Theo Forbes, Việt Nam lọt vào top 2 các đối tác thương mại của Mỹ có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất kể từ đầu năm 2020.
Thứ Năm, 24 tháng 9, 2020
BÁO MỸ KINH NGẠC TRƯỚC SỰ PHÁT TRIỂN THẦN TỐC CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
LÃO CHĂN BÒ GỬI GIÁO SƯ MẠC VĂN TRANG!
NHÂN CÁCH!
Nhân tiện nhắc lại chuyện cũ, cũng là con gái của Doanh nhân nhưng cô ấy Thảo Tiên bệnh nhân mắc covid 19, đã được gia đình thuê chuyên cơ riêng đưa cô ấy về nước để tránh làm ảnh hưởng tới xã hội. Khi cô ấy khỏi bệnh, bố của cô ấy đã đóng góp 27 tỉ, cho mượn 5000 mét vuông mặt bằng cho công tác phòng dịch, ngoài ra ông còn ủng hộ 6 tỷ mua thiết bị y tế. Tặng 750.000 khẩu trang và 16.500 bộ bảo hộ chống Covid-19 cho Philippines. Vậy người nào đó 2 lần nói dối Tổ Quốc có xứng đáng mang quốc tịch Việt Nam hay không? nói Việt Nam kì thị vì bạn giàu...? Vậy cô gái bên trên nghèo chăng? Tại sao cô ấy và gia đình cô ấy được mọi người yêu mến? Khi cô ấy khỏi bệnh, bố của cô ấy đã đóng góp 27 tỉ, cho mượn 5000 mét vuông mặt bằng cho công tác phòng dịch, ngoài ra ông còn ủng hộ 6 tỷ mua thiết bị y tế. Tặng 750.000 khẩu trang và 16.500 bộ bảo hộ chống Covid-19 cho Philippines. Vậy người nào đó 2 lần nói dối Tổ Quốc có xứng đáng mang quốc tịch Việt Nam hay không? nói Việt Nam kì thị vì bạn giàu...? Vậy cô gái bên trên nghèo chăng? Tại sao cô ấy và gia đình cô ấy được mọi người yêu mến?
ĐẠI LỘ HỒ CHÍ MINH Ở ANGOLA
CÔNG ĐIỆN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN XUÂN PHÚC VỀ PHÒNG, CHỐNG DỊCH COVID-19
Ngày 24-9, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ban hành Công điện 1300/CĐ-TTg về việc phòng, chống dịch Covid-19.
Công điện nêu rõ, dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp tại nhiều nước trên thế giới. Mỗi ngày ghi nhận khoảng 250.000 ca mắc mới, khoảng 5.000 người tử vong và chưa có dấu hiệu chững lại; thậm chí đã lây lan nhanh trở lại tại một số nước sau khi nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội. Theo nhiều dự báo, dịch bệnh có nguy cơ bùng phát mạnh tại nhiều nước trong thời gian tới.
Việt Nam đã cơ bản kiểm soát được dịch bệnh. 22 ngày liên tiếp không phát hiện ca mắc mới trong cộng đồng. Cả nước đã tăng cường triển khai các giải pháp thực hiện mục tiêu kép, đạt kết quả bước đầu. Đây là thành quả quan trọng góp phần ổn định và phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, nguy cơ dịch bệnh vẫn thường trực, nhất là từ người nhập cảnh nhưng không chấp hành nghiêm quy định về cách ly, giám sát y tế, từ người nhập cảnh trái phép, nguồn bệnh từ các đợt dịch trước nhưng chưa được phát hiện, từ hàng hóa nhập khẩu… Tại một số nơi, ngay cả trong một số cơ quan nhà nước, nhân dân đã bắt đầu xuất hiện tâm lý chủ quan, thực hiện không đúng, không đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch.
Để duy trì vững chắc thành quả phòng, chống dịch, tạo cơ sở thúc đẩy các hoạt động phục hồi, phát triển nền kinh tế, bảo vệ sức khỏe nhân dân, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục đề cao cảnh giác, tuyệt đối không lơ là, chủ quan trước nguy cơ dịch bệnh; tổ chức thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch Covid-19.
Công điện nêu rõ Bộ Y tế hướng dẫn cụ thể việc thực hiện nghiêm biện pháp: Đeo khẩu trang khi ra khỏi nhà, tại các địa điểm và trên phương tiện giao thông công cộng; rửa tay thường xuyên bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn; hạn chế tụ tập đông người tại nơi công cộng; giữ khoảng cách an toàn khi tiếp xúc.
Bên cạnh đó, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh, bảo đảm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc biện pháp phòng, chống dịch trong phạm vi quản lý, xử lý nghiêm minh trường hợp vi phạm.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các địa phương chú trọng phòng, chống dịch tại các đô thị lớn, địa bàn tập trung đông dân cư, các khu vực thường xuyên tập trung đông người, trường học, khu công nghiệp, chợ, siêu thị, cơ sở cách ly…; đặc biệt, chú ý bảo đảm an toàn, quyết không để dịch bệnh xuất hiện, lây lan trong các cơ sở y tế; xét nghiệm ngay đối tượng có biểu hiện ho, sốt trong cộng đồng; thực hiện biện pháp bảo đảm an toàn cho người cao tuổi, người có bệnh lý nền.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố chủ động chuẩn bị các kịch bản, bảo đảm cơ sở vật chất, nhân lực đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch; thường xuyên tổ chức diễn tập, tập huấn các biện pháp ứng phó với các tình huống dịch bệnh có thể xảy ra.
Từng cơ quan, đơn vị, tổ chức phải có phương án cụ thể và thường xuyên rà soát, kiểm tra, đánh giá mức độ an toàn phòng, chống dịch theo các tiêu chí do Bộ Y tế quy định. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm về phòng, chống dịch tại cơ quan, đơn vị và trong phạm vi quản lý.
Trường hợp xuất hiện dịch bệnh, tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp khoanh vùng gọn, cách ly triệt để, xét nghiệm ngay ở phạm vi cần thiết, kịp thời truy vết nhanh, bảo đảm ngăn chặn, kiên quết không để dịch lây lan trên diện rộng.
Bên cạnh đó, Bộ Y tế rà soát, hoàn thiện các quy định, hướng dẫn về phòng, chống dịch trong các hoạt động kinh tế - xã hội; bảo đảm rõ quy trình, thủ tục, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, người có thẩm quyền trong thực hiện phòng, chống dịch, nhất là đối với các cơ sở y tế và quản lý người nhập cảnh khi mở lại các đường bay thương mại quốc tế.
Bộ Y tế kịp thời hỗ trợ điều trị các ca bệnh nặng vượt quá khả năng ứng phó của địa phương; tăng cường kiểm tra, giám sát công tác phòng, chống dịch tại các bộ, ngành, địa phương.
Đồng thời, Bộ Y tế hướng dẫn cụ thể việc bảo đảm an toàn các cơ sở y tế, có tiêu chí đánh giá an toàn đối với từng khoa, phòng và cơ sở y tế; tăng cường đăng ký khám bệnh qua mạng; siết chặt thực hiện phân luồng người đi lại giữa các khoa trong nội bộ cơ sở y tế; có phương án xét nghiệm, kết nối giữa các bệnh viện trong việc tiếp nhận, xét nghiệm, giới thiệu xét nghiệm người bệnh khi có biểu hiện mắc COVID-19; hết sức chú trọng bảo đảm an toàn cho bệnh nhân nặng điều trị tại cơ sở y tế. Từng khoa, phòng thuộc cơ sở y tế đều phải kiểm tra, đánh giá hàng ngày về mức độ bảo đảm an toàn. Người đứng đầu cơ sở y tế, cơ quan chủ quản của cơ sở y tế chịu trách nhiệm về kết quả phòng, chống dịch tại cơ sở y tế và địa bàn phụ trách.
Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động áp dụng biện pháp phù hợp đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch, đồng thời không để ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân.
Bộ Công an; Bộ Quốc phòng; UBND cấp tỉnh tiếp tục kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các trường hợp nhập cảnh trái phép.
Bộ Quốc phòng tiếp tục quản lý chặt chẽ các cơ sở cách ly tập trung.
Bộ Công an, chính quyền và ngành Y tế địa phương chịu trách nhiệm tổ chức cách ly tại cơ sở lưu trú, giám sát y tế chặt chẽ trường hợp nhập cảnh, không để dịch bệnh lây chéo trong cơ sở cách ly và lây lan ra cộng đồng.
Công điện nêu rõ: Việc mở lại các đường bay thương mại quốc tế phải bảo đảm an toàn. Tất cả người nhập cảnh đều phải khai báo y tế, xét nghiệm, cách ly, giám sát y tế phù hợp và thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định.
Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Y tế; Đài Truyền hình Việt Nam; Đài Tiếng nói Việt Nam; Thông tấn xã Việt Nam; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các cơ quan báo chí tiếp tục truyền thông về phòng, chống dịch; chú trọng truyền thông về thực hiện thông điệp 5K, cài đặt và sử dụng các ứng dụng khai báo y tế tự nguyện, Bluezone./.
Hải Đăng st
Đấu tranh, phản bác thông tin sai trái, thù địch
Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng internet, các trang mạng xã hội để đăng tải thông tin xấu, độc, bịa đặt, sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc, vu cáo, nói không đúng sự thật về các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an và gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, kêu gọi biểu tình, tụ tập, tạo điểm nóng,… Những thông tin xấu, độc đã tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và Nhân dân nghi ngờ, hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, đồng thời tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân và cộng đồng xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của đất nước.
Thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch
thường tập trung vào một số hoạt động như: Xuyên tạc, cài cắm, quảng bá hình cảnh, biểu
tượng, cờ của các tổ chức phản động, phô trương thanh thế của các hội, nhóm
thành lập trái pháp luật trong vùng đồng bào dân tộc. Thông tin sai lệch về các
vấn đề trong dân tộc, tôn giáo để phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, kích
động hận thù; Cắt xén, gán ghép hình ảnh, video từ báo đài chính thống tạo ra
các tin giả gây hoang mang dư luận; phủ nhận những thành tựu lãnh đạo của Đảng.
Làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân mất phương hướng về chính trị,
tư tưởng, thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Thông tin
xuyên tạc, sai sự thật về những vụ việc bức xúc, nổi cộm tại địa phương, đơn vị
được nhiều người quan tâm; lợi dụng sơ hở, thiếu sót, tiêu cực của một vài cá
nhân, địa phương, đơn vị trong thực hiện chủ trương, chính sách để thổi phồng,
quy chụp đó là sai lầm mang tính hệ thống của Đảng, Nhà nước nhằm kích động tâm
lý bất mãn, chống đối…
THƯỜNG XUYÊN TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”
Trong bối cảnh hiện nay, có rất nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng
đến bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đáng chú ý là từ mặt
trái của cơ chế thị trường, tác động xấu từ các quan điểm sai trái, từ sự kích
động, lôi kéo, móc nối của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch, phản
động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề
dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác
của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ xúy cho lối sống hưởng thụ, thực
dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa”. Đồng thời, chúng còn “cấu kết với các phần tử
cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng
tinh vi, nguy hiểm hơn”. Đặc biệt, chúng tìm mọi phương kế tuyên truyền xuyên
tạc, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; phủ nhận bản chất cách mạng,
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; gieo rắc vào cán bộ,
đảng viên tư tưởng hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Bài học đắt giá rút ra từ thực trạng như đã nêu trên là mọi cán
bộ, đảng viên dù đảm nhiệm công việc gì, trên cương vị nào, trọng trách gì cũng
phải thường xuyên nêu cao ý thức rèn luyện, tu dưỡng. Chỉ có thông qua tự rèn
luyện, tu dưỡng phấn đấu mỗi cán bộ, đảng viên mới không ngừng bồi đắp nâng cao
bản lĩnh chính trị, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” cho bản
thân trước mọi tác động tiêu cực từ bên ngoài. Để không thoái hóa, biến chất, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị thật sự kiên định, vững vàng. Dưới
góc nhìn chính trị tư tưởng, sự vững vàng về bản lĩnh, ý chí, niềm tin có vai
trò rất quan trọng quyết định “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” của mỗi cán
bộ, đảng viên. Bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết định sự
sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên cũng như của toàn Đảng. Bản
lĩnh chính trị không phải tự nhiên mà có, không phải có được trong một sớm một
chiều, mà đó là sản phẩm của quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập, nghiên
cứu, rèn luyện thường xuyên, kiên trì và bền bỉ. Những tác động xấu từ mặt trái
của xã hội, từ các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng
là không hề nhỏ. Hằng ngày, hằng giờ những tư tưởng, quan điểm sai trái, những
yếu tố tiêu cực len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, tác động đến mọi
đối tượng. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến bản lĩnh chính trị đòi hỏi
mỗi cán bộ, đảng viên và toàn Đảng ta phải có những giải pháp đồng bộ, thống
nhất và quyết liệt.
Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu đó là phải coi trọng
đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng.
Đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài nhằm củng cố và tăng cường bản lĩnh chính
trị trong Đảng, bồi đắp lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin khoa học, tạo sự
thống nhất cao cả về ý chí và hành động trong toàn Đảng để thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng giai đoạn. Quan trọng là vậy
nhưng trên thực tế thời gian qua không ít cấp ủy, cán bộ lãnh đạo các cấp nhận
thức chưa đúng, chưa thống nhất, nên chưa thấy hết trách nhiệm của
mình với công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Do đó, muốn đổi mới, nâng cao
chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng thì trước tiên phải đổi mới
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí của
công tác này. Trên cơ sở thống nhất nhận thức, mỗi tổ chức đảng và từng cán bộ,
đảng viên cần xác định đây là trách nhiệm chính trị của mình.
Mặt khác, việc tiến hành công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, duy trì chế độ học tập, sinh hoạt chính trị ở không ít địa
phương, cơ sở lâu nay vẫn nặng về hình thức. Vấn đề đặt ra đối với mỗi tổ chức
Đảng hiện nay là phải đổi mới mạnh mẽ về phương pháp tiến hành công tác giáo
dục chính trị tư tưởng theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phù hợp môi
trường, điều kiện công tác của cán bộ, đảng viên, có chiều sâu, khoa học và
hiệu quả thiết thực. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tuyên
truyền phải tập trung làm cho mọi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt các cấp hiểu rõ bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo trong đường lối
lãnh đạo của Đảng ta.
Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng
được thể hiện tập trung ở chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương, nghị quyết của Đảng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng
phải tập trung cao độ vào xây dựng ý thức, niềm tin và cổ vũ, khích lệ ý chí,
quyết tâm của cán bộ, đảng viên và nhân dân để đưa nghị quyết của Đảng đi vào
cuộc sống. Hiệu quả thực hiện nghị quyết của Đảng trên thực tế đó chính là
thước đo bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn Đảng. Cơ sở
nền tảng cho sự vững vàng bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên là
sự kết hợp giữa trình độ lý
luận, trình độ chuyên môn nghiệp vụ với kinh nghiệm rút ra từ hoạt động thực
tiễn. Để có bản lĩnh chính trị thực sự vững vàng, từng cán bộ, đảng viên vừa
phải tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp
vụ, vừa phải lăn lộn vào phong trào hành động cách mạng để thử lửa, tôi luyện,
tu dưỡng, phấn đấu. Không chỉ có khả năng và “sức đề kháng” tốt, trên cơ sở bản
lĩnh chính trị vững vàng, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải chủ động, tích cực
tham gia đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần làm
thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời
kỳ mới./.
Nhận diện thủ đoạn lợi dụng “thư ngỏ, góp ý” Đại hội XIII để chống phá Đảng, nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến hành các bước chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII. Lợi dụng thời điểm diễn ra sự kiện quan trọng này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, chống phá dưới nhiều hình thức, như “gửi thư”, “trao đổi”, “góp ý cho Đại hội XII”…
Họ cho rằng, Đại hội XIII là thời cơ để đổi
mới chính trị theo hình thức đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xây dựng nhà
nước dựa trên nền tảng “xã hội dân sự”. Thực chất, ẩn khuất đằng sau những góp
ý này là ý đồ xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Hình thức “gửi thư”, “trao đổi”, “góp ý cho
Đại hội XII” như trên đã trở thành hoạt động mang tính “truyền thống” mỗi kỳ
Đại hội Đảng. Nếu thiếu nhận thức chính trị, chỉ nhìn qua những bản góp ý, trao
đổi được chuẩn bị khá dày dặn này (có bản dài đến 50 trang) sẽ khiến nhầm lẫn
“sự góp ý tâm huyết”. Song kỳ thực, vấn đề đã trở nên cũ rích từ nhiều kỳ đại
hội trước được diễn đạt lại với giọng điệu mới tinh vi, được che đậy bởi nghệ
thuật sử dụng ngôn từ trau chuốt mà “hoa ngôn xảo ngữ”.
Họ trình bày nhiều vấn đề, nhất là những vụ
việc gây rối mang màu sắc chính trị nơi này, nơi khác, một số người mệnh danh
là “dân chủ” được thể bới lại và tung hô lên “vấn đề đa đảng” hòng đánh lừa
hoặc lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin theo ý đồ chính trị của họ.
Điển hình trên các trang mạng, blog hải ngoại,
mạng xã hội đăng tải bản “Góp ý cho Đại hội XIII”, tác giả sau trình bày những
nội dung như “Đánh giá về tình hình mới”, quy kết Đảng “giác ngộ yếu kém yếu tố
dân tộc, dân chủ đã tạo ra nỗi đau về hòa hợp dân tộc”, dẫn đến “Sự thất bại
nghiêm trọng 43 năm xây dựng CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát huy sức
mạnh quốc gia”… đã giả bộ “khẩn thiết kiến nghị” rằng: Chừng nào ở Việt Nam chỉ
có độc tài, độc nhất một đảng lãnh đạo thì chừng đó không thể nói tới một nền
dân chủ chân chính được; ở Việt Nam muốn phát triển, muốn có dân chủ thực sự
thì phải hội nhập vào xu thế đa đảng, “xã hội dân sự” như nước ngoài.
Nhiều phần tử cơ hội chính trị “theo đóm ăn
tàn”, “tát nước theo mưa” bôi nhọ Đảng, phủ nhận vị trí, vai trò cầm quyền qua
cái gọi là “góp ý”, “trao đổi”. Hay trong “Trao đổi về Đại hội 13, Đảng Cộng
sản Việt Nam”, có vị giáo sư già phản Đảng xuyên tạc “Chủ nghĩa Mác - Lênin như
một cái mành che mắt, vì sự kiên trì Mác - Lênin như một cái chụp lên đầu,
trong chế độ độc đảng toàn trị Việt Nam thì làm gì có dân chủ, do đó không cần
đảng lãnh đạo”...
Các luận điệu dưới mác góp ý trên, kỳ thực là
mưu toan xóa bỏ vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy
định trong Điều 4 – Hiến pháp 2013.
Vấn đề đảng chính trị và dân chủ được tiếp cận
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Với nghĩa chung nhất, phổ biến, dân chủ
là quyền lực thuộc về nhân dân. Còn đảng là tổ chức chính trị mang bản chất
giai cấp, là sự liên kết tự nguyện những người cùng chí hướng và cùng quyền
lợi.
Nói cho cùng, bản chất của đảng chính trị
chính là bản chất giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, thậm chí nhiều giai cấp,
sự xuất hiện của một đảng hay nhiều đảng chính trị cũng là lẽ bình thường. Dù
dưới màu sắc chính trị hay xã hội, dân tộc hoặc tôn giáo, tên gọi có khác nhau,
nhưng đảng thực chất là đảng chính trị, đảng nào cũng đều hướng tới việc cầm
quyền, trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước.
Tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tương
quan lực lượng giữa các giai cấp, các bộ phận trong một giai cấp, mỗi nước có
thể có một đảng hoặc nhiều đảng. Trong thực tiễn, có thể là một đảng lãnh đạo,
hoặc nhiều đảng tranh giành quyền lãnh đạo xã hội theo chế độ nghị trường.
Không có một đảng lãnh đạo hoặc không lập được liên minh lãnh đạo giữa các đảng
thì tất yếu đất nước sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ và hỗn
loạn.
Dân chủ, dưới sự lãnh đạo của đảng chính trị
là dành cho số đông hoặc dành cho thiểu số. Lịch sử các hình thái dân chủ không
nằm ngoài điều đó. Dưới chủ nghĩa tư bản, dân chủ nằm trong tay giai cấp tư
sản, được tổ chức thành nhà nước tư sản và nhà nước đó bảo đảm quyền dân chủ
cho một số ít người là giai cấp tư sản nhằm chống lại đông đảo những người lao
động. Ở đó, dân chủ chân chính là thứ bị giai cấp tư sản lợi dụng, bị biến
thành thứ dân chủ nửa vời, không triệt để ở mọi cấp độ và tính chất, chỉ trong
tay bộ phận thiểu số là giai cấp tư sản chứ không phải quảng đại quần chúng
nhân dân lao động.
Họ nói, dân chủ là phải đa đảng. Nhưng thực tế
lại không như vậy. Chẳng hạn, ở một số nước tư bản như Hoa Kỳ - được mệnh danh
là “thiên đường tự do”, trong suốt hàng trăm năm qua kể từ khi ra đời, trong
bối cảnh nhiều đảng, nhưng thực chất chỉ có hai đảng lớn nhất của giai cấp tư
sản thay nhau cầm quyền. Tuy là hai đảng nhưng khó ai có thể tìm thấy sự khác
nhau về bản chất, về lập trường giai cấp và hệ tư tưởng giữa hai đảng đó, và
nếu có khác nhau thì chỉ ở tên gọi và một số chính sách nhất định mà thôi.
Bên cạnh đó, Đảng Cộng sản với lịch sử hơn 100
năm, người đại diện và đấu tranh không mệt mỏi vì quyền lợi của hàng triệu công
nhân và những lý tưởng cao đẹp, có thời kỳ bị loại ra ngoài vòng pháp luật, các
đảng viên của đảng luôn bị đe dọa, bị khủng bố; luật pháp “khoanh tròn” hoạt động
của Đảng Cộng sản trong không gian chính trị nhỏ bé và ngột ngạt nên chẳng có
cơ may phát triển, còn nói gì đến cái gọi là dân chủ trong việc đấu tranh giành
vị trí cầm quyền?
Trong XHCN, dân chủ là quyền làm chủ đất nước,
xã hội và làm chủ bản thân mình một cách toàn vẹn. Nhà nước thuộc về nhân dân,
do nhân dân bầu ra một cách dân chủ, công khai và vì lợi ích của nhân dân.
Quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân lao động và được quyết định bởi chính
nhân dân. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền XHCN là công cụ trong tay nhân
dân, để nhân dân thực hiện quyền làm chủ một cách toàn diện và tự do, nhằm bảo
vệ quyền làm chủ của chính mình và độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, tôn trọng độc lập, chủ quyền của dân tộc khác.
Bên cạnh đó thể chế chính trị, Nhà nước pháp
quyền đó cũng chống lại tất cả những gì xâm phạm tới và làm tổn hại tới quyền
dân chủ của nhân dân lao động. Do đó, dân chủ XHCN vừa là mục tiêu cao cả, vừa
là động lực căn bản và mạnh mẽ của sự phát triển xã hội và tiến bộ toàn diện
không ngừng của nhân dân, đất nước với phẩm giá con người được thừa nhận một
cách đầy đủ, tôn trọng và bảo vệ.
Lấy hiện trạng ngày nay xã hội còn những tồn
tại, những hạn chế, nhiều vấn đề mất dân chủ, điển hình là những vụ án mà cá
nhân lãnh đạo vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ để quy đó là
lỗi cơ chế, là lỗi hệ thống? Đó là sự quy kết hoàn toàn sai lệch. Không có bất
cứ xã hội nào tránh được những hạn chế khi thực hiện. Với Việt Nam, việc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN tất còn nhiều tồn tại chưa dễ gì gỡ bỏ,
và việc xảy ra những vấn đề mất dân chủ là biểu hiện của tồn tại xã hội mà
chúng ta đang đấu tranh, ngăn ngừa, đó không phải là bản chất của xã hội XHCN.
Như vậy, có thể thấy bằng giọng điệu tinh vi
để vu khống chế độ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sẽ không có dân chủ, họ
cổ súy tư tưởng bài xích Đảng, từ đó thúc đẩy đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập, đòi thực hiện nhà nước “tam quyền phân lập”. Phương thức, thủ đoạn rất
nguy hiểm mà phần tử cơ hội chính trị, phản động sử dụng trong các “kiến nghị”,
“góp ý”, “trao đổi” là đề và gửi đến cơ quan cao nhất của Đảng, đến lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, sau đó phát tán trên các trang mạng hải ngoại, blog phản động,
mạng xã hội. Người đọc cần phải tỉnh táo nhận diện, tránh bị cuốn vào trận địa
xảo trá của họ, dẫn tới tư tưởng hoài nghi, hoang mang, dao động, suy giảm niềm
tin với Đảng.
TS
Lê Thế Cương (Học viện Chính trị CAND)
“Diễn biến hoà bình” và “Cách mạng màu” là những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chuyển hoá chế độ xã hội theo chủ nghĩa tư bản.
“Cách mạng màu” thực chất, là cuộc đảo chính chính trị nhằm lật đổ chính quyền thông qua phương thức biểu tình, bạo loạn. Cách làm này đã từng phát huy tác dụng đối với một số nước trên thế giới, Tuy nhiên hiện nay, khi đẩy mạnh chiến lược DBHB, các thế lực thù địch thường tiến hành CMM để thúc đẩy nhanh sự chuyển hoá chế độ xã hội, trước hết và quyết định nhất là thay đổi bộ máy lãnh đạo, điều hành đất nước theo kịch bản của chúng. Do đó, cuộc đấu tranh phòng, chống DBHB phải gắn chặt với đấu tranh phòng ngừa nguy cơ CMM; làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn DBHB của các thế lực thù địch và làm triệt tiêu những điều kiện, thời cơ xảy ra CMM.
Là một trong những nước XHCN còn lại
đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, cho nên, Việt Nam là một trong
những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Chúng đang ra sức đẩy mạnh
chiến lược DBHB và không loại trừ khả năng tiến hành CMM để chống phá cách mạng
nước ta.
KHÔNG ĐỂ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG CHIÊU BÀI “CAN THIỆP NHÂN ĐẠO”
Theo quan điểm của các luật gia quốc tế và cựu Tổng Thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan, thì khái niệm “can thiệp nhân đạo” được giải thích là: Quyền của cộng đồng quốc tế tiến hành hành động can thiệp, kể cả bằng quân sự, vào một quốc gia không có sự chấp thuận của quốc gia đó và của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc với mục đích ngăn chặn, chấm dứt tình trạng vi phạm nhân quyền hàng loạt tại đó. “Can thiệp nhân đạo” không chỉ được thực hiện thông qua sử dụng vũ lực, mà còn bao gồm cả các hoạt động can thiệp không sử dụng vũ lực, như: chính trị, ngoại giao, kinh tế...
Tuy rằng, các tuyên bố trên của
Đại hội đồng Liên hợp quốc không ràng buộc về mặt pháp lý, song đã cho thấy
quan điểm giống nhau giữa các quốc gia là chống lại việc sử dụng bất hợp pháp
hành vi can thiệp. Như vậy, có thể thấy rõ rằng, “can thiệp nhân đạo” không hề
dựa trên bất kỳ cơ sở pháp lý nào được cộng đồng quốc tế công nhận. Dù vậy,
trong những năm qua, đặc biệt là từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới
vẫn chứng kiến sự tồn tại của “can thiệp nhân đạo”.
Một thực tế khác là, mặc dù
luật pháp quốc tế đặt ra nguyên tắc không can thiệp vào chủ quyền quốc gia,
nhưng theo Điều 39, Hiến chương Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng
các biện pháp phòng ngừa và cưỡng chế với một quốc gia thực tế có hành động đe
dọa hòa bình; phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm lược. Tuy nhiên, bản chất
của sự can thiệp có tính chất tập thể và có điều kiện, chứ không phải là sự can
thiệp tùy tiện của một hoặc một nhóm quốc gia, không bao hàm yếu tố nhân quyền.
Mỹ đã tìm cách mở rộng phạm vi của sự can thiệp, dùng “can thiệp nhân đạo” giải
quyết “các vi phạm nhân quyền”; thực chất là nhằm bảo vệ lợi ích và sắp xếp lại
trật tự thế giới theo ý đồ của Mỹ hoặc chống lại các “nguy cơ” gây hại cho họ.
Để biện minh cho hoạt động can
thiệp, Mỹ và đồng minh cho rằng, trong trường hợp một quốc gia bị rơi vào nội
chiến hoặc khi chính quyền sở tại áp bức người dân của chính nước họ thì các
quốc gia khác không thể coi các nguyên tắc cơ bản của pháp lý quốc tế về tôn
trọng chủ quyền và không can thiệp là bất khả xâm phạm. Với việc pháp điển hóa
nhân quyền trong luật quốc tế, Mỹ đã đẩy khái niệm chủ quyền quốc gia xuống
hàng thứ yếu. Để đảm bảo nhân quyền, theo họ, cần thiết phải giới hạn, thậm chí
xâm phạm chủ quyền.
Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ VẤN ĐỀ CÓ Ý NGHĨA CHIẾN LƯỢC, QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đại đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là tư tưởng cơ bản, nhất quán xuyên suốt trong tiến trình của cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược để tập hợp lực lượng có thể tập hợp được nhằm tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của dân tộc của giai cấp. Khi Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc (10/1/1955), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là thủ đoạn chính trị”[1].
DIỄN BIẾN ĐẠI DỊCH COVID-19 Ở MỸ
Số người chết ở Hoa Kỳ do đại dịch coronavirus đã vượt qua 200.000 người. Đất nước giàu nhất thế giới chỉ mất bảy tháng để đạt được cột mốc nghiệt ngã này.
Hoa Kỳ đã thông báo trường hợp tử
vong thứ 200.000 do nhiễm COVID-19 vào thứ Ba, 22/9/2020, theo dữ liệu được
tổng hợp bởi Đại học Johns Hopkins. Theo trang https://www.worldometers.info/, đến
ngày 24/9/2020, toàn nước Mỹ đã có 7.139.036 người nhiễm virus với 206.560
người chết do virus COVID-19.
Đến cuối tháng 2/2020, Hoa Kỳ chỉ mới
xác nhận trường hợp tử vong do virus corona đầu tiên. Kể từ đó, quốc gia này đã
ghi nhận nhiều ca tử vong và nhiễm COVID-19 hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành
tinh về tổng số.
Con số tử vong thực sự của Hoa Kỳ
được cho là cao hơn nhiều, vì nhiều trường hợp tử vong có thể là do các nguyên
nhân khác, đặc biệt là vào giai đoạn đầu của đại dịch trước khi việc xét nghiệm
được thực hiện một cách rộng rãi.
Jennifer Nuzzo, một nhà nghiên cứu
về sức khỏe cộng đồng của Đại học Johns Hopkins cho biết: “Hoàn toàn không thể
tin được rằng chúng tôi đã đạt đến đỉnh điểm này”.
Với gần 330 triệu dân, Hoa Kỳ chiếm
chưa đến 5% dân số thế giới, nhưng số ca tử vong do COVID-19 chiếm đến hơn 20%
số ca tử vong do COVID-19 trên toàn cầu. Đến ngày 24/9/2020, toàn thế giới đã
có hơn 32 triệu người đã bị nhiễm coronavirus, với khoảng 980.000 trường hợp tử
vong.
Đại dịch phủ bóng u ám lên cuộc bầu cử
Kỷ lục được công bố chỉ sáu tuần
trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, trong khi việc phòng chống đại dịch
COVID-19 là chủ đề trọng tâm của chiến dịch tranh cử của đương kim tổng thống Donald
Trump.
Những người chỉ trích trong nước
Mỹ cho rằng tổng thống đã liên tục thất bại và không giải quyết được cuộc khủng
hoảng đại dịch một cách thỏa đáng. Bản thân Trump cũng thường xuyên tìm cách hạ
thấp mức độ nghiêm trọng của đại dịch, nhấn mạnh rằng đất nước đã chống dịch
hiệu quả hoặc cho rằng virus sẽ "biến mất".
Trump cũng tuyên bố vắc xin
COVID-19 có thể sẵn sàng trước ngày bỏ phiếu bầu cử tổng thống vào ngày 3/11/2020.
Đại dịch sẽ còn tồi tệ hơn
Các thông điệp hỗn tạp từ Nhà Trắng đã làm trầm trọng thêm các phản ứng chắp vá của các bang trên khắp đất nước trong việc hạn chế sự lây lan của virus. Ngoài ra, đại dịch đã bộc lộ sự bất bình đẳng sâu sắc trong nước Mỹ. Gần 30 triệu người trong nước thiếu bảo hiểm y tế và COVID-19 tác động không cân đối đến các cộng đồng thiểu số.
Các số liệu mới nhất cho thấy cuộc khủng hoảng đang ngày càng tồi tệ. Số người chết tiếp tục tăng, trung bình khoảng 770 người mỗi ngày. Các chuyên gia y tế cảnh báo rằng nếu không thực hiện phổ cập các biện pháp chống dịch, sử dụng khẩu trang rộng rãi, các biện pháp giãn cách xã hội, truy tìm tiếp xúc và tăng cường năng lực xét nghiệm, đại dịch sẽ vẫn tồn tại và tiếp diễn, đặc biệt là trong những tháng mùa thu và mùa đông lạnh hơn trong thời gian tới. Một dự báo của Đại học Washington gần đây đã dự đoán nước Mỹ có thể chứng kiến 400.000 ca tử vong do coronavirus vào tháng 1/2021.
NHẬN THỨC ĐIỀU KIỆN MỚI CỦA CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chúng ta thực hiện bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển, sản xuất nhỏ, thủ
công phân tán là chủ yếu. Đây là sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa chứ không phải là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Những biến đổi to lớn về
kinh tế, xã hội do công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng mang lại
trong thời gian qua làm cho cơ cấu giai cấp, vị trí, mối quan hệ giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội đã có nhiều thay đổi, không giống như thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ, cũng không như lúc mới bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Ngày nay, lợi ích cơ bản, lâu dài của các giai cấp trong cộng đồng Việt
Nam thống nhất với lợi ích dân tộc; cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai
con đường vẫn còn nhưng gắn liền với sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, chống
nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển. Trong giai
đoạn hiện nay, khi các lực lượng thù địch trong nước và trên thế giới luôn tìm
cách ngăn cản, phá hoại cuộc cách mạng của nhân dân ta, không phải ai cũng nhận
thức đúng và tự giác phấn đấu vì mục tiêu trên. Cho nên, nếu không đấu tranh
quyết liệt với các lực lượng ngăn cản việc thực hiện mục tiêu đó thì không thể
biến mục tiêu thành hiện thực.
Trong điều kiện đó, để thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, chúng
ta tất yếu phải phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có
thành phần kinh tế tư nhân và tư bản tư nhân; phải tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; phải mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới (mà nền
kinh tế thế giới hiện nay thực chất là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa); phải vừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức đúng về phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là một học thuyết
khoa học, là linh hồn của chủ nghĩa Mác, là đỉnh cao của tư duy khoa học mà
nhân loại đã đạt được thông qua bộ óc thiên tài của C.Mác vào giữa thế kỷ XIX.
Sau đó đã được Ph.Ăngghen bổ sung và hoàn thiện vào cuối thế kỷ XIX và
V.I.Lênin phát triển trong điều kiện cách mạng mới vào đầu thế kỷ XX. Sau khi
tiếp thu, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thấy được hạt nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là Phép biện chứng duy vật với
nhận xét rất cô đọng: “chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”.
có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp
luận hiện chứng duy vật, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà
còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy luật
trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ là sự giải
thích đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa
học của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát mối liên hệ phổ
biến và sự phát triển, những quy luật phổ biến của các quá trình vận động, phát
triển của tất thảy mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy,
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp những nguyên tắc
phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới,
đó không chỉ là nguyên tắc phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận
toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, phưong pháp luận phân tích mâu thuẫn
nhằm tìm ra nguồn gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển,
V.V.. Với tư cách đó, phép biện chứng duy
vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải tạo
thế giới.
“Phép biện chứng… là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”, “là chìa khóa để giúp con người nhận thức và chinh phục
thế giới”.
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ CƠ SỞ CHO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI
Việc phát hiện ra quan niệm
duy vật về lịch sử, C.Mác không chỉ loại bỏ được khiếm khuyết căn bản của những
lý luận lịch sử trước đó và "lần đầu tiên” giúp chúng ta “nghiên cứu một
cách chính xác như khoa lịch sử tự nhiên, những điều kiện xã hội của đời sống
quần chúng và những biến đổi của những điều kiện ấy", "mở đường cho
việc nghiên cứu rộng rãi và toàn diện quá trình phát sinh, phát triển và suy
tàn của các hình thái kinh tế xã hội".
C.Mác đã khám phá ra các
quy luật của sự phát triển xã hội, xây dựng nên học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội và quan
niệm về sự phát triển xã hội với tư cách một quá trình lịch sử - tự nhiên.
C.Mác đã "làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế" và trong tất cả mọi
quan hệ xã hội, "làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuất,
coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ
khác"; đồng thời, "đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản
xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất".
Bằng cách đó, V.I.Lênin khẳng định, C.Mác đã "có được một cơ sở vững chắc
để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên".
Trong thời đại ngày nay,
trước sự phát triển hết sức đa dạng và vô cùng phức tạp của các dân tộc, các quốc
gia thì quan niệm duy vật về lịch sử mà nội dung cốt lõi là lý luận hình thái
kinh tế - xã hội của C.Mác vẫn cứ là công cụ sắc bén nhất giúp chúng ta nhận thức
và tìm ra tiến trình vận động và phát triển của xã hội loài người. Và, hơn nữa,
với lý luận này của C.Mác, chúng ta vẫn hoàn toàn có thể tin tưởng vững chắc rằng,
dẫu lịch sử nhân loại ngày nay có phải trải qua sự vận động và phát triển với
những khúc quanh co, phức tạp, kể cả bước thụt lùi, thì xu hướng chung của nó vẫn
cứ diễn ra theo con đường lịch sử - tự nhiên là sự thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội và đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là một tất yếu khách
quan, bởi đó là quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại.
Ý nghĩa thời đại và sức sống
trường tồn của triết học Mác chính là cơ sở để chúng ta khẳng định xây dựng đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã xác định khi lựa chọn con đường đổi mới là hoàn
toàn đúng đắn và có cơ sở khoa học. Sự đúng đắn và cơ sở khoa học đó bắt nguồn
từ bản chất cách mạng và tính khoa học của triết học Mác. Chúng ta kiên trì chủ
nghĩa Mác - Lênin, triết học Mác - Lênin không có nghĩa là áp dụng một cách
nguyên xi, máy móc, mà là vận dụng một cách khoa học và sáng tạo những tư tưởng,
nguyên lý, quy luật nền tảng của nó trong những điều kiện lịch sử mới và phù hợp
với thực tiễn đất nước. Những thành công rất đáng tự hào của 35 năm đổi mới đã
chứng minh điều đó./.
Tu bo CNXH la mot sai lam
Từ bỏ chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lớn
Quan điểm "phê phán quan điểm cho rằng CNXH sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên và không thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH" không phải bây giờ mới có mà đã có từ lâu, từ sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Nhưng từ đó đến nay, những kẻ chống đối không còn nói nhẹ nhàng như thế, họ thẳng thừng đòi "Đảng Cộng sản Việt Nam tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa...". Và đến thời điểm chúng ta đang tiến hành "phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ", có người mang danh đảng viên, còn ngạo mạn nói rằng, trong lựa chọn đường lối, Đảng ta đã sai lầm không chỉ từ Hội nghị thành lập Đảng (năm 1930) mà là từ Hội nghị Tua (năm 1921). Ý tứ đằng sau những giọng điệu ấy là gì, chắc mỗi người chúng ta đều biết.
Với quan điểm ấy, họ đã sai lầm ít nhất là ở 8 điểm sau đây:
Về sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu:
Thứ nhất: Sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH, chứ không phải sự sụp đổ của CNXH nói chung, với tư cách là một nấc thang phát triển của xã hội loài người, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thứ hai: Chế độ Xô viết ngay từ lúc mới ra đời ở Nga sau Cách mạng Tháng Mười (năm 1917) và sau này trên toàn Liên bang Xô viết, đã tỏ rõ được tính ưu việt so với các chế độ chính trị-xã hội trước đó. Chính quyền Xô viết thực sự là chính quyền của công-nông-binh và của nhân dân lao động nói chung. Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh thắng cuộc chiến tranh can thiệp của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, lập lại hòa bình và xây dựng chế độ mới, thực hiện công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp thành công, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức-Nhật, dẫn tới sự ra đời của hệ thống XHCN thế giới. Vào thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20 sự nghiệp xây dựng CNXH ở Liên Xô đạt được những thành công lớn, khiến cho Đảng và Nhà nước Xô viết ngộ nhận là CNXH đã xây dựng xong và chủ trương Liên Xô bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự thật thì cũng thời gian đó, nhiều nhược điểm và khuyết tật trong nội bộ Nhà nước Xô viết cũng bắt đầu hé lộ, nhất là khi so sánh với những bước phát triển của hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó. Nếu vì sự sụp đổ sau này mà phủ nhận sạch trơn những gì chế độ Xô viết đã giành được là một sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
Thứ ba: Vào những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, sau khi phát hiện sự chậm trễ của mình, Liên Xô đề ra chính sách cải tổ; các nước XHCN Đông Âu cũng đề ra cải cách. Cải tổ và cải cách nhằm mục tiêu tăng tốc về kinh tế và thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi hơn. Sai lầm của Liên Xô và các nước Đông Âu lúc đó là đã sa vào chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng đối lập, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang, dao động trong đông đảo quần chúng, dẫn đến hỗn loạn xã hội, khiến cho ở Đông Âu, chính quyền bị các thế lực thù địch cướp lấy, còn Liên Xô thì chia rẽ sâu sắc trong nội bộ lãnh đạo, cuối cùng chính quyền cũng lọt vào tay nhóm chống đối trong Bộ Chính trị, những kẻ chống chính quyền Xô viết từ rất sớm. Không thấy nguyên nhân trực tiếp của sự sụp đổ là ở đây, mà coi sự sụp đổ là tất yếu của chính quyền Xô viết cũng là sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
Thứ tư: Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên (tuy chưa hết), còn có một nguyên nhân trực tiếp khác nữa là âm mưu và thủ đoạn trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đế quốc chủ nghĩa. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Trong khi lãnh đạo Liên Xô chủ trương thi đua hòa bình thì chúng một mặt đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác đề ra chiến lược "diễn biến hòa bình" để xóa bỏ CNXH mà không cần chiến tranh và súng đạn. Liên Xô và nhiều nước khác đã sa vào cái bẫy này của chúng mà không tự giác phát hiện.
Về sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở Việt Nam.
Thứ năm: Đúng là ngay từ ngày mới thành lập, Đảng ta đã đề ra chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản". Như cách nói ngày nay, đó là làm cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên làm cách mạng XHCN. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được đề ra xuất phát từ thực tế tình hình nước ta lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp, cũng xuất phát từ xu thế phát triển có tính quy luật của thời đại mới sau Cách mạng Tháng Mười Nga là tiến lên CNXH. 87 năm qua, những chặng đường phát triển của cách mạng Việt Nam và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đạt được đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối này, cớ sao vì sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu mà phải từ bỏ nó?
Thứ sáu: Trong xây dựng CNXH, Việt Nam học tập kinh nghiệm của Liên Xô và các nước XHCN đi trước nhưng hoàn toàn không có sự sao chép. Mô hình xây dựng CNXH ở Việt Nam không phải là mô hình Xô viết của Liên Xô, bởi sự khác biệt cơ bản là ở chỗ, một bên là từ cơ sở của chế độ tư bản đi lên, một bên từ độc lập dân tộc đi lên. Bác Hồ từng nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1). CNXH đối với Bác, như ngày nay chúng ta vẫn nói, là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhầm lẫn giữa mô hình xây dựng CNXH ở Việt Nam với mô hình Xô viết là một sự sai lầm lớn.
Thứ bảy: Vào những năm Liên Xô và Đông Âu tiến hành cải tổ và cải cách, Việt Nam cũng đề ra đuờng lối đổi mới. Những nhân tố đầu tiên của đổi mới xuất hiện từ những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ 20, nhưng đổi mới toàn diện trở thành đường lối chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam vào cuối năm 1986 theo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Đổi mới của chúng ta không đi theo vết xe đổ của cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Đảng ta đã nêu rõ 6 nguyên tắc của đổi mới, trong đó vấn đề giữ vững định hướng XHCN, đổi mới chứ không đổi màu là nguyên tắc đầu tiên. Chúng ta cũng bác bỏ quan điểm cho rằng “đổi mới là nửa vời, không nhất quán”. Sự thật là đổi mới của chúng ta qua hơn 30 năm đã đưa lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho Việt Nam càng vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc và CNXH. Đánh đồng đổi mới của Việt Nam với cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu là một sai lầm có dụng ý.
Thứ tám: Tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy: Nhận thức của Đảng ta về CNXH và về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"(2) .
Cương lĩnh nêu lên 8 đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng, trong đó 3 đặc trưng đầu tiên là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Thử hỏi, con đường độc lập dân tộc đi lên CNXH xán lạn như vậy tại sao chúng ta phải từ bỏ chỉ vì mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ?
Trong khi nêu lên 8 sai lầm cơ bản như trên, người viết bài này muốn đặt ra câu hỏi đối với các tác giả đòi chúng ta từ bỏ con đường XHCN, ý đồ thực sự của các vị phía sau đòi hỏi này là gì?
Nha nuoc VN luo ton trong quyen tu do ton giao
Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo
An ninh mang chia khoa tu moi nguio dan
An ninh mạng: "Chìa khóa" từ mỗi người dân
Đến nay, Việt Nam đứng vào hàng "cường quốc" sử dụng internet, với 56,13 triệu người dùng, chiếm 55,7% dân số cả nước, một trong số ít quốc gia mà số người dùng internet nhiều hơn số người không dùng. Internet đã len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, trở thành nền tảng kết nối mọi vấn đề.
Theo Hiệp hội An toàn Thông tin Việt Nam (VNISA) thì năm 2020, dù có sự nỗ lực rất lớn từ các cơ quan chức năng nhưng tình hình an toàn thông tin của Việt Nam vẫn có nhiều diễn biến phức tạp, vẫn xảy ra nhiều vụ tấn công có chủ đích vào hệ thống thông tin của tổ chức, doanh nghiệp lớn, lượng mã độc phát tán vẫn còn nhiều. Cũng theo VNISA, chỉ trong khoảng 3 tháng (từ tháng 8 đến tháng 11-2019), có đến 6.700 website của các cơ quan Nhà nước bị tấn công, Đây là con số công khai và rõ ràng, đến nay thì tính chất, mức độ phức tạp của vấn đề còn tăng hơn nữa. Theo TS Vũ Quốc Khánh, chuyên gia về an ninh mạng, thì qua các con số phản ánh, có thể đánh giá tình hình an toàn thông tin tại Việt Nam đã được cải thiện nhiều, thể hiện qua Chỉ số an toàn thông tin của Việt Nam tăng lên và có xu hướng tăng bền vững. Tuy nhiên, các chuyên gia trong hội thảo Ngày An toàn thông tin Việt Nam năm 2020 về “Kỷ nguyên mới của chiến tranh mạng” nhận định Việt Nam vẫn là một điểm nóng về tấn công mạng. Để môi trường an toàn thông tin tại Việt Nam được phát triển bền vững, lành mạnh hơn nữa, các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức và mỗi công dân cần phải nâng cao nhận thức chung và thống nhất hợp tác trong xử lý các tình huống về an toàn thông tin. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, tổ chức và có sự điều phối chung của Nhà nước, trong đó, lấy con người làm nguồn lực chính, phát triển công nghệ an toàn thông tin phù hợp với đặc thù Việt Nam, đẩy mạnh các hoạt động khuyến khích cộng đồng tham gia vào lĩnh vực hoạt động này.
Người dùng internet ở Việt Nam nhìn chung ý thức tự bảo vệ chưa cao. Một ví dụ đơn giản là mọi người thường thoải mái cài đặt phần mềm từ internet mà không quan tâm đến nguồn gốc của phần mềm đó. Trong khi một khảo sát của BKAV cho thấy, có tới 70% kết quả tìm kiếm những phần mềm phổ biến khi tìm kiếm trên internet là chứa mã độc.
Internet là "con dao hai lưỡi". Nhận thức chung trên toàn thế giới đều khẳng định điều này. Không thể phủ nhận lợi ích to lớn của internet nhưng mặt trái của internet tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống con người, chủ quyền và lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc. Các thế lực thù địch với Việt Nam xác định internet là "công cụ số 1" để tung tin độc hại, xuyên tạc, hạ thấp uy tín cá nhân và tổ chức, gây nghi ngờ, mất đoàn kết nội bộ, khoét sâu vào những yếu kém, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Những chiêu trò trên internet nhiều khi rất đơn giản, như việc xây dựng các website có máy chủ đặt ở nước ngoài, lấy tên miền định danh trùng với tên các đồng chí lãnh đạo cấp cao Việt Nam... nhưng vì thiếu kỹ năng an toàn thông tin, khá nhiều người dùng internet ở Việt Nam tưởng đó là website của các đồng chí lãnh đạo, dẫn tới bị những thông tin trên đó "dắt mũi", "ám thị".
Những thông tin nêu trên cho thấy, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người sử dụng internet và của cộng đồng phải là giải pháp cơ bản, thường xuyên, liên tục, lâu dài và đóng vai trò chủ đạo; để người dùng internet Việt Nam từng bước thích ứng tích cực với môi trường mạng, biết sàng lọc thông tin xấu, tiếp nhận thông tin hữu ích, biến internet thực sự là công cụ kỳ diệu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhận diện tên miền là một kỹ năng đơn giản nhưng lại rất quan trọng, rất cần thiết để người dùng internet ở Việt Nam có thể phân biệt đâu là website đáng tin cậy, đâu là website giả mạo, không đáng tin. Tên miền là đường dẫn tới các địa chỉ trên internet, được xem như "số nhà", "định danh" trên internet. Thông qua tên miền, có thể nhận dạng được về thông tin trên mạng. Đăng ký, sử dụng tên miền đã và đang trở thành yếu tố quyết định trong việc giúp người sử dụng internet nhận thức, xác định nguồn thông tin tốt, tránh tiếp cận nguồn thông tin xấu. Ví dụ, các thế lực chống phá Việt Nam không dám đăng ký, sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam có đuôi ".vn". Những trang mạng giả mạo tên các đồng chí lãnh đạo cấp cao Việt Nam đều sử dụng tên miền quốc tế như: ".com", ".net", ".org"... Trong trường hợp này, nếu nắm rõ tên miền quốc gia Việt Nam ".vn" chính là tên cấp cao nhất (ccTLD), đã được tổ chức quản lý tên và số cấp cao nhất toàn cầu (ICANN) chuyển giao cho Việt Nam quản lý, thì người sử dụng internet sẽ biết ngay những website giả mạo do các trang mạng này sử dụng tên miền quốc tế với các thông tin định danh không xác thực. Trong quy định về quản lý, sử dụng tài nguyên internet tại Việt Nam nêu rõ: "Báo điện tử, trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của các cơ quan Đảng, Nhà nước phải sử dụng ít nhất 01 tên miền ".vn" và lưu giữ thông tin tại hệ thống máy chủ có địa chỉ IP ở Việt Nam (khoản 3, Điều 7, Thông tư số 24/2015/TT-BTTTT, ngày 18-8-2015 của Bộ Thông tin và Truyền thông).
Các nguồn tin chính thức, đặc biệt là tin tức chính trị, pháp luật của Việt Nam do các cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng, Nhà nước cung cấp sẽ sử dụng tên miền ".vn" với các thông tin định danh xác thực. Xác định tên miền ".vn" là thông số rất quan trọng đối với hoạt động internet. Việc quản lý tên miền ".vn" vừa là công cụ phục vụ cho quản lý, vừa là yếu tố thúc đẩy phát triển internet tại Việt Nam. Đối với người sử dụng internet ở Việt Nam, khi đọc những thông tin chính trị, pháp luật nhạy cảm, cần tỉnh táo lựa chọn, truy cập những website có tên miền ".vn" để được tiếp cận nguồn thông tin chính thức, đáng tin cậy.
cơ quan chức năng của bộ phối hợp với mạng YouTube đã gỡ bỏ hơn 7.800 clip có nội dung xấu độc, một con số thể hiện nỗ lực lớn trong công tác quản lý Nhà nước trên internet. Tuy nhiên, các website, trang mạng xã hội, blog phản động có rất nhiều mưu mô để "vượt tường lửa" hay vượt qua các phương thức kiểm duyệt thông qua nhà mạng. Một website, blog hay clip này bị chặn thì chúng lập tức lập ra những website, blog khác. Thực tế này càng cho thấy, giải pháp tuyên truyền, giáo dục nhận thức và kỹ năng, để mỗi công dân trở thành một người dùng internet thông minh, có "sức đề kháng" và khả năng phân biệt thông tin chính thống với thông tin giả mạo, xuyên tạc là giải pháp cơ bản, quan trọng. Mỗi công dân hiện đang giữ một "chìa khóa" an ninh mạng của quốc gia, vì chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc, nhất định chúng ta phải kiên trì xây dựng mỗi công dân trở thành một chiến sĩ trên mặt trận bảo đảm an ninh mạng.
Đây là vấn đề toàn cầu mà nhiều nước quan tâm, không chỉ riêng Việt Nam. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam có tham vọng xây dựng mạng xã hội cạnh tranh với Facebook hay công cụ tìm kiếm cạnh tranh Google, nhưng do tiềm lực tài chính có hạn nên gặp nhiều trở ngại.
Thiết kế và xây dựng mạng xã hội riêng là một chính sách mà các nước lớn như Nga, Trung Quốc đang tiến hành. Theo đó, Chính phủ Nga, Trung Quốc đã dùng một số biện pháp ngăn chặn và hạn chế việc sử dụng mạng xã hội từ nước ngoài, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện tối đa để công dân sử dụng mạng xã hội do doanh nghiệp trong nước cung cấp. Mạng Vkontakte ở Nga hoặc WeChat, Sina Weibo của Trung Quốc khá phổ biến với người dùng mỗi nước. Chính sách này mang lại nhiều lợi ích, không chỉ giúp bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, dễ dàng kiểm soát các luồng thông tin mà còn tạo điều kiện cho ngành dịch vụ và công nghệ thông tin trong nước phát triển. Việt Nam là một quốc gia hiện có 56,3 triệu người sử dụng internet và con số này tiếp tục tăng. Những hạn chế khi người dân phụ thuộc vào mạng xã hội của nước ngoài, tình trạng lộ lọt bí mật quốc gia, hoạt động phá hoại của các phần tử, thế lực thù địch cũng như mức độ trốn thuế và thiếu hợp tác của các tập đoàn công nghệ toàn cầu thúc đẩy chúng ta nên xây dựng mạng xã hội của Việt Nam. Để doanh nghiệp Việt Nam phát triển mạng xã hội cạnh tranh toàn cầu thì chính sách phải đồng bộ, ưu tiên giảm thuế, phí, phát triển nội dung số để hình thành hệ sinh thái số lớn mạnh. cần có sự chung tay của 4 nhà: Nhà cung cấp hạ tầng viễn thông-nhà mạng xã hội-nhà quảng cáo và nhà phát triển nội dung trong nước thì mới hy vọng xây dựng hệ thống sinh thái số Việt Nam.
Theo báo điện tử VTV.vn, mạng xã hội Zalo của Việt Nam vừa kỷ niệm 15 năm ra đời và hiện nay đã có hơn 90 triệu người dùng trên toàn thế giới. Nếu so với "đế chế" Facebook có hơn 2,5 tỷ người dùng trên toàn thế giới thì rõ ràng Zalo còn là một mạng xã hội nhỏ bé. Nhưng thành công bước đầu của Zalo, cũng như thành công của Viettel khi đầu tư ra nước ngoài là những tín hiệu cho thấy, các doanh nghiệp công nghệ thông tin của chúng ta hoàn toàn có thể bước ra biển lớn thành công.
Đó cũng là tín hiệu để mỗi công dân Việt Nam tự tin xây dựng một "thế trận chiến tranh nhân dân trên mạng" - một vấn đề có ý nghĩa sống còn để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.