Thứ Năm, 4 tháng 8, 2022

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh hiện nay

 Đối với mỗi quốc gia có chủ quyền trên thế giới, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề có tính nguyên tắc, “bất biến” trong quan hệ quốc tế. Lợi ích quốc gia - dân tộc được cho là hàm chứa cả các mục tiêu chiến lược của quốc gia trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Theo đó, việc xác định, bảo đảm và tối đa hóa lợi ích quốc gia - dân tộc luôn là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên thế giới.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham quan Triển lãm thành tựu đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Về lợi ích quốc gia - dân tộc

Lợi ích quốc gia - dân tộc là một phạm trù được đề cập rộng rãi trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của các quốc gia trên thế giới. Các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế đã đưa ra khá nhiều quan niệm khác nhau về lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc(1). Tuy nhiên, hầu như các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng, lợi ích quốc gia - dân tộc là giá trị của một chủ thể có trách nhiệm tự xác định lợi ích của quốc gia, dân tộc mình. Vì vậy, có thể nói, đây là một khái niệm có tính khái quát hóa cao, bao gồm những nhu cầu sống còn của quốc gia đó; đó là tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quân sự và thịnh vượng về kinh tế(2). Tháng 3-1848, Thủ tướng Anh Hen-ry Pan-mơ-xtơn (Henry Palmerston) từng có một phát biểu kinh điển về lợi ích quốc gia tại Hạ viện Anh: “Không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn và nhiệm vụ của chúng ta là theo đuổi những lợi ích đó”(3).

Ở Việt Nam, một số chuyên gia cho rằng, khái niệm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc mặc dù có những điểm khác nhau, song được xem là có chung nội hàm và có thể sử dụng thay thế lẫn nhau. Lợi ích quốc gia là lợi ích chung của cộng đồng những người sống trên một đất nước, có chung nguồn gốc, lịch sử, phong tục, tập quán và phần nhiều còn chung cả tiếng nói, chữ viết(4). Lợi ích quốc gia thiên về đại diện của giai cấp cầm quyền(5). Trong khi đó, lợi ích dân tộc bao hàm tất cả những gì tạo thành điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với tư cách quốc gia - dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn; cho sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia - dân tộc theo hướng làm cho đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc gia trên trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc(6). Lợi ích dân tộc là lợi ích của tất cả mọi người dân của một nước(7). Do những điều kiện đặc thù nên khái niệm lợi ích quốc gia - dân tộc ở Việt Nam có hướng tổng hợp cả hai khái niệm trên(8). Vì vậy, có thể xem lợi ích quốc gia - dân tộc là toàn bộ những nhu cầu sống còn, trường tồn và phát triển của một quốc gia đã được nhận thức và biến thành mục tiêu của chính sách đối ngoại trong quan hệ với thế giới còn lại ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, là công cụ hết sức quan trọng trong phân tích chính sách đối ngoại(9).

Việc xác định đúng và phù hợp mức độ, thứ tự ưu tiên lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng. Trên thế giới, các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng, việc sắp xếp mức độ ưu tiên trong các lợi ích quốc gia - dân tộc phụ thuộc rất lớn vào việc quyết định xem loại lợi ích nào quan trọng hơn, có tác động mạnh mẽ hơn tới sự tồn vong và phát triển của quốc gia đó. Một số quốc gia xác định lợi ích theo từng lĩnh vực (chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa...), thời gian đạt được lợi ích (vĩnh cửu, biến đổi); một số quốc gia khác xác định lợi ích theo tiêu chí tầm quan trọng (sống còn, cốt lõi, quan trọng, thứ yếu) hay phạm vi lợi ích (chung, bộ phận, cá nhân). Những nội hàm này cho phép các quốc gia có cơ sở để xác định những vấn đề nào là ưu tiên, cốt lõi phải bảo vệ, vấn đề nào có thể thỏa hiệp. Việc sắp xếp thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích cũng góp phần phác họa bức tranh chung về lợi ích quốc gia - dân tộc của các quốc gia để từ đó đưa ra những giải pháp, cách thức chính xác nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia khi thực hiện một chính sách hay một chiến lược nào đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt cần có sự bảo vệ “quyết liệt” những lợi ích đó tại thời điểm được cho là mang tính “sống còn”. Đơn cử như, Trung Quốc xác định lợi ích cốt lõi trong Sách Trắng về “Phát triển hòa bình của Trung Quốc” (năm 2011), bao gồm chủ quyền quốc gia, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chế độ chính trị quốc gia mà Hiến pháp Trung Quốc xác lập và cục diện xã hội ổn định, sự bảo đảm cơ bản của kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Trong “Chiến lược An ninh quốc gia” (năm 2017), Mỹ xác định “nước Mỹ trên hết” với “bốn lợi ích quốc gia tối quan trọng”, đó là bảo vệ người dân Mỹ, nước Mỹ và lối sống Mỹ; thúc đẩy sự thịnh vượng của nước Mỹ; bảo vệ hòa bình thông qua sức mạnh; gia tăng ảnh hưởng của Mỹ(10). Trong tài liệu “Các nguyên tắc cơ bản về chính sách Nhà nước Liên bang Nga đối với Bắc Cực đến năm 2035”, Nga đưa ra sáu lợi ích quốc gia - dân tộc của Nga, trong đó nhấn mạnh “bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” là mục tiêu cao nhất(11). Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để có thể tạo không gian mở, linh hoạt trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, không phải quốc gia nào cũng công khai các nội hàm lợi ích cụ thể.

Nhìn chung, lợi ích quốc gia - dân tộc được xem là “hòn đá tảng” hay “kim chỉ nam” của chính sách đối ngoại. Nội hàm của lợi ích quốc gia - dân tộc đôi khi cũng bao gồm cả những công cụ được lựa chọn để thực hiện mục tiêu chiến lược và ngoại giao chính là một trong những công cụ quan trọng giúp hiện thực hóa mục tiêu này. Để có thể thoát khỏi những “cạm bẫy” trong quá trình xác định và tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, bất kể lớn hay nhỏ, khi thực tế đã và đang cho thấy, thành công rất nhiều nhưng thất bại cũng không phải không có.

Những yếu tố tác động đến nhận thức và quá trình thực thi, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong quan hệ quốc tế

Một là, việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là cái gốc chi phối mọi quyết định của mỗi quốc gia trong những vấn đề đối nội, vừa chi phối cách hành xử của quốc gia đó trên trường quốc tế. Chính vì vậy, đối với các nước, trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc trong các trường hợp cụ thể là vấn đề không đơn giản, bắt nguồn từ các yếu tố: 1- Sự khác nhau về lợi ích của các chủ thể tham gia quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại; 2- Sự khác nhau về nhận thức của các chủ thể tham gia quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại; 3- Các quy định, cách tiếp cận của các cơ quan tham gia hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại không đồng nhất dẫn đến cách hiểu, diễn giải và quyết định khác nhau. Những yếu tố này khiến quá trình xác định và thực hiện bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong hoạt động đối ngoại trở nên phức tạp, nhất là khi có sự vận động, tác động của các nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích có thể dùng các kênh và phương thức khác nhau để tác động, điều chỉnh hoặc cung cấp thông tin đối với từng vấn đề trong quá trình xây dựng và thực hiện bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc theo hướng mang lại lợi ích cho họ. Do đó, giới phân tích cho rằng, việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc nhấn mạnh tới vai trò của các chủ thể bên trong một nước với những dạng thức lợi ích khác nhau và thể chế chính trị của nước đó với những đặc thù, luật pháp quốc tế chi phối.

Hai là, mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích quốc tế. Theo học giả người Mỹ Thô-mát Rô-bin-xơn (Thomas W. Robinson), bên cạnh lợi ích quốc gia - dân tộc còn có các lợi ích quốc tế (lợi ích song trùng, lợi ích bổ sung, lợi ích xung đột). Lợi ích quốc tế có thể bao gồm lợi ích chung của tất cả các quốc gia (lợi ích quốc tế toàn cầu) hoặc chỉ một số quốc gia nhất định (lợi ích quốc tế tập thể). Năm 1950, Liên Xô coi lợi ích quốc tế giới hạn trong phạm vi là lợi ích chung của khối xã hội chủ nghĩa. Mỹ coi lợi ích quốc tế bao gồm lợi ích chung của các nước tư bản phương Tây. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn Chiến tranh lạnh, cả Liên Xô và Mỹ đều theo đuổi bảo vệ lợi ích tập thể hơn lợi ích quốc tế toàn cầu. Chiến tranh lạnh kết thúc, sự đối đầu quân sự giữa hai khối Đông - Tây chấm dứt. Ngày nay, tầm quan trọng của lợi ích quốc tế càng được nâng cao và thể hiện rõ nét trong những thách thức đa dạng mà thế giới nói chung đang phải đối mặt, như các quan hệ về kinh tế, thương mại, phát triển công nghệ, bảo vệ môi trường, kiểm soát dân số, thiên tai, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, vi phạm quyền con người, khủng hoảng di cư... Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc diễn ra ngày càng quyết liệt, các quốc gia vừa và nhỏ đều nhận thấy lợi ích quốc gia - dân tộc chỉ có thể được bảo đảm khi lợi ích chung của cộng đồng quốc tế được bảo đảm dựa trên luật lệ quốc tế. Bên cạnh đó, phải nhìn nhận rõ hơn về tầm quan trọng của lợi ích quốc tế, bởi khi các quốc gia có những lợi ích chung mới có thể cùng nhau hợp tác, xử lý và giải quyết những vấn đề xung đột lợi ích.

Ba là, phương cách, biện pháp tạo dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia để tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, có nhiều phương cách tạo dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia, tuy nhiên việc lựa chọn phương cách nào được cho là phụ thuộc nhiều vào bối cảnh cụ thể và chủ thuyết chính trị của giới hoạch định chiến lược, cũng như quyết định chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia. Ngày nay, “sức mạnh mềm” ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng trong chiến lược của các quốc gia. Cách tiếp cận và biện pháp triển khai sức mạnh mềm hợp lý, đúng đối tượng, đúng thời điểm sẽ góp phần gia tăng sức nặng và tầm ảnh hưởng của các quốc gia trên “bàn cờ” chính trị quốc tế, cũng như tạo ra sức lôi cuốn và đồng thuận xã hội trong chính nội bộ quốc gia. Hầu hết các quốc gia đều nhận thấy, việc sử dụng và lạm dụng “sức mạnh cứng” để giải quyết mâu thuẫn nhằm đạt được mục tiêu nhiều khi không phát huy được tác dụng, thậm chí còn thất bại, dễ vấp phải sự phản ứng của cộng đồng quốc tế và đứng trước rủi ro bị cô lập, làm suy giảm vị thế, uy tín, hình ảnh của quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính làm việc với các nhà đầu tư và doanh nghiệp Mỹ tại Washington D.C. (Mỹ), ngày 12-5-2022

Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh chiến lược mới

Đối với Việt Nam, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế thừa từ truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên suốt, đó là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước và biến động của tình hình thế giới, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc liên tục được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội của Đảng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích quốc gia - dân tộc được coi trọng trong từng chủ trương, chính sách phát triển đất nước và hoạt động đối ngoại. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần đầu tiên nêu lên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã chỉ rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”(12). Qua đó, Đảng ta khẳng định: 1- Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất; 2- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam là những lợi ích chính đáng, không phải là những lợi ích vị kỷ; 3- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; 4- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc nghĩa là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia - dân tộc là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại(13). Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(14).

Trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ gắn liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam trong nước và ở nước ngoài; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh mới của quốc gia - dân tộc hiện đại còn mở rộng thêm các lợi ích quốc gia - dân tộc, như: hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự do lưu thông hàng hóa, tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do khai thác tài nguyên phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng như các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích cực tham gia giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến tranh, ứng phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi truyền thống (an ninh biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tiền tệ, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc gia nào tự mình đủ sức gánh vác.

Tuy nhiên, trong điều kiện không gian sinh tồn ngày càng bị thu hẹp, việc mở rộng lợi ích quốc gia - dân tộc của nước này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích quốc gia - dân tộc của nước khác. Để giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột, lợi ích quốc gia - dân tộc phải phù hợp với luật pháp quốc tế, không quốc gia nào tự đặt ra lợi ích vượt ra ngoài quy định của luật pháp quốc tế mà đe dọa đến lợi ích của quốc gia khác và ảnh hưởng đến lợi ích của toàn nhân loại. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”; “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”(15), Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây dựng, định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi, với phương châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(16), nhất là trong quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ mới, củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đi đúng xu thế của thời đại, tranh thủ tốt các nguồn lực từ bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc để nâng cao vị thế và thực lực của đất nước, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi song cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao gồm: việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ở tầm khu vực và toàn cầu để thực hiện và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra những thay đổi khó đoán định của tình hình quốc tế, khu vực; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp, do sự chồng xếp, đan xen của ba tầng quan hệ (tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chiến lược biển, đảo giữa các nước láng giềng; cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung Quốc và can dự của các nước lớn khác; an toàn, tự do hàng hải và hàng không trong khu vực); hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng..., tác động không nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với đó là vấn đề an ninh mạng.

Bối cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, như: 1- Kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; 2- Tranh thủ cơ hội, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi ích của các nước lớn ở Việt Nam; nâng tầm đối ngoại đa phương, song phương; thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...

Lãnh đạo Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam chứng kiến Lễ ký kết giao ước thi đua của các sĩ quan Đội Công binh số 1 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 trước khi lên đường thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Lễ dâng hương và vào Lăng viếng Bác

Hai là, luôn theo dõi, bám sát diễn biến tình hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực; nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, cũng như mục tiêu chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng, để kịp thời đề ra đường lối, chính sách phù hợp, chính xác, trong đó phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết, trên hết; bất luận hoàn cảnh nào cũng tránh để rơi vào thế kẹt giữa các bên, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”(17).

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nhất là khi thế giới đang phải đối diện với những thách thức khó lường và đại dịch COVID-19 đã làm cho những thách thức này càng trở nên phức tạp, nghiêm trọng hơn.

Bốn là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc gia, dân tộc khác. Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng, đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Nhưng do mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân tộc, vấn đề quan trọng đặt ra là cần tìm thấy “điểm tương đồng”. Ở đây, điểm tương đồng chính là sự tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế mà toàn thể nhân loại đã và đang nỗ lực gìn giữ nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Do vậy, kể từ khi ra đời năm 1945, Chính phủ Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, và điều này cũng chính là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đồng thời bảo đảm hài hòa với lợi ích của các đối tác, lợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế.

Năm là, tiếp tục tạo dựng và phát triển hình ảnh Việt Nam là một quốc gia “có trách nhiệm”, “đối tác tin cậy”. Đây là mục tiêu vừa mang tính đối nội, vừa mang tính đối ngoại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một quốc gia được cho là phát triển và giàu mạnh luôn là quốc gia sở hữu những thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Để hội nhập thành công cũng như tận dụng được các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại, nhất là khi tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa - dịch vụ, từ đó nâng cao giá trị các thương hiệu cũng như hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Sáu là, bảo đảm an ninh và phát triển cho người dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Quốc gia - dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển kinh tế. Lợi ích của cộng đồng dân tộc cũng bao hàm lợi ích của mỗi cá nhân con người, an ninh quốc gia cũng không thể tách rời an ninh con người. Các hoạt động đối ngoại, xét cho cùng, là nhằm mang lại quyền lợi cho người dân, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội phát triển toàn diện. Nhìn rộng ra trong khu vực, mục tiêu này phù hợp với bối cảnh các nước ASEAN đang nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân và “lấy người dân làm trung tâm”.

Bảy là, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, củng cố và phát triển lý luận, thông tin tuyên truyền, nhất là thông tin đối ngoại trong tình hình mới đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; tận dụng hiệu quả sức mạnh của công nghệ thông tin và truyền thông nhằm xúc tiến liên tục, bền bỉ các chương trình truyền thông về văn hóa, đất nước, con người Việt Nam; về chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại..., giúp nâng cao hình ảnh và tranh thủ sự ủng hộ của các nước, nhân dân trên thế giới đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền cũng như xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.

Tóm lại, trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là phương châm và động lực phát triển. Những thành tựu của đất nước ngày nay là minh chứng rõ nét cho thấy quan điểm đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt; là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục phát huy vị thế, lựa chọn những kế sách phù hợp trong bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc./.

-----------------

(1) Trong hệ thống chính trị quốc tế, các trường phái lý luận sử dụng các khái niệm “state’s interest” và “national interest”. Tuy nhiên, các văn bản chính sách đối ngoại, truyền thông và học thuật quốc tế bằng tiếng Anh chủ yếu chỉ sử dụng cụm từ “national interest”. Hiện nay, khái niệm “lợi ích quốc gia” và “lợi ích dân tộc” ngày càng liên quan mật thiết, gắn kết chặt chẽ với nhau. Do đó, về nội hàm có thể hiểu “national interest” là lợi ích quốc gia - dân tộc.
(2) Xem: Jack C. Plano - Roy Olton: The International Relations Dictionary (Từ điển Quan hệ quốc tế)Third Edition, ABC-CLIO Santa Barbarra, California, 1982, tr. 9
(3) Xem: Michel G. Roskin: National Interest: From Abstraction to Strategy (Tạm dịch: Lợi ích quốc gia: Từ trừu tượng đến chiến lược), The US Army War College Quarterly: Parameters, Volume 24, No.1, 1994 , tr. 1.
(4) Dương Văn Quảng - Vũ Dương Huân: Từ điển thuật ngữ ngoại giao Việt - Anh - Pháp, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2002, tr. 63
(5) Đặng Đình Quý: “Bàn thêm về lợi ích quốc gia - dân tộc trong hoạt động đối ngoại Việt Nam giai đoạn mới”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 1 (80), tháng 3-2010, tr. 115.
(6) Trần Hữu Tiến: “Lợi ích dân tộc”, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 24-8-2015, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/tu-dien-mo/item/1092-loi-ich-dan-toc.html
(7), (8) Đặng Đình Quý: “Bàn thêm về lợi ích quốc gia - dân tộc trong hoạt động đối ngoại Việt Nam giai đoạn mới”, Tlđd, tr. 115.
(9) Xem: Vũ Dương Huân: Về chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018
(10) Trần Vi Dân: “Lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế”, Trang thông tin điện tử Học viện Chính trị Công an nhân dân, ngày 27-10-2020, http://hvctcand.edu.vn/tin-tuc/tin-tuc-khac/loi-ich-quoc-gia-dan-toc-viet-nam-trong-boi-canh-toan-cau-hoa-hoi-nhap-quoc-te-1802
(11) Ekaterina Klimenko: “Russia’s new Arctic policy document signals continuity rather than change” (Tạm dịch: Tài liệu chính sách mới về Bắc Cực của Nga cho thấy tính liên tục thay vì thay đổi), ngày 6-4-2020, https://www.sipri.org/commentary/essay/2020/russias-new-arctic-policy-document-signals-continuity-rather-change
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 153
(13) Xem: Đặng Đình Quý: “Lợi ích quốc gia - dân tộc là nguyên tắc tối cao của hoạt động đối ngoại”, Trang thông tin điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, ngày 24-8-2016, https://vov.vn/chinh-tri/loi-ich-quoc-gia-dan-toc-la-nguyen-tac-toi-cao-cua-hoat-dong-doi-ngoai-543351.vov
(14), (15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 161 - 162, 161 - 162, 162
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011, t. 8, tr. 552

THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 BIỂU TƯỢNG SỨC MẠNH DÂN TỘC VÀ TINH THẦN THỜI ĐẠI

 

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trước hết đã chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Sau này, Đảng ta đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là hội tụ của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; là thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo để “lựa tình thế, chọn thời cơ”, đưa ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo ở tầm chiến lược. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng chứng minh rằng, một dân tộc dù nhỏ bé nhưng nếu có truyền thống nồng nàn yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, thông minh, sáng tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng chân chính thì vẫn có thể làm nên những sự kiện vĩ đại có tầm vóc và đi vào lịch sử của dân tộc và thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa nước ta phát triển để có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hôm nay.

Không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với dân tộc Việt Nam, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 đã cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc".

Chí Minh về giải phóng dân tộc mà ý nghĩa của những tư tưởng đó vẫn còn giá trị lâu dài. Nhiều bài học kinh nghiệm trong Cách mạng Tháng Tám của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Đó là bài học về chớp thời cơ và tận dụng thời cơ để giành thắng lợi. Bài học về tập hợp, đoàn kết, lôi cuốn toàn dân tham gia sự nghiệp cách mạng, tham gia sự nghiệp xây dựng đất nước; nâng cao ý thức tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của dân tộc, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế. Bài học về xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…

Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp hiện nay, việc áp dụng các bài học trên, nhất là bài học về phát huy tinh thần đại đoàn kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau… sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần giúp chúng ta đẩy lùi dịch bệnh.

Đã 77 năm trôi qua nhưng thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn là một sự kiện diệu kỳ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta. Diễn ra và giành thắng lợi trong một thời gian ngắn, nhưng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã để lại nhiều bài học quý báu cho Đảng và nhân dân ta trong hành trình hướng đến tương lai./.

Theo Minh Duyên/TTXVN


ỨNG XỬ VĂN HÓA NƠI CÔNG CỘNG


Ở các nước phát triển trên thế giới, việc ứng xử văn hóa nơi công cộng luôn được xem là một hành vi văn minh, biểu thị sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm của người dân đối với cộng đồng. Vì thế, chính quyền các nước này luôn chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục và khuyến khích người dân thực hiện lối sống văn minh, hiện đại. Đó cũng là việc thể hiện sự phát triển và quảng bá hình ảnh đẹp của quốc gia, dân tộc ra thế giới.
Ở nước ta, việc ứng xử văn hóa nơi công cộng cũng được các cấp, các ngành và các địa phương coi trọng bằng các phong trào như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Nét đẹp công chức”, “Thanh niên thanh lịch”, “Thành phố văn minh”... Mục đích của các phong trào này là xây dựng ý thức, trách nhiệm của người dân đối với cộng đồng bằng những hành vi ứng xử phù hợp với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc cũng như xu thế phát triển của xã hội. Từ những phong trào này đã xuất hiện những tấm gương bình dị, cao quý; những gương sáng giữa đời thường; những việc làm tử tế hay những hành động đẹp, nghĩa tình.
Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta vẫn thấy trong xã hội tồn tại một bộ phận không nhỏ người dân, nhất là trong giới trẻ có những hành xử thiếu văn hóa ở nơi công cộng. Ta có thể kể đến những hành động chen lấn, xô đẩy nhau và những câu nói tục, chửi thề khi vào xem các lễ hội, các trận bóng đá hay ở các khu chợ đông; rồi những hành vi phóng nhanh, vượt ẩu khi tham gia giao thông; xả rác bừa bãi ra đường, kênh rạch, vẽ bậy lên tường; ngồi gác chân lên ghế trong rạp chiếu phim; ăn mặc phản cảm đi vào chốn tôn nghiêm; đánh, chửi nhau hay nô đùa chỗ đông người; không nhường nhịn, giúp đỡ người già, trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai trên các phương tiện giao thông công cộng... Những hành vi này không chỉ gây bức xúc, khó chịu, thậm chí gây thiệt hại cho người khác mà còn làm xấu đi hình ảnh của quê hương, đất nước với những người xung quanh và bạn bè quốc tế.
Ứng xử nơi công cộng là sự giao tiếp của con người với nhau và ý thức của mỗi người đối với môi trường sống. Nếu giao tiếp biểu thị sự tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ người khác cũng như ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường sống thì đó là những hành vi ứng xử văn hóa. Điều này cũng cho thấy, giao tiếp nơi công cộng bộc lộ rõ nét nhất sự lịch thiệp và khả năng giao tế của mỗi người. Trong không gian giao tiếp ngày càng mở rộng như hiện nay thì văn hóa ứng xử của mỗi người cần được nâng lên một tầm cao mới, để tô đẹp thêm cho môi trường văn hóa nơi bản thân mình đang sinh sống, học tập.
Trên thực tế, ứng xử nơi công cộng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của mỗi con người, nhất là đối với giới trẻ. Trong cuộc sống, bản thân ta không thể tồn tại hoặc làm nên chuyện gì nếu không có những sự giúp đỡ trực tiếp hoặc gián tiếp từ bên ngoài. Xã hội càng phát triển thì con người càng phụ thuộc vào nhau. Vì vậy, sống và giao tiếp trong cộng đồng, mọi người phải biết “cảm ơn” và “xin lỗi” một cách chân thành. Biết tôn trọng người khác và ứng xử một cách khiêm tốn, lễ độ, là những bí quyết đơn giản giúp ta tạo được ấn tượng đẹp trong mắt nhìn của người khác.
Ứng xử văn hóa nơi công cộng không chỉ giúp xã hội ngày càng văn minh, hiện đại và tốt đẹp hơn mà còn góp phần hình thành những nhân cách đẹp và hoàn thiện, phát triển của mỗi người. Trong giai đoạn hiện nay, việc ứng xử văn hóa nơi công cộng, cũng là sự chung sức của người dân để đất nước vững bước đi trên con đường hội nhập và phát triển, cũng như quảng bá hình ảnh đẹp của xã hội, con người Việt Nam ra thế giới.
QĐND
Có thể là hình ảnh về 7 người, mọi người đang đứng, ngoài trời và văn bản
15
4 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG, KHAI SINH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

 

Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, là mốc son chói lọi trong lịch sử ngàn năm của dân tộc.

Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng về căn cứ cách mạng, tổ chức chính trị, lực lượng cách mạng, đặc biệt là đội quân vũ trang tinh nhuệ, cùng với yếu tố thuận lợi về thời cơ cách mạng, quân và dân ta đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.

Theo đó, từ ngày 13 đến 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ đã đến, quyết định Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này, thời cơ thắng lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Ngay trong đêm 13-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa đã ra Quân lệnh số 1, phát lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng do Người làm Chủ tịch. Trong thư kêu gọi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8). Đặc biệt, ngày 19-8-1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội gây tiếng vang lớn trong cả nước. Cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi ở Hà Nội đã góp phần làm tan rã nhanh chóng toàn bộ hệ thống bộ máy chính quyền tay sai của Nhật trong cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, 25 triệu đồng bào ta, với tinh thần "đem sức ta mà giải phóng cho ta" đã nhất tề vùng lên giành chính quyền trong 15 ngày, từ ngày 13 đến 28-8-1945. Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân.

 Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn người dân nước Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên của độc lập, tự do, tạo thế và lực cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới./.

Theo Minh Duyên/TTXVN


Ngoại giao đa phương - quan điểm và tầm nhìn phát triển theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

 Ngoại giao đa phương không còn là thuật ngữ mới trong quan hệ quốc tế hiện đại cả về lý thuyết và hiện thực. Song nhận thức đúng về ngoại giao đa phương, từ đó đưa ra những định hướng chính sách và hành vi thực tế được xem là cả một quá trình. Việt Nam là một trong số ít các quốc gia sớm nhận thức khá rõ nét về ngoại giao đa phương, đồng thời sử dụng ngoại giao đa phương tương đối hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, đặc biệt kể từ thế kỷ XX đến nay.

Ngoại giao đa phương - tiếp cận từ lý thuyết

Ngoại giao đa phương là một hình thức hoạt động ngoại giao, trong đó có sự tham gia của ba chủ thể trở lên trong quan hệ quốc tế (chủ yếu là quốc gia - dân tộc) vào quá trình đàm phán, thương lượng, ra quyết sách trong cùng một thời điểm và đáp ứng nhiều đòi hỏi khác nhau trước một vấn đề cụ thể(1). Các mô thức ngoại giao đa phương chủ yếu và mang tính phổ quát hiện nay là tổ chức quốc tế (với các tính chất khác nhau từ những tổ chức mang tính cộng đồng chung, liên minh đến những tổ chức mang tính hợp tác với những cam kết đơn giản; ở các cấp độ khác nhau, như khu vực, liên khu vực, toàn cầu; với các lĩnh vực đa dạng: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...); các diễn đàn, hiệp hội (tính chất và quy mô đa dạng nhưng ràng buộc lỏng lẻo hơn); các phong trào, các hội nghị, cuộc họp, hội thảo... (quy mô đa dạng, ít ràng buộc nhằm giải quyết một hoặc một vài vấn đề, mang tính ngẫu hứng hoặc thường niên).

Phiên thảo luận chung cấp cao Khóa họp thứ 76 Đại hội đồng Liên hợp quốc tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York, Mỹ

Trong ngoại giao đa phương, lợi ích luôn là yếu tố quy định hành vi của chủ thể. Với mỗi thời điểm khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, các quốc gia có lợi ích khác nhau, dẫn tới hình thành động cơ thúc đẩy sự tham gia của các chủ thể, thời điểm sử dụng mô thức ngoại giao đa phương khác nhau trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, chủ thể quan hệ quốc tế (cơ bản nhất là quốc gia - dân tộc độc lập có chủ quyền) tham gia ngoại giao đa phương khá sôi động, cho thấy ngoại giao đa phương đang đáp ứng được những lợi ích của các chủ thể. Một điểm đáng chú ý trong ngoại giao đa phương là tương quan lực lượng và thực lực quốc gia. Đây là nền tảng quan trọng của trật tự thế giới và là cơ sở để định hình “sân chơi” và nguyên tắc ứng xử (“luật chơi”) trong quan hệ quốc tế nói chung và ngoại giao đa phương nói riêng; đóng vai trò không nhỏ trong việc quyết định hành vi và tầm ảnh hưởng trong quá trình đàm phán. Thêm vào đó, thực lực quốc gia - nhân tố được coi là cơ sở của việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại - cũng quyết định hành vi của quốc gia trong ngoại giao đa phương. Vì vậy, các nước lớn có hành vi theo hướng chi phối và “bao cấp” cho thể chế đa phương, còn các nước nhỏ thì hành động theo hướng chấp nhận, tuân thủ và “ăn theo”(2).

Bên cạnh đó, hành vi của quốc gia cũng phụ thuộc vào mức độ thể chế hóa của các tổ chức đa phương. Tổ chức đa phương có mức độ thể chế hóa cao sẽ có khả năng cao hơn trong việc buộc các nước phải tuân thủ luật lệ và ngược lại, mức độ thể chế hóa thấp sẽ làm xu hướng không tuân thủ luật lệ xảy ra cao hơn(3).

“Luật chơi” (nguyên tắc, quy định) của các thể chế đa phương quốc tế cũng thúc đẩy hoặc tác động đến hành vi của các quốc gia. Các mô thức ngoại giao đa phương khác nhau sẽ có “luật chơi” khác nhau. Nhưng điểm chung của các mô thức ngoại giao đa phương là sản phẩm hay kết quả chính là các thỏa thuận quốc tế đa phương. Các thỏa thuận này là “luật chơi” ràng buộc hành vi tiếp theo của chủ thể trong ngoại giao đa phương. Vì vậy, trong quá trình hình thành “luật chơi”, quốc gia nào được tham gia đàm phán và đưa ra ý tưởng được chấp nhận và ghi nhận ý tưởng trong sản phẩm cuối cùng của ngoại giao đa phương, quốc gia đó sẽ khẳng định được lợi ích và vị thế của mình trong “sân chơi” đa phương này. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để quốc gia thuận lợi hóa môi trường cho hành vi tương lai. Song, do chủ quyền của quốc gia, sự chưa hoàn thiện của thể chế và khả năng đáp ứng nhu cầu của các bên trong các thỏa thuận quốc tế đa phương nên “luật chơi” của các thể chế đa phương chỉ ràng buộc một phần hành vi của quốc gia, bởi khi cần thiết chủ thể (quốc gia) sẽ viện dẫn lý do chủ quyền và lợi ích quốc gia để có thể bỏ qua những “luật chơi” này(4).

Trên thực tế, hành vi của các chủ thể khá đa dạng. Song, tựu chung chủ thể tham gia ngoại giao đa phương theo ba dạng hành vi cơ bản sau: 1- Các chủ thể thành viên phải chấp nhận và tuân thủ theo “luật chơi” chung (rule taker); 2- Vận dụng “luật chơi” hoặc kẽ hở luật pháp để tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc mình (rule manipulator); 3- Thay đổi, điều chỉnh hoặc xây dựng “luật chơi” mới để thích ứng với vị thế và thực lực mới (rule maker hoặc shaper)(5). Các chủ thể có thể thay đổi hành vi của mình tùy theo lợi ích, tương quan lực lượng, “luật chơi” và “sân chơi” đa phương trong những thời điểm và vấn đề khác nhau. Ngoài ra, một chủ thể trong một thời điểm có thể có một hoặc hai, thậm chí có đủ cả ba hành vi ở những hoạt động ngoại giao đa phương khác nhau.

Trong thế kỷ XXI, quan điểm và hoạt động ngoại giao đa phương của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phong phú, rõ nét và mang tính đặc thù. Chẳng hạn, Mỹ theo đuổi chủ nghĩa đa phương có lựa chọn và chủ nghĩa đa phương hiệu quả với quan điểm xây dựng một hệ thống đa phương do Mỹ và các nước phương Tây dẫn dắt để có thể gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác. Ngoại giao đa phương của Mỹ tồn tại cùng ngoại giao song phương và mang tính thực dụng. Mỹ lựa chọn phát triển hay cầm chừng hoặc từ bỏ hoạt động ngoại giao đa phương theo sự tính toán về lợi ích của họ với các thời điểm khác nhau. Điều này thể hiện rõ trong hành vi ngoại giao đa phương của Mỹ trên thực tế có xu hướng áp đặt “luật chơi” để bảo đảm lợi ích quốc gia, song Mỹ cũng sẵn sàng rời bỏ tổ chức đa phương cũ, khởi xướng thể chế đa phương mới cũng vì lợi ích quốc gia.

Nga luôn chủ trương gắn bó sâu sắc với các nguyên tắc của chủ nghĩa đa phương(6). Nga chú trọng các cơ chế đa phương như một dạng tập hợp lực lượng để nhằm phục hưng đất nước và ngăn chặn ảnh hưởng của phương Tây. Ngoại giao đa phương của Nga phân tán về chiều rộng từ cấp độ toàn cầu, khu vực tới tiểu khu vực, mang tính lựa chọn với các quan điểm: 1- “Lãnh đạo tập thể của những quốc gia hàng đầu” cùng có trách nhiệm giải quyết các vấn đề toàn cầu, khác với quan điểm lãnh đạo của một siêu cường; 2- Trong ngoại giao đa phương, chính sách đa phương cần được đàm phán giữa các bên liên quan và Nga không chấp nhận một quyết định nào mà chưa được thông qua (chẳng hạn những quyết định của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương hoặc Liên minh châu Âu mà Nga không tham gia sẽ không có giá trị); 3- Ngoại giao đa phương cần trở thành nền tảng, phản ánh sự phân chia quyền lực trong một thế giới đa cực đang nổi lên, bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin, mà Nga hết sức chú trọng(7).

Trung Quốc hiện đang thể hiện cách tiếp cận mạnh mẽ và phổ biến về ngoại giao đa phương, nhất là với các tiểu vùng, khu vực và các tổ chức lớn, đa dạng trong nhiều lĩnh vực. Trung Quốc bắt đầu khẳng định vị thế, sức mạnh và sự dẫn dắt của mình trong nhiều thể chế đa phương qua sự tham gia tích cực vào các cơ chế bằng các sáng kiến đa phương, sự đầu tư và đóng góp, thể hiện sự gánh vác trách nhiệm, tham gia quản trị toàn cầu, phát huy “sức mạnh mềm” của Trung Quốc. Trung Quốc đưa ra chủ thuyết về một thế giới hài hòa, trong đó vai trò của các tổ chức đa phương được đề cao - cùng hợp tác để cùng thịnh vượng, cần tôn trọng sự đa dạng về văn hóa và hệ thống chính trị, các quốc gia đang phát triển có nhiều quyền quyết định hơn. Trung Quốc tích cực triển khai các hoạt động đa phương, truyền bá những tư tưởng mới, đưa ra thông điệp mới về xây dựng một thế giới hài hòa, dân chủ, kiến tạo một trật tự kinh tế thế giới mới, đặc biệt Trung Quốc nêu quan điểm không tham gia liên minh(8).

Quan điểm và hoạt động ngoại giao đa phương của Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được một số kết quả quan trọng về đối ngoại. Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu rộng trên nhiều cấp độ từ khu vực đến toàn cầu, đa dạng về hình thức, với việc tham gia chủ động tích cực ở các tổ chức, diễn đàn, hội nghị đa phương quốc tế, đặc biệt là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc và Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương thế hệ mới, nổi bật là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (VN - EAEU FTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu”(9).

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị tổng kết hai năm Việt Nam đảm nhiệm cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2020 - 2021

Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã đưa ra quan điểm phát triển đất nước nói chung, quan điểm đối ngoại nói riêng, đó là: 1- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; 2- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; 3- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất(10). Mặc dù quan điểm về ngoại giao đa phương(11) chưa được Đảng ta đưa vào văn kiện một cách chính thức và độc lập, nhưng những quan điểm trên được xem là tiền đề cơ bản (nguyên tắc, phương châm) cho chính sách và hành vi (hoạt động) về ngoại giao đa phương.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định mục tiêu đối ngoại: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”(12); tuy nhiên, Đảng ta vẫn chưa đề cập đến ngoại giao đa phương, chỉ hàm ý trong cụm từ “đa phương hóa, đa dạng hóa”. Đảng ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể...; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng đoàn kết... Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”(13). Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 10 năm được thông qua tại Đại hội XIII của Đảng, mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm mặc dù không đề cập đến đối ngoại đa phương mà chỉ đề cập đến công tác đối ngoại nói chung: “Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế”(14), song, trong phần phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, Đảng ta lại đề cập một cách cụ thể, đó là: “Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”. Đặc biệt trong phương hướng đối ngoại, Đảng ta tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm đã nêu trong Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, về “Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”, đó là: Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt chẽ với đối ngoại song phương, thực hiện tốt các trọng trách quốc tế, nhất là trong ASEAN, Liên hợp quốc và các khuôn khổ hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương(15).

Nhìn chung, Việt Nam đã xác định ngoại giao đa phương là một nội dung quan trọng trong quan điểm về đối ngoại với việc sử dụng nhiều lần cụm từ “nâng tầm đối ngoại đa phương” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Thêm vào đó, quan điểm về ngoại giao đa phương được xác định khá cụ thể, như: đối tác trọng tâm là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công...; lĩnh vực được ưu tiên là kinh tế, quốc phòng, an ninh...; quan điểm về thái độ tham gia ngoại giao đa phương là chủ động, tích cực. Trong thời gian tới, ngoại giao đa phương của Việt Nam được Đảng ta xác định: “Tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”(16). Theo đó, Việt Nam sẽ tích cực, chủ động tham gia đóng góp, định hình “luật chơi” trong các hoạt động ngoại giao đa phương.

Đặc biệt, Việt Nam đã thể hiện sự nâng tầm về tư duy, quan điểm về ngoại giao đa phương khi khẳng định: “Tiếp tục đổi mới hợp tác quốc tế về pháp luật theo hướng chủ động, tích cực, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, nhằm tạo ra sự thay đổi về chất trong công tác hợp tác quốc tế về pháp luật”(17). Như vậy, có thể thấy, Việt Nam chủ trương tham gia ngoại giao đa phương trên cơ sở phối hợp ba hành vi: người thực hiện “luật chơi”, người tận dụng và người tham gia tạo dựng “luật chơi” (rule taker, rule manipulator và rule shaper). Việt Nam kỳ vọng chủ động thực hiện ngoại giao đa phương theo hướng góp phần hình thành các nguyên tắc, “luật chơi” trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, mức độ hành vi còn tùy thuộc vào mô thức ngoại giao đa phương mà Việt Nam tham gia.

Từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, tình hình dịch bệnh COVID-19 có nhiều diễn biến khó lường, các hoạt động ngoại giao đa phương của Việt Nam vẫn diễn ra linh hoạt, năng động và là minh chứng cho một Việt Nam đang tích cực, chủ động tham gia định hình “luật chơi” và nguyên tắc của thể chế đa phương. Việt Nam vẫn đảm nhiệm tốt vai trò, vị trí của mình trong các “sân chơi” đa phương khu vực và thế giới. Cụ thể, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, với việc tham gia hàng trăm cuộc họp và bỏ phiếu các nghị quyết, đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng về các vấn đề liên quan đến thượng tôn pháp luật trong bảo vệ hòa bình và an ninh thế giới; thúc đẩy bảo vệ người dân, nhất là phụ nữ và trẻ em; ứng phó với những thách thức an ninh phi truyền thống (biến đổi khí hậu, nước biển dâng...); thúc đẩy hợp tác chặt chẽ hơn và nâng cao vai trò của các tổ chức, khu vực và tiểu khu vực, hợp tác giữa các tổ chức, khu vực và tiểu khu vực với Liên hợp quốc trong bảo vệ hòa bình và an ninh ở các khu vực và quốc tế. Đặc biệt, tháng 12-2021, Việt Nam đã tổ chức thành công Phiên họp theo thể thức Arria đầu tiên về vấn đề trẻ em không có sự chăm sóc của cha mẹ trong xung đột. Trên cương vị Chủ tịch luân phiên của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong tháng 4-2021, Việt Nam đã tổ chức, chủ trì, điều hành khoảng 30 cuộc họp theo phương châm tích cực, chủ động, có trách nhiệm, vừa bảo đảm sự khách quan, minh bạch, vừa linh hoạt, xử lý hài hòa, cân bằng mối quan tâm của các nước đối với các vấn đề được thảo luận và thúc đẩy hợp tác, đồng thuận tại Hội đồng Bảo an(18); thúc đẩy thông qua Tuyên bố Chủ tịch của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong đó nhấn mạnh nhu cầu tăng cường hợp tác quốc tế để chung tay giải quyết những hệ lụy của bom mìn sau chiến tranh đối với an toàn và sinh kế bền vững của người dân, cộng đồng(19).

Lễ xuất quân Đội Công binh số 1 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 lên đường làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Abyei và Nam Sudan

Việc tham gia tích cực, chủ động các hoạt động của ASEAN trong năm 2021 đã và đang khẳng định vai trò dẫn dắt, định hình “luật chơi” của Việt Nam tại diễn đàn đa phương lớn nhất của khu vực này. Việt Nam tham gia chuỗi các hội nghị cấp cao và quan trọng của ASEAN, như Hội nghị cấp cao ASEAN, Hội nghị cấp cao ASEAN với các đối tác, Hội nghị cấp cao Mê Kông - Hàn Quốc lần thứ ba, theo hình thức trực tiếp và trực tuyến... Cùng với đó, Việt Nam chủ động tham gia, tích cực phối hợp một cách có trách nhiệm với nước Chủ tịch Bru-nây thúc đẩy các ưu tiên của năm 2021, nhất là chủ động và hiện thực hóa các chương trình kế hoạch theo sáng kiến của Việt Nam từ năm 2020, như: Quỹ ASEAN về ứng phó dịch bệnh COVID-19, Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp ASEAN, Khung phục hồi tổng thể ASEAN và Khung thỏa thuận hành lang đi lại ASEAN (ATCAF)...

Tham gia ngoại giao đa phương trong khuôn khổ APEC cũng là một hoạt động đáng chú ý trong năm 2021 của Việt Nam. Bên cạnh việc Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tham dự và phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 28 (tháng 11-2021) được tổ chức tại Niu Di-lân, Việt Nam cũng tham gia nhiều sự kiện và hoạt động quan trọng của tuần lễ APEC, như Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 28 (APEC 28), phiên Đối thoại giữa lãnh đạo các nền kinh tế APEC với Hội đồng Tư vấn kinh doanh APEC (ABAC), Hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp APEC. Đồng thời, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Công Thương của Việt Nam cũng tham dự các phiên họp Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế của APEC. Đặc biệt, tại APEC 28, Việt Nam đã đề xuất một số ý kiến được các nền kinh tế thành viên ghi nhận, bao gồm: chia sẻ và tiếp cận công bằng vắc-xin phòng ngừa dịch bệnh COVID-19, vật tư y tế và nguồn lực, đề nghị APEC có tầm nhìn, cách tiếp cận mới trong việc phục hồi kinh tế, như thúc đẩy nền kinh tế số, thúc đẩy thương mại điện tử, thúc đẩy tự do thương mại, dỡ bỏ các rào cản thương mại để khôi phục sản xuất, kinh doanh, tránh bị đứt gãy các chuỗi sản xuất, đề nghị các nền kinh tế thành viên hỗ trợ, quan tâm các đối tượng yếu thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những biện pháp, đề xuất về thúc đẩy tăng trưởng xanh, tăng trưởng bao trùm... Tất cả các sáng kiến, đề xuất của Việt Nam đã được ghi nhận đầy đủ vào các văn kiện của APEC, trong đó có Tuyên bố cấp cao APEC, Tuyên bố cấp Bộ trưởng APEC cũng như Kế hoạch hành động triển khai Tầm nhìn APEC đến năm 2040; qua đó, thể hiện sự đóng góp hết sức trách nhiệm, tích cực, chủ động của Việt Nam, là thành viên chủ động, đi đầu trong APEC về xây dựng, củng cố đoàn kết trong APEC để tiếp tục tăng cường hợp tác vì một khu vực châu Á - Thái Bình Dương hòa bình và ổn định”(20).

Mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, thách thức nhưng với những hoạt động sôi động và hiệu quả của hoạt động ngoại giao nói chung và ngoại giao đa phương nói riêng, Việt Nam đã khẳng định vị thế của một quốc gia đang trên đà phát triển. Với vị thế và thực lực cũng như định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đẩy mạnh và nâng tầm ngoại giao đa phương trên thực tế sẽ là đường lối quan trọng để Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược của đất nước./.

-----------------

(1) Lưu Thúy Hồng: Ngoại giao đa phương trong hệ thống quan hệ quốc tế đương đại, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 49
(2), (3) Xem: Đặng Đình Quý (Chủ biên): Chủ nghĩa đa phương trên thế giới và đối ngoại đa phương của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 89 - 90
(4) Xem: Hoàng Khắc Nam: Lý thuyết quan hệ quốc tế, Nxb. Thế giới, 2017, Hà Nội, 2017, tr. 37, 64
(5) Xem: Đặng Đình Quý (Chủ biên): Chủ nghĩa đa phương trên thế giới và đối ngoại đa phương của Việt Nam, Sđd, tr. 89 – 90
(6) Elena Wilson Rowe - Stina Torjesen: “The Multilateral Dimension in Russian Foreign Policy” (Tạm dịch: “Chiều hướng đa phương trong chính sách đối ngoại của Nga”), 2009, https://www.routledge.com/The-Multilateral-Dimension-in-Russian-Foreign-Policy/Rowe-Torjesen/p/book/9780415542920
(7) Xem: Lưu Thúy Hồng (Chủ nhiệm): Hoạt động ngoại giao đa phương (Đề tài cơ sở trọng điểm), Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2021
(8) Trong Sách Trắng của Trung Quốc “Sự phát triển hòa bình” năm 2011 nhấn mạnh nguyên tắc không liên minh quân sự với bất cứ nước nào, cốt lõi của tư tưởng và khái niệm an ninh kiểu mới của Trung Quốc; thừa nhận sự xuất hiện của các nhân tố an ninh phi truyền thống
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 69
(10) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 110 - 111
(11) Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta sử dụng cụm từ “đối ngoại đa phương”
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 117 – 118
(13), (14), (15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 162 - 163, 201, 281 - 283, 164
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. II, tr. 154
(18) Xem: Thùy Dung: “Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an LHQ”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 25-3-2021, https://baochinhphu.vn/viet-nam-dam-nhan-vai-tro-chu-tich-hoi-dong-bao-an-lhq-102289742.htm
(19) Xem: Hoàng Kiều: “10 dấu ấn của Việt Nam tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021”, Trang thông tin điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, ngày 18-1-2022, https://vov.vn/chinh-tri/10-dau-an-cua-viet-nam-tai-hoi-dong-bao-an-lien-hop-quoc-nhiem-ky-2020-2021-post918924.vov
(20) Xem: Đoàn Ca: “Việt Nam là thành viên đi đầu, đóng góp có trách nhiệm trong APEC”, Trang thông tin điện tử Quân đội nhân dân, ngày 31-11-2021, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/viet-nam-la-thanh-vien-di-dau-dong-gop-co-trach-nhiem-trong-apec-677336

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ NHỮNG QUYẾT ĐỊNH LỊCH SỬ

 

Thắng lợi đó gắn liền với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.

Mùa thu năm 1945, cả dân tộc Việt Nam vùng lên lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật, đánh đuổi thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những chiến công vĩ đại nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, là bản hùng ca bất diệt trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong bản hùng ca ấy, không thể không kể đến vai trò lĩnh xướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã có những quyết định quan trọng, góp phần to lớn tạo nên thắng lợi của cách mạng mùa thu năm ấy, làm thay đổi vận mệnh nước nhà.

Quyết định đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng chính là việc người thanh niên Nguyến Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 5-6-1911. Từ Bến cảng Nhà Rồng, với một quyết tâm cháy bỏng “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, trải bao khó khăn, vất vả Người đã tiếp cận với Luận cương của V.I.Lênin, từ đó hình thành nên con đường cứu nước.

Quyết định quan trọng thứ hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930. Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển trong tiến trình lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam, được mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ ngày mới thành lập "Đảng đã giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời, xé tan màn đêm đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong".

Quyết định quan trọng tiếp theo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trở về nước vào ngày 28-1-1941 và chọn Cao Bằng là nơi xây dựng căn cứ cách mạng. Ở đây, Người và các đồng chí bắt tay vào công tác vận động, tập hợp và tổ chức lực lượng quần chúng.

Sau thời gian xây dựng thí điểm các đoàn thể cứu quốc, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh ngày 19-5-1941. Đây là quyết định về tổ chức có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cách mạng Việt Nam lúc này. Cùng với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh là sự phát triển mạnh mẽ của các đoàn thể trong mặt trận, như: Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc… Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, mọi tầng lớp nhân dân yêu nước được tập hợp đoàn kết tham gia phong trào đứng lên đánh đổ thực dân xâm lược giành độc lập tự do. Có thể nói, sự ra đời của Mặt trận Việt Minh là yếu tố quyết định cho thắng lợi Cách mạng Tháng Tám.

Song song với việc thành lập Mặt trận Việt Minh, để làm cơ sở và nòng cốt cho đấu tranh chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho xây dựng lực lượng vũ trang mà đầu tiên là thành lập đội vũ trang Cao Bằng, làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ cách mạng, huấn luyện chính trị quân sự cho các đội tự vệ, dân quân du kích địa phương, hậu thuẫn cho các cuộc đấu tranh của quần chúng. Đến tháng 12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Ngay sau khi thành lập, đội đã gây được tiếng vang lớn với chiến thắng diệt gọn 2 đồn địch ở Phay Khắt và Nà Ngần. Uy tín của đội lan tỏa khắp cả nước và nhiều địa phương cũng đã chủ động thành lập các đội vũ trang. Lực lượng vũ trang không ngừng lớn mạnh đã tạo điều kiện vô cùng quan trọng cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám./.

Theo Minh Duyên/TTXVN