Thứ Hai, 1 tháng 1, 2024

CẦN LOẠI BỎ TỔ CHỨC PHẢN ĐỘNG HỘI ĐỒNG LIÊN TÔN VIỆT NAM - NHÓM PHẢN ĐỘNG

 

          Kẻ cẩm đầu cái gọi là Hội đồng liên tôn Việt Nam là Thích Không Tánh, tên thật là Phan Ngọc Ấn, sinh năm 1943, nguyên quán Phước Thuận, Tuy Phước, Bình Định; thường trú tại chùa Liên Trì, số 153 đường Lương Định Của, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, Thích Không Tánh đảm nhiệm công tác liên lạc, tổ chức các hoạt động nhằm khuếch trương thanh thế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (một tổ chức tôn giáo không được thừa nhận ở nước ta) và làm cầu nối thông tin với các tổ chức Phật giáo Việt Nam lưu vong. Từ năm 1978 đến 1986, Thích Không Tánh bị đưa đi cải tạo, do tham gia các hoạt động của những phần tử đội lốt tu hành chống phá Nhà nước và vi phạm pháp luật. Đến năm 1987, Thích Không Tánh được trả tự do. Song, với bản chất của kẻ phản động, ngày 02/10/1992, Thích Không Tánh bị các lực lượng chức năng bắt quả tang khi đang lưu hành nhiều tài liệu có nội dung chống lại Nhà nước và bị án phạt 5 năm tù giam và quản chế 5 năm sau khi mãn hạn tù. Sau thời gian này, Thích Không Tánh cùng với số tu sỹ bất mãn trong Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài,.. lập ra tổ chức Hội đồng liên tôn Việt Nam với ý đồ liên tôn, liên kết số tu sĩ bất mãn trong các tôn giáo để chống phá Nhà nước Việt Nam.

          Hoạt động của cái gọi là Hội đồng liên tôn Việt Nam chủ yếu hướng vào các vụ việc phức tạp về tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phá hoại tư tưởng thông qua việc lợi dụng các vụ việc phức tạp, nhạy cảm trong nước sau đó, thêm tình tiết, thổi phồng, bịa đặt nhằm tác động gây chia rẽ nội bộ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gây tâm lý hoài nghi trong nhân dân… thông qua đó để từng bước làm xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kích động tâm lý bức xúc, “bất tuân dân sự”, sử dụng bạo lực để phản kháng lại chính quyền.

          Bên cạnh đó, chúng móc nối, phát triển lực lượng cho tổ chức thông qua mạng internet và các trang mạng xã hội đưa thông tin xuyên tạc tình hình trong nước, tác động móc nối, lôi kéo thanh niên, sinh viên, trí thức, chức sắc, tín đồ tôn giáo cực đoan, người dân tộc thiểu số có tư tưởng ly khai, hẹp hòi, số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất… Các hoạt động của tổ chức phản động này với thủ đoạn lừa đảo, mị dân để móc nối, lôi kéo người tham gia tổ chức. Trên thực tế, một bộ phận quần chúng nhân dân do hoàn cảnh khó khăn, hám lợi và nhận thức còn hạn chế nên đã đăng ký tham gia; trong đó, một số cán bộ, đảng viên do nhận thức chưa đầy đủ, chưa thấy tính chất nguy hiểm trong luận điệu tuyên truyền của Hội đồng liên tôn Việt Nam nên đã bị chúng chuyển hóa, lợi dụng, lôi kéo, công khai ủng hộ các hoạt động chống phá Việt Nam…

          Thời gian qua, Bộ Công an đã phối hợp với các Bộ, Ban, ngành và cấp ủy chính quyền các cấp đấu tranh làm thất bại âm mưu, ý đồ chống phá của các thế lực thù địch nói chung và bọn tổ chức phản động lưu vong nói riêng; trong đó, ngăn chặn, vô hiệu hóa nhiều kế hoạch khủng bố, phá hoại của tổ chức phản động Hội đồng liên tôn Việt Nam. Căn cứ vào hoạt động của Hội đồng liên tôn Việt Nam và theo quy định của pháp luật Việt Nam, Bộ Công an đã công bố công khai đưa Hội đồng liên tôn Việt Nam vào danh sách các tổ chức phản động chống Nhà nước Việt Nam; bắt, xử lý 17 đối tượng về tội chống chính quyền nhân dân theo Điều 84 và Điều 230a Bộ luật Hình sự 1999; đồng thời, tổ chức tuyên truyền, tấn công chính trị toàn diện tổ chức Hội đồng liên tôn Việt Nam.

          Thời gian tới, để công tác đấu tranh với các tổ chức các tổ chức phản động lưu vong nói chung, tổ chức phản động Hội đồng liên tôn Việt Nam nói riêng đạt hiệu quả, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, chính quyền địa các phương cần:

Một là, tổ chức tuyên truyền với hình thức, nội dung hợp lý, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hiểu rõ âm mưu, ý đồ, phương thức, thủ đoạn tuyền truyền phá hoại tư tưởng, phát triển lực lượng, khủng bố, phá hoại của Hội đồng liên tôn Việt Nam, trên cơ sở đó nâng cao tinh thần cảnh giác, không ủng hộ, tham gia các tổ chức phản động lưu vong nói chung, Hội đồng liên tôn Việt Nam nói riêng; không truy cập, tìm hiểu thông tin, bình luận trên các trang web, tài khoản mạng xã hội do tổ chức Hội đồng liên tôn Việt Nam và số đối tượng liên quan lập ra.

          Hai là, tích cực, chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước những âm mưu, ý đồ, phương thức, thủ đoạn hoạt động hoạt động tuyên truyền, phát triển lực lượng của bọn phản động lưu vong nói chung, Hội đồng liên tôn Việt Nam nói riêng; kịp thời xử lý các tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ; giải quyết tốt những vấn đề bất cập, bức xúc xã hội, không để chúng lợi dụng kích động khiếu kiện, biểu tình gây mất ổn định chính trị. Thực hiện phương châm: lấy tuyên truyền, vận động, thuyết phục là chính, nhưng kiên quyết đấu tranh với những phần tử chống đối cực đoan.

Ba là, tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức trong các cấp ủy đảng và cán bộ, đảng viên về vai trò, tầm quan trọng của công tác đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa; tích cực đấu tranh, phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch và phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; xác định đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy.

          Bốn là, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ và quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; ngăn chặn tác hại của hoạt động phá hoại tư tưởng; xử lý nghiêm những trường hợp trong nội bộ tham gia hoặc ủng hộ các đối tượng phản động lưu vong nói chung, Hội đồng liên tôn Việt Nam nói riêng./.

ĐA ĐẢNG KHÔNG PHẢI LÀ DÂN CHỦ

 

Như chúng ta từng chứng kiến chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, đa số những người đã từng mơ mộng về một nền dân chủ tư bản mà họ cho là tốt đẹp đều hối tiếc và vỡ mộng khi đất nước họ bắt đầu rơi vào khủng hoảng kéo dài, mất kiểm soát về an ninh chính trị, biểu tình, bạo loạn bất công lại nổi lên. Những cảnh tượng đó cả thế giới không xa lạ gì một Liên bang Nam Tư hùng cường rơi vào nội chiến, xung đột sắc tộc; Ở kiến trúc thượng tầng nhà nước thì các đảng phái tranh dành quyền lực đấu đá, ẩu đả nhau chẳng khác gì cái chợ, bên ngoài xã hội thì biểu tình cướp bóc... một Ucraina bạo loạn triền miên, ngân khố quốc gia chủ yếu phụ thuộc Mỹ và phương Tây, nợ chồng nợ. Bên cạnh đó, một loạt các nước XHCN như Armenia, Azerbaijan, Belarus, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan cũng chẳng kém gì, tình hình chính trị, an ninh bất ổn kéo dài hàng thập kỷ... ngay như Armenia và Azerbaijan hiện xung đột nội bộ, xung đột biên giới vẫn còn trong nguy cơ bất ổn chưa đưa ra hồi kết. Đó là những hệ lụy khôn lường, không ai khác chỉ có người dân là những người phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất...

Trong khi những ồn ào của cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ lần thứ 46 chưa lắng xuống xung quanh những tranh luận và khiếu kiện của các phe phái về việc có hay không sự gian lận trong quá trình kiểm phiếu, một số nhà “dân chủ giả cầy” lại lấy đây là cái cớ để tuyên truyền về cái gọi là “không có đa đảng thì không bao giờ có dân chủ ở Việt Nam”.

Một điều hiển nhiên là trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội loài người, dân chủ luôn vận động, biến đổi và có sự khác biệt về chất tương ứng với từng thời kỳ lịch sử. Với tính cách là giá trị xã hội, những giá trị phổ quát của dân chủ, dù dưới bất cứ hình thức nào, đều có thật, không ai có thể phủ nhận, và do đó, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của con người. Tuy nhiên, để đánh giá một nền dân chủ, phải căn cứ trước hết vào chỗ quyền lực thuộc về ai, lợi ích là của ai và vì ai. Đánh giá một đảng chính trị cũng không thể chỉ căn cứ vào tên gọi, mà trước hết phải xem họ thật sự đại diện cho loại quyền lực nào, tranh đấu vì lợi ích của ai.

Dân chủ không đồng nghĩa với đa đảng. Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, dân chủ không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng mà phụ thuộc trước hết và chủ yếu vào bản chất của đảng cầm quyền. Cần phải lưu ý rằng, trong hệ thống chính trị đa đảng, tại một giai đoạn chính trị nhất định cũng chỉ có một đảng thực chất cầm quyền. Ngay cả trường hợp liên minh đảng cầm quyền để thành lập chính phủ, đảng nào chiếm số ghế nhiều hơn trong nghị viện sẽ có quyền quyết định trong các chính sách. Ở một số quốc gia (điển hình là Mỹ), mặc dù có nhiều đảng nhưng chỉ có hai đảng luân phiên cầm quyền là Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ. Khi mà cả hai đảng này đều đại diện cho giai cấp tư sản, thì nền dân chủ của nó, tất yếu phải hướng đến phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, chứ không thể là một “nền dân chủ cho tất cả mọi người” như họ đã và đang rêu rao, ca tụng. Hơn nữa, cái gọi là “nền dân chủ Mỹ” thực chất là nền dân chủ của nhà giàu. Sự dối trá của nó đã bị chính các cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vạch trần, khi mà sau lưng những ứng viên cho chiếc ghế lãnh đạo này luôn là những tập đoàn tài phiệt với những cuộc vận động tranh cử tiêu tốn hàng tỷ đô la Mỹ. Thêm vào đó, những gì đã và đang diễn ra ở Mỹ như tình trạng bạo lực, nạn phân biệt chủng tộc… và nhất là những “giá trị dân chủ” đi kèm với bom đạn, chết chóc mà Mỹ đang reo rắc ở Trung Đông, Sirya… vẫn luôn là tiếng chuông cảnh tình cho những ai còn mơ hồ.

Ở Việt Nam, sự ra đời và vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử, không thể thay thế. Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: kinh tế không ngừng phát triển, đời sống chính trị – xã hội ổn định, quốc phòng – an ninh được giữ vững. Đặc biệt là chế độ dân chủ được đề cao, được bảo đảm và ngày càng được thực hành rộng rãi hơn, thực chất hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của đông đảo nhân dân được tôn trọng và bảo vệ, nhân dân Việt Nam đã trở thành người chủ thực sự của đất nước. Thực tiễn bảo đảm và phát huy dân chủ ở Việt Nam là minh chứng rõ nét, khẳng định trong chế độ một Đảng duy nhất cầm quyền, dân chủ xã hội Việt Nam không những không bị mất đi, mà còn được bảo đảm, được phát huy sâu rộng trên thực tế.

Cho nên, những luận điệu lợi dụng bầu cử Tổng thống ở Mỹ hòng lèo lái, xuyên tạc về dân chủ ở Việt Nam, chính là luận điệu của những kẻ phản động, thù địch, ngoài miệng rêu rao đấu tranh cho “dân chủ”, “tự do” của nhân dân nhưng thực chất là vì chính bản thân lợi ích cá nhân và đồng bọn của chúng, chứ không phải vì dân, vì nước./.

Thời kỳ “dân số vàng” ở Việt Nam sẽ kéo dài thêm 10 năm


 

Ông Phạm Hoài Nam, Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động, Tổng cục Thống kê cho biết, Việt Nam vẫn đang ở trong thời kỳ “dân số vàng” với lực lượng lao động trẻ dồi dào. Dự báo thời kỳ này sẽ kéo dài ít nhất 10 năm nữa.

Bộ trưởng Tô Lâm gửi Thư chúc mừng năm mới 2024

 

Nhân dịp năm mới 2024 và đón Xuân Giáp Thìn, Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an có Thư chúc mừng, động viên toàn thể tướng lĩnh, sĩ quan, hạ sĩ quan, học viên, công nhân Công an, lao động hợp đồng trong CAND; các đồng chí cán bộ Công an hưu trí, thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ CAND; các đồng chí bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp. Báo CAND trân trọng giới thiệu Thư chúc mừng của đồng chí Bộ trưởng. 

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh – người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Ngày 1/1/2024 là tròn 110 năm Ngày sinh Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Bí danh Nguyễn Chí Thanh là do Bác Hồ đặt cho người học trò xuất sắc của mình. Những ngày này, tại Thừa Thiên Huế - quê hương nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm, cũng là nơi đã nuôi dưỡng, hun đúc tinh thần, ý chí cách mạng của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, đã diễn ra nhiều hoạt động để tướng nhớ đến vị Đại tướng tài ba…

Chủ tịch nước tặng quà 1,4 triệu người có công dịp Tết

 

Quà tặng người có công dịp tết Giáp Thìn 2024 được chia thành hai mức 600.000 đồng và 300.000 đồng.

Cảnh giác với hiện tượng lợi dụng, xuyên tạc hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ

Gần đây, trên không gian mạng xuất hiện ngày càng nhiều tài khoản TikTok, Facebook, YouTube... với những tên gọi “rất kêu”, chẳng hạn như: “Yêu bộ đội”; “Yêu lính”; “Màu xanh biên cương”; “Bộ đội của dân”...

Thoạt nhìn, không ít người lầm tưởng đó là tài khoản chính thức của một cơ quan, đơn vị nào đó trong Quân đội, song kỳ thực không phải như vậy. Đây là những trang cá nhân đang lợi dụng hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ để "câu view", "câu like", đánh bóng tên tuổi, bán hàng, xuyên tạc... nhằm thu hút và “thao túng tâm lý” người xem. Đáng lo ngại hơn là một số cán bộ, đảng viên chưa nhìn nhận một cách thấu đáo hiện tượng này, đã vội vàng ủng hộ bằng cách nhấn yêu thích, thả tim và có những bình luận tỏ ra a dua, đồng lõa.

Chiếc áo không làm nên thầy tu

Qua theo dõi và tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng các trang này phần lớn là của những người thiếu hiểu biết về Quân đội, trong đó có không ít bạn trẻ đã lợi dụng hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ để kiếm tiền một cách bất chính. Đáng nói là mặc dù họ muốn làm giàu nhưng năng lực tư duy lại hạn chế, không có khả năng sáng tạo nội dung mà thường xuyên cóp nhặt, cắt ghép, dàn dựng, đăng tải những thông tin, hình ảnh làm sai lệch bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam và thuần phong mỹ tục của dân tộc.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
Ảnh minh họa:VTV 

Việc một số cá nhân lợi dụng hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ để trục lợi ngày càng nhiều trên không gian mạng, gây ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín, danh dự của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Còn nhớ, đầu tháng 7-2023, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai xuất hiện một đối tượng tự xưng là Phan Quốc Khải, công tác tại Ban CHQS huyện Xuân Lộc, gọi điện cho ông Nguyễn Duy Sáu, chủ cửa hàng dụng cụ nông nghiệp tại huyện Cẩm Mỹ để chèo kéo, môi giới nhằm thực hiện hành vi lừa đảo nhưng bất thành. Ông Sáu cho biết: Họ thường đặt một số mặt hàng giá trị lớn mà cửa hàng không có, sau đó cung cấp một đơn vị khác có những loại hàng hóa trên để chúng tôi đặt mua qua mạng cho kịp thời gian giao hàng và thanh toán bằng hình thức chuyển khoản.

Tiếp đó, trên cổng thông tin chính thức của một số bệnh viện uy tín như: Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Bệnh viện Quân y 175, Bệnh viện Quân y 103 cũng đã đưa ra cảnh báo về việc gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều trang, nhóm mạo danh các cơ sở y tế quân sự để thực hiện hành vi chào bán thuốc, thực phẩm chức năng, dịch vụ y tế kém chất lượng, làm tổn hại sức khỏe của người dân, ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của ngành y học Quân đội. Tất nhiên, các đối tượng này đã bị vạch trần và xử lý theo pháp luật.

Nguy hại hơn, lợi dụng sự phát triển của công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), nhiều đối tượng đã giả mạo một số chức danh lãnh đạo, chỉ huy, quản lý của các cơ quan, đơn vị Quân đội để gọi video trực tuyến, nhắn tin qua Messenger, Zalo... “thông báo” đến các gia đình có quân nhân tại ngũ về một số vấn đề liên quan đến pháp luật, kỷ luật như: Làm hư hỏng, thất thoát tài sản chung, phải bồi thường; tham gia cá độ, chơi lô đề, cờ bạc, vay nặng lãi quá khả năng chi trả; mất đoàn kết, gây thương tích... Từ đó đe dọa, buộc gia đình phải chuyển tiền vào tài khoản để “chạy án”, nếu không sẽ bị “xử lý nghiêm khắc”...

Có thể thấy rằng, trong những vụ việc nêu trên, mặc dù thủ đoạn của các đối tượng lừa đảo rất đa dạng, tinh vi, xảo quyệt nhưng đều có chung một phương thức, đó là lợi dụng hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ để “mua chuộc” lòng tin của nhân dân nhằm phục vụ hành vi lừa đảo. Nếu không tỉnh táo, không chủ động xác minh thông tin kỹ lưỡng, chúng ta sẽ bị đánh lừa bởi những “vở kịch” mà kẻ gian đã công phu dàn dựng, để rồi... “tiền mất tật mang”.

Không dừng lại ở đó, một số tài khoản vốn đã núp bóng Bộ đội Cụ Hồ nhưng lại thường xuyên tuyên truyền xuyên tạc về hình ảnh người quân nhân cách mạng theo kiểu “ăn không nói có”, “chuyện bé xé ra to”, “vơ đũa cả nắm”... Đặc biệt, các đối tượng xấu còn thường xuyên giật tít “rất kêu” nhằm kích thích sự tò mò của cộng đồng mạng, dạng như: “Thông tin mật”, “góc khuất của lính”, “ma cũ bắt nạt ma mới”, “sự thật về bộ đội”... Thời điểm đăng tải, tán phát thông tin cũng rất nhạy cảm, nhất là những lúc đơn vị thực hiện nhiệm vụ khó khăn, đột xuất; trước mỗi mùa tuyển quân; trong các kỳ huấn luyện chiến sĩ mới; khi quân nhân chuẩn bị hoàn thành nghĩa vụ quân sự... Từ đó gây tâm lý hoài nghi, dao động, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào môi trường quân ngũ.

Ví dụ như vụ việc xảy ra tại Trường Quân sự Quân khu 7 hồi tháng 1-2023. Chỉ vỏn vẹn vài giờ sau khi bị cáo Nguyễn Lê Tấn Tài đăng tải nội dung bịa đặt, sai sự thật về việc một nữ sinh viên bị hiếp dâm tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh trên fanpage UFH Confession, bài viết đã tạo ra “làn sóng” tương tác dữ dội với hàng trăm nghìn lượt tiếp cận, bình luận, chia sẻ. Trong đó có rất nhiều người phản ứng một cách thái quá, mặc dù chưa rõ bản chất của vấn đề. Đây chính là cái cớ để các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá. Hậu quả là Tòa án Quân sự Quân khu 7 đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Lê Tấn Tài mức án 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đưa trái phép thông tin mạng máy tính” theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Quân đội là trường học lớn của tuổi trẻ. Bên cạnh hàng vạn cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm ra sức thi đua huấn luyện giỏi, rèn luyện tốt, kỷ luật nghiêm, vẫn còn đó những quân nhân, những cán bộ, đảng viên chưa thực sự gương mẫu, tự giác trong chấp hành điều lệnh, điều lệ, dẫn tới vi phạm các chế độ quy định. Tuy nhiên, cấp ủy, chỉ huy các cấp tuyệt đối không bao che, giấu giếm khuyết điểm mà đã xem xét, xử lý nghiêm minh; đồng thời thông báo rộng rãi để rút kinh nghiệm trong toàn đơn vị nói riêng, toàn quân nói chung. Điều đó lại càng khẳng định bản chất tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng; đúng với tư tưởng: “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngọc càng mài càng sáng...

Trong bom đạn, giữa tâm bão hay trên tuyến đầu chống dịch... không có bất cứ nơi nào trên đất nước này vắng bóng Bộ đội Cụ Hồ. Chính bởi gần dân, trọng dân, sẵn sàng hy sinh vì dân mà các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã được nhân dân gửi trọn niềm tin. Do đó, không thể vì một vài sự việc đơn thuần, cộng thêm hành động “hà hơi thổi ngạt” của những đối tượng xấu mà dễ dàng làm lay chuyển tình cảm, phai nhạt truyền thống gắn bó keo sơn, máu thịt giữa quân với dân.

Không chỉ sáng trong lòng nhân dân mà Bộ đội Cụ Hồ còn đẹp trong lòng bạn bè quốc tế. Tinh thần "tương thân tương ái", “lá lành đùm lá rách”, giúp bạn như giúp mình, trong hoạn nạn vẫn dốc lòng, dốc sức giúp đỡ về tài chính, thiết bị, vật tư y tế để nước bạn Lào, Campuchia, Myanmar... chống dịch Covid-19; hay gần đây, trước thảm họa động đất kinh hoàng tại Thổ Nhĩ Kỳ, đoàn cứu hộ của Quân đội ta đã không quản khó khăn, gian khổ, ngày đêm tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai... là minh chứng sống cho những nỗ lực, quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ hôm nay trong việc gìn giữ, phát huy truyền thống ông cha.

Tại Hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ 6, nhiệm kỳ 2020-2025, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã căn dặn: “Quân đội đã làm tốt rồi, nay cần làm tốt hơn nữa”; đã là Bộ đội Cụ Hồ thì phải luôn “chủ động đến với nhân dân, giúp nhân dân những thứ nhân dân cần, hỗ trợ nhân dân những thứ nhân dân thiếu”. Bên cạnh đó, người lãnh đạo cao nhất của Đảng ta cũng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần đề cao trách nhiệm, quyết tâm thực hiện “7 dám”: “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, và dám hành động vì lợi ích chung”, để có đủ phẩm chất, năng lực phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.

Có thể thấy rằng, từ lịch sử đến hiện tại; từ chức năng, nhiệm vụ đến thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, công tác... của Quân đội nhân dân Việt Nam đều hoàn toàn khác xa với những gì mà các TikToker, Facebooker, YouTuber vì bị “đồng tiền làm mờ con mắt” nên đã thường xuyên thêu dệt, đăng đàn một cách phiến diện, làm méo mó cách nhìn của một bộ phận công chúng, nhất là trong cộng đồng mạng về hình ảnh và phẩm chất cao đẹp trong nhân cách người quân nhân cách mạng. Và những hành động đáng xấu hổ, đáng lên án ấy cũng tựa như tư duy tầm gửi, mặc dù đã mang “phận ký sinh”, sống nhờ dinh dưỡng từ “cây mẹ” nhưng chẳng những không làm cho “vật chủ” tốt lên mà còn làm phương hại đến chính “nguồn sống” của bản thân mình.

Để góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tác động tiêu cực của những thông tin xấu độc, sai sự thật đến đời sống tinh thần của bộ đội và nhân dân, trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên, công nhân viên, chiến sĩ cần đề cao trách nhiệm trong đăng tải, chia sẻ thông tin, hình ảnh liên quan đến cá nhân, đơn vị và Quân đội lên các nền tảng mạng xã hội; hay nói cách khác là phải “cắt nguồn cung”, không “tự tạo cớ”, không a dua, cổ xúy, tiếp tay... để đối tượng xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá. Bởi lẽ, Quân đội là môi trường đặc thù nên không phải ai cũng có thể dễ dàng tự do, tự tiện quay phim, ghi hình, chụp ảnh để đăng đàn. Hơn nữa, nếu mỗi người mỗi ngày đều lan tỏa những hình ảnh đẹp, đúng với bản chất người quân nhân cách mạng và thực tiễn những gì diễn ra trong môi trường quân ngũ thì đâu có “tài nguyên” để cho những kẻ trục lợi “chế biến”, nhào nặn?

Hơn ai hết, mỗi quân nhân đều nhận thức sâu sắc được những thông tin, hình ảnh nào là sai sự thật về bản chất Bộ đội Cụ Hồ. Do đó, bên cạnh việc “cắt cung”, chúng ta cũng cần “giảm cầu” đối với những sản phẩm do các đối tượng lợi dụng tán phát trên nền tảng mạng. Phải tự nâng cao “sức đề kháng” cho chính bản thân, tuyệt đối không tiếp cận, tương tác với những nội dung xấu độc để tránh “nối dài cánh tay” kiếm tiền bất chính của kẻ xấu và âm mưu, thủ đoạn chống phá Quân đội của các thế lực thù địch.

BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Vạch trần luận điệu xuyên tạc sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động gia tăng nhiều hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta trên tất cả lĩnh vực, trong đó có nội dung xuyên tạc hoạt động quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia (BGQG).

Âm mưu tinh vi, thủ đoạn thâm độc

Chủ quyền lãnh thổ, BGQG trong tâm thức mỗi người dân là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, liên quan đến hòa bình, an ninh và phát triển của đất nước, quan hệ giữa Việt Nam và các nước láng giềng nên việc xuyên tạc chống phá dễ gây ra tâm lý bất bình, dễ kích động trong một bộ phận quần chúng nhân dân nhẹ dạ, cả tin.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động sử dụng nhiều hình thức và thủ đoạn rất tinh vi, giảo hoạt, tung ra những thông tin và tư liệu lịch sử, kỹ thuật không có tính pháp lý để đánh lừa dư luận. Trước hết, chúng xuyên tạc kết quả phân giới cắm mốc giữa Việt Nam với các nước có chung đường biên giới, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng, từ đó tạo nên môi trường xã hội, chính trị bất ổn để dễ bề thực hiện mưu đồ chính trị của mình.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Cha Lo, BĐBP tỉnh Quảng Bình thực hiện nghi thức chào cột mốc chủ quyền trong quá trình tuần tra, bảo vệ biên giới. Ảnh minh họa: bienphong.com.vn

Ngay từ những ngày đầu khi Việt Nam tham gia giải quyết vấn đề biên giới với các nước cho đến nay, các thế lực thù địch vẫn xuyên tạc kết quả đạt được giữa các bên, đặc biệt đối với những vấn đề về biên giới chưa được giải quyết dứt điểm, chúng thường tập trung tuyên truyền theo hai hướng, đó là xuyên tạc Việt Nam nhu nhược nên nhượng đất cho nước láng giềng nhằm kích động tâm lý bất bình trong nhân dân; bịa đặt Việt Nam xâm chiếm đất của nước láng giềng nhằm phá hoại tiến trình phân giới cắm mốc của nước ta với các nước Trung Quốc, Lào và Campuchia.

Cùng với những luận điệu xuyên tạc về công tác bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh BGQG trên đất liền, các thế lực thù địch, phản động còn rêu rao rằng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam nhu nhược, hèn yếu nên không có những động thái kiên quyết để bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia; thậm chí chúng còn trắng trợn bịa đặt rằng lãnh đạo Đảng, Nhà nước im lặng vì đã thỏa hiệp với nước ngoài thao túng chủ quyền biển, đảo của nước ta (!).

Tinh vi hơn, núp dưới chiêu bài “hiến kế, góp ý”, chúng đã đưa ra luận điệu cho rằng: Do sức mạnh của Hải quân nhân dân Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”... nên “chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc quân sự thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo, bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc” (!). Từ đó, chúng đòi hỏi Việt Nam cần từ bỏ chính sách “4 không” và liên minh quân sự với các nước lớn có tiềm lực quân sự, quốc phòng mạnh thì mới bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo quốc gia (!).

Trên khu vực biên giới, các thế lực thù địch, phản động ra sức xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc lịch sử tộc người, quan hệ tộc người, bôi nhọ chủ trương phát triển kinh tế-xã hội. Chúng cho rằng việc phát triển các dự án kinh tế là nguyên nhân “đẩy” đồng bào các dân tộc lâm vào tình cảnh khốn khó, mất nguồn sinh kế, vì thế, đời sống bà con luôn thiếu thốn, khó khăn. Chúng còn kích động mâu thuẫn giữa các dân tộc và xuyên tạc người Kinh đã lấy đất, phá rừng, gây khó khăn cho đồng bào các dân tộc trong phát triển kinh tế-xã hội, qua đó nhằm phá hoại khối đoàn kết dân tộc, làm suy yếu sức mạnh của quân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để tán phát những thông tin sai lệch, xuyên tạc, chúng tận dụng tối đa các phương tiện truyền thông xã hội, các diễn đàn, nhất là triệt để lợi dụng một số văn nghệ sĩ, trí thức bất mãn, có quan điểm chính trị lệch lạc để ngấm ngầm cài cắm, tán phát những quan điểm sai trái, phản động về chủ quyền lãnh thổ, BGQG; lợi dụng các hoạt động nhân đạo, từ thiện, tổ chức truyền đạo, lập đạo trái phép để tuyên truyền, lôi kéo những người thiếu hiểu biết, nhẹ dạ cả tin, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở biên giới, vùng sâu, vùng xa.

Kiên trì, kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia

Trước tình hình chống phá đó, việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về quản lý bảo vệ BGQG hiện nay là nhiệm vụ quan trọng, cơ bản, lâu dài đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; là nhiệm vụ quan trọng của công tác đấu tranh tư tưởng, lý luận nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG hiện nay, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau.

Một là, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về tầm quan trọng của việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về bảo vệ BGQG hiện nay.

Tập trung tuyên truyền, giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức rõ việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG hiện nay là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Trong đó, tăng cường giáo dục, tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những quy định pháp lý về BGQG, chủ quyền biển, đảo của Việt Nam; về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQG. Tích cực tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nhận rõ mục đích, âm mưu, thủ đoạn và các luận điệu sai trái, thù địch mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng để xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ BGQG hiện nay, nhằm nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân trước những thông tin xấu độc, xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG.

Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong chủ động đấu tranh làm thất bại các luận điệu xuyên tạc về quản lý bảo vệ BGQG.

Quản lý, bảo vệ BGQG là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó cần phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nhân dân là trung tâm, là chủ thể trong sự nghiệp bảo vệ BGQG. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng biển, đảo; ngăn chặn kịp thời hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá, lôi kéo di dân tự do; tích cực đấu tranh ngăn chặn kịp thời âm mưu, thủ đoạn kích động, chia rẽ nhân dân với cấp ủy, chính quyền địa phương, chia rẽ đồng bào các dân tộc và khối đại đoàn kết toàn dân.

Cùng với đó, đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào khu vực biên giới thực hiện nếp sống văn minh gắn với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thực hiện hiệu quả các dự án bảo tồn và phát triển bền vững một số dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; đẩy lùi, xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan. Quan tâm, chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, giảm nghèo, bảo đảm cuộc sống, lao động sản xuất ổn định cho đồng bào các dân tộc trên khu vực biên giới, hải đảo.

Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ BGQG; kiên quyết xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, xuyên tạc về BGQG và quản lý, bảo vệ BGQG.

Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, tích cực đăng tải các bài viết trên những phương tiện thông tin đại chúng, trên hệ thống internet thể hiện rõ lập trường, quan điểm của Việt Nam đối với những vấn đề liên quan đến chủ quyền, an ninh BGQG trên bộ và trên biển. Tổ chức đưa phóng viên, nhà báo, đại diện các tầng lớp nhân dân trong nước và kiều bào tham quan thực địa biên giới, biển, đảo để tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách về BGQG đến người dân trong nước và người Việt Nam ở ngoài nước.

Kịp thời cập nhật thông tin, đưa tin chính xác và cụ thể về những diễn biến phức tạp trên biên giới, trên Biển Đông để định hướng dư luận, không để những thông tin thật-giả lẫn lộn, mập mờ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQG.

Áp dụng các giải pháp kỹ thuật tăng cường rà quét, bóc gỡ, ngăn chặn những thông tin xấu độc về tình hình Biển Đông nói chung và chủ quyền biển, đảo của Việt Nam nói riêng. Tăng cường xử lý các đối tượng đăng tải, chia sẻ các bài viết, video, hình ảnh có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo. Thiết lập các trang mạng, tài khoản chính thống để huy động cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trên internet và mạng xã hội để tạo thành thế trận liên hoàn, rộng khắp.

Bốn là, thường xuyên tiến hành công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển và hoàn thiện lý luận về quản lý, bảo vệ BGQG.

Quan tâm tổng kết thực tiễn sự nghiệp quản lý, bảo vệ BGQG để tiếp tục làm rõ nhận thức, quan niệm về quản lý, bảo vệ BGQG ở nước ta, tập trung vào các vấn đề: Mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc, phương châm, nhiệm vụ, giải pháp về quản lý, bảo vệ BGQG... Đây là những vấn đề lớn, đòi hỏi công sức, trí tuệ, tâm huyết của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trước hết là của đội ngũ cán bộ chuyên làm công tác tư tưởng, lý luận và lực lượng chuyên trách quản lý, bảo vệ BGQG. Tích cực khai thác tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu lý luận về quản lý, bảo vệ BGQG để phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung và quản lý, bảo vệ BGQG nói riêng.

Quản lý, bảo vệ BGQG là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và cả nước; là vấn đề hết sức thiêng liêng, nhưng cũng không ít khó khăn, phức tạp. Các luận điệu xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG thực chất là những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, phản động nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiến tới từng bước làm thay đổi chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình hiện nay.

Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN THÁI SINH, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Học viện Biên phòng

                                                                                                                            BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Nhà lãnh đạo chiến lược, người chỉ huy xuất sắc của Quân đội

Với tư duy nhạy bén, sáng tạo, sự nhạy cảm, tinh thông về chính trị và phương pháp, tác phong dân chủ, sâu sát, tỉ mỉ, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm... Đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao phó trọng trách ở những giai đoạn, thời điểm có tính bước ngoặt đến quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội đã nói lên phẩm chất, năng lực của nhà lãnh đạo chiến lược, người chỉ huy xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Kế thừa truyền thống quê hương, gia đình, người thanh niên Nguyễn Vịnh đã sớm giác ngộ lẽ sống, lý tưởng và trách nhiệm của mình đối với đất nước là phải đi theo con đường đấu tranh cho độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đây là cội nguồn sức mạnh nội sinh, động lực to lớn để người thanh niên Nguyễn Vịnh trở thành người cộng sản kiên trung, nhà chính trị quân sự xuất sắc, vị tướng tài năng, đức độ, người chỉ huy xuất sắc được toàn quân, toàn dân tin tưởng, yêu mến, kính trọng.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh trao đổi với Thiếu tướng Chu Huy Mân trước khi vào chiến trường miền Nam năm 1964. Ảnh: bqllang.gov.vn

Vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, dưới sự cường áp, khủng bố dã man của thực dân Pháp và tay sai, phong trào cách mạng ở Thừa Thiên và Phân khu Bình-Trị-Thiên gặp muôn vàn khó khăn, nguy kịch, đứng trước nguy cơ tan rã; Trung ương Đảng và Bác Hồ đã tin tưởng giao đồng chí Nguyễn Chí Thanh đảm nhiệm Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, tiếp sau là Bí thư Phân Khu ủy Bình-Trị-Thiên và Bí thư Liên khu ủy khu 4.

Trên cơ sở nắm bắt, phân tích, đánh giá tình hình, nghiêm khắc tự phê bình và phê bình, rút ra bài học sâu sắc: Bộ đội ta rất anh dũng, tinh thần cách mạng của đồng bào ta rất cao nhưng đáng tiếc, cán bộ, đảng viên không biết cách tổ chức huấn luyện và chỉ huy nhân dân đánh giặc; từ đó, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã đưa ra nhận định nổi tiếng: “Mất đất, chưa phải là mất nước, chúng ta chỉ sợ mất lòng tin của dân; có lòng tin của dân là có tất cả” đã cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đứng lên xây dựng, củng cố, mở rộng phong trào đấu tranh cách mạng; đưa “Bình-Trị-Thiên khói lửa”, “Bình-Trị-Thiên đau thương” phát triển, hòa chung vào phong trào đấu tranh của cả nước; góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển Quân đội nhân dân và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; ngày 11-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 122/SL bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; được Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy giao phụ trách và chịu trách nhiệm về công tác chính trị của Đảng trong Quân đội. 

Với tư duy nhạy bén, sáng tạo, phương pháp, tác phong công tác khoa học, cụ thể, luôn bám sát thực tiễn hoạt động của đơn vị cơ sở và bộ đội, đồng chí đã luận giải rõ vị trí, vai trò, bản chất, nội dung, tầm quan trọng, hiệu lực, hiệu quả của công tác Đảng, công tác chính trị: Là “linh hồn và mạch sống” của Quân đội; là vấn đề có tính nguyên tắc để xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; là cội nguồn sức mạnh chiến đấu, bảo đảm Quân đội luôn sẵn sàng nhận, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào.

Đồng thời, chỉ đạo xây dựng, kiện toàn hệ thống cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp cả về số lượng và chất lượng, gắn với xây dựng hệ thống tổ chức đảng “vững mạnh, chặt chẽ và đều khắp”; bảo đảm hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ; trước hết là xây dựng Cơ quan Tổng cục Chính trị vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là cơ quan tham mưu chiến lược, giúp Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy, Tổng Tư lệnh xác định chủ trương, nội dung, giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội. Đồng chí đã dành cả tâm huyết, dày công nghiên cứu, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống nguyên tắc và chế độ hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội, góp phần để “Quân đội ta thực sự trở thành một Quân đội của dân tộc, của giai cấp, một đội quân tất thắng”.

Vào nửa cuối năm 1964, trước nguy cơ phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ và đồng minh ồ ạt đưa đội quân viễn chinh, nhà nghề, thiện chiến vào miền Nam để triển khai chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân, hải quân... tác động đến tinh thần, tư tưởng, ý chí chiến đấu của quân và dân cả nước; Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điều động Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đảm nhiệm Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, trực tiếp chỉ đạo chiến trường miền Nam với trọng trách là tìm cách đánh Mỹ và thắng Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Bằng nhãn quan chiến lược sâu sắc và tinh thần “dám đánh Mỹ ta sẽ tìm ra cách đánh Mỹ và nhất định thắng Mỹ”, Đại tướng đã trực tiếp nghiên cứu thực tiễn chiến trường, nắm chắc, đánh giá chính xác tình hình, tương quan lực lượng địch-ta, tìm ra cách đánh sáng tạo, nhằm phát huy sở trường, cách đánh, sức mạnh của ta, hạn chế tối đa, triệt tiêu ưu thế về vũ khí, trang bị hiện đại của địch và khái quát thành phương châm chỉ đạo trên chiến trường miền Nam: “Nắm thắt lưng địch mà đánh”... góp phần quyết định đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, tạo bước ngoặt phát triển mới cho cách mạng miền Nam.

Bằng đức độ, tài năng xuất chúng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã đóng góp công lao to lớn vào sự nghiệp xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành của Quân đội ta. Đồng thời, là niềm cổ vũ, động viên; là tấm gương mẫu mực cho cán bộ, chiến sĩ toàn quân học tập, noi theo trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch... của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, cách mạng, chính quy, hiện đại; góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đại tá, TS THÁI DOÃN TƯỚC 

                                                                                                                             BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

 ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH - NGƯỜI CỘNG SẢN KIÊN TRUNG, MẪU MỰC, NHÀ LÃNH ĐẠO TÀI NĂNG

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tên khai sinh là Nguyễn Vịnh, sinh ngày 1.1.1914 trong một gia đình nông dân tại thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế).

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến Bình - Trị - Thiên khói lửa, xứng đáng với danh hiệu “vị tướng du kích” mà Bác Hồ trao tặng.

Ở tuổi 17, được các lớp đàn anh giác ngộ cách mạng, người thanh niên Nguyễn Vịnh đã tham gia đấu tranh chống lại cường hào ở địa phương và sau đó tham gia phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ những năm 1936-1939, được kết nạp và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1937.

Trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên ở tuổi 24, thực hiện Chỉ thị của Xứ ủy Trung Kỳ, tháng 9.1938, đồng chí đã lãnh đạo quần chúng cách mạng đấu tranh làm thất bại dự án tăng thuế của thực dân Pháp và chính quyền Nam triều. Sau cuộc đấu tranh đó, cuối năm 1938, đồng chí bị bắt lần đầu và được thả, tiếp tục hoạt động, lãnh đạo, chỉ đạo nhiều cuộc mít tinh, biểu tình của Nhân dân đấu tranh ngăn chặn những cuộc đàn áp, khủng bố của thực dân Pháp.

Giữa năm 1939, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án khổ sai, giam ở các nhà lao Thừa Phủ, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Trong thời gian tù đày, dù bị tra tấn bằng nhiều cực hình dã man nhưng đồng chí luôn kiên cường, thể hiện tinh thần bất khuất, gan dạ, giữ vững khí tiết của một người cộng sản. Đồng chí cùng các đảng viên cộng sản đã biến tòa án Nam triều thành diễn đàn tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và lên án tội ác của thực dân Pháp và bọn tay sai phản động. Trên cương vị Bí thư Chi bộ trong nhà tù, đồng chí thể hiện là một chiến sĩ cộng sản kiên trung, một nhà lãnh đạo mẫu mực trong việc tổ chức đấu tranh chống khủng bố, chống tra tấn, chống đánh đập tù nhân, cải thiện đời sống nhà tù, đồng thời hết sức quan tâm đến công tác giáo dục lý luận chính trị cho các đảng viên trong chi bộ và những người tù chính trị. Ở nhà tù Lao Bảo, đồng chí lập ra “Tổ chức bí mật” nhằm tập hợp lực lượng, thống nhất hành động, thúc đẩy phong trào cách mạng, bắt liên lạc với tổ chức đảng từ bên ngoài. Cuối năm 1940, tổ chức này đã lãnh đạo thắng lợi cuộc đấu tranh tuyệt thực, tuyệt ẩm của tù nhân chính trị trong nhà tù Lao Bảo.

Tại nhà đày Buôn Ma Thuột, đồng chí tham gia “Lực lượng trung kiên”, một tổ chức bí mật trong tù đóng vai trò như một chi bộ cộng sản và tiếp tục đấu tranh quyết liệt, ngoan cường. Mặc dù 3 lần bị đế quốc bắt giam nhưng mỗi lần vượt ngục hay được thả, đồng chí lại trở về với cách mạng, với Nhân dân, tiếp tục hoạt động, góp phần xây dựng cơ sở đảng, đẩy mạnh phong trào cách mạng ở tỉnh Thừa Thiên thời kỳ đó.

Trên cương vị Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, Bí thư Phân khu Bình - Trị - Thiên, Bí thư Liên khu ủy IV, đồng chí đã vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào thực tiễn chiến trường Thừa Thiên; bình tĩnh, sáng suốt trong đánh giá tình hình, đưa ra những giải pháp về công tác tư tưởng, chiến tranh nhân dân, chỉ đạo nhiều vấn đề cụ thể về lực lượng vũ trang bám đất, bám dân, phát triển chiến tranh du kích. Với nhãn quan chính trị, quân sự sắc bén, kiên trì quan điểm “dân là gốc”, đồng chí đã góp phần đưa ra những quyết định táo bạo có ý nghĩa chuyển hướng lãnh đạo, xoay chuyển lại tình thế, tạo ra các bước ngoặt cách mạng, đưa cuộc kháng chiến ở mặt trận Huế dần khôi phục và mở ra một cục diện mới. Nhờ đó, phong trào cách mạng Bình - Trị - Thiên đã vươn lên hòa nhập cùng với phong trào cả nước, góp phần chặn đứng âm mưu chia cắt chiến lược của thực dân Pháp. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến Bình - Trị - Thiên khói lửa, xứng đáng với danh hiệu “vị tướng du kích” mà Bác Hồ trao tặng.

Dấu ấn sâu sắc về cả tư duy lãnh đạo và tổ chức thực hiện

Ở những bước chuyển của cách mạng, với phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực lãnh đạo, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng trao nhiều trọng trách. Nhận nhiệm vụ Trưởng ban Công tác nông thôn Trung ương - lãnh đạo, chỉ đạo một ngành kinh tế trọng yếu của đất nước, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã thể hiện tư duy của một nhà lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế thông qua tổ chức thực tiễn, bám sát cơ sở, lắng nghe ý kiến các nhà khoa học, dựa vào Nhân dân. Để giải quyết vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp, đồng chí đã đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng và xác định phải xây dựng hợp tác xã trên 3 mặt: Cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và nâng cao đời sống xã viên. Đồng thời, củng cố vai trò chiến lược của hợp tác xã nông nghiệp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, động viên và tổ chức được hàng vạn thanh niên ra tiền tuyến. Mặt trận nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh không chỉ bảo đảm một phần quan trọng về lương thực, thực phẩm cung cấp cho Nhân dân, góp phần xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc, bước đầu chi viện cho cách mạng miền Nam, góp phần vào thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh “Thi đua là yêu nước”, đồng chí đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức hiệu quả nhiều phong trào thi đua; luôn coi thi đua là phương pháp vận động cách mạng, nghệ thuật lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị. Trên thực tế, những phong trào thi đua như “Cờ Ba nhất” trong lực lượng vũ trang, “Gió Đại phong” trong nông nghiệp đã mang đậm dấu ấn của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, cùng với các phong trào thi đua “Sóng Duyên hải” trong công nghiệp, “Trống Bắc lý” trong giáo dục đã trở thành điển hình tiêu biểu cho phong trào thi đua XHCN lúc bấy giờ, động viên được sức mạnh của hàng triệu con người vào sự nghiệp cách mạng.

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn quyết liệt, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được cử vào miền Nam. Trên cương vị Bí thư Trung ương Cục kiêm Chính ủy quân giải phóng miền Nam, Đồng chí đã góp phần xác định đúng việc chuyển hướng chiến lược của Mỹ từ “Chiến tranh đặc biệt” sang “Chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968), đưa ra những đánh giá, phân tích khoa học và biện chứng về thực chất sức mạnh của Mỹ, so sánh lực lượng giữa ta và địch, tìm ra những mâu thuẫn, chỗ yếu của đối phương, từ đó khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và niềm tin đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Những quan điểm của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh về chủ nghĩa anh hùng cách mạng được coi như khâu đột phá về tư tưởng cho quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; thể hiện tầm tư duy quân sự của một nhà lãnh đạo tài năng, có uy tín lớn của Đảng. Đại tướng khẳng định: “Chủ nghĩa anh hùng cách mạng của chúng ta mang trong mình nó một tư tưởng lớn của thời đại là không sợ Mỹ, dám đánh Mỹ, quyết đánh Mỹ, đấu tranh vì độc lập, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội”.

Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng và dân tộc ta mãi mãi khắc ghi tư tưởng chỉ đạo tác chiến mang đậm dấu ấn Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như “nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”, “cứ đánh Mỹ khắc tìm ra cách đánh hay” lập các “vành đai diệt Mỹ”... Những phân tích, nhận định, đánh giá tình hình chiến trường miền Nam của Đại tướng đã góp phần cùng Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đánh giá đúng sức mạnh thật sự của đế quốc Mỹ, sự phát triển của cách mạng miền Nam, từ đó hoạch định đường lối kháng chiến. Nhiều quan điểm, tư tưởng của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thể hiện chiến lược tiến công với niềm tin nhất định thắng Mỹ, cùng với những phương châm chỉ đạo tác chiến độc đáo được Ban Chấp hành Trung ương Đảng nghiên cứu, chắt lọc đưa vào các nghị quyết Trung ương như Nghị quyết Trung ương 11 và 12 khóa III, kế hoạch cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động, giải phóng con người. Đại tướng luôn chăm lo, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, thống nhất các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trên thế giới; tăng cường đoàn kết quân dân, củng cố khối liên minh công - nông - trí thức. Nhận thức rõ tầm quan trọng của xây dựng con người mới XHCN, Đại tướng khẳng định: “Nhiệm vụ trọng đại của chúng ta là đào tạo nên hàng vạn, hàng triệu con người mới” và chỉ rõ con người mới phải gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, với hiện thực cách mạng Việt Nam, phải có lập trường, tư tưởng kiên định, đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội với những phẩm chất cao đẹp.

Với tác phong sâu sát thực tiễn, gắn bó máu thịt với Nhân dân, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thường xuống cơ sở nghiên cứu tình hình, tìm những hình thức và biện pháp thích hợp thực hiện đường lối của Đảng. Đại tướng đặc biệt coi trọng việc chỉnh đốn các tổ chức của Đảng và phát triển các đoàn thể quần chúng. Từ sáng kiến của Đại tướng, các cơ sở đảng và đoàn thể được sắp xếp lại gọn nhẹ, tăng cường hiệu lực. Các cuộc hội nghị được chuẩn bị và rút ngắn thời gian nhưng hiệu quả. Cán bộ, đảng viên được nâng cao về nhận thức đường lối, sửa đổi lề lối làm việc.

Quá trình hoạt động cách mạng của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cho thấy, đồng chí liên tục có mặt ở những mặt trận khó khăn nhất, trong những thời điểm đầy thử thách, quyết liệt. Vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, một lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Đại tướng nêu cao tinh thần trách nhiệm, cống hiến hết mình cho dân tộc và Tổ quốc. Trên mỗi cương vị và trọng trách của mình, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh để lại dấu ấn sâu sắc về cả tư duy lãnh đạo và tổ chức thực hiện, tạo ra bước phát triển mới cho phong trào cách mạng trong cả thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội./.

 VẬN DỤNG TRIẾT LÝ “DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN” TRONG ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG 

Không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là Nhà ngoại giao thiên tài. Tư tưởng ngoại giao của Người được kết tinh từ các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mang giá trị phổ quát, bền vững.

Tháng 5/1946, trước khi lên đường sang Pháp cứu vãn hòa bình cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng - khi đó là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, rằng: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết. Mong cụ dĩ bất biến ứng vạn biến”.

Lời căn dặn của Người đối với Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng trước khi Người sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, trong điều kiện chính quyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ và đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cũng là lần đầu tiên triết lý "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong công tác đối ngoại được mọi người biết đến.

Hơn 70 năm trôi qua, vận dụng tư tưởng của Người trong xây dựng đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế đã góp phần giúp đất nước có được "cơ đồ, tiềm lực" như ngày nay. Trong bối cảnh tình hình mới, đường lối đối ngoại phù hợp sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ngày phát triển. Đây là yêu cầu quan trọng trong chiến lược phát triển đối ngoại và hội nhập quốc tế nói chung, đối ngoại quốc phòng không nằm ngoài yêu cầu đó.

Kim chỉ nam trong công tác đối ngoại

Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" có nghĩa là lấy cái bất biến (cái không thay đổi) ứng phó với cái vạn biến (cái thay đổi); ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến; tuyệt đối không thể đem cái bất biến ấy ra mua bán, đổi chác.

Tiếp nối lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao ngàn năm lịch sử của cha ông, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” tiếp tục là bản sắc ngoại giao tiêu biểu của Việt Nam. Tính bất biến của bản sắc ngoại giao Việt Nam được thể hiện đậm nét trong đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, kiên trì lập trường, nguyên tắc về thúc đẩy hòa bình, độc lập dân tộc, chống chiến tranh, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng có lợi giữa các nước. “Đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc” luôn là mục tiêu bất biến, kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại và cần được phát huy, thực hiện hiệu quả hơn nữa trong bối cảnh mới.

Từ nhận thức đúng đắn về cái “bất biến” và cái “vạn biến”, Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng và triển khai nhiều chủ trương, chính sách đối ngoại linh hoạt, phù hợp: Từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm” của cộng đồng quốc tế; từ quan niệm “địch”, “ta”, chuyển sang cách nhìn nhận về đối tác, đối tượng. Theo đó, đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức thế giới và khu vực; tham gia nhiều hiệp ước quan trọng vì sự phát triển, tiến bộ chung trong khu vực và thế giới. Qua đó tranh thủ cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, từng bước củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, quân sự để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những thay đổi, điều chỉnh đó đã tạo cho Việt Nam một sức mạnh đối ngoại mềm dẻo, được các nước trên thế giới đánh giá cao.

Vận dụng linh hoạt trong đối ngoại quốc phòng

Trong công tác đối ngoại nói chung, đối ngoại quốc phòng luôn là một điểm sáng với nhiều hoạt động phong phú trên bình diện song phương và đa phương. Về tổng thể, chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 nêu rõ: Việt Nam kiên định chính sách quốc phòng “bốn không”, chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Đồng thời, Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Thực hiện Chiến lược Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng, là kế sách giữ nước từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình; tạo lập, củng cố niềm tin bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo đảm bình đẳng cùng có lợi; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp, tăng cường vị thế quốc tế và độc lập, tự chủ của đất nước. Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện...

Như vậy, cái “bất biến” của Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược; mang tính hòa bình, tự vệ bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn là nhân tố quyết định, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội nhân dân; xây dựng, củng cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra.

Tuy nhiên, để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sẽ đòi hỏi những biện pháp “ứng vạn biến”. Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm giảm sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, lôi kéo, chi phối, mà còn là nêu cao, phát huy tính chủ động trong tham gia vào công việc chung của khu vực và quốc tế.

Là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ, đồng thời tích cực hợp tác cùng các quốc gia khác giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Việt Nam đánh giá cao vai trò của Liên hợp quốc trong các hoạt động gìn giữ hòa bình, ngăn ngừa xung đột, chiến tranh; thực thi những chuẩn mực cốt lõi của quan hệ quốc tế trong Hiến chương Liên hợp quốc.

Quyết định cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Việt Nam có ý nghĩa chính trị quan trọng đối với thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng theo chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước, Quân đội.

Sau gần 10 năm triển khai lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Việt Nam đã cử 786 lượt cán bộ, nhân viên đi thực hiện nhiệm vụ tại các phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc ở cả hình thức cá nhân và đơn vị. Các lực lượng của Việt Nam được triển khai luôn phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trên cương vị, chức trách được giao, được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc đã thể hiện bước phát triển mới về trình độ hội nhập quốc tế của Quân đội ta khi Quân đội được Bộ Chính trị, Trung ương Đảng tin tưởng giao nhiệm vụ làm lực lượng tiên phong, đi đầu trong lĩnh vực mới đầy nhạy cảm chính trị, khó khăn và thách thức này.

Đây cũng là công cụ hữu hiệu để chúng ta thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, bằng biện pháp hòa bình. Qua đó, khẳng định rõ quan điểm của Đảng là gắn hòa bình, ổn định của quốc gia với giải quyết các vấn đề an ninh, hòa bình đang nổi lên trong khu vực và trên thế giới; tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế về quốc phòng, thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước, nâng cao năng lực cán bộ, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Bên cạnh đó, Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia; chủ động, tích cực cùng các nước ASEAN xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh. Đồng thời, Việt Nam tiếp tục đóng góp thực chất và mở rộng quy mô, phạm vi tham gia huấn luyện, diễn tập chung về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, tìm kiếm cứu nạn; hợp tác quốc tế khắc phục hậu quả chiến tranh; tích cực tham gia nỗ lực chống phổ biến vũ khí hạt nhân và vũ khí hủy diệt hàng loạt; hợp tác bảo vệ và giao lưu hữu nghị biên giới./.


 KINH TẾ VIỆT NAM CÓ NĂNG LỰC “NHẢY VỌT”, ĐẦY CƠ HỘI VÀO NHÓM 25 NỀN KINH TẾ HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI 

Trung tâm nghiên cứu Anh dự báo Việt Nam lọt top 25 nền kinh tế thế giới vào năm 2038.

Trung tâm tư vấn CEBR (Anh) đánh giá Việt Nam và Philippines là 2 nền kinh tế Đông Nam Á có năng lực “nhảy vọt” trong bảng xếp hạng World Economic League Table (WELT) trong giai đoạn từ nay đến năm 2038.

Theo CEBR, Việt Nam hiện ở vị trí 34 trên WELT, năm 2024 Việt Nam sẽ tăng 1 hạng lên thứ hạng 33 và sau đó sẽ tiếp tục lên nhanh, lên vị trí 24 vào năm 2033, trước khi trở thành nền kinh tế thứ 21 thế giới vào năm 2038. Trong khi đó, Philippines cũng có sức tăng trưởng đáng nể để đạt vị trí 23 vào năm 2038.

Đặc biệt, trong mục giới thiệu bảng xếp hạng vừa công bố, CERB đánh giá Việt Nam và Philippines là minh họa nổi bật cho nhóm những quốc gia được mong chờ sẽ cải thiện thứ hạng nhờ định vị lại vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu, áp dụng cải cách nội bộ, tăng năng suất của lực lượng lao động, những điều có thể đạt được qua cách tích lũy hiệu quả vốn công và tư.

CERB nhấn mạnh hai nước đều đã thể hiện sự tiến bộ đáng kể và được trông đợi sẽ leo thêm 10 và 13 bậc vào năm 2038, với "đầy cơ hội" lọt vào nhóm 25 nền kinh tế hàng đầu thế giới.

Nhận định của CEBR đề cập tỷ trọng nền kinh tế, chứ không đề cập đến thu nhập bình quân trong một nước, phân chia giàu nghèo hay các vấn đề khác.

Theo CEBR, Việt Nam đứng trước viễn cảnh 15 năm tiếp theo rất khả quan. Với ưu thế dân số có sẵn, nhiều khả năng Việt Nam có thể đạt được mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Với dân số đông và còn tương đối trẻ, Việt Nam có cơ hội vượt qua gần hết các quốc gia “đàn anh” hiện nay trong ASEAN về kinh tế, như Singapore, Thái Lan, Malaysia, để đến 2038 chỉ đứng sau Indonesia trong số Top 25 nền kinh tế thế giới./.