Sau gần 20 năm công tác trong Quân đội, đầu năm 2005, khi đang là Thiếu tá QNCN, nhân viên điện nước, Phòng Hậu cần (Trường Quân sự Quân khu 5), tôi xin phục viên vì lý do sức khỏe. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, thời gian đầu, tôi phải đi làm phụ hồ để có tiền trang trải cuộc sống và điều trị bệnh.
Thứ Ba, 5 tháng 9, 2023
CỰU CHIẾN BINH NGUYỄN KHÁNH THIỆN: NỖ LỰC HỌC HỎI, QUYẾT TÂM LÀM GIÀU
PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU CHO RẰNG "ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CƯỚP CHÍNH QUYỀN CỦA ĐẾ QUỐC VIỆT NAM" ĐƯA ĐẤT NƯỚC VÀO 2 CUỘC CHIẾN CHỐNG PHÁP, MỸ KHỐC LIỆT!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỐ CHẤT, NĂNG LỰC VÀ TẦM VÓC CỦA CÁN BỘ CẤP CHIẾN LƯỢC!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGƯỜI ĐÁNH BẠI 7 ĐẠI TƯỚNG PHÁP!
NGUY CƠ ĐÃ HIỂN HIỆN
BPO - Trước đây, chúng ta từng cảnh báo luận điệu cổ vũ xét lại lịch sử, đòi đánh giá lại công - tội của các nhân vật lịch sử còn đang gây tranh cãi thì hiện nay, nguy cơ đó đã hiển hiện trước mắt chúng ta với liên tục là những bài viết vinh danh những kẻ được coi là bán nước, “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi giày mả tổ” như Nguyễn Ánh.
CẦN NGHIÊM TRỊ KẺ CHẾ ẢNH, XÚC PHẠM BÁC HỒ
Tên phản động, đội nốt Tôn giáo LM Đặng Hữu Nam đã chế ảnh, xúc phạm Bác Hồ, đi ngược lại với đạo lý dân tộc, đó là hành vi của kẻ đốn mạt núp danh cha đạo
Tái diễn luận điệu xuyên tạc trong dịp Quốc khánh 2/9
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh 2/9 đã đi vào lịch
sử dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam. Song hằng năm, vào
dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, đi ngược lại niềm tự hào của
toàn dân tộc, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội lại tăng cường
hoạt động chống phá.
Các đối tượng sử dụng mạng xã hội để đăng tải nhiều bài viết, hình ảnh,
bình luận với những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật về bản chất cách mạng,
về giá trị và ý nghĩa thời đại của sự kiện lịch sử này, tạo nên góc nhìn phiến
diện, lệch lạc.
Nhiều bài viết nêu quan điểm sai lệch về thành quả cách mạng của dân tộc ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng; bác bỏ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
xem nhẹ giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Quốc khánh 2/9.
Trong dịp Quốc khánh 2/9 năm nay, trên một số diễn đàn, có những người tự
cho mình danh nghĩa “nhà nghiên cứu” hay “phân tích lịch sử”, đưa ra những nhận
định, đánh giá trái với sự thật, họ còn lồng ghép các dữ liệu lịch sử và so
sánh khiên cưỡng với một số sự kiện khác để tạo ra cách nhìn sai trái.
Có trường hợp vin cớ việc chúng ta xử lý nhiều vụ án tham nhũng gần đây để
đánh đồng vấn đề tham nhũng là “lỗi hệ thống”, từ đó kích động rằng, nhân dân
hy sinh làm cách mạng để cho quan chức nắm quyền, tham nhũng, vơ vét của cải!
Những phần tử xấu được dịp hùa vào miệt thị, cho rằng đất nước đã giành độc lập
78 năm nhưng đến nay nhân dân “chưa được tự do”, quyền và lợi ích cơ bản của
người dân “bị chà đạp”, xuyên tạc “cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột vẫn
tiếp diễn”!
Các luận điệu bôi nhọ những sự kiện lịch sử trọng đại như Cách mạng Tháng
Tám, Quốc khánh 2/9/1945, Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước 30/4/1975… là thủ đoạn “đến hẹn lại lên” của các thế lực thù địch, phản
động, những kẻ cơ hội chính trị. Họ cố tình ngụy tạo, đưa ra các thông tin sai
lệch, quan điểm sai trái hòng phủ bóng đen lên con đường mà đất nước ta, dân
tộc ta đã lựa chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Họ cố tình thổi phồng các tồn tại, tiêu cực trong đời sống xã hội hiện nay,
đặc biệt là vấn đề suy thoái, tham nhũng trong bộ phận cán bộ, đảng viên để đổ
lỗi cho chế độ, hạ thấp và phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng
thời không ngừng ca ngợi lối sống tư bản, hưởng thụ, ca ngợi kiểu tự do thái
quá nhằm tạo ra suy nghĩ lệch lạc rằng, đất nước ta đi theo con đường CNXH là
sai lầm.
Thủ đoạn này không mới nhưng việc nhắc đi nhắc lại, nhất là các dịp ngày lễ
lịch sử của dân tộc sẽ tạo ra sự nhũng nhiễu thông tin trên mạng xã hội, ảnh
hưởng đến quan điểm, suy nghĩ của một bộ phận người thiếu hiểu biết.
Việc các thế lực phản động, cơ hội mang dòng máu Việt Nam nhưng lại cố tình
xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp bản chất, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Quốc
khánh 2/9 là hành vi đi ngược lại lợi ích đất nước, phủ nhận khát vọng của dân
tộc, vong ơn trước xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam đã ngã xuống vì
độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc. Những luận điệu xuyên tạc và những con
người đang đi ngược dòng sự thật ấy chỉ có thể gây nhiễu về thông tin chứ không
thể ngăn cản bởi dòng chảy lịch sử của dân tộc.
Cách đây 78 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta từ Bắc chí Nam nhất
tề đứng lên tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền, chấm dứt kiếp nô lệ,
mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và đi lên CNXH.
Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9/1945 không chỉ là mốc son chói lọi
trong lịch sử dân tộc mà còn là sự kiện mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc
tế sâu sắc; nguồn cổ vũ, động viên, truyền cảm hứng đối với các dân tộc thuộc
địa, nhân dân bị áp bức, bóc lột trên thế giới đấu tranh giành độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong tâm khảm mỗi người dân, ngày Quốc khánh 2/9
trở thành bản hùng ca của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước.
Trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta phải liên tiếp đương đầu chống giặc
ngoại xâm, tiến hành hàng chục cuộc kháng chiến để bảo vệ độc lập dân tộc và
chủ quyền lãnh thổ, hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng để
giành lại độc lập dân tộc. Hoàn cảnh lịch sử đó đã hun đúc nên những giá trị
văn hóa giữ nước đặc sắc, đồng thời cho thấy ý nghĩa sống còn của các giá trị
văn hóa giữ nước.
Nét đặc sắc của giá trị văn hóa giữ nước chính là xây dựng và phát triển
đất nước, chăm lo đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh, gia tăng
sức mạnh tổng hợp quốc gia, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, thực hiện “trong ấm,
ngoài yên”, đặc biệt là giữ yên lòng dân; ngăn ngừa, đẩy lùi, triệt tiêu mọi
nhân tố dẫn đến nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, giữ nước ngay khi
đất nước đang thái bình.
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ bờ cõi đất nước gắn với các
tên tuổi lịch sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần
Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung... là những bản anh hùng ca bất
diệt. Thế kỷ XX, Đảng, Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân ta viết tiếp trang sử vẻ
vang của dân tộc trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước.
Đã 78 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập tại
Quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam). Thời gian càng lùi xa càng có thêm sự chiêm
nghiệm, có thêm nhiều thông tin, càng thấy được ý nghĩa vĩ đại của Cách mạng
Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 đối với đất nước, dân tộc Việt Nam, đồng thời thể
hiện ý nghĩa, tầm vóc lịch sử đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới vì độc lập, thống nhất, xây dựng
đất nước hùng cường, nhân dân ấm no, hạnh phúc theo con đường CNXH. Không chỉ
vậy, cuộc cách mạng giành độc lập, tự do của dân tộc ta đã trở thành một biểu
tượng, một bài học kinh nghiệm quý giá, một sự khích lệ to lớn cổ vũ phong trào
giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.
Chính bởi ý nghĩa lịch sử đó cùng những thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, Mỹ, thế giới ngợi ca nhân dân của một đất nước Việt Nam
anh hùng.
Đến hôm nay, sau 37 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên tất cả mọi lĩnh vực từ chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế không ngừng được nâng cao, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm
nghèo luôn được các tổ chức chính trị, xã hội và các tầng lớp nhân dân quan
tâm, ủng hộ.
Việt Nam được bạn bè thế giới mến phục, coi là biểu tượng của hòa bình, ổn
định chính trị, xã hội, sự thân thiện, mến khách, đồng thời là biểu hiện của sự
nỗ lực, tinh thần chiến thắng đói nghèo trong thế kỷ XXI. Những thành tựu to
lớn đã đạt được từ ngày thành lập nước đến nay chứng tỏ sự trưởng thành về mọi
mặt của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Hằng năm, cứ mỗi dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh 2/9, người Việt Nam dù đang
bất kỳ nơi đâu trong nước hoặc ở xa Tổ quốc cũng không khỏi xúc động bồi hồi,
ôn lại khí thế hào hùng, sôi sục, náo nức của những ngày mùa thu cách mạng, khi
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
Quốc khánh chính là dịp để bất cứ người dân Việt Nam nào, đồng bào cả nước
cũng như kiều bào ở nước ngoài cùng hướng về Tổ quốc thân yêu; cùng tưởng nhớ,
tri ân hàng triệu cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta đã ngã xuống trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; cùng tưởng nhớ và biết ơn công
lao vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Là dịp để các
thế hệ hôm nay và mai sau cùng nhau nhìn lại chặng đường gian khổ, hào hùng của
cha ông để nâng cao lòng tự hào dân tộc, trau dồi tinh thần yêu nước, cống hiến
sức mình cho quê hương, đất nước.
Bình Nguyên – Nguyễn Thành
Bác bỏ thông tin sai sự thật về vấn đề người Khmer ở Việt Nam
"Đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách
rời của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, chung sống bình
đẳng và hòa hợp, cùng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt
chiều dài lịch sử của đất nước", Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu
Hằng khẳng định.
Cảnh giác trước những thông tin sai sự thật
Việt
Nam là một quốc gia đa dân tộc. Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam được
hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng nước
và giữa nước của cả dân tộc. Bởi vậy, có thể khẳng định, lịch sử hình thành,
phát triển các dân tộc gắn với lịch sử hình thành và phát triển đất nước Việt
Nam. Thời gian qua, nhiều thế lực thù địch luôn triệt để lợi dụng vấn đề quyền
của người dân tộc để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó phải kể đến
tổ chức Khmer Kampuchea Krom.
Khmer Kampuchea Krom là một tổ chức hoạt động
trên phạm vi quốc tế có xu hướng bài Việt Nam và tham gia các hoạt động chống
Đảng, chính quyền, Nhà nước Việt Nam. Tổ chức này gồm nhiều đối tượng xấu,
trước nay thường xuyên vu cáo về cái gọi là "Việt Nam cướp đất của
Campuchia". Khmer Kampuchea Krom sử dụng hình ảnh 3 màu xanh - vàng - đỏ
làm biểu tượng tuyên truyền, vận động, lôi kéo, móc nối với số phần tử thù
địch, phản động trong nước với mục tiêu mặc định sự tồn tại của tổ chức trong
vùng dân tộc Khmer, tiến tới đòi quyền "dân tộc tự quyết" cho người
Khmer, lập "Nhà nước Khmer
Krom"…
Hồi
tháng 7, tổ chức này còn lợi dụng việc phá bỏ cổng chào tỉnh Trà Vinh, vốn bị
hư hỏng nặng và có khả năng gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông để bịa
đặt thông tin chính quyền không cho người dân tổ chức các trò chơi dân gian
nhân dịp lễ Chôl Thnăm Thmây năm 2023 và đưa ra luận điệu xuyên tạc rằng
"chính quyền người Việt muốn xóa bỏ văn hóa của người Khmer", muốn
thực hiện chính sách "đồng hóa dân tộc Khmer".
Liên
quan đến vấn đề này, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng ngày 31/8 đã
khẳng định: “Chúng tôi bác bỏ những thông tin không có cơ sở, sai sự thật về
tình hình người Khmer ở Việt Nam. Đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách rời
của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, chung sống bình đẳng và
hòa hợp, cùng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt chiều dài
lịch sử của đất nước. Các dân tộc Việt Nam đều được đối xử bình đẳng. Nhà nước
Việt Nam bảo đảm và tạo điều kiện phát triển về mọi mặt nhằm không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, giữ gìn bản
sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt
đẹp, đóng góp củng cố khối đại đoàn kết dân tộc”.
Dân tộc
Khmer là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam và được đánh giá là dân tộc sở hữu
nhiều nét đặc trưng riêng biệt và độc đáo. Thống kê cho thấy, dân tộc Khmer ở
Việt Nam có khoảng 1,3 triệu người, sống tập trung ở tại các tỉnh miền Tây Nam
Bộ như: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long
và phân bố rải rác ở một vài nơi khác. Người Khmer có ngôn ngữ và chữ viết
riêng. Tiếng nói của dân tộc Khmer thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me. Trang phục
truyền thống của người dân Khmer mang những đặc trưng riêng về tạo hình và mặt
thẩm mỹ. Nam nữ đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm, người có tuổi mặc quần áo bà
ba màu đen còn nam giới khá giả sẽ mặc bộ bà ba màu trắng, khăn rằn quấn trên
đầu hoặc vắt qua vai. Trong đám cưới, trang phục của chú rể là áo xà rông có
màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn
dài trắng. Cô dâu sẽ mặc váy màu tím hoặc màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn
và đội mũ cưới truyền thống…
Đồng
bào Khmer có nhiều lễ hội đặc sắc, tiêu biểu là Tết đón năm mới và Lễ cúng
trăng. Trong những dịp này, bà con thăm hỏi, chúc lẫn nhau, tổ chức nhiều hoạt
động văn nghệ, thể thao. Ngoài ra, dân tộc Khmer còn có nền âm nhạc sân khấu
truyền thống Dù kê, một sự kết hợp có nguồn gốc từ cả Ấn Độ lẫn Đông Nam Á, bao
gồm các loại hình nghệ thuật như: ca, múa, âm nhạc, vũ thuật, phục trang, hóa
trang, hội họa và ẩm thực. Nghệ thuật sân khấu Dù kê vừa phục vụ nhu cầu vui
chơi giải trí, vừa giúp người xem cảm nhận được điều hay lẽ phải, nhận thức
được thiện - ác, chính - tà, định hướng cho con người. Với những giá trị đặc
biệt đó, sân khấu Dù kê đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể
quốc gia, loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian.
Người
Khmer Nam Bộ hầu hết đều theo tín ngưỡng Phật giáo, hệ phái Nam Tông. Di sản
đặc sắc nhất của văn hoá Khmer cũng chính là nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp:
chùa có mái cao thẳng đứng, hoa văn họa tiết sơn vàng, hệ thống tượng Phật,
thần Kabil Maha Prum, nữ thần đất, hung thần Reahu, tiên nữ, vũ nữ Apsara,
người chim, vua khỉ Hanuaman...
Chùa là
nơi người Khmer thực hiện nghi lễ của Phật giáo, dạy chữ Khmer, lễ hội, truyền
bá kinh nghiệm sản xuất; là nơi gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa độc đáo của dân tộc. Đồng thời, đây cũng là nơi tuyên truyền, hướng dẫn
đồng bào dân tộc Khmer tuân thủ các quy định của pháp luật, tích cực tham gia
phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự.
Thượng
tọa Trần Văn Tha – Phó trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Chánh Thư
ký Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng, trụ trì chùa Sê Rây Ta Mơn chia
sẻ thêm rằng, đến nay, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước của tỉnh đã thực hiện tốt
chức năng hướng dẫn đồng đào dân tộc Khmer sinh hoạt tôn giáo đúng quy định,
phối hợp với các ngành chức năng tuyên truyền; vận động chức sắc, đồng bào phật
tử tham gia các phong trào xã hội ở địa phương, chấp hành tốt chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và cùng chung tay tham gia
phòng chống tội phạm, bảo đảm ANTT. Bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tới
tôn giáo, đời sống bà con cũng đang từng bước được nâng cao nên càng tạo thêm
sự tin tưởng, đoàn kết giữa các dân tộc trong tỉnh.
Những chính sách phát triển hiệu quả
Thực
hiện nhất quán đường lối “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau
cùng tiến bộ”, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống chính sách đầu tư, hỗ trợ
đồng bộ, ưu tiên bố trí nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào
dân tộc Khmer. Trong đó phải kể đến Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 14/4/1991 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng khóa VI và Thông báo số 67-TB/TW ngày 14/3/2007 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng khóa X “Về công tác ở vùng đồng bào dân tộc
Khmer”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Kết luận số 57-KL/TW, ngày 03/11/2009, của Bộ
Chính trị “Về công tác dân tộc”; Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012 của Bộ
Chính trị về “Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và
bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ 2011 -
2020” nhằm xây dựng tổng thể các chính sách ưu đãi riêng cho đồng bào dân
tộc thiểu số ở Đồng bằng sông Cửu Long, trọng tâm là đồng bào Khmer giai đoạn
2014 - 2020 và có Chiến lược phát triển toàn diện đối với đồng bào dân tộc
Khmer đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018
của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình
hình mới...
Việc
thể chế hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã được Chính phủ, các ban, bộ,
ngành và các tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer thực hiện nghiêm túc, cụ thể,
phù hợp với sự phát triển chung của cả vùng và từng địa phương. Đến nay, Chính
phủ ban hành 100 văn bản thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng đang
triển khai thực hiện trên địa bàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có 58
chính sách chung có liên quan đến chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số
và 42 chính sách riêng đối với đồng bào dân tộc thiểu số; chủ yếu là các quyết
định phê duyệt các chính sách, dự án quan trọng, toàn diện đối với vùng Đồng
bằng sông Cửu Long nói chung, đối với đồng bào Khmer nói riêng.






