, tôi thường xuyên có mặt trên những công trường trọng điểm ở các địa phương: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tìm đối tác. Bằng uy tín, chất lượng, giá cả phải chăng, khả năng cung ứng nhanh, chế độ bảo hành hấp dẫn, hình thức thanh toán linh hoạt... chúng tôi luôn tạo được niềm tin với khách hàng.
Ngoài việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, hằng năm, chúng tôi còn dành hàng trăm triệu đồng hỗ trợ Hội Cựu chiến binh quận Cẩm Lệ và các tổ chức từ thiện, xã hội của địa phương xây nhà tình nghĩa, nhà đồng đội tặng các gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn; mua xe đạp, sách vở tặng các cháu học sinh; sẻ chia hỗ trợ đồng bào bị ảnh hưởng, thiệt hại bởi thiên tai. Chúng tôi cũng hỗ trợ tiền, vật tư hoặc ứng lương giúp công nhân làm việc tại công ty lập gia đình, làm nhà, mua xe, chữa bệnh. Với tôi, đó vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm.
Cựu chiến binh NGUYỄN KHÁNH THIÊN (Giám đốc Công ty TNHH MTV Phương Thiên Nguyên)
*Mong có thêm chính sách hỗ trợ để giảm bớt khó khăn
Sau hơn 30 năm công tác trong Quân đội, dự kiến đầu năm 2024 tôi sẽ nhận quyết định về nghỉ chờ hưu theo quy định. Mặc dù thường xuyên xa gia đình, tiền lương hạn chế nhưng được sự quan tâm, động viên của chỉ huy đơn vị nên tôi luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trước khi nghỉ công tác, tôi cũng có nhiều băn khoăn, lo lắng.
Hiện tại, gia đình tôi vẫn phải đi thuê nhà nên lương hưu hằng tháng sẽ khó bảo đảm cuộc sống. Chắc chắn tôi sẽ phải tìm việc để kiếm thêm thu nhập. Tôi tin rằng, với kinh nghiệm hơn 30 năm sửa chữa ô tô, tôi sẽ sớm tìm được việc làm phù hợp. Nguyện vọng của tôi và nhiều anh em trong đơn vị là cấp trên có chính sách phù hợp để hỗ trợ về nhà ở và thu nhập, giúp chúng tôi giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống... khi công tác cũng như lúc về nghỉ hưu./.
St

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU CHO RẰNG "ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CƯỚP CHÍNH QUYỀN CỦA ĐẾ QUỐC VIỆT NAM" ĐƯA ĐẤT NƯỚC VÀO 2 CUỘC CHIẾN CHỐNG PHÁP, MỸ KHỐC LIỆT!

     Hiện nay trên không gian mạng xuất hiện những bài viết ca ngợi “Đế quốc Việt Nam”; các tổ chức phản động cho rằng “Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Đế Quốc Việt nam được thành lập với Bảo Đại là vua và Trần Trọng Kim làm Thủ tướng Chính phủ lâm thời. Tuy thân Nhật, nhưng đây là một chính phủ mới được thành lập nhằm mục đích đón nhận nền độc lập được trao tay từ quân Nhật mà không phải qua chiến tranh đổ máu. Đây là nước đi vô cùng khôn khéo của vua Bảo Đại và Trần Trọng Kim. Nhưng tiếc thay, nó đã bị Cộng sản phá nát và dẫn đến hệ quả là xuất hiện 2 cuộc chiến thảm khốc sau này”. 

Ý đồ rất rõ, họ muốn lái dư luận và đầu độc thế hệ trẻ, phủ nhận công lao của Đảng và nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Xuyên tạc sự thật lịch sử, bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh tráo khái niệm một cách tinh vi, xảo trá. Nhân kỷ niệm 78 năm Quốc khánh nước ta. Xin có đôi lời như sau:

ĐẾ QUỐC VIỆT NAM là cái tên mỹ miều và có vẻ hùng mạnh mà Đế Quốc Nhật đặt cho khi “trao trả độc lập” cho Việt Nam. Nó chỉ tồn tại trong vài tháng, từ tháng 3 đến tháng 8, 1945 thì bị chính quyền cách mạng khai tử vì bản chất phản động, tay sai của nó. Ngày 9/3/1945, Nhật “đảo chánh” Pháp và “trao trả độc lập” cho Việt Nam. Sau đó Bảo Đại và Trần Trọng Kim lần lượt được người Nhật đưa lên ngồi trên 2 chiếc ghế gọi là “Quốc trưởng” và “Thủ tướng”. Nhật đuổi Pháp chỉ để thực hiện mục đích là khai thác tài nguyên, bắt phu bắt lính phục vụ cho ý đồ thôn tính thế giới của chủ nghĩa Phát xít. Cái gọi là “Đế quốc Việt Nam” do một tay người Nhật dựng lên, do người Nhật quyết định để hợp thức hóa việc xâm lược nước ta. Các “bộ” được thành lập nhưng cái quan trọng nhất là quân đội thì “Đế quốc Việt Nam” lại không được Nhật cho phép thành lập; nghĩa là quân đội do người Nhật nắm để phục vụ ý đồ họ, chống lại dân tộc Việt Nam. Bảo Đại và Trần Trọng kim trơ mắt nhìn người Nhật tàn sát dân lành, cướp bóc, hãm hiếp, gây ra tội ác tày trời với nước ta.

Với chính sách bạo tàn và phi nhân tính, người Nhật bắt các tỉnh miền Bắc bỏ lúa để trồng đay, thu gom lúa gạo để chở về chính quốc đã gây ra cái chết oan nghiệt, đau thương của 2 triệu đồng bào miền Bắc và Bắc Trung bộ. Thái Bình là vựa lúa của miền Bắc nhưng dân Thái Bình chết do nạn đói 1945 lại cao nhất cả nước, tất cả cũng chỉ vì chính sách này. Bảo Đại và Trần Trọng Kim không dám lên tiếng khi mà các kho thóc của Nhật đầy ắp lúa gạo nhưng để nhân dân ta chết đói thảm thương. Người miền Bắc chỉ được cứu khi cách mạng tháng 8 diễn ra, Việt Minh phá kho thóc Nhật để cứu dân ta.  

Dân thì chết đói thê thảm, Hoàng Đế Bảo Đại lại nói Việt Nam tin cậy vào Nhật, sẽ đem tài lực giúp cho Đế Quốc Đại Đông Á của Nhật, sẽ quyết chí đem hết tài sản đất nước Việt Nam “hợp tác” với Nhật. Vậy “Đế quốc Việt Nam” đã thực sự bán nước cho Nhật rồi còn gì.

 “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung. Vậy Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên” (Bảo Đại, “Tuyên Ngôn Độc Lập” 11/3/1945). 
Trần Trọng Kim thì tuyên bố: “Quốc dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thực hợp tác với nước Đại Nhật Bản trong sự kiến thiết nền Đại Đông Á, vì cuộc thịnh vượng chung của Đại Đông Á có thành thì sự độc lập của nước ta mới không phải là giấc mộng thoáng qua”. 

Hy sinh nhiều hơn nữa ư? 2 triệu nhân mạng của người Việt để đổi lấy một “chính phủ” bù nhìn, vô thưởng vô phạt ấy, và sẽ còn cao hơn nữa nếu như Nhật không bị đồng minh đánh bại. Khi đó, Bảo Đại và Trần Trọng Kim lại vinh thân phì gia trên không biết bao xương máu của nhân dân ta nữa.

Những có kẻ đổ lỗi cho sự sụp đổ của “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” là do Việt Minh cướp “chính quyền”, nếu không thì Việt Nam đã có độc lập và không có chiến tranh là những kẻ không hề có trái tim và khối óc! Việt minh đuổi Nhật giành chính quyền về tay nhân dân chứ không phải là từ Pháp hay “đế quốc Việt Nam” vì bản chất “đế quốc Việt Nam” chỉ là đám ôm gối người Nhật, có quyền hành gì đâu mà bảo là cướp? Tuyên Bố Cairo ngày 27/11/1943 của phe Đồng minh đã nói rõ : Sẽ không công nhận bất cứ chính phủ nào do Đế Quốc Nhật thành lập tại các lãnh thổ chiếm đóng. Như vậy, “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” của Hoàng Đế Bảo Đại và Chính phủ Trần Trọng Kim chắc chắn sẽ không có tư cách pháp lý nào để tồn tại và sẽ bị phe đồng minh giải thể khi Nhật đầu hàng. 

Muốn lấy lại quyền làm chủ vận mệnh thực sự của dân tộc thì chắc chắn chỉ người Việt Nam mới giành và giữ được chính quyền của dân tộc mình. Cụ Hồ và Đảng ta không bao giờ muốn chiến tranh, gây đau thương, mất mát nên đã nhân nhượng khi Pháp trở lại Việt Nam. Nhưng “chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp lại càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta một lần nữa” vì lý do đó nên người Việt “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Đó là nguyên nhân để chúng ta phải chiến đấu với Pháp. 

Mỹ thay Pháp để thực hiện chia cắt nước ta, vi phạm Hiệp định Giơnevơ và dựng lên cái gọi là “đệ nhất cộng hòa” của Diệm và “đệ nhị cộng hòa của Thiệu” để biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Đó là nguyên nhân mà cụ Hồ kêu gọi “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!” Đó là cuộc chiến giữa một bên là nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với một bên là đế quốc Mỹ, chư hầu. VNCH cũng như Đế quốc Việt Nam về bản chất là giống nhau, chỉ khác một bên là tay sai của Nhật còn một bên là tay sai của Mỹ. 

Từ những lẽ trên, có thể nói, luận điệu cho rằng: “Đế Quốc Việt nam được thành lập với Bảo Đại là vua và Trần Trọng Kim làm Thủ tướng Chính phủ lâm thời. Tuy thân Nhật, nhưng đây là một chính phủ mới được thành lập nhằm mục đích đón nhận nền độc lập được trao tay từ quân Nhật mà không phải qua chiến tranh đổ máu. Đây là nước đi vô cùng khôn khéo của vua Bảo Đại và Trần Trọng Kim. Nhưng tiếc thay, nó đã bị Cộng sản phá nát nà dẫn đến hệ quả là xuất hiện 2 cuộc chiến thảm khốc sau này” là luận điệu xuyên tạc lịch sử, mục đích cuối cùng là phủ nhận công lao to lớn của Đảng, của Bác Hồ Vĩ đại và của dân tộc Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đương nhiên những lập luận đó sẽ bị người Việt Nam bác bỏ vì nó vốn là sản phẩm của các thế lực thù địch.

Cách mạng tháng Tám thành công và thành quả vĩ đại mà nó mang đến chính là ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của nhân dân Việt Nam anh hùng đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đây đất nước ta đã đã dùng cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược; bảo vệ độc lập, tự do và phẩm giá của người Việt Nam. Đất nước ta rũ bùn đứng dậy sáng loà và có cơ đồ, vị thế, uy tín trên trường quốc tế như hôm nay đều nhờ trí tuệ, tâm huyết, máu xương của cha anh. Thời đại Hồ Chí Minh bất diệt! Lịch sử dân tộc đã chứng minh, những kẻ phản bội tổ quốc, đi ngược lợi ích của quốc gia, dân tộc như Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu... đều có kết cục chung là thảm bại. Hào khí Việt Nam sẽ nhấn chìm những kẻ bán nước cầu vinh./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỐ CHẤT, NĂNG LỰC VÀ TẦM VÓC CỦA CÁN BỘ CẤP CHIẾN LƯỢC!

     Từ đầu tháng 8 năm 2023, triển khai công tác chuẩn bị nhân sự cho đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, một số Bộ/Ngành và địa phương đã tiến hành quy trình giới thiệu nhân sự quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương (BCH).

Cán bộ cấp chiến lược
Theo Điều 9, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam năm 2011, BCH trung ương là thiết chế lãnh đạo cao nhất của Đảng trong khoảng thời gian giữa hai kỳ đại hội; thành viên BCH Trung ương được xác định là đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược của quốc gia.

Đặc trưng then chốt về cơ chế lãnh đạo áp dụng với toàn bộ cấu trúc chính trị ở nước ta hiện nay là “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Vận hành theo nguyên tắc “tập trung dân chủ”, chủ thể lãnh đạo ở mọi cấp độ quản trị Nhà nước là một tập thể, chứ không phải cá nhân.

Quyết định lãnh đạo là sản phầm của trí tuệ, ý chí, trách nhiệm, và sự đồng thuận tập thể. Người đứng đầu các thiết chế lãnh đạo đảm nhiệm vị trí hạt nhân Ban lãnh đạo, nhưng không được đặt lên trên tập thể.

Được bầu lên tại các đại hội Đảng toàn quốc, với nhiệm kỳ 5 năm, chất lượng BCH trung ương sẽ có tác động then chốt đến tiến trình vận động của đất nước trong mỗi giai đoạn.

Chất lượng lựa chọn nhân sự lãnh đạo cấp cao tại đại hội Đảng toàn quốc phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội ngũ ứng viên được quy hoạch.

Cụ thể hơn, tầm nhìn lãnh đạo, quan điểm chính sách, và năng lực quản trị của mỗi ủy viên trung ương sẽ có ảnh hưởng đến các đường hướng và quyết sách phát triển đất nước.

Vì thế, trước mỗi kỳ đại hội, hẳn nhiên người dân trong cả nước luôn kỳ vọng sẽ được chứng kiến một Ban chấp hành trung ương bao gồm những “tinh anh chính trị” của đất nước.

Để gia tăng sức thuyết phục khi được đứng vào hàng ngũ lãnh đạo cấp chiến lược, cá nhân cần chứng tỏ họ là những nhà lãnh đạo chuyên nghiệp, ý thức rõ vị thế, vai trò, và sứ mệnh chính trị mà Đảng và nhân dân mong đợi.
Cũng vì thế, bên cạnh đáp ứng các yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ học vấn, năng lực chuyên môn, uy tín, và sức khỏe cá nhân, ứng viên ủy viên trung ương cũng cần được thẩm định nghiêm khắc và chặt chẽ về tố chất và tầm vóc lãnh đạo ngay từ giai đoạn giới thiệu vào quy hoạch.

 Quy hoạch cán bộ
“Quy hoạch” là một thể chế đã được sử dụng từ lâu ở nước ta nhằm phát hiện, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo tiềm năng.

Về bản chất, quy trình quy hoạch đặt trọng trách phát triển đội ngũ cán bộ các cấp vào những cơ quan chuyên trách về công tác tổ chức, cũng như đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý đương nhiệm.

Tương ứng với mỗi cấp độ quản trị, việc được phát hiện, giới thiệu và phê chuẩn trong danh sách cán bộ quy hoạch chính là “cửa ải” đầu tiên để mỗi cá nhân có thể trở thành nhà lãnh đạo trong tương lai.

Cũng bởi thế, chất lượng lựa chọn nhân sự lãnh đạo cấp cao tại đại hội Đảng toàn quốc phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội ngũ ứng viên được quy hoạch.

Những yêu cầu về phẩm chất với cán bộ cấp chiến lược được thể hiện trong nhiều văn bản của Đảng, đáng chú nhất là Nghị quyết 26-NQ/TW/2018 về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược; Quy định 214-NQ/TW/2020 về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện BCH trung ương, Bộ chính trị và Ban bí thư quản lý; Nghị quyết 28-NQ/TW/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.

Các Nghị quyết, Quy định nêu trên của Đảng đều nhấn mạnh những quan điểm mới và hiện đại về công tác cán bộ.

Trong số đó đáng chú ý nhất là cán bộ cấp chiến lược được kỳ vọng là những người có bản lĩnh, ý thức, thái độ cống hiến, kết tụ ở tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, thách thức, và dám chịu trách nhiệm”; khuyến khích thu hút người tài vào làm việc trong hệ thống chính trị, nhấn mạnh yêu cầu “ngang tầm nhiệm vụ” của lãnh đạo chiến lược, hay coi trọng chất lượng, hiệu quả công việc thông qua đánh giá những kết quả cụ thể.
Tuy nhiên, các Nghị quyết, Quy định của Đảng cho đến nay mới chỉ đề ra những yêu cầu khái quát về tố chất lãnh đạo. Chẳng hạn, Quy định 214-QĐ/TW/2020 nêu ra một số yêu cầu, như: “Có tư duy đổi mới…có tầm nhìn chiến lược…có tố chất, năng lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược”.

Để thực hiện thành công các chủ trương lãnh đạo của Đảng, lãnh đạo chiến lược cũng cần phải là những người có sự hiểu biết toàn diện về bối cảnh đất nước, lĩnh vực hoặc địa phương mà mình phụ trách.

Thẩm định tầm vóc lãnh đạo
Một trong những điểm nhấn được khẳng định trong Nghị quyết số 26-NQ/TW/2018 và Nghị quyết số 28-NQ/TW/2022 là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược cần phải “ngang tầm nhiệm vụ”.

Có thể hiểu ủy viên trung ương “xứng tầm” tức là những người mà quá trình làm việc cho thấy họ bộc lộ những tố chất cá nhân, tầm tư duy và khả năng hành động thực tế đáp ứng được sự kỳ vọng của Đảng và Nhân dân trong vị thế và vai trò của những nhà lãnh đạo chiến lược ở cấp quốc gia.

Trên thực tế, thẩm định và đánh giá một cách duy lý và khoa học về tố chất và tầm vóc lãnh đạo cấp chiến lược luôn là một thách thức lớn. Bởi lẽ, việc đánh giá không chỉ phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể, thông tin về cá nhân và quá trình công tác, ý chí và quan điểm của những người nắm giữ thẩm quyền đánh giá, mà cả quy trình thể chế cùng những chiều cạnh vai trò lãnh đạo, hệ tiêu chí vốn không dễ lượng hóa.

Một hướng tiếp cận để có thể dự báo về tầm vóc và năng lực lãnh đạo trong tương lai là xem xét sự thể hiện của cá nhân trong các vai trò lãnh đạo đã từng đảm nhiệm trong quá khứ.

Vì thế, để gia tăng độ chính xác trong việc thẩm định phẩm chất lãnh đạo của mỗi cá nhân, ứng viên quy hoạch cán bộ cấp chiến lược cần chứng minh được rằng họ đã góp phần then chốt trong việc tạo ra những thay đổi tích cực cho đơn vị, ngành, lĩnh vực, hay địa phương.

Để hướng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo “ngang tầm nhiệm vụ”, Nghị quyết số 28-NQ/TW/2022 tiếp tục chủ trương việc giới thiệu cán bộ các cấp phải bảo đảm “dân chủ, công khai, minh bạch”; coi trọng “uy tín trong tập thể, trong Nhân dân”.

Tuy nhiên, nếu xét đến những đặc điểm của thể chế quy hoạch cán bộ thì việc đánh giá uy tín của cá nhân ứng viên trong xã hội sẽ luôn là một thách thức lớn. Một giải pháp khả dĩ là sớm công khai danh sách ứng viên quy hoạch để nhân dân có thể theo dõi, giám sát, và phản ánh nếu có dấu hiệu cần xác minh.

Công tác thẩm định tố chất và tầm vóc của ứng viên cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược sẽ hoàn thiện hơn nữa nếu cá nhân được yêu cầu trình bày nhận thức về bối cảnh và những thách thức lãnh đạo của địa phương, ngành, quốc gia ở thời điểm hiện tại, cũng như quan điểm và cách thức, giải pháp để vượt qua những thách thức lãnh đạo đó.

Từ góc nhìn chiến lược phát triển cán bộ, việc bổ sung quy trình và hệ tiêu chí chi tiết hơn để đánh giá về tố chất và tầm vóc lãnh đạo không chỉ sẽ giúp mỗi ứng viên ý thức rõ hơn về vai trò và vị thế của một cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, mà còn định hình rõ hơn hình ảnh của một chính trị gia ở tầm quốc gia trong tương lai khi chính thức trở thành ủy viên trung ương Đảng cộng sản Việt Nam./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGƯỜI ĐÁNH BẠI 7 ĐẠI TƯỚNG PHÁP!

     Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, một phóng viên phương Tây hỏi Bác việc phong cấp này được tiến hành dựa theo những tiêu chuẩn nào? 

Bác đã trả lời giản dị: Đánh thắng Đại tá phong Đại tá; đánh thắng Thiếu tướng phong Thiếu tướng; thắng Trung tướng phong Trung tướng; thắng Đại tướng phong Đại tướng... 

Nhân cách, tài năng của Đại tướng thì sau này ai cũng biết...

Trong cuộc đời cầm quân của mình, từ 1946 đến 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lần lượt đánh bại 7 Đại tướng Pháp.

Đầu tiên là tướng 4 sao Philippe leclerc nhậm chức tháng 8-1945, đến tháng 6-1946 bị triệu hồi vì thất bại trong chiến lược đánh nhanh thắng nhanh.

Tướng 4 sao Etienne Valluy sang thay, đến tháng 5-1948 lại bị triệu hồi vì thất bại trong Thu Đông 1947.

Tướng 4 sao C.Blaijat sang thay, nhưng được một năm, đến tháng 9-1949 lại phải thay vì không thực hiện được chiến lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Vịêt”.

Tướng 4 sao M.Corgente sang thay lại bị một đòn đau trong chiến dịch Biên giới, tháng 12-1950 được thay bằng tướng Delattre De Tassigny, đây là vị tướng 5 sao, người tài nhất của nước Pháp, nhưng cũng chỉ được một năm vì bị thua trận.

Tướng Raul Salan sang thay, tướng 4 sao này trụ được từ tháng 12-1951 đến tháng 5-1953 lại bị thay vì thua trong chiến dịch Hoà bình và các mặt trận ở toàn Đông Dương.

Cuối cùng là tướng 4 sao Henri Navarre, sớm cuốn gói về nước sau những thất bại liên tiếp ở chiến trường Đông Dương...
Yêu nước ST.

NGUY CƠ ĐÃ HIỂN HIỆN

 BPO - Trước đây, chúng ta từng cảnh báo luận điệu cổ vũ xét lại lịch sử, đòi đánh giá lại công - tội của các nhân vật lịch sử còn đang gây tranh cãi thì hiện nay, nguy cơ đó đã hiển hiện trước mắt chúng ta với liên tục là những bài viết vinh danh những kẻ được coi là bán nước, “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi giày mả tổ” như Nguyễn Ánh.


Họ đăng những dòng rất trịnh trọng, với những lời lẽ ca ngợi Nguyễn Ánh là người có công lớn với đất nước, kiểu như: “Kỷ niệm 260 năm ngày sinh vua Gia Long - vị hoàng đế đầu tiên của triều Nguyễn. Ông là vị vua có công rất lớn trong việc thống nhất, mở mang bờ cõi nước ta với vùng đất rộng lớn từ ải Nam Quan đến đất Mũi Cà Mau”. Hoặc là những thông tin mang tính câu khách, tâng bốc Nguyễn Ánh hết lời, xem như một vị vua anh minh bằng lối diễn đạt đánh lừa độc giả: “Phát hiện thú vị về vua Gia Long và những kế sách ngoại giao khôn khéo”.
Nguyễn Ánh tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, sinh năm 1762, mất năm 1820, là kẻ đã năm lần bảy lượt cầu viện ngoại bang đem quân sang đánh nhà Tây Sơn, từ Xiêm La đến thực dân Pháp. Năm 1802, với sự suy yếu của vương triều Tây Sơn bắt đầu từ sự ra đi đột ngột của vua Quang Trung (năm 1792), cùng sự giúp đỡ của thực dân Pháp, Nguyễn Ánh đã lật đổ nhà Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn (trước đây, tổ tiên của Nguyễn Ánh chỉ dám xưng chúa - sử gọi là chúa Nguyễn). Trong suốt quá trình từ khi lưu vong nhờ ngoại bang đến khi lên ngôi vua, Nguyễn Ánh đã phạm những tội lỗi không thể dung thứ đối với người thân, gia tộc và đất nước. Để phục vụ mưu đồ bá vương của mình, Nguyễn Ánh đã làm một việc thất đức là dùng chính con trai mình - hoàng tử Cảnh làm con tin để cầm cố cho Pháp; Ánh thậm chí còn giết con trai mình là hoàng tử Cải vì sợ bị tiếm quyền. Khi vợ là bà Phi Yến khuyên không nên cầu viện ngoại bang, Ánh đã giam bà đến chết. Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã cho phá thành Thăng Long để chở gạch ngói vào Phú Xuân xây kinh đô Huế.
Nếu cho rằng Nguyễn Ánh là người có công thống nhất giang sơn, xã tắc thì đó là sự hồ đồ về lịch sử, bởi vì vào cuối thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh chiếm đoạt quyền hành nhà Lê ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn cát cứ lập vương triều độc lập ở Đàng Trong, đất nước chia 2 nửa Nam - Bắc phân tranh hơn 200 năm bất phân thắng bại. Chỉ đến khi anh em nhà Tây Sơn lãnh đạo nông dân khởi nghĩa thành công, đánh tan 2 tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ, thống nhất Nam - Bắc, giang sơn liền dải. Cũng chính Quang Trung là người đã lần lượt đập tan các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La ở phía Nam và Mãn Thanh ở phía Bắc. Trong khi đó, giống như Lê Chiêu Thống ở phía Bắc đã rước 29 vạn quân Mãn Thanh vào giày xéo đất nước mình nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, gia đình, dòng tộc mình thì ở miền Nam, Nguyễn Ánh đã quỳ gối mời giặc Xiêm La vào nước ta. Sau khi Xiêm La bị thất bại, Nguyễn Ánh đã cầu viện giặc Pháp đánh nhà Tây Sơn hòng chiếm lại vương quyền. Thậm chí, khi nghe tin quân Thanh giúp Lê Chiêu Thống sang đánh Tây Sơn và đã tiến chiếm Thăng Long, Nguyễn Ánh từng sai chở 50 vạn cân gạo ra giúp quan quân Tôn Sĩ Nghị, tuy nhiên âm mưu bất thành do giữa đường đi bị sóng to, gió lớn đánh chìm.
Năm 1787, hầu tước Montmorin đại diện cho vua Louis XVI của Pháp và Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) thay mặt Nguyễn Ánh ký Hiệp ước Versailles. Hiệp ước này gồm 10 khoản, nội dung chính là vua Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 tàu chiến loại frégaté cùng 1.200 bộ binh, 200 pháo binh, 250 lính Cafres (lính da đen châu Phi) và các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại, Nguyễn Ánh phải chấp thuận cắt cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp; cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam; phải cung cấp thủy thủ, tàu bè, lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông; mỗi năm phải đóng 1 chiếc tàu, y như tàu của nước Pháp đã cho sang giúp, để đem sang trả cho vua nước Pháp. Đổi lại, Pháp sẽ đưa quân đội, vũ khí sang giúp đánh nhà Tây Sơn. “Công lao” của Nguyễn Ánh chính là đã mở đường cho sự can thiệp của Pháp ở Việt Nam qua việc mời Pháp giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Công giáo tại Việt Nam. Nguyễn Ánh nếu đem so với Lê Chiêu Thống thì cũng là kẻ tám lạng, người nửa cân, giống nhau như 2 giọt nước ở chỗ “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi giày mả tổ”, bán nước cầu vinh.
Nguyễn Ánh đã gây dựng nên triều đình nhà Nguyễn - một triều đình trong suốt thời gian tồn tại 143 năm - luôn thỏa hiệp và cắt đất cho ngoại bang để giữ vững ngai vàng của mình. Chẳng hạn như phủ Trấn Ninh gồm các huyện Khám Liên, Quảng, Khang, Cát, Xuy, Mộc và Liêm rộng khoảng 45.000km² được Nguyễn Ánh cống nạp cho vương quốc Vạn Tượng (nay là tỉnh Xiêng Khoảng của Lào) để nhận lấy sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn. Năm 1827, nhà Nguyễn đã cắt huyện Sầm Nưa, phủ Trấn Biên, tỉnh Thanh Hóa cho nước Ai Lao; 3 huyện Cam Môn, Cam Cát, Cam Linh trước đây thuộc tỉnh Nghệ An nhưng đến năm 1840 nhà Nguyễn cũng cắt cho Ai Lao. Phủ Lạc Biên thuộc Việt Nam năm 1828, sau cũng được nhà Nguyễn cắt cho Lào, nay là Savannakhet. Hay cam tâm tình nguyện để thực dân Pháp ngang nhiên cắt đất của tổ tiên dâng cho nhà Thanh theo Công ước Pháp - Thanh năm 1887. Khôn ngoan đâu chưa thấy, song lãnh thổ của Tổ quốc mất về tay ngoại bang là có thật, là sự thật hiển nhiên đau lòng, là tội nhân thiên cổ của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Ánh chính là kẻ đã thừa hưởng thành tựu thống nhất giang sơn của hoàng đế Quang Trung. Thế nhưng, vì sao ngày nay một số nhà sử học, trí thức “cấp tiến”, các tờ báo mạng lại trơ trẽn, tráo trở, bất trung, bất nghĩa vinh danh, ca ngợi Nguyễn Ánh? Mục đích cuối cùng của hành vi này là gì? Câu trả lời của trò “lật sử” này chỉ có thể là tạo tiền lệ công nhận và đạo đức hóa hành vi rước ngoại xâm vào lãnh thổ của ngụy Việt Nam Cộng hòa, cuối cùng là tấn công và phủ nhận các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta trong thế kỷ XX nhằm rửa mặt cho Mỹ và bọn bán nước cầu vinh Việt Nam Cộng hòa! Bọn chúng muốn hủy hoại lịch sử vẻ vang của nước ta. Giặc Xiêm La và các nhà truyền đạo phương Tây - công cụ hỗ trợ cho bọn thực dân kiểu cũ vào xâm lược Việt Nam cũng do một tay Nguyễn Ánh rước vào. Một số nhà sử học và thành phần “lật sử” khẳng định rằng, việc xây dựng cố đô Huế, giờ là di sản văn hóa thế giới chính là công lao của Nguyễn Ánh và nhà Nguyễn. Nhưng họ đã cố tình quên rằng, về cơ bản nó là di sản của nhân dân, nhà Nguyễn cũng chỉ dùng sức lực, trí tuệ, của cải của nhân dân để xây dựng mà thôi.
Tóm lại, Nguyễn Ánh chỉ xứng để so sánh với Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống. Nguyễn Ánh cùng phần lớn con cháu của mình đã để lại hậu quả nặng nề cho sự phát triển của đất nước, ôm chân ngoại xâm để bảo vệ đặc quyền gia tộc mà bỏ qua lợi ích dân tộc. Mục đích của bọn “lật sử” khi hết lời ngợi ca Gia Long - Nguyễn Ánh đã rõ. Hãy luôn tỉnh táo để nhận rõ phải - trái, đúng - sai, công - tội nhằm đập tan âm mưu phủ định cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đầy hào hùng của cha ông ta thế kỷ XX.

CẦN NGHIÊM TRỊ KẺ CHẾ ẢNH, XÚC PHẠM BÁC HỒ

Tên phản động, đội nốt Tôn giáo LM Đặng Hữu Nam đã chế ảnh, xúc phạm Bác Hồ, đi ngược lại với đạo lý dân tộc, đó là hành vi của kẻ đốn mạt núp danh cha đạo


Tái diễn luận điệu xuyên tạc trong dịp Quốc khánh 2/9


          Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh 2/9 đã đi vào lịch sử dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam. Song hằng năm, vào dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, đi ngược lại niềm tự hào của toàn dân tộc, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội lại tăng cường hoạt động chống phá.

          Các đối tượng sử dụng mạng xã hội để đăng tải nhiều bài viết, hình ảnh, bình luận với những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật về bản chất cách mạng, về giá trị và ý nghĩa thời đại của sự kiện lịch sử này, tạo nên góc nhìn phiến diện, lệch lạc.

          Nhiều bài viết nêu quan điểm sai lệch về thành quả cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng; bác bỏ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xem nhẹ giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Quốc khánh 2/9.

          Trong dịp Quốc khánh 2/9 năm nay, trên một số diễn đàn, có những người tự cho mình danh nghĩa “nhà nghiên cứu” hay “phân tích lịch sử”, đưa ra những nhận định, đánh giá trái với sự thật, họ còn lồng ghép các dữ liệu lịch sử và so sánh khiên cưỡng với một số sự kiện khác để tạo ra cách nhìn sai trái.

          Có trường hợp vin cớ việc chúng ta xử lý nhiều vụ án tham nhũng gần đây để đánh đồng vấn đề tham nhũng là “lỗi hệ thống”, từ đó kích động rằng, nhân dân hy sinh làm cách mạng để cho quan chức nắm quyền, tham nhũng, vơ vét của cải! Những phần tử xấu được dịp hùa vào miệt thị, cho rằng đất nước đã giành độc lập 78 năm nhưng đến nay nhân dân “chưa được tự do”, quyền và lợi ích cơ bản của người dân “bị chà đạp”, xuyên tạc “cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột vẫn tiếp diễn”!

          Các luận điệu bôi nhọ những sự kiện lịch sử trọng đại như Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9/1945, Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước 30/4/1975… là thủ đoạn “đến hẹn lại lên” của các thế lực thù địch, phản động, những kẻ cơ hội chính trị. Họ cố tình ngụy tạo, đưa ra các thông tin sai lệch, quan điểm sai trái hòng phủ bóng đen lên con đường mà đất nước ta, dân tộc ta đã lựa chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng.

          Họ cố tình thổi phồng các tồn tại, tiêu cực trong đời sống xã hội hiện nay, đặc biệt là vấn đề suy thoái, tham nhũng trong bộ phận cán bộ, đảng viên để đổ lỗi cho chế độ, hạ thấp và phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng thời không ngừng ca ngợi lối sống tư bản, hưởng thụ, ca ngợi kiểu tự do thái quá nhằm tạo ra suy nghĩ lệch lạc rằng, đất nước ta đi theo con đường CNXH là sai lầm.

          Thủ đoạn này không mới nhưng việc nhắc đi nhắc lại, nhất là các dịp ngày lễ lịch sử của dân tộc sẽ tạo ra sự nhũng nhiễu thông tin trên mạng xã hội, ảnh hưởng đến quan điểm, suy nghĩ của một bộ phận người thiếu hiểu biết.

          Việc các thế lực phản động, cơ hội mang dòng máu Việt Nam nhưng lại cố tình xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp bản chất, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9 là hành vi đi ngược lại lợi ích đất nước, phủ nhận khát vọng của dân tộc, vong ơn trước xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam đã ngã xuống vì độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc. Những luận điệu xuyên tạc và những con người đang đi ngược dòng sự thật ấy chỉ có thể gây nhiễu về thông tin chứ không thể ngăn cản bởi dòng chảy lịch sử của dân tộc.

          Cách đây 78 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta từ Bắc chí Nam nhất tề đứng lên tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền, chấm dứt kiếp nô lệ, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và đi lên CNXH.

          Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9/1945 không chỉ là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là sự kiện mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc; nguồn cổ vũ, động viên, truyền cảm hứng đối với các dân tộc thuộc địa, nhân dân bị áp bức, bóc lột trên thế giới đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong tâm khảm mỗi người dân, ngày Quốc khánh 2/9 trở thành bản hùng ca của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.

          Trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta phải liên tiếp đương đầu chống giặc ngoại xâm, tiến hành hàng chục cuộc kháng chiến để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ, hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng để giành lại độc lập dân tộc. Hoàn cảnh lịch sử đó đã hun đúc nên những giá trị văn hóa giữ nước đặc sắc, đồng thời cho thấy ý nghĩa sống còn của các giá trị văn hóa giữ nước.

          Nét đặc sắc của giá trị văn hóa giữ nước chính là xây dựng và phát triển đất nước, chăm lo đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, thực hiện “trong ấm, ngoài yên”, đặc biệt là giữ yên lòng dân; ngăn ngừa, đẩy lùi, triệt tiêu mọi nhân tố dẫn đến nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, giữ nước ngay khi đất nước đang thái bình.

          Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ bờ cõi đất nước gắn với các tên tuổi lịch sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung... là những bản anh hùng ca bất diệt. Thế kỷ XX, Đảng, Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân ta viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước.

          Đã 78 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam). Thời gian càng lùi xa càng có thêm sự chiêm nghiệm, có thêm nhiều thông tin, càng thấy được ý nghĩa vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 đối với đất nước, dân tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện ý nghĩa, tầm vóc lịch sử đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới.

          Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới vì độc lập, thống nhất, xây dựng đất nước hùng cường, nhân dân ấm no, hạnh phúc theo con đường CNXH. Không chỉ vậy, cuộc cách mạng giành độc lập, tự do của dân tộc ta đã trở thành một biểu tượng, một bài học kinh nghiệm quý giá, một sự khích lệ to lớn cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.

          Chính bởi ý nghĩa lịch sử đó cùng những thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, thế giới ngợi ca nhân dân của một đất nước Việt Nam anh hùng.

          Đến hôm nay, sau 37 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên tất cả mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo luôn được các tổ chức chính trị, xã hội và các tầng lớp nhân dân quan tâm, ủng hộ.

          Việt Nam được bạn bè thế giới mến phục, coi là biểu tượng của hòa bình, ổn định chính trị, xã hội, sự thân thiện, mến khách, đồng thời là biểu hiện của sự nỗ lực, tinh thần chiến thắng đói nghèo trong thế kỷ XXI. Những thành tựu to lớn đã đạt được từ ngày thành lập nước đến nay chứng tỏ sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam.

          Hằng năm, cứ mỗi dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh 2/9, người Việt Nam dù đang bất kỳ nơi đâu trong nước hoặc ở xa Tổ quốc cũng không khỏi xúc động bồi hồi, ôn lại khí thế hào hùng, sôi sục, náo nức của những ngày mùa thu cách mạng, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

          Quốc khánh chính là dịp để bất cứ người dân Việt Nam nào, đồng bào cả nước cũng như kiều bào ở nước ngoài cùng hướng về Tổ quốc thân yêu; cùng tưởng nhớ, tri ân hàng triệu cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta đã ngã xuống trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; cùng tưởng nhớ và biết ơn công lao vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Là dịp để các thế hệ hôm nay và mai sau cùng nhau nhìn lại chặng đường gian khổ, hào hùng của cha ông để nâng cao lòng tự hào dân tộc, trau dồi tinh thần yêu nước, cống hiến sức mình cho quê hương, đất nước.

                                                                   Bình Nguyên – Nguyễn Thành

Bác bỏ thông tin sai sự thật về vấn đề người Khmer ở Việt Nam


          "Đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, chung sống bình đẳng và hòa hợp, cùng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt chiều dài lịch sử của đất nước", Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định.

         

Cảnh giác trước những thông tin sai sự thật

          Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữa nước của cả dân tộc. Bởi vậy, có thể khẳng định, lịch sử hình thành, phát triển các dân tộc gắn với lịch sử hình thành và phát triển đất nước Việt Nam. Thời gian qua, nhiều thế lực thù địch luôn triệt để lợi dụng vấn đề quyền của người dân tộc để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó phải kể đến tổ chức Khmer Kampuchea Krom.

          Khmer Kampuchea Krom là một tổ chức hoạt động trên phạm vi quốc tế có xu hướng bài Việt Nam và tham gia các hoạt động chống Đảng, chính quyền, Nhà nước Việt Nam. Tổ chức này gồm nhiều đối tượng xấu, trước nay thường xuyên vu cáo về cái gọi là "Việt Nam cướp đất của Campuchia". Khmer Kampuchea Krom sử dụng hình ảnh 3 màu xanh - vàng - đỏ làm biểu tượng tuyên truyền, vận động, lôi kéo, móc nối với số phần tử thù địch, phản động trong nước với mục tiêu mặc định sự tồn tại của tổ chức trong vùng dân tộc Khmer, tiến tới đòi quyền "dân tộc tự quyết" cho người Khmer, lập "Nhà nước Khmer Krom"…                       

          Hồi tháng 7, tổ chức này còn lợi dụng việc phá bỏ cổng chào tỉnh Trà Vinh, vốn bị hư hỏng nặng và có khả năng gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông để bịa đặt thông tin chính quyền không cho người dân tổ chức các trò chơi dân gian nhân dịp lễ Chôl Thnăm Thmây năm 2023 và đưa ra luận điệu xuyên tạc rằng "chính quyền người Việt muốn xóa bỏ văn hóa của người Khmer", muốn thực hiện chính sách "đồng hóa dân tộc Khmer".

         

Thậm chí, nhiều đối tượng thù địch, quá khích còn công khai thách thức chính quyền nhân dân, treo cờ của tổ chức Khmer Kampuchea Krom, xuyên tạc "Lịch sử vùng đất Nam bộ - Việt Nam"… Chưa hết, chúng tiếp tục lợi dụng những người Khmer bức xúc về giải quyết tranh chấp đất đai, lôi kéo, xúi giục họ không chấp hành sự giải quyết của chính quyền địa phương… Gần đây, Khmer Kampuchea Krom lại tiếp tục bịa đặt về tình hình người Khmer ở Việt Nam.

          Liên quan đến vấn đề này, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng ngày 31/8 đã khẳng định: “Chúng tôi bác bỏ những thông tin không có cơ sở, sai sự thật về tình hình người Khmer ở Việt Nam. Đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, chung sống bình đẳng và hòa hợp, cùng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Các dân tộc Việt Nam đều được đối xử bình đẳng. Nhà nước Việt Nam bảo đảm và tạo điều kiện phát triển về mọi mặt nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp, đóng góp củng cố khối đại đoàn kết dân tộc”.

         

Nét đặc trưng riêng biệt và độc đáo của người Khmer

          Dân tộc Khmer là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam và được đánh giá là dân tộc sở hữu nhiều nét đặc trưng riêng biệt và độc đáo. Thống kê cho thấy, dân tộc Khmer ở Việt Nam có khoảng 1,3 triệu người, sống tập trung ở tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long và phân bố rải rác ở một vài nơi khác. Người Khmer có ngôn ngữ và chữ viết riêng. Tiếng nói của dân tộc Khmer thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me. Trang phục truyền thống của người dân Khmer mang những đặc trưng riêng về tạo hình và mặt thẩm mỹ. Nam nữ đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm, người có tuổi mặc quần áo bà ba màu đen còn nam giới khá giả sẽ mặc bộ bà ba màu trắng, khăn rằn quấn trên đầu hoặc vắt qua vai. Trong đám cưới, trang phục của chú rể là áo xà rông có màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái  quàng chiếc khăn dài trắng. Cô dâu sẽ mặc váy màu tím hoặc màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống…

          Đồng bào Khmer có nhiều lễ hội đặc sắc, tiêu biểu là Tết đón năm mới và Lễ cúng trăng. Trong những dịp này, bà con thăm hỏi, chúc lẫn nhau, tổ chức nhiều hoạt động văn nghệ, thể thao. Ngoài ra, dân tộc Khmer còn có nền âm nhạc sân khấu truyền thống Dù kê, một sự kết hợp có nguồn gốc từ cả Ấn Độ lẫn Đông Nam Á, bao gồm các loại hình nghệ thuật như: ca, múa, âm nhạc, vũ thuật, phục trang, hóa trang, hội họa và ẩm thực. Nghệ thuật sân khấu Dù kê vừa phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí, vừa giúp người xem cảm nhận được điều hay lẽ phải, nhận thức được thiện - ác, chính - tà, định hướng cho con người. Với những giá trị đặc biệt đó, sân khấu Dù kê đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian.

          Người Khmer Nam Bộ hầu hết đều theo tín ngưỡng Phật giáo, hệ phái Nam Tông. Di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer cũng chính là nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp: chùa có mái cao thẳng đứng, hoa văn họa tiết sơn vàng, hệ thống tượng Phật, thần Kabil Maha Prum, nữ thần đất, hung thần Reahu, tiên nữ, vũ nữ Apsara, người chim, vua khỉ Hanuaman...

          Chùa là nơi người Khmer thực hiện nghi lễ của Phật giáo, dạy chữ Khmer, lễ hội, truyền bá kinh nghiệm sản xuất; là nơi gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc. Đồng thời, đây cũng là nơi tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào dân tộc Khmer tuân thủ các quy định của pháp luật, tích cực tham gia phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự.

         

Như ở tỉnh Sóc Trăng, sau vài năm hoạt động, mô hình “Sư sãi và phật tử tham gia phòng, chống tội phạm, đảm bảo ANTT” đạt được mục tiêu chung là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh tuân thủ các quy định của pháp luật, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự. Đặc biệt là từ mô hình này, việc cung cấp cho lực lượng Công an những thông tin có liên quan đến tình hình an ninh trật tự tại khuôn viên chùa cũng như trên địa bàn các xã, huyện, thị xã ở tỉnh Sóc Trăng ngày càng nhanh chóng, kịp thời hơn.

          Thượng tọa Trần Văn Tha – Phó trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Chánh Thư ký Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng, trụ trì chùa Sê Rây Ta Mơn chia sẻ thêm rằng, đến nay, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước của tỉnh đã thực hiện tốt chức năng hướng dẫn đồng đào dân tộc Khmer sinh hoạt tôn giáo đúng quy định, phối hợp với các ngành chức năng tuyên truyền; vận động chức sắc, đồng bào phật tử tham gia các phong trào xã hội ở địa phương, chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và cùng chung tay tham gia phòng chống tội phạm, bảo đảm ANTT. Bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tới tôn giáo, đời sống bà con cũng đang từng bước được nâng cao nên càng tạo thêm sự tin tưởng, đoàn kết giữa các dân tộc trong tỉnh.

          Những chính sách phát triển hiệu quả

          Thực hiện nhất quán đường lối “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ”, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống chính sách đầu tư, hỗ trợ đồng bộ, ưu tiên bố trí nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer. Trong đó phải kể đến Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 14/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI và Thông báo số 67-TB/TW ngày 14/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X “Về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Kết luận số 57-KL/TW, ngày 03/11/2009, của Bộ Chính trị “Về công tác dân tộc”; Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị về “Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ 2011 - 2020” nhằm xây dựng tổng thể các chính sách ưu đãi riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Đồng bằng sông Cửu Long, trọng tâm là đồng bào Khmer giai đoạn 2014 - 2020 và có Chiến lược phát triển toàn diện đối với đồng bào dân tộc Khmer đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018 của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới...

          Việc thể chế hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã được Chính phủ, các ban, bộ, ngành và các tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer thực hiện nghiêm túc, cụ thể, phù hợp với sự phát triển chung của cả vùng và từng địa phương. Đến nay, Chính phủ ban hành 100 văn bản thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng đang triển khai thực hiện trên địa bàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có 58 chính sách chung có liên quan đến chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và 42 chính sách riêng đối với đồng bào dân tộc thiểu số; chủ yếu là các quyết định phê duyệt các chính sách, dự án quan trọng, toàn diện đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, đối với đồng bào Khmer nói riêng.

         

Hòa thượng Tăng Nô - Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, Phó Hội trưởng Thường trực Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng cho biết, những năm qua, nhờ các chủ trương, chính sách hỗ trợ về mọi mặt của Đảng và Nhà nước, diện mạo vùng đồng bào dân tộc Khmer đã thay đổi, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được nâng lên rõ rệt; đặc biệt là việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; phát triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào Khmer sinh sống và các chính sách về an sinh xã hội. Tại thời điểm trước khi Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII ban hành Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018, theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, các chương trình, dự án triển khai ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, đã xây dựng 90 nghìn nhà ở, hỗ trợ đất sản xuất, đất ở cho 30.025 hộ; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho 18.609 lao động và 5.139 hộ.

         

 “Bà con rất phấn khởi vì được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, vì thế luôn nỗ lực và thực hiện đúng nếp sống “tốt đời đẹp đạo”, Hòa thượng Tăng Nô nói. Trong khi đó, Thượng toạ Trần Văn Tha, Phó trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, trụ trì chùa Sê Rây Ta Mơn thì nhấn mạnh: “Cấp uỷ Đảng, chính quyền luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho các cơ sở tôn giáo, chức sắc, chức việc ở thị xã hoạt động; góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá truyền thống. Đặc biệt, trong việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ Khmer, chính quyền cũng đã hỗ trợ các kinh phí về giảng dạy và giúp các sư sãi trong chùa vận động bà con xung quanh cho phép con em mình được tham gia các lớp học tiếng Khmer vào dịp hè. Những việc này đã thể hiện rõ chính sách nhất quán của Nhà nước về việc bình đẳng và đoàn kết các dân tộc Việt Nam”.

                                                                                      Sông Thương