Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

 Sau 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Tuy nhiên, những yêu cầu, thách thức mới trong bối cảnh hiện nay đang đặt ra trọng trách lớn hơn đối với Đảng. Để xây dựng Đảng vững mạnh, luôn đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn các nội dung xây dựng Đảng, trong đó có xây dựng Đảng về đạo đức. Quan niệm xây dựng Đảng về đạo đức và các nội dung, nguyên tắc cơ bản của xây dựng Đảng về đạo đức cần được đặt trong mối quan hệ gắn liền với các mặt khác của công tác này, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn hiện nay.

Quan niệm xây dựng Đảng về đạo đức
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng Cộng sản là đạo đức kiểu mới - đạo đức cách mạng, hình thành qua thực tiễn lãnh đạo cuộc đấu tranh chống áp bức dân tộc và giai cấp, xây dựng chế độ mới công bằng, tốt đẹp. Đó là hệ thống nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi của tổ chức đảng và của đảng viên trong các mối quan hệ với bản thân, với công việc, với đồng chí và các tầng lớp Nhân dân. Những phẩm chất đạo đức nổi bật là: luôn đặt lợi ích của dân tộc, của giai cấp, của Đảng lên trên hết, trước hết; sự khiêm tốn, giản dị; tinh thần dám đấu tranh với mọi sai lầm, khuyết điểm, tự phê bình và phê bình; gắn bó mật thiết với Nhân dân, phụng sự Nhân dân; cần, kiệm, liêm, chính; yêu thương con người; có tinh thần quốc tế vô sản chân chính.
Xây dựng Đảng về đạo đức là toàn bộ hoạt động của Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên với sự tham gia của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp Nhân dân trong việc định hình, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của Đảng. Thông qua việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên góp phần tạo nên sức mạnh, sức bền cho Đảng, để Đảng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, lãnh đạo Nhân dân hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị. Nhiệm vụ cách mạng càng ngày càng nặng nề, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên càng phải bản lĩnh, rèn luyện đạo đức cách mạng để "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục".
Đạo đức là yếu tố làm nên sức mạnh tinh thần to lớn, tạo ra niềm tin của Nhân dân với Đảng, làm cho Đảng thật sự là một Đảng cách mạng, chân chính. Ở Việt Nam, khi trở thành Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề giữ vững bản chất cách mạng, đạo đức trong sáng của Đảng là vấn đề vừa cấp thiết, vừa thường xuyên và lâu dài. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đạo đức là gốc, là nền tảng của Đảng, cho nên từ sự suy thoái về đạo đức sẽ kéo theo sự suy thoái của Đảng trên tất cả các lĩnh vực và tất yếu đánh mất niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Đảng sẽ tự đánh mất vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử cao cả của mình.
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: Xây dựng Đảng về đạo đức là một trong những trụ cột của công tác xây dựng Đảng nói chung, có mối liên hệ biện chứng với các nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đường lối chính trị xuyên suốt của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, hay nói một cách khác, độc lập dân tộc phải đi liền cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân. Xây dựng và thực thi đường lối chính trị đảm bảo mục tiêu xuyên suốt đó cũng chính việc thực hành đạo đức cao nhất của người cộng sản - đạo đức vì nước, vì Dân. Bên cạnh đó, xây dựng Đảng về tổ chức để Đảng trở thành một tổ chức có kỷ luật nghiêm minh tự giác, thành một khối thống nhất trăm người như một, thì không chỉ cần đến các nguyên tắc, các chế tài mà còn phải luôn quan tâm đến giáo dục tình thương, lẽ phải. Thực hành dân chủ, thực hành phê bình và tự phê bình, gắn bó mật thiết với Nhân dân thực chất là thực hành đạo đức của người cộng sản. Như vậy, yếu tố đạo đức, xây dựng Đảng về đạo đức đã nằm trong tất cả các hoạt động xây dựng Đảng, là cơ sở đảm bảo thực hiện các mục tiêu và nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ.
Thực tiễn công tác xây dựng Đảng trong những năm qua đã cho thấy tầm quan trọng của xây dựng Đảng về đạo đức. Việc đưa nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức đặt ngang tầm với các nhiệm vụ trong xây dựng Đảng không chỉ là một vấn đề thực tiễn mà còn là sự vận dụng, phát triển lý luận về xây dựng Đảng trong điều kiện mới.
Các nội dung cơ bản trong xây dựng Đảng về đạo đức
Khi nói về tiêu chuẩn của Đảng cách mạng, V.I.Lê-nin nêu yêu cầu xây dựng Đảng phải trở thành đại diện cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”1. Quan điểm này được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển khi khẳng định Đảng “là đạo đức, là văn minh”, “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc”2. Từ khi ra đời và trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển, không ngừng tự bồi đắp, bổ sung, hoàn thiện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp, của dân tộc.
Xây dựng đạo đức của Đảng trước hết là xây dựng đường lối chính trị, mục tiêu chính trị tốt đẹp, nhân văn vì con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác”3. Mục đích cao nhất của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và sau đó là chủ nghĩa cộng sản. Là lực lượng lãnh đạo, Đảng đề ra các định hướng phát triển, quyết định các vấn đề quan trọng đất nước, các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống của Nhân dân. Vì thế, tính nhân văn của tổ chức đảng nằm ngay trong quá trình nghiên cứu, thảo luận và ban hành các chủ trương, chính sách. Những chủ trương, chính sách đó phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, mục tiêu vì Nhân dân và phù hợp với thực tiễn đời sống. Những chủ trương, chính sách xa rời thực tiễn, không vì Nhân dân sẽ dẫn đến sai lầm về đường lối, từ đó kéo theo những sai lầm trong tổ chức thực hiện, mà hệ lụy của nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống Nhân dân.
Với vai trò là lực lượng lãnh đạo, tổ chức đảng phải thực sự là chuẩn mực về việc tuân thủ các nguyên tắc hoạt động của Đảng cách mạng kiểu mới, là tổ chức tiên phong của những con người cách mạng, sống với nhau “có lý có tình”. Chuẩn mực đạo đức của mỗi tổ chức là yếu tố nền tảng tạo thành văn hóa tổ chức – văn hóa Đảng, nó trái ngược với chủ nghĩa hình thức, bệnh quan liêu, lợi ích nhóm, tình trạng bè cánh trong tổ chức.
Đảng là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng dựa trên cương lĩnh, điều lệ, đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích chung của đất nước, dân tộc, giai cấp. Các nhà mác-xít đã chỉ ra trong điều kiện đảng cầm quyền, sự bất đồng dù nhỏ có thể dẫn đến sự nguy hiểm về chính trị, bởi đó là nguồn gốc của sự chia rẽ trong nội bộ, tự nó phá hoại sức mạnh của Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất ở đây không phải là xuôi chiều, hình thức mà phải trên cơ sở thường xuyên và nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong mỗi cá nhân, trong đơn vị, giữa các cấp, giữa cá nhân với tổ chức, giữa Nhân dân với Đảng để khắc phục sai lầm và khuyết điểm, phát huy ưu điểm.
Xây dựng mối liên hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân không chỉ là tiêu chuẩn của một đảng chân chính mà còn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là vấn đề cơ bản trong xây dựng Đảng, nguồn gốc sức mạnh của Đảng. Xây dựng ý thức gần Dân, phục vụ Nhân dân, lắng nghe Nhân dân, biết trân trọng và huy động nguồn lực vô tận từ “tài dân, sức dân, của dân”, thực hiện tốt cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”4.
Xây dựng Đảng là một tổ chức kỷ cương, kỷ luật, dân chủ, cấp trên tạo thuận lợi cho cấp dưới hoàn thành tốt nhiệm vụ; cấp dưới tôn trọng và phục tùng cấp trên. Đảng là một tổ chức chính trị, nhưng sự gắn kết giữa các thành viên trong Đảng không chỉ bởi mục tiêu chính trị, nhiệm vụ chính trị mà còn bền chặt, sâu sắc hơn bởi tình yêu thương con người lẫn nhau của người cùng chung lý tưởng cao đẹp.
Xây dựng ý thức tôn trọng, chấp hành và phục tùng pháp luật của tổ chức Đảng, của mọi đảng viên từ những đảng viên giữ chức vụ cao nhất trong hệ thống tổ chức Đảng và bộ máy chính quyền, không có vùng cấm trong áp dụng pháp luật. Có như vậy, trong điều kiện đảng cầm quyền, mới có thể ngăn chặn tình trạng chuyên quyền, lạm quyền, đặc quyền, đặc lợi.
Xây dựng bản lĩnh chính trị cho đảng viên, dám dũng cảm nhận và quyết tâm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm; có tinh thần đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với các biểu hiện đa dạng của chủ nghĩa cá nhân, chống bệnh kiêu ngạo cộng sản, chống hiện tượng “tự diễn biến”, “tự suy thoái”, chống tham ô, tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Cuộc đấu tranh đó trước hết là đấu tranh trong chính bản thân mỗi người, giữa lý tưởng và hiện thực, giữa nhiệm vụ phụng sự với nhu cầu, lợi ích tầm thường, để có thể chiến thẳng “kẻ thù trong lòng”, chiến thắng ham muốn vật chất không chính đáng. Bên cạnh đó, cần xây dựng tinh thần cách mạng, đấu tranh kiên quyết với tư tưởng, quan điểm và hoạt động sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ. Bản lĩnh chính trị đó trong thời đại hội nhập và phát triển hiện nay còn là sự dũng cảm “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”5.
Xây dựng tinh thần khiêm tốn, cầu thị, không ngừng học hỏi. V.I.Lê-nin từng nói, người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng trí thức mà nhân loại đã tạo ra. Có tinh thần học hỏi đó mới không bị lạc hậu, mới theo kịp sự tiến bộ của Nhân dân, của đất nước và thời đại, nhất là trong thời đại kinh tế tri thức và công nghệ số hiện nay.
Mỗi đảng viên, mà trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải tự giác nêu gương “để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng”6. Nêu gương trong các mặt công tác, trong đời sống; nêu gương trong Đảng và trước Nhân dân; nêu gương từ lời nói đến hành động; về tác phong, nề nếp làm việc, ứng xử với đồng chí và Nhân dân, trong tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng…
Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, lợi ích dân tộc quốc gia và lợi ích giai cấp, lợi ích quốc tế đa dạng, phức tạp, đan xen lẫn nhau. Vì vậy, đòi hỏi Đảng phải “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”7.
Xây dựng ý thức đạo đức cách mạng và tổ chức thực hành đạo đức cách mạng là công việc thường xuyên, lâu dài, bền bỉ của Đảng. Thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện đạo đức, các quan điểm, tư tưởng đạo đức cách mạng được chuyển hóa, trở thành tình cảm đạo đức cách mạng; các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức thành lẽ sống, lương tâm, danh dự của Đảng và đảng viên; từ các đòi hỏi của Đảng và xã hội đối với người đảng viên thành nhu cầu nội tâm, hành vi tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, trong công tác và cuộc sống đời thường.
Nguyên tắc xây dựng Đảng về đạo đức
Xây dựng Đảng về đạo đức phải trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuân theo những nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo đức mới, phải tu dưỡng suốt đời, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, xây đi đối với chống.
Xây dựng Đảng về đạo đức gắn với giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và các quy định của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng Đảng về đạo đức cho đảng viên không thể chỉ bằng tu dưỡng đạo đức, mặc dù đó là yêu cầu đầu tiên. Việc giáo dục, rèn luyện và thực hiện các chuẩn mực đạo đức trong xây dựng Đảng chỉ có hiệu quả khi thiết lập chế độ “kỷ luật sắt” trong Đảng và nền pháp chế trong xã hội. Kỷ luật và pháp luật phải đảm bảo vừa răn đe, đề phòng, hạn chế sự vi phạm kỷ luật, vừa xử lý nghiêm khắc những hành vi, hiện tượng vi phạm đạo đức của Đảng. Không thể để bất cứ cán bộ, đảng viên nào nằm ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, của Nhân dân; không có “vùng cấm”, “hạ cánh an toàn”, không có “đặc quyền” hay ngoại lệ. Bên cạnh đó, phát huy vai trò của Nhân dân và kiến tạo môi trường lành mạnh trong Đảng, trong xã hội cũng là phương thức hữu hiệu để xây dựng và thực hành đạo đức Đảng một cách chắc chắn, bền vững.
Xây dựng Đảng về đạo đức phải đi liền với chỉnh đốn Đảng, đây là hai vấn đề có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phải trên cơ sở xây dựng mà chỉnh đốn và chỉnh đốn nhằm loại trừ những yếu tố lạc hậu, tiêu cực, bổ sung nguồn lực mới, làm giàu và phát triển lên nội lực đang có, làm cho Đảng vững mạnh hơn, trong sạch hơn. Mỗi giai đoạn lịch sử đặt ra nhiệm vụ khác nhau và yêu cầu ngày càng cao hơn, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng phấn đấu, rèn luyện đáp ứng nhu cầu thực tiễn, sự kỳ vọng của Nhân dân. Trong chiến tranh, ở mỗi bước ngoặt quan trọng, những trận đánh quyết định, Đảng tiến hành chiến dịch chỉnh quân, chỉnh Đảng nhằm kịp thời uốn nắn tư tưởng hoang mang, dao động hay chủ quan, tự mãn; củng cố tinh thần, động viên cán bộ đảng viên, chiến sĩ để hoàn thành nhiệm vụ. Trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, Đảng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ có lòng nhiệt tình mà còn phải có năng lực, trí tuệ, tinh thần sáng tạo, chủ động giải quyết những công việc diễn ra rất phức tạp, đa dạng trong thực tiễn cũng như không ngừng đấu tranh chống lại mọi sự cám dỗ của vật chất, danh vọng, địa vị, giữ vững bản chất cách mạng. Như vậy, xây dựng Đảng đi đôi phòng chống suy thoái về đạo đức; đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết với các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị, tư tưởng và các hiện tượng vi phạm các nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Xây dựng Đảng về đạo đức xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, nhằm giải quyết vấn đề từ thực tiễn. Sự thay đổi về môi trường xã hội tất yếu dẫn đến sự lạc hậu, kém hiệu quả của một số nội dung, phương pháp của công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Nói cách khác, thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, xây dựng một cách đồng bộ những nội dung, phương pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Cùng với nội dung giáo dục lý tưởng, chính trị, hiện nay cần trang bị cho đảng viên những hiểu biết về môi trường xã hội, các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường, những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa thời kỳ hội nhập quốc tế. Hiện nay, nhiều vấn đề mới nảy sinh từ cơ chế thị trường như vai trò của Đảng trong các doanh nghiệp nhà nước, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân, nạn tham nhũng, hối lộ, tệ nạn sùng bái lợi ích vật chất… đang tác động mạnh mẽ đến đạo đức cách mạng của đảng viên cũng như toàn xã hội. Bởi vậy, trong việc xây dựng Đảng về đạo đức, cần kết hợp nghiên cứu lý luận về xây dựng đạo đức trong Đảng với tổng kết thực tiễn, thường xuyên xem xét các nghị quyết, chỉ thị nói chung, liên quan đến đạo đức nói riêng đã thi hành đến đâu, thi hành như thế nào, nếu không sẽ chỉ là lời nói suông, gây tổn hại đến lòng tin của Nhân dân. Cần làm cho việc xây dựng Đảng về đạo đức trở thành một nhu cầu văn hóa, động lực tu dưỡng, rèn luyện và được minh chứng cụ thể thông qua hành động thực tiễn của mỗi cán bộ, đảng viên.
Xây dựng Đảng về đạo đức không tách rời trong tổng thể các nội dung xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong điều kiện hiện nay. Xây dựng Đảng về đạo đức là sự kết hợp giữa giáo dục nhận thức với bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng, hình thành niềm tin khoa học và thực hành đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Thiếu vắng hoặc xem nhẹ yếu tố đạo đức trong xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền sẽ dẫn tới tới tình trạng suy thoái, biến chất trong Đảng; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ trở nên xa lạ với cuộc sống; các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng bị vi phạm, phá vỡ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bên cạnh đó, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức là tạo ra những điều kiện đảm bảo cho việc thực hành đạo đức trong Đảng, bởi chính trị có vững, lý tưởng có kiên định và tổ chức có tốt thì đạo đức cách mạng mới được củng cố và phát huy. Đó chính là vấn đề tạo lập môi trường tích cực để nuôi dưỡng, bảo vệ các giá trị đạo đức trong Đảng, trong xã hội chống lại các biểu hiện phi đạo đức
Xây dựng Đảng về tư tưởng là củng cố, phát triển nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng - lý luận khoa học, chân chính, vì con người. Từ đó, cán bộ, đảng viên có cơ sở lý luận để củng cố niềm tin vào con đường, lý tưởng của Đảng, vững vàng, không bị dao động trước những tác động tiêu cực hay những khó khăn, sai lầm, thất bại tạm thời. Bên cạnh đó, xây dựng Đảng về đạo đức cần triển khai trên một nền tảng đổi mới tư duy lý luận về xây dựng Đảng, cụ thể là tư duy mới về đạo đức, đó là đạo đức hành động, đem lại kết quả thiết thực với đời sống của Nhân dân chứ chỉ không chỉ là việc nêu ra chuẩn mực chung chung.
Xây dựng Đảng về chính trị làm cho Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng, định hướng chính trị, không ngừng nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và qua đó không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, làm cho đạo đức thấm sâu, lan tỏa từ chủ trương, chính sách đến hành động thực tiễn của các tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên. Mặt khác, khi đã có tư tưởng đạo đức tiến bộ, chủ trương, đường lối chính trị đúng thì nhân tố quyết định để thực hiện chính là tổ chức và cán bộ. Từ tư tưởng đạo đức đến thực hành đạo đức cần thông qua hoạt động của những con người cụ thể và được bảo đảm bằng ý thức tự giác của mỗi đảng viên và nguyên tắc, quy định, kỷ luật của tổ chức Đảng. Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng mà các nhà mác-xít nêu ra như tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh, tự giác; đoàn kết, thống nhất trong Đảng… được xây dựng trên cơ sở vận dụng và phát triển những quy chuẩn đạo đức của xã hội vào tổ chức và hoạt động của một đảng chính trị. Không đảm bảo thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, Đảng không thể tồn tại và phát triển được.
Yêu cầu, hiệu quả của việc xây dựng và thực hiện các chuẩn mực đạo đức trong xây dựng Đảng không thể tách rời một loạt các điều kiện về đánh giá sử dụng, loại trừ thành phần thoái hóa khỏi Đảng, chế độ đãi ngộ với cán bộ, đảng viên. Làm tốt công tác cán bộ là khâu quyết định xây dựng Đảng về đạo đức.
Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra từ trước khi thành lập tổ chức Đảng và là nội dung xuyên suốt trong quá trình tồn tại, phát triển của Đảng. Trong điều kiện hiện nay, khi Đảng lãnh đạo đưa đất nước đạt được những thành tựu to lớn, cũng như khi đối diện với những khó khăn, thách thức mới, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức càng được coi trọng hơn. Vấn đề này cần có những nhận thức mới, những nội dung và nguyên tắc cụ thể, phù hợp hơn với những biến đổi của thực tiễn, để Đảng thật sự “là đạo đức, là văn minh”, luôn đại diện cho giá trị tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới./.
St

NGƯỜI CON ƯU TÚ CỦA ĐẢNG VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

 Toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp của Tổng Bí thư Trần Phú từ lúc bước vào con đường hoạt động cách mạng đến hơi thở cuối cùng là một trang sử chói lọi, tràn đầy năng lực trí tuệ và bản lĩnh; kiên định và vững vàng; trung thành và lạc quan; bất khuất và hiên ngang.

Đồng chí Trần Phú là người con ưu tú của Đảng và dân tộc Việt Nam, thể hiện qua suy nghĩ và hành động ngay khi còn học tại Trường Quốc học Huế.
Trần Phú thuộc lớp thanh niên ưu tú thời dựng Đảng, nồng nàn yêu nước, khát khao lý tưởng cách mạng, tràn đầy hoài bão và nhiệt huyết cống hiến cho đất nước, cho nhân dân. Tuổi trẻ Trần Phú sớm có ý thức định hình, định hướng về cách mạng. Khi làm giáo viên tiểu học, Trần Phú đã khơi dậy tinh thần yêu nước, căm thù bọn xâm lược cho học sinh; truyền cảm hứng về niềm tự hào, truyền thống văn hóa-lịch sử, đấu tranh chống ngoại xâm của quê hương và dân tộc.
Trần Phú nhạy cảm với tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Lòng nhiệt huyết và nhạy bén chính trị đó đã sớm đưa Trần Phú tham gia tổ chức Hội Phục Việt và đến với tư tưởng cách mạng. Khi được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, dự lớp huấn luyện do Người trực tiếp giảng dạy, Trần Phú đã nhanh chóng chuyển biến từ lập trường yêu nước có tinh thần cách mạng sang lập trường yêu nước cách mạng, quyết tâm đi theo con đường cách mạng mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra, nguyện cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Với trí tuệ lớn, bản lĩnh, năng động, sáng tạo, đồng chí Trần Phú để lại cho Đảng ta, dân tộc ta và cách mạng Việt Nam bản Luận cương chính trị có giá trị sâu sắc về cả lý luận và thực tiễn.
Cùng với Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, thì Luận cương chính trị (còn gọi là Luận cương cách mạng tư sản dân quyền) do Trần Phú khởi thảo, được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 10-1930) thông qua là những cương lĩnh chính trị có ý nghĩa lớn định hướng lâu dài cho cách mạng Việt Nam. Nội dung luận cương cơ bản thống nhất và khẳng định lại nhiều vấn đề cốt yếu thuộc về chiến lược cách mạng nước ta mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu lên, trong đó sợi chỉ đỏ xuyên suốt là: “Cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, không qua thời kỳ phát triển tư bản. Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc và đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân”. Luận cương khẳng định hai động lực chính của cách mạng là giai cấp vô sản và giai cấp nông dân, nhưng giai cấp vô sản là động lực rất mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng Đông Dương là phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo với một đường lối chính trị đúng, kỷ luật tập trung, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm gốc, liên lạc mật thiết với quần chúng. Cách mạng Đông Dương là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Đáng chú ý là trong Luận cương có một số điểm được cụ thể hóa hơn, xác định thêm một cách đúng đắn như phương pháp cách mạng, tình thế trực tiếp của cách mạng. Khi có thời cơ thì Đảng phải lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay công nông. Bàn tới mối quan hệ khăng khít, mật thiết giữa mục đích trước mắt và mục đích lâu dài của cách mạng, Luận cương cho rằng không chú ý mục đích hằng ngày là rất sai lầm, nhưng chỉ chú ý mục đích hằng ngày mà không chú ý mục đích lớn, cuối cùng cũng là rất sai lầm.
Dưới ánh sáng của Luận cương và những chỉ đạo sát sao của Tổng Bí thư Trần Phú, phong trào cách mạng của quần chúng dấy lên sôi nổi, mạnh mẽ. Công nhân và nông dân bắt tay nhau giữa trận tuyến chống xâm lược và tay sai bán nước, tiến tới cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, một cao trào cách mạng đã có ảnh hưởng lớn, tỏ rõ tinh thần anh dũng luôn luôn nồng nàn trong tâm hồn quần chúng, mở đường cho thắng lợi về sau.
Luận cương cho thấy sự nỗ lực, cố gắng cao độ của một trí tuệ lớn, bản lĩnh, năng động, sáng tạo. Đồng chí Trần Phú đã vận dụng những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa và những luận điểm cơ bản trình bày trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt. Luận cương thể hiện một trái tim nhiệt huyết, một bộ óc thông minh, luôn luôn suy nghĩ đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và cách mạng lên trên hết, trước hết.
Những hạn chế mặt này, mặt khác của Luận cương là điều dễ hiểu, là biện chứng của sự phát triển. Bởi vì mỗi bản cương lĩnh cũng như nhiều tác phẩm lý luận khác từ xưa đến nay đều là sản phẩm nhận thức của một thời kỳ lịch sử cụ thể. Đánh giá Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thấm nhuần Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình".
Là người đứng đầu đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc, Tổng Bí thư Trần Phú tỏ rõ là một nhà lãnh đạo xuất sắc, người chiến sĩ cộng sản kiên trung của Đảng, của dân tộc và cách mạng Việt Nam.
Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Trần Phú đã cùng Ban Thường vụ Trung ương chỉ đạo soạn thảo, hoàn thiện các văn kiện về tổ chức Đảng, dân vận, Mặt trận...; lãnh đạo cuộc đấu tranh tư tưởng trong Đảng chống lại các tư tưởng cơ hội, lệch lạc, đầu cơ, biệt phái...; tuyên truyền, giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin; khẳng định bản chất giai cấp công nhân trong Đảng; củng cố tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng và tăng cường sức chiến đấu của chi bộ đảng.
Tổng Bí thư Trần Phú có đóng góp lớn về công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; trang bị lý luận Mác-Lênin; khắc phục bệnh ấu trĩ tả và hữu khuynh trong Đảng; kiện toàn các cơ quan đảng từ Trung ương đến các đảng bộ cơ sở.
Tổng Bí thư Trần Phú là người học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, tấm gương sáng về chí khí chiến đấu, để lại nhiều bài học quý cho Đảng ta hôm nay.
Trước hết, cần khẳng định Đảng ta là một Đảng cầm quyền, phải có một đường lối lãnh đạo đúng đắn, đó là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Đảng phải kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; kiên định đường lối đổi mới vì hạnh phúc của nhân dân.
Hai là, Đảng cần phải nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng theo tinh thần “bôn sê vích hóa” Đảng về tư tưởng, chính trị, đạo đức, tổ chức, cán bộ; phải kiên quyết chống lại mọi biểu hiện làm lệch lạc đường lối của Đảng, những xu hướng cơ hội, bè phái; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; phải xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình trên cơ sở cương lĩnh của Đảng, làm cho Đảng ta trở thành một Đảng chân chính cách mạng thực sự, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, trước hết. Một vấn đề không phải định mệnh nhưng có tính quy luật: Ở đâu, lúc nào Đảng không tự hoàn thiện mình, không sớm thì muộn, sẽ giảm dần và đi tới mất năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.
Ba là, trong mọi hoàn cảnh, mỗi cán bộ, đảng viên phải “giữ vững chí khí chiến đấu”, kiên quyết, kiên trì quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với mọi khó khăn, thử thách; dám hành động vì lợi ích chung; chống thói vô trách nhiệm, sợ trách nhiệm, né trách nhiêm. Phải kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả của công cuộc đổi mới, bảo vệ nhân dân; xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, tự do, hạnh phúc./.
ST

BA CHIẾN CÔNG CỦA LỰC LƯỢNG QUÂN BÁO, TRINH SÁT TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

 TẤM BẢN ĐỒ CÓ GIÁ TRỊ BẰNG VÀNG

Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng, núi cao bao quanh, rừng rậm hiểm trở. Trong khi đó, địch luôn tổ chức lùng sục nhằm phát hiện, truy quét lực lượng trinh sát của ta, khiến hoạt động quân báo, trinh sát gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, vượt qua các trở ngại, lực lượng trinh sát của Tiểu đoàn 122 đã lập chiến công lớn trước giờ nổ súng.
Cuối năm 1953, đầu năm 1954, Mặt trận Điện Biên Phủ đã trở thành trọng tâm số một của tình báo các bên. Phó cục trưởng Cục Quân báo Cao Pha được phân công cùng một bộ phận Phòng 2 đặc trách Mặt trận Điện Biên Phủ. Ngày ấy trên bản đồ Bắc Bộ, Điện Biên Phủ chỉ là một chấm nhỏ mà không có mấy thông tin. Bản đồ quân sự vì thế trở thành một yêu cầu hết sức cấp thiết cho hoạt động tác chiến.
Thành lập ban quân báo chiến dịch điện biên phủ
Cuối năm 1953, địch đã tập trung lực lượng khá lớn ở Bắc Bộ, gồm 112 tiểu đoàn, trong đó có 44 tiểu đoàn cơ động; 18 tiểu đoàn và 19 đại đội pháo binh; 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn và 2 đại đội thiết giáp; 7 tiểu đoàn và 8 đại đội công binh. So sánh về lực lượng, phương tiện khi đó, quân số của ta trên chiến trường Bắc Bộ chỉ bằng 2/3 của địch, 76 tiểu đoàn/112 tiểu đoàn; binh khí kỹ thuật lại càng kém hơn. Đầu năm 1954, thực dân Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, có công sự hầm hào kiên cố, chia thành ba phân khu: Phân khu Bắc, Phân khu Trung tâm và Phân khu Nam. Chúng cho rằng Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả xâm phạm” và sẵn sàng nghiền nát bộ đội chủ lực của ta.
Để tiếp tục nghiên cứu sâu tình hình, tương quan và bố trí lực lượng của địch, tháng 11-1953, Ban Quân báo Chiến dịch Điện Biên Phủ được thành lập gồm các bộ phận: Nghiên cứu, Cung tù binh, Binh địa và Đồ bản. Ban Quân báo Chiến dịch Điện Biên Phủ do Cục trưởng Cục Quân báo Lê Trọng Nghĩa làm Trưởng ban, Cục phó Cao Pha làm Phó ban. Lực lượng trinh sát kỹ thuật gồm một trung đội, 10 máy thu; lực lượng trinh sát bộ đội do đồng chí Nguyễn Việt phụ trách. Ngoài lực lượng của Tiểu đoàn 122 của Cục Quân báo còn có các đại đội trinh sát, các Ban 2 của các đại đoàn, các đại đội trinh sát và Tiểu ban 2 của các trung đoàn bộ đội. Đồng chí Nguyễn Việt được Cục Quân báo cử đi cùng Cục phó Cao Pha theo Bộ Chỉ huy tiền phương của Bộ lên Điện Biên Phủ chuẩn bị chiến dịch.
Ở Điện Biên Phủ, đồng chí Nguyễn Việt được Cục trưởng Cục Quân báo Lê Trọng Nghĩa giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo lực lượng trinh sát địch. Cụ thể, Đại đội 62 của Tiểu đoàn 122 có nhiệm vụ bám địch ở Phân khu Trung tâm. Đại đội 63, Tiểu đoàn 122 bám địch ở phía Him Lam. Tin tức hàng ngày phải thường xuyên, kịp thời báo cáo về Bộ Chỉ huy tiền phương và Bộ Chỉ huy chiến dịch, kết hợp với tin trinh sát kỹ thuật và các nguồn tin khác giúp cho Bộ có cơ sở nhận định, đánh giá, kết luận chính xác về tình hình địch.
Trong tháng 11-1953, khi Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh phổ biến nghị quyết của Bộ Chính trị và Kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954 thì ngày 20-11-1953, lực lượng trinh sát kỹ thuật của Cục phát hiện địch mở cuộc hành quân cấp tốc, đổ quân tăng cường lực lượng cho Điện Biên Phủ (6 tiểu đoàn với 4.500 tên). Thông tin đã được kịp thời chuyển về phục vụ Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo điều chỉnh, bổ sung kế hoạch tác chiến, trong chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954 của ta.
Trước tình hình địch tăng cường lực lượng tại Điện Biên Phủ, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Cục Quân báo xác định: Địch đóng ở lại Điện Biên Phủ hay chúng rút? Để phục vụ Bộ nghiên cứu chính xác tình hình của tập đoàn cứ điểm, Tiểu đoàn 122 đã tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ Đại đội 62 đặt đài quan sát bí mật nắm các hoạt động của địch; ban ngày quan sát theo dõi, ghi nhật ký; ban đêm tiềm nhập để điều tra xác minh. Đại đội đã tổ chức nhiều nhóm, mũi phát hiện địch, nắm địa hình, nhưng gặp rất nhiều khó khăn do địch tổ chức tuần tra, lùng sục liên tục.
Sau khi tiềm nhập trinh sát nhiều lần các điểm cao phía Đông đồi A1, đồi C, đồi D, và khu vực phía Nam sân bay Mường Thanh, kết hợp chặt chẽ với lực lượng trang bị vô tuyến điện sóng cực ngắn để trinh sát phát hiện mạng thông tin của địch, Đại đội 62 đã phát hiện địch tổ chức đào giao thông hào, xây dựng lô cốt và các cứ điểm kiên cố. Dựa trên kết quả đó, Tiểu đoàn 122 báo cáo kịp thời về Cục Quân báo, khẳng định địch chiếm đóng Điện Biên Phủ lâu dài. Bên cạnh đó, những ngày cuối tháng 12-1953, Đại đội 62 đã phục vụ thu thập tin tức, điều tra và phối hợp với đơn vị bạn tổ chức hai lần phục kích bắt được một số tù binh và tập kích phá hủy một máy bay hai thân C119, một máy bay vận tải, bắt sống 13 lính dù, thu 200 chiếc dù, 30 hòm đại bác 105mm.
Tấm bản đồ có giá trị “bằng vàng”
Đêm 24-12-1953, Phân đội trinh sát thuộc Đại đội 62 gồm 6 đồng chí, do đồng chí Phân đội phó Trần Phận chỉ huy, cùng 6 đồng chí tổ chức tiềm nhập điều tra địch, đánh bắt tù binh, khai thác tin tức tại khu vực sân bay Mường Thanh. Khi vào đến vị trí và đang ém quân tại chân hàng rào dây thép gai, Phân đội phát hiện địch thả rất nhiều dù, trong đó có một chiếc dù màu đỏ. Phân đội đã nhanh chóng tiếp cận lấy chiếc dù đỏ, đưa về vị trí ém quân kiểm tra, phát hiện trong dù chứa ba hòm, trong đó một hòm gỗ và hai hòm sắt. Hòm gỗ chứa thực phẩm, hai hòm sắt có 25 bản đồ vùng lòng chảo Điện Biên Phủ tỷ lệ 1:25.000 và 32 bức ảnh ghép cảnh bản đồ khu vực Điện Biên Phủ. Những bản đồ này có giá trị đặc biệt về quân sự, thể hiện tương đối đầy đủ và chi tiết các yếu tố địa hình, địa vật, bình độ, phục vụ kịp thời cho hoạt động tác chiến của ta.
Sự kiện này được báo cáo lên Bộ Tham mưu mặt trận. Tham mưu trưởng mặt trận Hoàng Văn Thái vô cùng mừng rỡ, lập tức chuyển cho Phòng Đồ bản - Bộ Tổng Tham mưu nhân thêm thành 50 tấm bản đồ và 48 ảnh ghép cảnh đồ, tức tốc gửi tới các đơn vị tham chiến, kịp thời phục vụ công tác tham mưu mặt trận, đặc biệt là phục vụ cho tác chiến hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh. Phó cục trưởng Cục Quân báo Cao Pha tiếp tục trực tiếp trinh sát trận địa Điện Biên Phủ, đôn đốc lực lượng lên sơ đồ và sa bàn mặt trận.
Từ những địa điểm không tên tuổi, với tấm bản đồ, những địa danh mà giờ đây đã đi vào lịch sử lần lượt hiện lên. Đó là những đồi A1, C1, những Him Lam, Hồng Cúm... Tất cả các mục tiêu của địch đều xuất hiện đầy đủ trên sa bàn, cho thấy hệ thống phòng ngự của địch không chỉ vững chắc ở phía Đông mà đã tăng cường tuyến phòng thủ kiên cố ở phía Tây, dọc sân bay vào trung tâm, trên các hướng tiến công chính của Đại đoàn 312 và Đại đoàn 308.
Những dữ kiện cực kỳ quan trọng do tình báo quân sự thu được này cũng cho thấy ta không còn khả năng đánh nhanh, giải quyết nhanh ở Điện Biên Phủ như dự định ban đầu nữa. Với thành tích đó, Phân đội trinh sát đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất; đồng chí Trần Phận được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai ngay tại mặt trận. Bản chính tấm bản đồ chiến lợi phẩm đặc biệt quan trọng này hiện đang được Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam lưu giữ.
Nhà báo Pháp Béc-na Phôn khi có mặt tại Sở Chỉ huy chiến dịch quân viễn chinh Pháp tại Điện Biên Phủ đã viết: “…Những thiệt hại về sinh lực của quân đội Pháp đã là một tổn thất nặng thì việc Việt Minh thu được những tấm bản đồ tỷ lệ 1:25.000 khu vực Điện Biên Phủ mới in là một mất mát lớn hơn. Từ bản đồ này, pháo binh Việt Minh có điều kiện chỉ huy bắn với độ chính xác cao gây thiệt hại nặng cho quân viễn chính Pháp sau này…”./.
ST

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP - HIỆN THÂN CỦA SỰ GẮN KẾT Ý CHÍ, NIỀM TIN

 Tình cảm đặc biệt giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một biểu tượng sáng ngời về tình cảm của một nhà lãnh đạo, một người chỉ huy, một người thầy, một người anh, một người thân thích với một trợ lý, một vị tướng, một người học trò… của tình đồng chí và tình thân trong nghĩa đồng bào sâu đậm. Đó là hiện thân của sự gắn kết ý chí, niềm tin, sự chân thành, sự tận tụy của hai con người vĩ đại, của sức mạnh dân tộc Việt Nam.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc ấy với tên gọi Nguyễn Tất Thành (Văn Ba) vừa rời Bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, để rồi gần 30 năm sau có cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai con người, hai người chiến sĩ cách mạng, hai vĩ nhân của dân tộc Việt Nam.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hồi tưởng, viết về những cảm xúc khi lần đầu tiên được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1940: "Tôi nhận ra ngay chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Nếu so với bức ảnh ngày trước tôi đã được xem thì trông Bác ở ngoài linh hoạt và sắc sảo hơn nhiều (Hồi đó Bác chưa để râu)… Gặp Bác, tôi thấy Bác hoàn toàn không giống như những điều mình hằng tưởng tượng. Ngay từ phút đầu, tôi đã cảm thấy như mình được ở rất gần Bác, được quen Bác từ lâu rồi. Con người của Bác toát ra một cái gì rất trong sáng, giản dị…".
Cuộc gặp gỡ ấy là cuộc gặp gỡ đặc biệt, là lần đầu tiên nhưng như đã rất thân quen. Đó sự khởi đầu gắn bó của hai con người đặc biệt, tên tuổi và mang tầm vóc lịch sử, một sự gặp gỡ của những con người trở thành huyền thoại có một không hai trong suốt những chặng đường đầy gian nan và thử thách nhưng hết sức vinh quang và oanh liệt, hào hùng của cách mạng Việt Nam, gắn với những chiến công, những kỳ tích vĩ đại của dân tộc. Mối quan hệ, tình cảm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng vượt trên cả tình đồng chí, tình thầy trò, đó còn là một tình cảm, một mối quan hệ đặc biệt thiêng liêng, sâu sắc…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy tài năng, trí tuệ và nhân cách của người thanh niên yêu nước, nhà báo, nhà hoạt động cách mạng Võ Nguyên Giáp và đã trao những trọng trách: thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là bước quan trọng chuẩn bị lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, sau đó, ông đảm nhận cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ chỉ huy các cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Trong những chặng đường gian nan ấy của cách mạng Việt Nam luôn chứng kiến và ghi dấu ấn sâu sắc sự gắn bó, gần gũi, cùng gánh vác, chia sẻ sự nghiệp cách mạng giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng luôn giành sự kính trọng, ngưỡng mộ với vị lãnh tụ của mình: “Mỗi lần đi công tác về cơ quan cảm thấy như đang trở về với gia đình… Được ở gần Bác một thời gian, tôi đã nhận thấy qua cái bề ngoài vô cùng giản dị của Bác, con người Bác thật vĩ đại, và chính bản thân cách sống giản dị đó cũng là một điều vĩ đại trong con người của Bác”.
Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh phong hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, sau Lễ phong hàm ngày 28/5/1948, khi một phóng viên phương Tây hỏi Bác việc phong hàm này được thực hiện dựa trên những tiêu chuẩn nào, “Bác trả lời đơn giản:
- Đánh thắng đại tá thì phong đại tá. Đánh thắng thiếu tướng, phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng!”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn thấu hiểu tâm tư, niềm mong mỏi đau đáu tâm can của vị lãnh tụ kính yêu. Đại tướng đã vận dụng, hiện thực hóa những ý tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Khi trực tiếp làm việc và dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng luôn trao đổi, bàn bạc, xin ý kiến và tuân thủ sự chỉ đạo của lãnh tụ, nhất là trước những nhiệm vụ khó khăn, quan trọng.
Khi nhận nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, sau buổi họp trước khi lên đường đi chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hỏi Đại tướng: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường, có gì trở ngại không?”. Đại tướng trả lời: “Các đồng chí Tổng tham mưu phó, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị đều đã có mặt trên đó. Sẽ tổ chức cơ quan tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh để chỉ đạo chiến trường toàn quốc, kể cả bộ đội tình nguyện ở Lào và Cămpuchia. Anh Nguyễn Chí Thanh và anh Văn Tiến Dũng ở lại khu căn cứ, phụ trách mặt trận đồng bằng Bắc Bộ. Chỉ trở ngại là ở xa có vấn đề quan trọng và cấp thiết, khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị”. Nghe vậy, Bác Hồ nói với Đại tướng: “Tổng Tư lệnh ra mặt trận, “Tướng quân tại ngoại”!. Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau”. Bác Hồ căn dặn Đại tướng: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. Đại tướng đã khắc ghi lời căn dặn ấy của Bác, lý giải phần nào với từng quyết định thận trọng của Đại tướng trong chiến dịch, đặc biệt với Quyết định khó khăn nhất, chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”…
Với Đại tướng, hình ảnh Bác Hồ luôn hiện hữu trong tâm trí ông, song hành cùng bước đường hoạt động và cuộc sống của ông cùng cách mạng Việt Nam, không chỉ khi Bác còn sống, làm việc với Đại tướng mà cả về sau này, khi Người đã đi xa…
Ngày 30/4/1975, quân ta đã toàn thắng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, khi nhớ lại ngày lịch sử đó, Đại tướng đã viết: Sáng ngày 30…, 11 giờ, quân đoàn 2 báo cáo, cờ của ta tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Liền sau đó là điện báo tin chiến thắng của Bộ Chỉ huy Chiến dịch và Trung ương Cục. Các anh, các cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận giờ phút này sung sướng đến nhường nào! Tiếng reo mừng phút chốc ầm vang khắp cơ quan Bộ Tổng tư lệnh. Ước mơ độc lập, thống nhất từ bao đời đã thành hiện thực. Nhiều đồng chí trong Bộ Chính trị sung sướng đến ứa nước mắt. Để có được ngày hôm nay, bao nhiêu đồng chí, đồng bào đã ngã xuống. Nguyện ước bình sinh của Bác Hồ đã được thực hiện. Chiến lược “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” của Người đã thành công rực rỡ! Người như đang cùng ta cùng chia sẻ niềm vui của cả dân tộc…
"Buổi chiều, sau cuộc họp vắn của Bộ Chính trị, tôi ra phố một lát. Cả Hà Nội rợp cờ đỏ, cả Hà Nội xuống đường. Tiếng hò reo: Hoan hô, hoan hô…! Hồ Chủ tịch muôn năm, muôn năm!” hòa trong tiếng pháo. Nhiều người thả bóng bay. Tôi đi bộ vòng quanh Bờ Hồ, trong niềm hạnh phúc dạt dào, lòng lại bùi ngùi nhớ tới Bác, vô cùng nhớ Bác”. Những dòng tâm can ấy, cảm xúc dâng trào ấy của Đại tướng là người thấu hiểu tâm tư, mong muốn ấy của vị lãnh tụ, của người thầy của mình.
Những năm tháng xây dựng đất nước trong hòa bình, độc lập, thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng tư tưởng, tấm gương, hình ảnh của Người luôn song hành cùng các thế hệ người dân Việt Nam… và trong lòng Đại tướng, để rồi, trong những khoảnh khắc sâu lắng của nỗi lòng, trong từng hoạt động của Đại tướng luôn dành trọn tình với lãnh tụ, biến những tình cảm ấm áp, chân tình, sự ngưỡng mộ, niềm tin thành hành động. Tình cảm của Đại tướng dành cho Bác Hồ hết sức thiêng liêng, trân quý. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, Đại tướng luôn trân quý, tôn vinh và vững chắc niềm tin: “Thế giới sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi”.
Thực vậy, không chỉ trong công tác, mà trong cuộc sống hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp có một sự gắn bó đặc biệt của những con người có chung chí hướng. Đó là một biểu tượng sáng ngời về tình cảm, sự đồng cảm của một nhà lãnh đạo, một người chỉ huy, một người thầy, một người anh, một người thân thích với một trợ lý, một vị tướng, một người học trò…, của tình đồng chí và của tình thân trong nghĩa đồng bào sâu đậm. Đó là hiện thân của sự gắn kết ý chí, niềm tin, sự chân thành, sự tận tụy của hai con người vĩ đại, của sức mạnh dân tộc Việt Nam./.
ST

KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN DÂN TỘC

 Một điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân quyền là chú trọng thực hành mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người, quyền cộng đồng và quyền dân tộc, trong đó tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền con người là cơ sở bảo đảm quyền cộng đồng, quyền dân tộc, bởi “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

Thực tế trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay) cho thấy, việc thực hành quan điểm này của Hồ Chí Minh đã tạo cơ sở dân chủ, dân quyền cho việc xem xét, giải quyết đúng đắn mối quan hệ qua lại giữa việc tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền bình đẳng, tương trợ, đoàn kết của mọi người và của các cộng đồng lớn nhỏ (giới, dân tộc, tôn giáo…) với việc bảo đảm quyền dân tộc Việt Nam theo hướng hài hòa giữa đổi mới, ổn định và phát triển.
1. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân nhằm thúc đẩy bảo đảm dân chủ, dân quyền và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hiện nay, việc bảo đảm quyền dân tộc gắn với bảo đảm dân chủ, dân quyền đứng trước yêu cầu phải nắm bắt, điều tiết được những thách thức mới đang đặt ra ngày càng lớn khi vấn đề nhân quyền được đề cập ngày càng nhiều hơn thay vì chỉ được giới hạn trong quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như trước đây. Do đó, để bảo đảm quyền dân tộc phải “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân” thông qua các giải pháp:
Triển khai mạnh mẽ Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 nhằm thực hiện có hiệu quả trên thực tế cơ chế: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Tạo động cơ khuyến khích cho người dân tham gia thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Mặc dù pháp luật Việt Nam không cho phép bỏ phiếu đại diện, song trên thực tế hiện tượng này khá phổ biến. Từ đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền công dân, nhất là của phụ nữ và thanh niên trong gia đình. Muốn vậy cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể thức bầu cử dân chủ theo hướng không chạy theo thành tích để hạn chế tối đa hoặc xóa bỏ những hiện tượng này.
Mặt khác, cần mở rộng các hình thức tiếp xúc cử tri của các đại biểu HĐND cấp tỉnh và đại biểu Quốc hội. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò giám sát của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể, báo chí. Tổ chức đảng phải coi trọng việc thường xuyên giám sát, quản lý cán bộ, đảng viên trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Do vậy, cần khuyến khích việc tạo thêm các kênh tiếp xúc giữa cử tri với đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND tỉnh, thành phố thông qua các đường dây nóng, mạng xã hội (Zalo, Facebook...) nhằm tăng cường sự tham gia đối thoại và lòng tin của người dân.
Tăng cường sự tham gia của cơ quan, doanh nghiệp trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hiện nay, nhiều cơ quan và doanh nghiệp chưa quan tâm thích đáng đến việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022. Đây là một hạn chế không nhỏ, dẫn đến việc không đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của Luật này để có sự tham gia tích cực của người dân trong việc thúc đẩy thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp như trong công tác tiếp dân, tiếp cận thị trường… Do vậy, cần phối hợp thực hiện dân chủ ở cơ sở một cách đồng bộ, cả ở cấp xã lẫn tại cơ quan, doanh nghiệp.
2. Thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng bằng pháp luật giữa công dân và Nhà nước, xã hội trong thể chế nhà nước pháp quyền.
Để thiết lập quan hệ bình đẳng giữa công dân với Nhà nước và xã hội bằng thể chế pháp quyền cần thực hiện các giải pháp sau:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của Nhà nước, đặc biệt thể chế hóa nghĩa vụ của Nhà nước trong bảo đảm công lý, quyền con người, quyền công dân. Quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan Nhà nước, của các chức danh, chức vụ của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, nhất là hoàn thiện thể chế bảo đảm và những ràng buộc pháp lý về chế độ chịu trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước công dân, nhất là khi có hành vi gây thiệt hại cho công dân trong thi hành công vụ, ở cả 3 phương diện: Cơ quan, tổ chức; cán bộ, công chức, viên chức và văn bản quản lý hành chính của cơ quan, tổ chức. Hoàn thiện thể chế pháp quyền về phản biện xã hội, giám sát xã hội, nhằm tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, nhất là truyền thông đại chúng (báo chí, mạng in-tơ-nét), trong việc kiểm tra, giám sát các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, để phát hiện những vi phạm trong các mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước, nhằm góp phần bảo đảm công lý, công bằng xã hội, quyền con người, quyền công dân.
Tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm trước công dân cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đề cao trách nhiệm bảo đảm các quyền con người, quyền công dân và thái độ dám chịu trách nhiệm trong thi hành nhiệm vụ, công vụ; chống hiện tượng khi phải chịu trách nhiệm lại tìm cách “chạy trách nhiệm”, né tránh, đùn đẩy. Yêu cầu về dám chịu trách nhiệm phải được đề cao thành một “Danh dự công vụ”.
Đề cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, xử lý nghiêm minh đối với đảng viên vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của nhà nước về quan hệ giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với Nhà nước.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của công dân. Một nhiệm vụ quan trọng hiện nay là phải thể chế hóa các quyền hiến định của công dân trong Hiến pháp năm 2013 trên cả 2 tư cách: quyền con người và quyền công dân, để các quyền này thực sự được bảo đảm trong thực tế cuộc sống theo hướng: Các cá nhân cũng như pháp nhân của luật, tức là cả trong và ngoài Nhà nước đều bình đẳng trước pháp luật; đều có thể đối lập tranh cãi một cách bình đẳng với các quyết định của cơ quan công quyền. Tạo lập sự gắn kết hữu cơ giữa quyền tự do dân chủ của công dân với chủ nghĩa hợp hiến. Muốn vậy, hệ thống quy phạm pháp luật phải được thực thi sao cho công dân cả trong và ngoài Nhà nước đều phải có trách nhiệm với Nhà nước; đồng thời Nhà nước phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong cả hoạt động của Nhà nước và trong cả hoạt động của xã hội. Hoàn thiện và cụ thể hóa các quy phạm pháp luật về quyền con người, quyền công dân theo hướng công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Từ đó xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của công dân trong quan hệ với Nhà nước, cả với tư cách người dân và cả với tư cách cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Xây dựng và thực hiện cơ chế trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân theo nguyên tắc pháp quyền.
Trước đây, việc thực hiện cơ chế trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân thông qua pháp chế XHCN; còn hiện nay đã chuyển sang thể chế pháp quyền. Điểm tương đồng giữa pháp chế XHCN và thể chế pháp quyền là: Đòi hỏi Nhà nước phải có một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh. Pháp chế XHCN yêu cầu Nhà nước và công dân, kể cả công dân là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, phải tuân thủ nghiêm túc pháp luật. Thể chế pháp quyền nhấn mạnh nguyên tắc mọi cơ quan nhà nước phải được đặt dưới pháp luật. Cả hai đều yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt pháp luật, đấu tranh chống tình trạng vi phạm pháp luật và coi trọng hệ thống định chế tư pháp để xét xử các hành vi vi phạm.
Trong việc bảo đảm quyền công dân và nhân quyền thì thể chế pháp quyền, một mặt, nhấn mạnh vai trò và nghĩa vụ của hệ thống hành pháp, tư pháp nhiều hơn là nhấn mạnh vai trò của cơ quan lập pháp như trong pháp chế XHCN, bảo đảm sự phản biện của người dân với tư cách là “đối trọng” không thể thay thế, trước những quy định không công bằng của Nhà nước. Chỉ như vậy mới “bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước”.
3. Tích cực, chủ động thiết lập hệ thống thông tin nhằm giải quyết hiệu quả những vấn đề về quan hệ giữa quyền con người, quyền cộng đồng và quyền dân tộc mới nảy sinh trong thực tiễn quản trị của Nhà nước và xã hội.
Về cung cấp thông tin. Do thông tin là cơ sở để tăng cường mối quan hệ giữa chính quyền và công dân, nên chính quyền có thể cung cấp thông tin bị động hoặc thông tin chủ động cho công dân; và có thể sử dụng các sản phẩm thông tin qua kênh trực tiếp và có kiểm soát hoặc các kênh độc lập để cung cấp thông tin.
Về tham vấn công dân. Chính quyền gửi yêu cầu về việc lấy ý kiến và tiếp nhận ý kiến đóng góp của công dân đối với các nội dung liên quan đến hoạch định chủ trương, chính sách công. Việc tham vấn công dân tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa chính quyền và công dân. Thông tin phản hồi từ các công dân có thể chứa đựng những thông tin có giá trị cho chính quyền và xã hội, ví dụ các kiến nghị chính sách mới hoặc những điều chỉnh chủ trương, chính sách công.
Về tham gia tích cực của tổ chức, cá nhân công dân. Công dân giữ vai trò đề xuất các phương án về chủ trương, chính sách công, còn việc chịu trách nhiệm về xây dựng chủ trương, chính sách công và quyết định cuối cùng thuộc về chính quyền hoặc tổ chức xã hội. Thu hút công dân tham gia vào hoạch định chủ trương, chính sách công là mối quan hệ hai chiều giữa chính quyền, xã hội và công dân dựa trên nguyên tắc đối tác. Nhà nước, tổ chức xã hội căn cứ vào tình hình thực tế và mục tiêu thu hút sự tham gia của công dân trong hoạch định chủ trương, chính sách công để lựa chọn một trong ba cấp độ nêu trên./.
St

NĂM THÁNG SẼ QUA ĐI, CHIẾN THẮNG 30/4 MÃI MÃI ĐI VÀO LỊCH SỬ DÂN TỘC

 Cách đây 49 năm (1975 - 2024), khi thời cơ tổng công kích vào thành lũy cuối cùng của chính quyền Sài Gòn đã điểm, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, trưa ngày 30/4/1975, quân và dân ta làm chủ thành phố Sài Gòn - Gia Định, bắt giữ và buộc Tổng thống chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đánh dấu sự chấm hết của chế độ thực dân mới, mà đế quốc Mỹ đã dày công xây dựng bị sụp đổ hoàn toàn. Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nửa cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại sâu sắc.

Sau khi Hiệp định Paris “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết (27/01/1973), nhận thấy tương quan so sánh lực lượng đã hoàn toàn nghiêng về phía ta, ngày 7/01/1975, Bộ Chính trị họp “Bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước” hạ quyết tâm lịch sử: Giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị nhận thấy quân Mỹ khó có khả năng quay lại tham chiến tại miền Nam và nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, đồng thời chọn chiến trường Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu và xác định: “Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”[1].
Để kiểm chứng nhận định trên, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Đường số 14 - Phước Long, diễn ra từ ngày 13/12/1974 đến ngày 6/01/1975. Qua đòn trinh sát chiến lược này, Bộ Chính trị đã họp bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Đặc biệt, sau những thắng lợi liên tiếp của các đòn tiến công chiến lược, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị nhận định: “Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm”[2].
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã đoàn kết một lòng, nỗ lực cao độ, tạo thành sức mạnh “triều dâng thác đổ” như thế chẻ tre, tiến hành thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến chiến lược quyết định cuối cùng với quân thù. Chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần “một ngày bằng hai mươi năm”, cùng lực lượng áp đảo, với một khối lượng lớn vật chất hậu cần đã có mặt ở khu vực tập kết, sẵn sàng tổng tiến công vào nội đô Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã diễn ra và kết thúc thắng lợi vào ngày cuối cùng của tháng Tư (30/4/1975), theo đúng nhận định của Bộ Chính trị. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối.
Chiến thắng 30/4/1975 của dân tộc ta vô cùng vẻ vang oanh liệt, là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) - Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - Đường lối chiến tranh nhân dân: Toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cường; vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối, phương pháp cách mạng và đường lối chiến tranh nhân dân độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo bảo đảm thành công đường lối đó; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế; động viên toàn dân, toàn quân đoàn kết tham gia kháng chiến và kiến quốc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn. Hơn nữa, chiến thắng 30/4/1975 còn là thắng lợi của nền văn hoá Việt Nam được xây đắp từ tinh hoa văn hoá của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta, đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vươn lên tự khẳng định sức sống trường tồn. Đó là nền văn hoá bắt nguồn từ lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu đất nước, yêu độc lập, tự do, hòa bình; từ lòng nhân ái, trọng chính nghĩa, ghét gian tà, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; cởi mở tiếp thu những tinh hoa của nhiều nền văn hoá thế giới. Nền văn hoá ấy ngày càng được bồi đắp và không ngừng phát huy lên tầm cao mới - Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là cội nguồn sức mạnh vĩ đại của ý chí và trí tuệ Việt Nam, của bản lĩnh, lòng quả cảm và cốt cách Việt Nam, tạo nên sức sống mãnh liệt của nền văn hiến Việt Nam.
Đồng thời, chiến thắng 30/4/1975 thể hiện sự hội tụ sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với sự hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ cả nước, với tinh thần: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” và khí phách: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”; là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do và thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam.
Đại tướng Văn Tiến Dũng - Nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam thời chống Mỹ, cứu nước đã khẳng định với các nhà báo và học giả phương Tây rằng: “Một lần nữa tôi muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay”[3].
Hiện nay, trên một số phương tiện thông tin đại chúng, website và mạng xã hội xuất hiện những luận điệu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng 30/4/1975; xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; hạ thấp tầm vóc của chiến thắng, cho rằng chiến thắng 30/4/1975 không thể gọi là một chiến thắng vẻ vang, mà chỉ là một kết quả tất nhiên khi Mỹ thay đổi chính sách đối ngoại, rút quân, cắt viện trợ, bỏ rơi chính quyền và quân đội Sài Gòn... Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử đã bác bỏ những luận điệu sai trái đó, vì cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến đấu chính nghĩa nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Thắng lợi vĩ đại 30/4/1975 là kết quả của cả một quá trình đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Do đó, chiến thắng 30/4/1975 thuộc về dân tộc Việt Nam, Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại; thắng lợi của sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tình thời đại sâu sắc”[4].
Trong giai đoạn cách mạng mới, dù tình hình quốc tế, khu vực luôn có những diễn biến phức tạp, khó lường; sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn phải vượt qua nhưng tầm vóc, ý nghĩa và giá trị của chiến thắng 30/4/1975 - Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước mãi trường tồn. Đó vừa là niềm tự hào, là động lực và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
ST

SỨC SỐNG VÀ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC CỦA THI ĐUA YÊU NƯỚC THEO LỜI DẠY CỦA BÁC

 76 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2024), sức sống và giá trị hiện thực của phong trào thi đua yêu nước sâu rộng, thiết thực trên cơ sở thấm nhuần sâu sắc vai trò của quần chúng Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng và thi đua yêu nước chính là phát huy sức mạnh nội lực của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước vẫn hiển hiện sinh động trong thực tiễn.

“Thi đua là yêu nước”
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của mỗi người dân và yêu nước luôn gắn liền với bổn phận, trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước, nên yêu nước không chỉ là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, mà còn là một giá trị tinh thần, luôn luôn đồng hành cùng dân tộc trong hành trình dựng nước và giữ nước. Là Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chú trọng khơi dậy, phát huy truyền thống yêu nước, nhân nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc, mà Người còn nhấn mạnh rằng, “dưới chế độ tư bản, thực dân và phong kiến quyết không thể có phong trào thi đua yêu nước (…) Chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ và nhân dân lao động làm chủ nước nhà, thì mới có phong trào thi đua”. Vì thi đua “là một cách yêu nước thiết thực và tích cực”, cho nên, khi mỗi người dân hiểu được rằng “thi đua ái quốc là ích lợi cho mình, ích lợi cho gia đình mình và lợi ích cho làng cho nước, cho dân tộc”, thì sẽ hăng hái tham gia để thi đua yêu nước ngày càng phát triển, trở thành một phong trào cách mạng quần chúng rộng rãi, sâu sắc, phong phú.
Và cũng vì thế, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, để tiếp tục phát huy sức mạnh của các tầng lớp Nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, theo ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27/3/1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc; trong đó, nêu rõ: “Mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc mau thành công”. Tiếp đó, ngày 1/6/1948 Người ký Sắc lệnh số 195-SL thành lập Ban Vận động thi đua ái quốc Trung ương và các cấp; ngày 11/6/1948, Người ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc.
Trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Mục đích của thi đua là để “Diệt giặc đói, Diệt giặc dốt, Diệt giặc ngoại xâm” nhằm thực hiện “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc”. Vì thế, “cách làm là dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”, nên:“Các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia công việc, Các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, Đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp, Đồng bào công nông thi đua sản xuất, Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh, Nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự Nhân dân, Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng”... Với tinh thần và ý chí thi đua yêu nước tích cực của mọi giai tầng trong xã hội như thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng rằng “ai cũng thi đua, ai cũng tham gia kháng chiến và kiến quốc. Phong trào sôi nổi. Thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng khắp về mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân, và sẽ giúp chúng ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm mưu của địch để đi đến thắng lợi cuối cùng”.
“Thi đua là đoàn kết”
Vì thi đua yêu nước là hoạt động sáng tạo, tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống như lao động, sản xuất, học tập… ở hậu phương cũng như trên trận tuyến đánh quân thù ngoài tiền tuyến; được diễn ra trong suy nghĩ, hành đông, trong công việc thường ngày của mỗi người, nên đó là một trong những biểu hiện của lòng yêu nước, của tinh thần, ý chí và sự nỗ lực, hy sinh phấn đấu vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Vì thế, cũng sẽ không ngạc nhiên khi Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất” và thông qua phong trào thi đua yêu nước, ý thức cộng đồng và tinh thần đoàn kết của mỗi người được nhân lên, được phát huy để nhân nguồn sức mạnh nội lực của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực tế cũng cho thấy, các phong trào thi đua yêu nước đã trở thành động lực quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh, ý chí của tinh thần “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” thông qua các phong trào thi đua yêu nước “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”; “Bình dân học vụ”; “Hũ gạo kháng chiến”; “Chiến sĩ ở trước mặt trận thi đua giết giặc lập công, đồng bào ở hậu phương thi đua tăng gia sản xuất”; “Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương”; “Ba nhất” trong Quân đội; “Gió Đại Phong” trong nông nghiệp; “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp; “Hai tốt” trong ngành giáo dục; “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” trong thanh niên; “Ba đảm đang” trong phụ nữ; “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công”, “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt” hay “Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”… trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975) đã góp phần làm nên “thành công, thành công, đại thành công” của sự nghiệp cách mạng.
Đồng thời, những bài học kinh nghiệm cùng ý nghĩa, giá trị hiện thực từ các phong trào thi đua yêu nước trong những năm tháng đầy gian khó đó không chỉ cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước “chẳng những bồi dưỡng tinh thần đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc ta, mà lại làm cho nhân dân ta đoàn kết với nhân dân lao động thế giới” được thực hiện sinh động trên thực tiễn, mà còn chứng minh rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc của các cơ quan, ban, ngành chức năng, thi đua yêu nước đã trở thành phong trào rộng khắp; đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và thực sự lan tỏa sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Tiếp tục đẩy mạnh thi đua yêu nước để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kể từ khi cả nước thống nhất cùng chung sức, đồng lòng xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc cách đây 76 năm cũng như trong những bài viết, bài phát biểu khác của Người đều được tiếp tục triển khai trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phù hợp điều kiện cụ thể của mỗi giai đoạn cách mạng.
Luôn xác định rõ yêu nước là mẫu số chung của mọi người Việt Nam, cho nên mọi giai tầng, không phân biệt giới tính, tôn giáo, thành phần, già hay trẻ; dù ở miền xuôi hay miền ngược, ở trong nước hay ngoài nước đều tích cực thi đua là để “ích nước, lợi nhà” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong các phong trào thi đua, chúng ta thấy đủ các dân tộc: Kinh, Thổ, Mán, Mường,v.v.. đủ các tín ngưỡng, lương có, giáo có, đủ các tầng lớp binh, công, nông, sĩ, đủ các hạng người già, trẻ, gái, trai” đều cụ thể hóa lòng yêu nước bằng hành động thực tế. Tiếp nối truyền thống đó, từ sau năm 1975, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, phong trào thi đua yêu nước luôn nhận được sự hưởng ứng rộng khắp, sôi nổi và mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân; ngày càng được tổ chức và thực hiện sáng tạo, linh hoạt với nội dung cụ thể, thiết thực, hình thức phong phú trên mọi lĩnh vực, trên khắp mọi miền của Tổ quốc...
Đặc biệt, trong mấy nhiệm kỳ gần đây, các phong trào thi đua yêu nước thường được tổ chức gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với việc triển khai Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị khóa XI về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" trong cả hệ thống chính trị và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cùng các Quyết định về nêu gương… trong cả hệ thống chính trị .
Đó chính là học và làm theo Bác về thi đua yêu nước trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an) và các tổ chức Hội (phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh, văn học - nghệ thuật…),v.v… Trong đó, không thể không nhắc đến các phong trào thi đua “Lao động giỏi - Lao động sáng tạo” của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; “Cựu chiến binh gương mẫu” của Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Thi đua Quyết thắng”, “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong quân đội; “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” trong công an hay “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”… lan tỏa sâu rộng từ Trung ương đến địa phương, ở tất cả các cấp, các ngành.
Thi đua yêu nước theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là “phải có sự lãnh đạo đúng. Trước khi thi đua phải chuẩn bị đầy đủ (giải thích cổ động, xem xét kế hoạch mỗi nhóm, mỗi người) trong lúc thi đua phải thiết thực đôn đốc, giúp đỡ, sửa đổi. Sau đợt thi đua, phải thiết thực kiểm tra, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm, khen thưởng những người kiểu mẫu, nâng đỡ những người kém cỏi”; phong trào thi đua phải phong phú, đa dạng, toàn diện, thiết thực, hiệu quả, thường xuyên và liên tục để thông qua đó mà thúc đẩy sự ham hiểu biết, sáng tạo, tiến bộ và gom góp sáng kiến, rút ra kinh nghiệm; trao đổi, tổng kết kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm để không chỉ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người mà quan trọng hơn là cải tạo bản thân mỗi người, là để “chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta”. Cũng theo Người, việc tổ chức phong trào thi đua yêu nước cần thiết thực, tránh bệnh hình thức; các phong trào thi đua phải gắn liền với việc lựa chọn, xây dựng gương điển hình và bình bầu thi đua đúng, công khai, chặt chẽ để khen thưởng đúng người, đúng việc sẽ không chỉ giúp cho thi đua đi vào thực chất, mà việc khen thưởng cũng được chính xác, góp phần động viên mọi người cùng tích cực thi đua “vượt qua mọi sự khó khăn, để mà tranh lấy thắng lợi”.
Vì thế, thực hiện thi đua yêu nước theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ góp phần thiết thực khơi dậy cái “chân, thiện, mỹ” mà còn thúc đẩy sự nỗ lực, tính nhân văn, hướng thiện, đoàn kết, sáng tạo… của mỗi con người, để tự bản thân mỗi người từng bước đẩy lùi cái ác, cái tiêu cực, lạc hậu, làm cho cái thiện sinh sôi, nảy nở. Và cũng vì thế, có thể khẳng định rằng: Học và làm theo Bác về thi đua yêu nước không chỉ là thiết thực rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tinh thần sẵn sàng dám làm, dám chịu trách nhiệm để đem lại lợi ích cho nhân dân, cho xã hội và cho đất nước, mà còn tạo ra một môi trường rộng rãi để mỗi người dân nói chung, cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng gương mẫu đi đầu, thống nhất giữa nói và làm, nhất là nói trước, làm trước để phụng sự Tổ quốc và nhân dân với tinh thần tận tụy, công bình, liêm chính nhằm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”./.
ST