Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2022
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ CON ĐƯỜNG TẤT YẾU CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI!
CÁN BỘ, CHIẾN SỸ QUÂN ĐỘI THAM GIA BẢO VỆ ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG!
LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 19 THÁNG 8 NĂM 1950!
Phản bác quan điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta
Trước tình trạng suy thoái về tư tưởngchính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, Đảng ta và Nhà nước ta đã kiên quyết xử lý và bước đầu có kết quả nhất định được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị lại tỏ ra hằn học, tung ra các luận điệu sai trái hòng xuyên tạc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay.
Luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch
Chúng cho rằng, tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là một “quốc nạn không có thuốc chữa” và nguyên nhân của tham nhũng bắt nguồn từ yếu tố “Đảng cầm quyền”. Vì vậy, “Cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công được”. Chúng suy diễn rằng “việc xử lý các vụ tham nhũng vừa qua vẫn là “giơ cao đánh khẽ”, thực chất đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ là trò “đấu đá nội bộ” hay “thanh trừng phe phái” lẫn nhau”. Đây là những luận điệu hết sức thâm độc nhằm chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước; giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta; gieo rắc tâm lý hoài nghi, dao động, làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng không vững vàng, yếu kém về chính trị tư tưởng. Không những thế, chúng còn ngụy biện rằng, tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là do chế độ “độc đảng” nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực... Do đó, chúng ta cần hết sức tỉnh táo nhận diện những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, kịp thời đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, lệch lạc.
Trước hết, trong thời gian qua chúng ta đã huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Điều đó không chỉ nâng cao chất lượng tổ chức đảng, đảng viên mà còn góp phần rất quan trọng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Do vậy, các thế lực thù địch cho rằng “Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công được” là xuyên tạc thực tế ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, “phần lớn tham nhũng xảy ra ở các quốc gia có chế độ đa đảng, tam quyền phân lập”. Ở châu Á, tình trạng tham nhũng tuy không nhiều nhưng vẫn còn diễn biến hết sức phức tạp. Do đó, việc thế lực thù địch khẳng định tham nhũng chỉ xảy ra ở những nước có chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam là trái với thực tế, xuyên tạc bản chất ưu việt của chế độ ta. Tuy nhiên, tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta; tham nhũng tồn tại ở tất cả các quốc gia, các chế độ chính trị xã hội khác nhau mà không dễ gì để xóa bỏ nó tận gốc. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chúng ta phải tiến công một cách kiên trì, kiên quyết, thường xuyên, liên tục, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.
Trong luận điệu chúng cho rằng “công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Việt Nam là “giơ cao, đánh khẽ”, “thanh trừng bè phái trong nội bộ” là rất phản động, cố tình xuyên tạc nhằm phủ nhận năng lực lãnh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Trên thực tế, Đảng ta đã xử lý rất công minh, chính xác, kịp thời đúng người, đúng tội những cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ thuộc diện Trung ương, Bộ Chính trị quản lý nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ xứng đáng với niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chứ không phải như những luận điệu các thế lực thù địch xuyên tạc.
Để tiếp tục phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc thành tựu phòng, chống tham nhũng tiêu cực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng phải tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, XIII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; nhất là, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Ban Chỉ đạo Trung ương; thực hiện tốt chủ trương thành lập và phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do đồng chí bí thư tỉnh ủy, thành ủy làm trưởng ban.
Thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Do đó, phải tiến hành đồng bộ, với phương châm “nhận thức phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn và phương pháp phải đúng” , “dọc ngang thông suốt”, tránh “trên nóng, dưới lạnh”, “đầu voi, đuôi chuột”, “đánh trống bỏ dùi”… làm cho dân tin vào Đảng và mỗi đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
PHAO
Chống chủ nghĩa cá nhân là yêu cầu tất yếu trong giai đoạn hiện nay
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra từ nhiệm kỳ khóa VII, trong đó có “nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội” vẫn hiện hữu, có mặt diễn biến gay gắt, phức tạp hơn. Đúng như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII đã chỉ rõ điều bức xúc và đáng lo nhất hiện nay là tình trạng tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh sự “phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt Đảng”.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên, nhưng Đảng ta nhận định nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trong đó có nguyên nhân vướng vào CNCN. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến những hành vi sai trái, tiêu cực. Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên ngang tầm với đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh phải “kiên quyết đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong toàn Đảng”.
Mặt khác, trước bối cảnh mới đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; nền kinh tế phát triển chưa bền vững; trong khi đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động ảnh hưởng rất lớn, cùng với những hạn chế, yếu kém còn tồn tại khiến nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Trong điều kiện mới, đứng trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, với quy mô lớn hơn, tầm vóc cao hơn, có nhiều khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới.
Đúng như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Có thể nói đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung, đấu tranh kiên quyết với CNCN nói riêng không phải là ý muốn chủ quan của ai mà là yêu cầu tất yếu của tình hình nhiệm vụ cách mạng.
PHAO
VỀ ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tinh thần đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng, nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng được Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong gần 200 bài nói, viết về công tác xây dựng đảng, về rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, góp phần hình thành tư tưởng lý luận, thực tiễn về công tác xây dựng đảng và có ý nghĩa đối với xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Về chủ nghĩa cá nhân
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích của riêng mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô. Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng”[i]. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của cách mạng, nó là nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm tha hoá Đảng, chừng nào còn chủ nghĩa cá nhân thì cách mạng còn gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, chống chủ nghĩa cá nhân là việc làm cần thiết, thường xuyên của những người cộng sản chân chính. Người cho rằng, mỗi cán bộ, đảng viên “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết trên trán chữ “cộng sản” là được họ yêu mến”, mà phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng, chống sa vào chủ nghĩa cá nhân, góp phần làm cho Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”.
Theo Người, chừng nào còn chủ nghĩa cá nhân nó sẽ “ngăn trở” người cán bộ, đảng viên phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc, làm mất lòng tin cậy của dân với Đảng. Và: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Nguyên nhân sâu xa, xét đến cùng dẫn tới sự suy thoái biến chất, làm giảm sức chiến đấu trong Đảng đó chính là chủ nghĩa cá nhân: “Do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”; “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”.
Người đưa ra kết luận: “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí… Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”
Để đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, theo chúng tôi cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
Một là, các cấp ủy đảng tăng cường công tác giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Mỗi cán bộ, đảng viên có kế hoạch học tập, không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, tư cách đảng viên; khắc phục mọi biểu hiện cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, mơ hồ mất cảnh giác, giảm sút ý chí chiến đấu và những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống.
Hai là, giữ vững các nguyên tắc tổ chức xây dựng đảng, phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình. Chỉ thị của Bộ Chính trị về việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII yêu cầu các tổ chức đảng khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém, không nể nang, né tránh; đề ra các biện pháp khắc phục, sửa chữa thiết thực, khả thi; kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, nói đi đôi với làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất hiện nay. Quá trình tiến hành kiểm điểm phải bảo đảm thật sự dân chủ, nghiêm túc, thẳng thắn với tinh thần xây dựng, đúng yêu cầu, nội dung, cách làm, thời gian mà Trung ương, Bộ Chính trị đã đề ra. Cấp trên phải làm gương tự phê bình trước, cấp dưới làm sau; tập thể làm trước, cá nhân làm sau; các đồng chí trong thường vụ, cấp ủy viên cấp trên gương mẫu, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, làm gương cho cấp dưới.
Ba là, không ngừng giáo dục nhân dân, nâng cao dân trí, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, của mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc giám sát cán bộ, công chức, có cơ chế để nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng, kịp thời khen thưởng những cá nhân, cơ quan báo chí đã tích cực đấu tranh, phê phán những hành động sai trái, góp phần phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, phòng chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Bốn là, xây dựng quy chế làm việc, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức, làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, sơ tổng kết, rút kinh nghiệm gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng và tổ chức”. “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định ít đi”. Vì vậy, các cấp ủy đảng cần có nghị quyết lãnh đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, góp phần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên ở nơi công tác, nơi cư trú và khi công tác xa đơn vị.
Năm là, xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai những cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào vi phạm tư cách, thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng.
PHAO
Giữ vững bản lĩnh quân nhân cách mạng
Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới thể hiện tư duy rất toàn diện và đặt ra yêu cầu cao về việc xây dựng, giữ vững bản lĩnh quân nhân cách mạng.
Yêu cầu này cần được nhận thức đầy đủ và triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt ở tất cả các cấp. Giá trị cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” là sự hội tụ và kết tinh nhiều phẩm chất cao quý. Trong đó, phẩm chất hàng đầu là có bản lĩnh chính trị vững vàng.
Đức tính của mỗi con người được tạo nên bởi nhiều phẩm chất xã hội khác nhau. Trong đó “bản lĩnh” là phẩm chất cơ bản được hình thành qua quá trình rèn luyện bền bỉ, lâu dài. Với mỗi quân nhân, được rèn luyện tổng hợp trong môi trường quân ngũ là điều kiện thuận lợi để hình thành nên bản lĩnh vững vàng.
Đặc biệt, hoạt động quân sự có tính đặc thù cao, diễn ra trong điều kiện khó khăn, phức tạp, gian khổ, ác liệt, nếu không có bản lĩnh thì con người không thể vượt qua. Chính vì vậy, bản lĩnh được hình thành từ thực tiễn chiến đấu, lao động và công tác. Có bản lĩnh, bộ đội sẵn sàng thực hiện lời thề thiêng liêng “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam...”. Trong phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, bản lĩnh chính trị là yếu tố đầu tiên. Đó là khả năng nhận thức chính trị, lập trường, quan điểm, thái độ chính trị, là ý chí và niềm tin vào giai cấp và chế độ.
Thực tế trong chiến đấu, trong những tình huống cam go, ác liệt nhất, bản lĩnh “Bộ đội Cụ Hồ” được phát huy trở thành biểu tượng sáng ngời về hình ảnh con người Việt Nam. Bác Hồ từng giáo dục, rèn luyện bản lĩnh cho bộ đội phải luôn kiên định, vững vàng “lúc có địch cũng trấn tĩnh như không có địch, xa địch cũng nghiêm ngặt như gần địch”. Không chỉ trong chiến đấu, bản lĩnh “Bộ đội Cụ Hồ” còn được biểu hiện trong quá trình công tác. Quân đội ta đóng quân trên khắp mọi miền Tổ quốc, ở đâu cũng có bóng dáng cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm canh giữ biển trời, biên cương đất nước...
Có thể khẳng định, bản lĩnh đã tạo nên nét đẹp văn hóa trong nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”. Bản lĩnh là thước đo phẩm chất, là yếu tố tiên khởi để đánh giá người quân nhân cách mạng. Chính vì vậy, việc rèn luyện bản lĩnh là yêu cầu tự thân của mỗi quân nhân. Bên cạnh đó, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị cần luôn quan tâm đến việc xây dựng, rèn luyện bản lĩnh cho bộ đội thông qua học tập, bồi dưỡng lý tưởng, kiến thức, truyền thụ kinh nghiệm, giao nhiệm vụ thực tế, đưa bộ đội vào từng hoàn cảnh cụ thể sát với yêu cầu nhiệm vụ. Có bản lĩnh, bộ đội sẽ vững vàng trong mọi điều kiện, “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm”, từ đó, ngày càng trưởng thành và tiến bộ. Bản lĩnh vững vàng trong mọi hoàn cảnh sẽ mãi là phẩm chất cao quý của người quân nhân cách mạng, nét đẹp văn hóa ngời sáng “Bộ đội Cụ Hồ”.
PHAO
Năm đặc trưng cơ bản của phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ"
Một là, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Kiên định lập trường Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, có đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, chân thành, lạc quan; nói đi đôi với làm, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân; không thỏa mãn với thành tích, không chùn bước trước khó khăn, hiểm nguy.
Ba là, tích cực huấn luyện, học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi mặt và kiến thức chuyên môn; có phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao; gương mẫu trong công tác, sinh hoạt; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Bốn là, có tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; giữ vững nguyên tắc, phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến góp ý với tinh thần cầu thị. Kỷ luật tự giác, nghiêm minh; gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội.
Năm là, chăm lo xây dựng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt; lắng nghe, tôn trọng, học hỏi, giúp đỡ, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Có tinh thần đoàn kết quốc tế, mở rộng và tăng cường đối ngoại quốc phòng góp phần tích cực bảo vệ môi trường hòa bình khu vực và thế giới.
PHAO
Phẩm chất Bộ đội cụ Hồ
“Bộ đội Cụ Hồ” - tên gọi bình dị nhưng vô cùng cao quý mà Nhân dân dành tặng, tôn vinh Quân đội ta. Đó là hình tượng cao đẹp, tập trung những phẩm chất ưu tú của người quân nhân cách mạng, một giá trị văn hóa - đạo đức của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phẩm chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” được xây đắp nên từ sự phấn đấu, hy sinh vô bờ của lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ; được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công tổ chức, giáo dục, rèn luyện; được Nhân dân hết lòng thương yêu đùm bọc, giúp đỡ, nuôi dưỡng. Những phẩm chất quý giá đó càng được tô thắm thêm qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, thực tiễn xây dựng, chiến đấu, phát triển và trưởng thành của Quân đội, được các thế hệ lưu truyền, kế tục và phát huy. Đó là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, là niềm vinh dự, tự hào và là động lực mạnh mẽ, thôi thúc cán bộ, chiến sĩ Quân đội không ngừng phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu cao quý, với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 3, Sư đoàn 324, Quân khu 4 giúp dân xã Thọ Tiến, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa di dời tài sản đến nơi an toàn |
Phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” được thể hiện ở các phương diện, trên mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ, trước hết ở lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân. Được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện, Quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; luôn tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng; không quản hy sinh, gian khổ, chiến đấu anh dũng, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong các cuộc chiến tranh giải phóng trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Sự trung thành của “Bộ đội Cụ Hồ” đã và đang thể hiện sâu sắc ở tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, luôn xung kích đi đầu, đứng vững ở nơi “đầu sóng ngọn gió”: vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi khó khăn, gian khổ và chiến tranh ác liệt nhất; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh tuổi xuân và tính mạng của mình để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc còn được biểu hiện: Quân đội luôn là lực lượng đi đầu, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, những luận điệu xuyên tạc, chống phá, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Luôn “sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” là giá trị cốt lõi, phản ánh chức năng, nhiệm vụ của quân đội cách mạng. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; nhất là những hy sinh của cán bộ, chiến sĩ trong Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; trên những cung đường Trường Sơn huyền thoại, Ngã ba Đồng Lộc bất tử, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; “Vòng tròn bất tử” trên đảo Gạc Ma - Trường Sa xanh thẳm,… là minh chứng cho phẩm chất sẵn sàng chiến đấu, chấp nhận hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội của “Bộ đội Cụ Hồ”. Kế thừa truyền thống hào hùng đó, hiện nay, cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn ra sức phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện, huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, làm chủ các loại vũ khí, trang bị mới, hiện đại; thường xuyên nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, công tác, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân trong thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, v.v. Ở bất kỳ cương vị, công việc nào, mục đích trên hết, trước hết và tất cả đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội là vì nền độc lập, lợi ích quốc gia, dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân; luôn thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” trong tình hình mới, thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, “Bộ đội Cụ Hồ” luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân chở che, đùm bọc, kề vai, sát cánh cả trong đấu tranh cách mạng cũng như trong thời bình. Thể hiện cụ thể và sâu đậm ở tình cảm yêu mến, sự kính trọng, gắn bó với nhân dân của cán bộ, chiến sĩ Quân đội; tinh thần hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì tự do, hạnh phúc của nhân dân trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Ngày nay, phẩm chất, nhân cách đó càng được khẳng định trong thực tiễn thông qua công tác dân vận của Quân đội và được thể hiện rõ bằng những việc làm cụ thể của cán bộ, chiến sĩ trong giúp dân xóa đói, giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc"
“Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”, càng trong khó khăn, gian khổ, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” càng tỏa sáng. Với tinh thần “cứu dân là mệnh lệnh trái tim”, trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa môi trường và dịch bệnh, cán bộ, chiến sĩ Quân đội không hề do dự, tính toán thiệt hơn, có lệnh là lên đường làm nhiệm vụ. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội lăn lộn trong gian khó, sáng tạo trong tổ chức giải cứu 12 công nhân bị sập hầm ở thủy điện Đạ Dâng (Lâm Đồng); 11 cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã anh dũng hy sinh khi trên đường hành quân đi cứu hộ, cứu nạn các công nhân tại khu vực Thủy điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên - Huế), v.v. Đặc biệt, trong các đợt cao điểm phòng, chống đại dịch Covid-19, cán bộ, chiến sĩ toàn quân đã nêu cao tinh thần dấn thân, sẵn sàng hy sinh, chấp nhận gian khổ, khắc phục mọi khó khăn để bảo vệ tốt nhất sức khỏe, tính mạng của nhân dân với phương châm “tìm đến nhân dân để biết nhân dân cần gì, không để nhân dân phải tìm đến bộ đội”, và “Không để ai bị bỏ lại phía sau”, là minh chứng sống động cho tinh thần ấy; đã thể hiện “mối quan hệ máu thịt”, tình quân dân như “cá với nước” của cán bộ, chiến sĩ Quân đội với Nhân dân. Qua đó, viết tiếp thiên anh hùng ca bất hủ của Quân đội “bách chiến bách thắng”, “đi dân nhớ, ở dân thương” là “Bộ đội Cụ Hồ”. Đồng thời, khẳng định: “Quân đội luôn là trụ cột quốc gia, nhất là khi đất nước lâm nguy, dịch dã, thiên tai”.
Phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” còn thể hiện ở tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung. Hàng vạn bộ đội tình nguyện Việt Nam đã hy sinh cả máu xương, tính mạng để cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của Khơme đỏ để nhân dân Campuchia xúc động gọi Bộ đội Việt Nam - “Bộ đội Cụ Hồ” là “Bộ đội nhà Phật”. Việt Nam đã cử hàng trăm lượt cán bộ, nhân viên Quân đội tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại các phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, v.v. Vượt lên những khó khăn, bất đồng ngôn ngữ, tình hình an ninh ở các phái bộ bất ổn, điều kiện sinh hoạt hạn chế, khí hậu khắc nghiệt,… những chiến sĩ “mũ nồi xanh” Việt Nam luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Qua đó, hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam cùng phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” đã vượt khỏi những giới hạn về thời gian và không gian để lan tỏa, nhập sâu vào ánh mắt, trái tim bạn bè quốc tế, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam.
Gần tám thập kỷ qua, dưới sự chăm lo, rèn luyện, lãnh đạo của Đảng ta, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, kể cả trong thời điểm khó khăn, phức tạp và cam go nhất, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn luôn tỏa sáng, góp phần quan trọng để Quân đội nhân dân hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đây là danh hiệu cao quý được nhân dân tôn vinh; là giá trị cốt lõi để xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, luôn giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, giữ vững lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu, bản lĩnh chính trị, thực sự là công cụ sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Giá trị đó cần được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội hôm nay tiếp tục gìn giữ, bảo vệ, phát huy và phát triển lên tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
PHAO
Bài học nhận biết và chớp thời cơ của Cách mạng Tháng Tám 1945 vẫn còn nguyên giá trị.
“Nhận thức và tận dụng thời cơ một cách nhạy bén là phẩm chất rất quan trọng của đội ngũ lãnh đạo cách mạng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh trong thành công của Cách mạng Tháng Tám”.
Chớp thời cơ là nghệ thuật
Đảng Cộng sản Đông Dương đã nhận thức rõ: Thời cơ là sự kết hợp hàng loạt nhân tố chủ quan và khách quan đã đến độ chín muồi. Thời cơ không tự đến, một phần là do ta chuẩn bị, thúc đẩy. Trước những thất bại trên chiến trường Thái Bình Dương, đêm 9-3-1945, quân Nhật đảo chính thực dân Pháp độc chiếm toàn Đông Dương. Tuy nhiên, quân Nhật ở châu Á bị lực lượng Đồng minh, đặc biệt có sự tham chiến của Liên Xô đánh bại liên tiếp trên nhiều mặt trận. Với thất bại không thể tránh khỏi, chính phủ Nhật đã chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh.
Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới của Mỹ trong chuyến công tác tham dự Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN - Mỹ diễn ra tại Mỹ |
Những gì đã diễn ra trong Tháng Tám lịch sử đó không nằm ngoài dự báo và sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh. Vào tháng 10-1944, trong thư gửi đồng bào toàn quốc, Người nói: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”.
Chiến tranh thế giới thứ hai khi đó bước vào giai đoạn kết thúc. Trước tình hình này, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra bản chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12-3-1945. Bản chỉ thị nhận định phải phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Một số dấu mốc lịch sử cho thấy nước ta đã phát huy và ứng dụng thành công bài học kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Tám:
+ Đến năm 2011, Việt Nam (VN) mới chính thức hội nhập quốc tế, trước đó bước đi đầu tiên là hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là chọn lựa rất thành công. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, VN nhận thức rõ xu hướng của thế giới là hợp tác và phát triển; kinh tế trở thành nhân tố chi phối sự hợp tác.
Năm 1998, VN trở thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), một khu vực mở, lớn hơn về cấp độ, thể hiện sự tịnh tiến trong hội nhập.
PHAOÝ NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền.
- Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
PHAO
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản tuyên ngôn Độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
PHAO
TÌNH BẠN VIỆT - LÀO
Trong kháng chiến chống Pháp, quân dân Lào đã kề vai sát cánh cùng chúng ta trong các trận đánh ở biên giới phía Bắc và miền Trung. Năm 1954, trong khi Chiến dịch Điện Biên Phủ đang diễn ra, các bộ tộc Lào tiến hành phá rối quân Pháp để lực lượng Pháp phân tâm, không hỗ trợ kịp thời cho đại quân tại Điện Biên Phủ…
Sau đó, chiến binh Pathet Lào của đất nước triệu voi đã chiến đấu kề vai sát cánh với bộ đội Việt Nam trong cuộc chiến tranh thống nhất đất nước. Như trong Chiến dịch đường 9 - Nam Lào 1971, Chiến dịch Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng 1972 và hàng chục trận đánh lớn nhỏ khác. Bao nhiêu năm chiến tranh là bấy nhiêu năm nhân dân các bộ tộc Lào đùm bọc bộ đội ta, che chở cán bộ ta. Theo ước tính của Bộ Quốc phòng Lào, có khoảng 50 ngàn quân và dân các bộ tộc Lào hy sinh trong các nhiệm vụ hỗ trợ bộ đội Việt Nam.
Chúng ta hỗ trợ Lào vì tại nước bạn, có tới cả trăm ngàn người Việt đang sinh sống, học tập, làm việc, phát triển tại nước bạn. Chúng ta hỗ trợ nước bạn đúng theo tư tưởng “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, ổn định biên giới, theo đuổi chính sách hòa bình, phát triển.
Chúng ta hỗ trợ Lào vì khẩu hiệu “Việt Nam - Hồ Chí Minh” được hô vang bởi người dân Lào tại SEA Games 2009. Vì thành viên của đội tuyển bóng đá Lào từng nói rằng: “Việt Nam như là quê hương của tôi vậy”. Mỗi lần có trận đấu, cổ động viên đến từ hai quốc gia dành những lời động viên nhau, kề vai sát cánh cùng nhau…
Chúng ta hỗ trợ nước bạn vì những mối gắn kết đặc biệt trong quá khứ, mối quan hệ “súng bên súng, đầu sát bên đầu”, khi nước bạn chấp nhận cho chúng ta mượn “bờ vai” để dựa vào trong những năm tháng khốn khó… Chúng ta đã từng “có qua có lại” giúp đỡ người bạn Lào trong chiến tranh và tái thiết, nhưng đó chưa bao giờ là đủ mà giúp những người anh em thì chưa bao giờ là thừa.
Trong cuộc đời mỗi người, có bao nhiêu người sẵn sàng vì ta mà hy sinh bản thân, không màng vụ lợi? Đối diện với kẻ địch hùng mạnh, có bao nhiêu quốc gia sẵn sàng "đồng cam cộng khổ", cùng chiến đấu, che chở, bao bọc chúng ta?
Hơn cả tình bạn, đó là tri kỷ.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết, tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi
Đầu năm 1945, cục diện Chiến tranh thế giới thứ hai đang đi đến giai đoạn kết thúc. Chủ nghĩa phát xít đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Trong tình thế khó khăn đó, phát xít Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp (9/3/1945) để độc chiếm Đông Dương.
Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng (Bắc Ninh), ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945), xác định rõ kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Hội nghị quyết định phát động một cao trào “Kháng Nhật cứu nước” mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Phong trào đấu tranh vũ trang và các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp diễn ra ở nhiều địa phương, đẩy quân Nhật và chính quyền tay sai rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
Ngày 13/8/1945, Chính phủ Nhật hoàng phải tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh không điều kiện. Tin tức đầu hàng nhanh chóng lan đi khắp các mặt trận. Quân đội Nhật chiếm đóng ở Đông Dương bị tê liệt, mất tinh thần chiến đấu, chính phủ tay sai bù nhìn hoang mang cực độ. Không khí cách mạng sục sôi trong cả nước.
Theo sự thỏa thuận của các nước Đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) sẽ tiến vào miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh - Pháp sẽ vào miền Nam Việt Nam (lấy vĩ tuyến 16 phân chia) làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất đều muốn thực hiện ý định tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập chính quyền tay sai phục vụ mưu đồ cai trị.
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc (từ 13 - 15/8/1945) họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), nhận định thời cơ đã đến, quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng minh vào. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc để kịp thời chỉ đạo thống nhất phong trào khởi nghĩa các địa phương.
Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Trong ảnh: Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang), nơi diễn ra Đại hội Quốc dân do Việt Minh triệu tập, ngày 16/8/1945. |
Ngay sau đó, Đại hội quốc dân cũng họp ở Tân Trào (ngày 16/8/1945), bao gồm đại biểu của ba xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) đại diện cho các giới, các đoàn thể, các dân tộc, tiêu biểu cho ý chí và nguyên vọng toàn dân. Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa, bầu Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua một số chính sách quan trọng của Mặt trận Việt Minh.
Hưởng ứng lệnh Tổng khởi nghĩa, nhân dân cả nước với khí thế sục sôi đồng loạt nổi dậy giành chính quyền. Ngày 19/8/1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8, Thừa Thiên - Huế giành được chính quyền. Ngày 25/8, nhân dân Sài Gòn - Gia Định giành được chính quyền... Sức mạnh vùng dậy "long trời, lở đất” của hàng triệu quần chúng, tạo nên một ưu thế áp đảo, giáng đòn quyết định vào tất cả cơ quan đầu não của chính quyền bù nhìn, làm tê liệt mọi sự kháng cự của các thế lực thù địch, khiến chúng không kịp trở tay.
Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ trong cả nước vào ngày 28/8/1945. Ngày 30/8/1945, Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều Nguyễn tuyên bố thoái vị, trao ấn vàng, kiếm nạm ngọc lại cho đại diện Việt Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chính quyền cả nước thuộc về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong giờ phút thiêng liêng trọng đại ấy, Người tiếp tục khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố nền tảng để bảo vệ thành quả cách mạng vĩ đại vừa giành được: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Đồng bào Sài Gòn hưởng ứng Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: TTXVN |
Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 thực sự là biểu tượng cho sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Sức mạnh đó trước hết bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước nồng nàn của mỗi con dân đất Việt, được bồi dưỡng trao truyền qua hàng ngàn năm lịch sử, tiếp tục được nhân lên và phát huy cao độ bởi đường lối cách mạng khoa học, đúng đắn, sáng tạo của Đảng.
Trên cơ sở thắng lợi vĩ đại vừa giành được, Đảng kịp thời đúc rút những bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có bài học về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, nội dung cụ thể là: Đánh giá đúng và biết tập hợp, tổ chức lực lượng các giai cấp cách mạng, trong đó lấy liên minh công nông làm nền tảng. Trên cơ sở đó, biết khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước tiến bộ trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, phân hóa và cô lập cao đội kẻ thù, chớp thời cơ tiến lên đánh bại chúng. Bài học kinh nghiệm này được Đảng chắt lọc, vận dụng sáng tạo vào các chặng đường cách mạng tiếp theo.
Gần 80 năm đã trôi qua, song cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 vẫn vẹn nguyên tầm vóc và giá trị lịch sử, là niềm tự hào thôi thúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI