Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022
TOÀN QUÂN QUYẾT TÂM PHÁT HUY PHẨM CHẤT BỘ ĐỘI CỤ HỒ TRONG TÌNH HÌNH MỚI!
LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 01 THÁNG 10 NĂM 1951!
CƠ CHẾ QUAN
HỆ NHÂN SỰ - BIỂU HIỆN MỚI CỦA CHỦ NGHĨA
TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY
Trong xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế hiện nay, chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn là chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước. Vai trò của nhà nước và của thị trường trong các nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa đương đại có những sự khác biệt tương đối (chủ nghĩa tư bản tự do
ở Mỹ và Anh; kinh tế thị trường xã hội ở lục địa châu Âu: mô hình Nhật Bản và
các nước NIC, châu Á. ) là một thực tế hiển nhiên.
Trong các nước tư bản phát
triển nhất, địa vị thống trị xã hội thuộc về tầng lớp tư bản tài chính. Sự làm
giàu của họ và tầng lớp tư bản thực lợi xét cho cùng phụ thuộc vào mức độ bóc lột
người, lao động tổng thể, cũng có nghĩa là phụ thuộc vào sự phát triển của bản
công nghiệp, nhưng được che giấu tinh vi dưới các hình thức phân phối lại giá
trị thặng dư. Sự bóc lột được thể hiện trong việc chiếm đoạt lợi nhuận không chỉ
bằng con đường phát triển lực lượng sản xuất mà còn bằng những thủ đoạn tài
chính. Hình thức thống trị chủ yếu của tư bản là tách khỏi sản xuất trực tiếp,
còn tầng lớp thống trị chóp bu, bọn trùm sỏ tài chính trở thành “những bậc kỳ
tài về thủ đoạn tài chính”. Khác với những tư bản khác, tư bản tài chính có thể
thu được lợi nhuận không những trong điều kiện kinh tế tăng trưởng mà còn cả
trong khi nền kinh tế khủng hoảng, trì trệ. Khi nắm được quyền lực khống chế
tài chính và xu hướng phát triển của nền kinh tế trong mỗi thời kỳ, tư bản tài
chính đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị giá cổ phiếu và cổ tức
ngay trong giai đoạn suy thoái, làm phát, rối loạn chính trị... để đầu cơ kiểm
lợi.
Đồng thời với quá trình toàn
cầu hóa kinh tế, những nhóm nhỏ tư bản tài chính còn có thể đầu cơ đánh sập hối
đoái ở những quốc gia mở cửa thị trường vốn không có biện pháp kiểm soát hữu hiệu
gây nên những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ để trục lợi. Những cuộc khủng
hoảng như thế có sức phá hoại khủng khiếp đối với các nền kinh tế nước sở tại
nhưng nó mang lại những khoản lợi nhuận khổng lồ cho các nhà tư bản tài chính
quốc tế.
Sự phát triển của trình độ
dân trí và quy luật cạnh tranh xã hội tư sản dẫn đến sự thay đổi về quan hệ
nhân sự trong bộ máy chính quyền nhà nước. Thể chế đa nguyên trong phân chia quyền
lực nhà nước đã trở thành phổ biến. Tại các nước tư bản phát triển nhất, sự
lũng đoạn của tư bản độc quyền đã không còn có thể làm mưa, làm gió" như
trước. Cơ chế thỏa hiệp để cùng tồn tại, cùng phân chia quyền lực giữa các thế
lực tư bản độc quyền không cho phép bất kỳ một thế lực tư bản nào độc tôn, chuyển
quyền ở các nước từ bản phát triển. Những đảng phái tư sản cầm quyền suốt mấy
thập niên như Đảng Dân chủ tự do ở Nhật Bản, Đảng Xã hội dân chủ ở Đức, Thụy Điển...
cũng bị mất chính quyền thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu. Ở Mỹ, suốt 70 năm
qua không có đảng nào dù Cộng hòa hay Dân chủ giữ được ghế tổng thống được ba
nhiệm kỳ,
Sự thay đổi đó phản ánh những
biến đổi đáng ghi nhận là "mới" - Cơ chế quan hệ nhân sự ở các nước từ bản đương đại. Trong
không ít trường hợp, trọng tâm quyền lực nhà nước lại thuộc về một thế lực
trung dung, có vị thế cân bằng giữa các thế lực đối địch nhau. Đến lượt nó, vị
thể quyền lực đó tạo nên những thể chế kinh tế, chính trị, xã hội.. ôn hòa hơn,
ít cực đoan hơn so với những thời kỳ trước.
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI SẼ BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU?
NGƯỜI ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN CẦN PHẢI LÀM
GÌ?
Theo lý luận của V.I.Lênin thì tại những nơi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đạt tới trình độ phát triển cao nhất, ở đó đã có sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, nhưng hoàn toàn không thể có quá trình tự động chuyển thành chủ nghĩa xã hội. Bởi vì vẫn còn tồn tại nhà nước của giai cấp tư sản, tức là nhà nước. của thiểu số dân cư. Nhưng nếu thay đổi được nhà nước tư sản đi bằng nhà nước của đa số nhân dân thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ thuận lợi và nhanh chóng hơn những nơi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chưa phát triển được đầy đủ.
Vấn
đề chính quyền là vấn đề người ta không thể lẫn tránh được, cũng không thể gác
lại, vì chính đó là vấn đề cơ bản, vấn đề quyết định tất cả mọi cái trong sự
phát triển của cách mạng. Sự thay đổi bản chất của chính quyền nhà nước chỉ có
thể thực hiện được thông qua một cuộc cách mạng xã hội. Có thể bằng bạo lực
song cũng có thể phi bạo lực, tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể? “ chủ nghĩa xã
hội không phải là cái gì khác hơn là một bước tiến tiếp liền ngay sau chế độ độc
quyển tư bản chủ nghĩa của nhà nước”.[1]
NHỮNG BIỂU HIỆN MỚI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
ĐỘC QUYỀN
NHÀ NƯỚC TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY
Ngày nay, những thập niên đầu
của thế kỷ XXI, chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn là chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước. Vai trò của nhà nước và của thị trường trong các nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa đương đại có những sự khác biệt tương đối (chủ nghĩa tư bản tự do ở Mỹ
và Anh; kinh tế thị trường xã hội ở lục địa châu Âu: mô hình Nhật Bản và các nước
NIC, châu Á. ) là một thực tế hiển nhiên.
Tuy nhiên, dù có sự khác nhau
nhiều hơn cũng như đã, đang và sẽ còn có nhiều những biểu hiện mới hơn nữa,
nhưng xét cho cùng, đó cũng chỉ là những thay đổi về “lượng", chưa thể đủ
để đạt đến sự thay đổi về “chất” của chủ nghĩa tư bản. Sự thay đổi về “chất” đó
sẽ chỉ bắt đầu diễn ra khi và chỉ khi có sự thay đổi về bản chất của hệ tư tưởng và chính quyền
nhà nước
Tuy nhiên, không nên lầm tưởng
về tính chất ổn định và rất ít sự thay đổi trong lòng xã hội tư sản dưới tác động
của chủ nghĩa từ bản độc quyền nhà nước. Ở các nước tư bản phát triển nhất, sau
khi kết thúc “chiến tranh lạnh", đã có rất nhiều những thay đổi. Liên minh
châu Âu và đồng tiền chung châu Âu ra đời; các khu vực thương mại tự do theo
nhau xuất hiện; các định chế quốc tế từ Liên hợp quốc cho tới Quỹ Tiền tệ quốc
tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... ngày
càng phát huy vai trò của nó. Tất cả những điều đó đều cần phải có những nghiên
cứu thật sự nghiêm túc.
Nhận định về bối cảnh mới của thế giới, Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Thế giới đang trải qua những biển động to lớn, diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đã cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhà đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc gia, nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối, cung ứng toàn cầu. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường... tiếp tục diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày cảng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn".[1]
Chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước không thay đổi bản chất nhung rõ ràng là có những thay đổi với tư cách
là những biểu hiện. quan hệ nhân sự; về kinh tế nhà nước về các ưu tiên sử
dụng công cụ điều tiết kinh tế, về thực hiện các chức năng mới về chế điều tiết xã hội
và về quan hệ kinh tế đối ngoại...
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc
gia Sự thật, H.2021, t.I, tr:105-107.
BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC LÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TOÀN DÂN
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng
ta: “Giữ bí mật của Nhà nước là một bộ phận trong cuộc đấu tranh với địch”;
“Giữ bí mật, tức là đã nắm chắc một phần thắng lợi trong tay ta”... Vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “Chúng ta phải tuyên truyền, giải thích cho nhân dân
hiểu thấu, để nhân dân giúp sức vào công việc này”.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, những năm qua,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều nỗ lực, cố gắng nhằm thực hiện ngày
càng tốt hơn công tác bảo vệ bí mật nhà nước. Các cấp, các ngành, các địa
phương từ Trung ương tới cơ sở đã chủ động triển khai thực hiện các quy định về
công tác bảo vệ bí mật nhà nước, cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được,
công tác bảo vệ bí mật nhà nước thời gian qua cũng gặp nhiều khó khăn, bất cập,
tồn tại, hạn chế. Đáng chú ý là việc thực hiện các quy định về bảo vệ bí mật
nhà nước có nơi, có lúc chưa đi vào nền nếp, thống nhất. Công tác bảo vệ bí mật
nhà nước còn nhiều sơ hở, nhất là trên không gian mạng. Tình trạng vi phạm pháp
luật về bảo vệ bí mật nhà nước vẫn diễn ra phức tạp ở nhiều cấp độ khác nhau,
phổ biến là vi phạm khi thực hiện xác định mức độ mật; thống kê, lưu giữ, bảo
quản; sao chụp tài liệu bí mật nhà nước; sử dụng máy tính và các thiết bị trong
soạn thảo, lưu giữ, truyền đưa bí mật nhà nước.
Trong khi đó bí mật nhà nước là một trong
những nội dung mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường
xuyên tìm cách thu thập nhằm bóp méo, xuyên tạc, đả kích, nói xấu, chống phá,
Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin, cách thức thu thập bí mật nhà nước vô cùng đa dạng. Do đó, bảo vệ bí mật
nhà nước là nhiệm vụ không của riêng ai, mọi cơ quan, tổ chức, mọi tập thể, cá
nhân đều phải nâng cao cảnh giác, có trách nhiệm với nhiệm vụ bảo vệ bí mật nhà
nước.
Để việc triển khai thực hiện các quy định về
bảo vệ bảo vệ bí mật nhà nước đi vào nền nếp, thống nhất, đúng quy định của
pháp luật và kịp thời khắc phục khó khăn, chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế
trong thời gian qua chúng ta cần tiến hành quyết liệt, đồng bộ, chặt chẽ nhiều
giải pháp.
Trước hết cấp ủy, chính quyền các cơ quan, đơn
vị, địa phương phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định
của Đảng, Nhà nước về giữ gìn bí mật nhà nước. Qua tuyên truyền cần tạo được sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành,
các tầng lớp nhân dân đối với công tác giữ gìn bí mật nhà nước, phải coi đây là
nhiệm vụ chính trị thường xuyên gắn với trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên,
đặc biệt là vai trò của người đứng đầu. Mặt khác thông qua tuyên truyền làm cho
mỗi người dân ý thức rõ bảo vệ bí mật là nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc.
Đồng thời, phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực phản động, lợi dụng đường lối đối ngoại hội nhập sâu rộng
của Đảng, Nhà nước ta để tiến hành các hoạt động tình báo, gián điệp, đánh cắp
bí mật nhà nước nhằm chống phá ta từ bên trong, để từ đó không mơ hồ, chủ quan,
mất cảnh giác dẫn đến vô tình tiếp tay cho kẻ xấu.
Mặt khác, cần chú trọng làm tốt công tác bảo
vệ chính trị nội bộ, bảo vệ các cơ quan đảng, nhà nước. Các cơ quan chức năng
cần phối hợp chặt chẽ, thực hiện giám sát chéo đối với các cơ quan, đơn vị. Các
cơ quan cơ mật, trọng yếu, phải chấp hành nghiêm quy định, quy trình về tuyển
dụng, bố trí, bổ nhiệm, bảo đảm cán bộ, công chức, viên chức có lý lịch trong
sạch, lập trường quan điểm chính trị vững vàng và có trình độ chuyên môn cao.
Đồng thời, phải thường xuyên tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn,
nắm chắc tình hình chính trị, tư tưởng, các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức cả trong cơ quan, đơn vị, gia đình và địa phương, địa bàn,
nhất là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên làm việc, tiếp xúc
tài liệu mật, tiếp xúc với người nước ngoài… kịp thời phát hiện, xử lý các
trường hợp vi phạm quy định, vô tình hay cố ý làm lộ, lọt bí mật nhà nước.
Các cơ quan, lực lượng chuyên trách cần chủ
động tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện các vụ lộ, lọt bí mật nhà nước
hoặc các hành vi chiếm đoạt bí mật nhà nước để điều tra, xử lý nghiêm theo quy
định của pháp luật. Hệ thống pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước cần được tiếp
tục rà soát, bổ sung hoàn thiện. Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật
phải được đẩy mạnh để bảo đảm cho nhiệm vụ này đạt hiệu quả thiết thực. Đồng
thời, chúng ta cần tăng cường hợp tác quốc tế, nhằm thiết lập cơ chế pháp lý
trong việc bảo vệ các tài liệu bí mật được trao đổi giữa Việt Nam và các nước
trong thời kỳ hội nhập.St
NGÀY NÀY NĂM XƯA: 30/9/1964
“Học có tốt, hành mới tốt. Học và hành tốt mới
làm trọn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng”.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích
trong “Bài nói chuyện tại Đại hội thanh niên Thủ đô”, ngày 30/9/1964, đăng trên
Báo Nhân dân, số 3836, ra ngày 01/10/1964.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
việc giáo dục cho thanh niên nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa và động cơ của
việc học tập trong chế độ mới, khắc phục những cách tư duy cũ do nền giáo dục
thực dân, phong kiến để lại. Người dạy: Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân, làm cho dân giàu nước mạnh, tức để làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà.
Bên cạnh việc xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn, Người yêu cầu tuổi
trẻ phải thực hiện học tập toàn diện và học tập phải gắn liền với rèn luyện.
Người dạy thanh niên phải sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa,
khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho
nhân dân.
Bởi vậy, theo Bác muốn thành công trong công
việc phải biết kết hợp giữa học và hành một cách chặt chẽ và xuyên suốt. Lấy lí
thuyết hỗ trợ cho hành động và ngược lại lấy hành động để khẳng định sự đúng
đắn của lí thuyết. Vận dụng lí thuyết vào hành động thì lí thuyết được kiểm
chứng. Từ đó rút kinh nghiệm, nâng cao hơn hiệu quả công việc. Thực tiễn cho
thấy, phương châm học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng đắn. Những kiến thức mà
chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở… phải được áp dụng vào thực tiễn
cuộc sống trước hết là để hoàn thiện kĩ năng con người. Sau đó là tạo ra những
thành quả vật chất, tinh thần phục vụ con người.
Khắc ghi lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ toàn
quân đi sâu tìm hiểu và làm rõ giá trị hiện thực của quan điểm của Bác trong
định hướng lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn; quán triệt và thực hiện nghiêm
03 quan điểm, 08 nguyên tắc, 06 mối kết hợp trong huấn luyện bộ đội; bám sát
phương châm huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện
đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; kết hợp chặt chẽ huấn luyện quân
sự với giáo dục chính trị; giáo dục, đào tạo gắn với huấn luyện chiến đấu; huấn
luyện sát nhiệm vụ, phương án chiến đấu, đối tượng tác chiến, lấy thực hành là
chính; kết hợp huấn luyện với rèn luyện thể lực bộ đội. Tổ chức nhiều cuộc diễn
tập tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng, thực binh có bắn đạt thật, diễn
tập chiến thuật vòng tổng hợp... là cơ sở để nâng cao trình độ, khả năng sẵn
sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu cao
của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.St
NGĂN NGỪA NGUY CƠ “TỰ DIỄN BIẾN”
Tình trạng “cuồng” like, “cuồng” view, nếu
không tỉnh táo, rất dễ bị cuốn theo các luồng thông tin tiêu cực, dẫn đến hoang
mang, dao động, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mất niềm tin vào hệ tư tưởng
chính thống.
Sự “xâm lăng” âm thầm
Không gian mạng với các dịch vụ xuyên biên
giới đang tạo nên những thách thức lớn đối với việc bảo vệ biên cương văn hóa
tư tưởng ở Việt Nam. Theo GS.TS Từ Thị Loan, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa
Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, nếu biên cương quốc gia là một thực thể hữu hình,
được bảo vệ bởi chủ quyền quốc gia và công pháp quốc tế, sẽ khó bị xâm phạm,
lấn chiếm, thì biên cương văn hóa tư tưởng là ranh giới vô hình, mong manh, rất
khó quản lý và ngăn chặn sự “xâm lăng” từ bên ngoài vào. Chính điều đó đang tác
động đến những động thái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” âm thầm nhưng rất nguy
hiểm, khó lường trên mặt trận văn hóa tư tưởng hiện nay.
Khác với không gian ngoài đời, không gian mạng
mang tính gián tiếp, cộng đồng ảo nên dễ thoát khỏi sự kiểm soát, kiểm duyệt
chính thống; ít chịu sự ràng buộc về pháp lý, đạo đức, trách nhiệm và khó nắm
bắt, quản lý. Quyền tự do thông tin trên mạng cũng dẫn tới các hành vi phản
cảm, ứng xử vô văn hóa trên không gian mạng ngày càng lan tràn: những thông tin
lá cải, tin tức hot về giới showbiz, scandal của những người nổi tiếng, các
chiêu trò đánh bóng tên tuổi, lăng-xê, tung ảnh nóng, hiện tượng ném đá hội
đồng, cuồng “like”, comment “bẩn”, háo danh trên mạng, anh hùng bàn phím...
ngày càng phổ biến.
“Cần tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý
đối với công tác quản lý như: rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật. Cùng với đó, tăng cường hiệu quả công tác cấp phép, quản lý
bản quyền, kiểm duyệt, kiểm soát, giám sát, thanh tra, kiểm tra. Hoàn thiện các
công cụ, cách thức quản lý, phối hợp cả tiền kiểm lẫn hậu kiểm. Xử lý nghiêm
các vi phạm với các chế tài đảm bảo tính răn đe và bám sát thực tiễn” - GS.TS
Từ Thị Loan.
Quyền tự do lưu hành, quảng bá, phổ biến các
sáng tạo văn hóa nghệ thuật trên không gian mạng cũng dẫn tới tình trạng vàng
thau lẫn lộn, tràn lan các sản phẩm độc hại. Điều này đã và đang ảnh hưởng đến
lý tưởng sống, mục đích sống của thế hệ trẻ, khuyến khích một lối sống hưởng
thụ, chạy theo vật chất, coi nhẹ các giá trị tinh thần… Theo bà Loan, nếu không
tỉnh táo, bản lĩnh, có sức đề kháng tốt, người xem rất dễ bị cuốn theo các
luồng thông tin tiêu cực, dẫn đến hoang mang, dao động, mất niềm tin vào hệ tư
tưởng chính thống, vào sự ưu việt của chế độ xã hội, xói mòn lòng tin vào Đảng
và Nhà nước.
Trước những hành vi trên, thời gian qua các cơ
quan chức năng đã tập trung xử lý nghiêm nhiều trường hợp vi phạm. Điển hình là
việc cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.HCM đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can
và thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với bà Nguyễn Phương Hằng. Theo cơ quan cảnh
sát điều tra, bà Nguyễn Phương Hằng đã lợi dụng sức ảnh hưởng của bản thân, sử
dụng chức năng của mạng xã hội trên Internet, tổ chức nhiều buổi phát trực tiếp
nội dung thông tin không kiểm chứng, liên quan đến đời tư của người khác, trong
đó sử dụng những ngôn từ mang tính chất nhục mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Thực
thi văn hóa ứng xử trên không gian mạng.
Để bảo vệ biên cương văn hóa tư tưởng trên
không gian mạng cho thế hệ trẻ, trong tham luận gửi đến Hội thảo khoa học không
gian mạng và sứ mệnh bảo vệ biên cương văn hóa tư tưởng của tuổi trẻ, GS.TS Từ
Thị Loan cho rằng cần có một hệ thống các giải pháp toàn diện và đồng bộ, đồng
thời thiết thực và khả thi nhằm điều tiết, hạn chế các phương diện tiêu cực và
nắm bắt, tận dụng các phương diện tích cực của nó. Trước hết cần tập trung hoàn
thiện hành lang pháp lý đối với công tác quản lý như: rà soát, sửa đổi, bổ
sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Cùng với đó, tăng cường hiệu quả
công tác cấp phép, quản lý bản quyền, kiểm duyệt, kiểm soát, giám sát, thanh
tra, kiểm tra. Hoàn thiện các công cụ, cách thức quản lý, phối hợp cả tiền kiểm
lẫn hậu kiểm. Xử lý nghiêm các vi phạm với các chế tài đảm bảo tính răn đe và
bám sát thực tiễn.
Về công nghệ cần sử dụng các giải pháp kỹ
thuật để kiểm soát, giám sát như: dựng “tường lửa”, “lá chắn”; sử dụng các phần
mềm lọc thông tin, ngăn chặn nội dung xấu độc; các phần mềm tự động mã hóa hoặc
xóa bỏ các thông tin tiêu cực, phản cảm. Đặc biệt, cần tập trung tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao nhận thức cho giới trẻ. Đề cao tinh thần trách nhiệm của đội
ngũ văn nghệ sĩ và giới trẻ tham gia các khâu sáng tác, phổ biến, lưu hành các
tác phẩm trên mạng. Nâng cao ý thức của thanh thiếu niên trong tiêu dùng và
hưởng thụ văn hóa. Khuyến khích giới trẻ thực thi văn hóa ứng xử, quy tắc ứng
xử trên môi trường mạng.St
CÓ THỂ BẠN ĐÃ BIẾT: RẤT NHIỀU BẠN BÈ NƯỚC NGOÀI TÔN TRỌNG LỊCH SỬ VIỆT NAM!
Trong vlog của Youtuber Lại Ngứa Chân khám phá
thành phố Douala - thành phố lớn nhất của Cameroon, những người dân ở đây cho
biết họ rất quý đất nước Việt Nam vì Việt Nam là tấm gương chiến đấu chống
ngoại xâm, họ được dạy và học về những cuộc cuộc chiến vĩ đại của dân tộc Việt
Nam. Còn những người dân Angola qua những thước phim của Quang Linh Vlog cũng
cho biết về những người dân Việt Nam anh hùng, chiến đấu đánh đuổi những cường
quốc để thống nhất nước…
“Chính họ đã truyền cảm hứng cho chúng tôi.
Chúng tôi biết họ qua lịch sử. Một quốc gia mạnh mẽ, những con người anh hùng.
Một quốc gia đáng được tôn trọng”
Sách giáo khoa lịch sử Ấn Độ ghi rõ rằng “Nhân
dân Việt Nam đã đoàn kết thống nhất đất nước, đánh bại sự can thiệp của nhiều
quốc gia”.
Còn trong sách giáo khoa lịch sử Trung Quốc
viết: “Nhân dân Việt Nam đã chống lại sự xâm lược của Mỹ, giải phóng Sài Gòn
ngày 30/04/1975, giành thắng lợi cuối cùng trong Chiến tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước”.
Theo Bộ Quốc phòng Nga, các sách lịch sử phát
hành tại quốc gia này đều cho biết cuộc chiến tại Việt Nam (1954 - 1975) là cuộc
chiến mà Việt Nam đã chiến thắng Hoa Kỳ, thống nhất đất nước.
Người dân một số nước tại châu Phi, Latinh -
Caribbean, Trung Đông đều được học về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thống
nhất đất nước của Việt Nam. Youtuber Lại Ngứa Chân cũng phỏng vấn những người
dân Iraq và họ cũng được học về lịch sử Việt Nam qua các cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm để giành lấy độc lập tự do.
Tại Thụy Điển, các bộ sách lịch sử từ năm 1970
đến nay duy trì một tâm thế ủng hộ Việt Nam, lên án sự can thiệp của các cường
quốc phương Tây. Trong cuốn Perspektiv på historien A. được biên soạn bởi Bộ
Giáo dục Thụy Điển có ghi rõ: “Những ngôi làng bị đốt cháy, tra tấn và các vụ
hành quyết, cũng như sự tàn phá của vũ khí hủy diệt hàng loạt hiện đại".
Trong SGK lịch sử cho khối THPT tại Stockholm
biên soạn năm 2011 cho biết số bom đạn ném xuống Việt Nam nhiều hơn CTTG thứ
hai. Cuốn sách chỉ trích sự can thiệp vào Việt Nam và đẩy những người Việt Nam
vào cảnh khốn cùng. Cuốn Alla tiders historia 1b - Lịch sử mọi thời đại quyển A
của nước này công khai chỉ trích Hoa Kỳ và cường quốc đã áp dụng những phương
pháp tàn bạo chống lại nhân dân Việt Nam.
Đấy,
những người dân ở những quốc gia khác, có quốc gia cách chúng ta cả vài ngàn
cây số còn biết rằng Việt Nam đã chiến thắng đế quốc, ngoại xâm và thống nhất
đất nước. Vậy mà có những con người ở ngay tại Việt Nam thôi, được thừa hưởng
nền hòa bình và Tổ Quốc toàn vẹn, lại mở mồm nói câu “nội chiến”, thở ra những câu nói xúc phạm lịch sử, đội giặc
lên đầu. Hay đọc được dăm ba cuốn sách ở một vài nước phương Tây, đọc được dăm
ba bài báo rồi nghĩ rằng cả thế giới nghĩ vậy? Thế giới bỗng chốc thu bé lại
chỉ bằng một vài quốc gia đó thôi à?
Trên thế giới, còn rất đông người dân ở những
quốc gia khác biết về những chiến công của người dân Việt Nam, biết về một Việt
Nam anh hùng, biết về nguồn cảm hứng Việt Nam…
Đi đâu thì cúi cái đầu xuống vì những người
Việt Nam chân chính luôn tự hào ngẩng cao đầu vì những gì đã làm được trong
lịch sử.St
CÙNG BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN CÁC NGUYÊN LÝ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY!
LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰ THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG Ở VIỆT NAM
Công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng là vấn đề có
tính nguyên tắc và mang tính chiến lược để Đảng ta có đủ sức mạnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Thế nhưng, các thế lực thù địch phớt lờ điều ấy, chúng còn ra sức
công kích vấn đề có tính nguyên tắc và chiến lược này.
Với tâm địa
đen tối, cái nhìn hằn học, các thế lực thù địch thường xuyên chống phá cách mạng
nước ta, nhất là trên một số đài, báo nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam
như: BBC, RFA, RFI, VOA... và các trang mạng xã hội phản động, nhất là tổ chức
Việt Tân luôn xuyên tạc rằng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Việt Nam là
“thanh trừng phe phái” hay “tính hiệu quả không thể cao khi người dân đứng
ngoài cuộc chiến chống suy thoái”, cho rằng việc xử lý cán bộ vi phạm để “tăng
cường quyền lực cho khối nội chính, tuyệt đối hóa quyền lực của Đảng”, v.v.. Thực
ra, những nhận định này là hồ đồ và xuyên tạc vì công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
là việc làm thường xuyên, liên tục của Đảng để “cơ thể Đảng” thường xuyên khỏe
mạnh, có khả năng “đề kháng”, “miễn dịch” trước sự chống phá của các thế lực
thù địch.
Từ lý luận và thực
tiễn đều chứng minh một vấn đề có tính nguyên tắc và mang tính chiến lược, đó
là Đảng phải thường xuyên được xây dựng, chỉnh đốn để Đảng thực sự là đạo đức,
là văn minh, đủ sức và xứng đáng với vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất
nước, dân tộc.
Trước yêu cầu,
nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ngày càng cấp
thiết, bởi lẽ, đất nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phát triển mạnh
mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Điều
đó càng đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới, vươn tầm trí tuệ, Đảng phải được
xây dựng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ.
Do vậy, không thể có chuyện việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nước ta là “giật gấu
vá vai” như ai đó đã từng rao giảng. Thực tiễn đã chứng minh, càng làm tốt công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng bao nhiêu thì Đảng ta ngày càng vững mạnh bấy nhiêu, luôn xứng đáng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Từ khi Đảng ra đời
nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc được thực hiện
thường xuyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một tất
yếu khách quan, gắn chặt với quá trình phát triển, trưởng thành của sự nghiệp
cách mạng; Đảng là một tổ chức sống trong lòng xã hội, một bộ phận hợp thành cơ
cấu của xã hội. Tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ chức
vụ trong Đảng, Nhà nước luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng từ môi trường xã hội cả
những cái tốt, tích cực, tiến bộ, cả những cái xấu, tiêu cực và lạc hậu. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội thì vấn đề xây dựng, chỉnh
đốn Đảng càng phải quan tâm nhiều hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, nếu
không làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì “... một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa,
nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Do vậy, đối với những cán bộ, đảng viên nắm giữ
quyền lực càng phải đề cao ý thức, trách nhiệm trong xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Nó không chỉ góp phần làm cho
Đảng ta mạnh lên mà còn là nhu cầu tự hoàn thiện, tự làm trong sạch và khẳng định
nhân cách của mình. Bởi lẽ, nếu không biết sử dụng đúng quyền lực và đặt nó vào
đúng vị trí thì nó sẽ phá hoại ghê gớm, nhất là khi người nắm giữ quyền lực bị
tha hóa, biến chất, họ sẽ biến quyền lực của Đảng, của nhân dân thành đặc quyền,
đặc lợi, rơi vào chủ nghĩa cá nhân.
xây dựng, chỉnh đốn Đảng là vấn đề có tính quy luật trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng
ta, đặc biệt là trước những biến cố, bước ngoặt quan trọng của cách mạng. Xây dựng
và chỉnh đốn Đảng có mối quan hệ biện chứng, trong đó xây dựng là nền tảng, có
tác dụng to lớn để thực hiện chỉnh đốn Đảng. Ai đó cho rằng chỉ cần xây dựng Đảng
là đủ mà coi thường chỉnh đốn Đảng là điều phi lý, không thể chấp nhận; bởi chỉnh
đốn Đảng là một mặt hết sức quan trọng và là điều kiện không thể thiếu của xây
dựng. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn bó chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau,
ràng buộc và quy định lẫn nhau, xây dựng Đảng ngay trong nội dung chỉnh đốn và
chỉnh đốn là thành tố nội tại để xây dựng Đảng tốt hơn. Do vậy, không thể coi
trọng, nhấn mạnh mặt này, xem nhẹ, coi thường mặt kia; hai mặt xây dựng và chỉnh
đốn có quan hệ chặt chẽ, là vấn đề có tính quy luật của công tác xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Nguyên tắc của xây
dựng, chỉnh đốn Đảng là lấy Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động; thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách để Đảng không rơi vào độc đoán, chuyên quyền. Đồng thời trong
sinh hoạt Đảng, phải thực hiện đúng đắn nguyên tắc tự phê bình và phê bình, bởi
đó là thứ vũ khí, là quy luật làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh. Cùng với đó cần
thực hiện tốt kỷ luật nghiêm minh và tự giác, làm tốt công tác kiểm tra, kiểm
soát để giữ gìn sự đoàn kết và sự trong sạch của Đảng. Sự thật này không thể
xuyên tạc, chân lý này không thể bẻ cong.
Kết quả đã đạt được
trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thời gian qua là niềm tin để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân
dân cần đề cao cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế
lực thù địch; kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, vững tin xây dựng nước ta ngày càng giàu mạnh.
Quân đội đi đầu trong đấu tranh phản bác mạnh mẽ với những quan điểm sai trái, thù địch
Đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng yếu trong công tác tư tưởng của Đảng. Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, công tác này có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao. Vì thế, Đảng ta chỉ rõ, trong thời gian tới phải “tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”. Đây là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của toàn Đảng và hệ thống chính trị, của các lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó,Quân đội phải đi đầu trong đấu tranh phản bác mạnh mẽ hơn nữa đối với những quan điểm sai trái, thù địch, không chỉ trên báo chí, mà ngay trong nội bộ cũng như ngoài xã hội, tuyệt đối không để những quan điểm sai trái xuất hiện, tồn tại trong Quân đội
Để bảo
vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh có
hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch, nhất thiết chúng ta phải xây dựng
được hệ thống lý luận thật sự sắc bén. Lý luận sắc bén thực chất là chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được các chủ thể nhận thức đúng đắn,
thật sự sâu sắc trên lập trường của giai cấp công nhân, nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học, làm tươi mới và vận dụng sáng tạo, phát triển trong đời sống
xã hội, trong thực tiễn đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch. Lý luận sắc bén để đấu tranh có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù
địch còn là đường lối đúng đắn của Đảng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với thực tế Việt Nam. Nội hàm cơ bản và tính
thực tiễn của lý luận sắc bén biểu hiện ở chỗ, nó phải có đủ sức, đủ khả năng
vạch rõ được âm mưu, thủ đoạn, tính chất sai trái, phản khoa học, phi lịch
sử, tính chất nguy hại... của các quan điểm sai trái, thù địch, phải đấu
tranh, phản bác thật sự thuyết phục.
Đảng lãnh đạo Quân đội là tất yếu của Cách mạng Việt Nam
“Quân đội phải trung lập về chính trị” là luận điểm đã có từ lâu, mà các đảng chính trị đối lập ở những nước đi theo chế độ đa đảng thường sử dụng để hạn chế quân đội “can dự” vào những tranh giành chính trị của các đảng phái. Ngay từ năm 1905, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “... những câu nói của bọn tôi tớ của nền chuyên chế về tính trung lập của quân đội, về sự cần thiết phải giữ cho quân đội đứng ngoài chính trị v.v. là giả dối, rằng những lời nói đó không thể mong được binh lính đồng tình một chút nào”.
Thực tiễn lịch sử cách
mạng nước ta cũng cho thấy, một khi không có sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ
trang sẽ bị biến chất, mất định hướng chính trị và mục tiêu chiến đấu; không
còn là lực lượng vũ trang của nhân dân, không còn là lực lượng chính trị, lực
lượng chiến đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; do đó, không
thể làm tròn được chức năng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Năm 2005, Bộ Chính
trị (khóa IX) ban hành Nghị quyết 51-NQ/TW về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh
đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính
ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Quân đội. Nhờ chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị, mà
trước hết là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ của mình trong mọi giai đoạn cách mạng, xứng đáng với lời tuyên
dương (năm 1964) của Bác: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ
nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Luận điểm sai trái "Quân đội phải trung lập về chính trị"
Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, khi thấy rằng phương thức chống phá chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp gây chiến tranh xâm lược không hiệu quả, chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”. Một trong các thủ đoạn mà họ sử dụng là đưa khẩu hiệu “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị” vào các nước xã hội chủ nghĩa, nơi chỉ có một đảng (Đảng Cộng sản) lãnh đạo, nhằm thực hiện “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang cách mạng, mà thực chất là nhằm tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò của quân đội là công cụ bạo lực của Đảng, của Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn này đã được họ áp dụng thành công ở Liên Xô trước đây; khi những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô tự rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, mắc những sai lầm rất nghiêm trọng
Đối với
nước ta, từ nhận định rằng, hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam còn nắm chắc quân
đội, nên chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội, chưa thể xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa, nên các thế lực thù địch với
cách mạng nước ta ráo riết thực hiện chiêu bài “quân đội phải duy trì tính
trung lập về chính trị”. Họ hy vọng rằng, một khi quân đội đã bị mê hoặc bởi
khẩu hiệu đó, đội ngũ cán bộ quân đội đã dao động, mất phương hướng chính trị,
họ sẽ ra tay lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam và thể chế chính trị xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam theo đúng kịch bản “không đánh mà thắng”(!).
NHẬN DIỆN ĐÚNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰ THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG Ở VIỆT NAM TA!
BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN CÁC NGUYÊN LÝ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ngay từ khi ra đời CN XHKH là tiếng chuông khai tử đối với chế
độ TBCN đã lỗi thời và giai cấp tư sản đã hết vai trò tiến bộ trong lịch sử. Vì
thế, sự ra đời, tồn tại và phát triển của Chủ nghĩa xã hội khoa học luôn gặp phải
sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch dưới mọi màu sắc. Trong bối
cảnh hiện nay, lợi dụng sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
nên các thế lực thù địch càng điên cuồng, xảo quyệt và tinh vi nhằm xóa bỏ các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Cho nên, việc nghiên cứu bảo vệ, phát triển Chủ
nghĩa xã hội khoa học là cần thiết, với những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, từ khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ đặt ra những thử thách, khó khăn cho Chủ nghĩa xã hội khoa học
Khi Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi đã làm cho CNXH
từ lý luận thành hiện thực, thì sự sụp đổ đó lại diễn ra ngay trên quê hương của
Cách mạng Tháng Mười do lãnh tụ thiên tài V.I.Lênin và Đảng Bônsêvich Nga lãnh
đạo. Đây là một tổn thất lớn, để lại hậu quả nặng nề và lâu dài cho phong
trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Sự
sụp đổ ấy không phải do CNXHKH đã lạc hậu, lỗi thời mà thực chất là do sai lầm
chủ quan trong quá trình cải tổ dẫn đến sự tan rã của mô hình XHCN ở Liên Xô và
một số nước Đông Âu. Đây là hiện tượng thực tế, là mảnh đất màu mỡ
để các thế lực thù địch ra sức lợi dụng, kích động, bài bác và phủ nhận giá trị
thực tiễn và trường tồn của CNXHKH trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá vai
trò lãnh đạo và hạ bệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản bằng chiến lược “diễn
biến hòa bình” gây mơ hồ và mất niềm tin của quần chúng
Từ sau khi hệ thống XHCN tan rã, sụp đổ vào thập niên cuối của
thế kỷ XX, thì các thế lực thù địch đã tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến
hòa bình”, để chống phá các nước XHCN còn lại. Ở Việt Nam, các thế lực thù
địch sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng, thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, với tổng hợp các thủ đoạn như: lấy tư tưởng là
khâu đột phá; kinh tế là mũi nhọn; dân tộc, tôn giáo là ngòi nổ; ngoại giao là
hỗ trợ; quân sự là răn đe và kết hợp chặt chẽ giữa diễn biến hòa bình với bạo
loạn lật đổ. Điều này cũng đã gây khó khăn, thách thức nhất định đến niềm
tin của nhân dân, những dao động nhất định trong một bộ phận những người cộng sản
và đến quá trình bảo vệ, phát triển các nguyên lý CNXHKH hiện nay.
Để bảo vệ và phát triển các nguyên lý CNXHKH trong
giai đoạn hiện nay và để nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc đấu tranh bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học cần đáp ứng một số vấn đề sau:
Một là, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế,
các nhà khoa học cần quán triệt quan điểm của các nhà kinh điển đã luôn nhắc nhở
rằng, học thuyết của các ông không phải là một cái gì đã hoàn bị, nên cần có bổ
sung, phát triển và vận dụng cho phù hợp với mỗi nước;
hai là, các đảng cộng sản ở các nước XHCN thường
xuyên đổi mới, trên cơ sở kiên định và vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin định ra đường lối lãnh đạo đúng đắn để đẩy mạnh hơn nữa thành
tựu, tính ưu việt của CNXH hiện thực mới;
ba là, các đảng cộng sản cần quan tâm đúng mức,
hiệu quả hơn nữa công tác tư tưởng, lý luận, đặt ra yêu cầu cao đối với công
tác bồi dưỡng lý luận chính trị và chuẩn hóa đội ngũ làm công tác nghiên cứu,
giảng dạy môn CNXHKH;
bốn là, các đảng cộng sản coi trọng đoàn kết nội
bộ, lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa chống cộng; chủ nghĩa cơ hội,
xét lại và cơ hội chính trị đạt hiệu quả cao hơn nữa.
Chúng ta tin tưởng rằng, các đảng cộng sản đang cầm quyền ở
các nước XHCN, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam đang rất chú trọng tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về CNXH cho phù hợp với đặc thù của
dân tộc để đạt thành tựu ngày càng to lớn. Mô hình và những thành tựu của Đảng
Cộng sản Việt Nam đạt được trong gần 40 năm đổi mới, cũng như những năm tiếp
theo sẽ có giá trị tham chiếu cho những nước có cùng điểm xuất phát đi lên
CNXH. Mặc dù còn có những khó khăn, thách thức nhưng CNXHKH mãi mãi trường tồn
trong thực tiễn, soi sáng con đường phát triển của mỗi nước và các nước sẽ đi
lên CNXH là tất yếu./.
Sáng mãi phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ"
NỮ CHIẾN SĨ CỘNG SẢN KIÊN TRUNG, BẤT KHUẤT
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh,
sinh ngày 30-9-1910 trong một gia đình công chức nhỏ tại thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An. Tham gia cách mạng từ sớm và hy sinh khi mới 31 tuổi, cuộc đời đồng
chí Nguyễn Thị Minh Khai là một tấm gương chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất
để các thế hệ sau học tập, noi gương.
Nữ chiến sĩ cộng sản kiên trung
Năm 1919, Nguyễn Thị Vịnh theo học chữ quốc ngữ tại trường
Nguyễn Trường Tộ, sau đó chuyển sang trường Tiểu học Cao Xuân Dục. Tại đây,
Nguyễn Thị Vịnh được thầy giáo Trần Phú và các thầy cô giáo trong trường dìu dắt
nên sớm giác ngộ cách mạng và bắt đầu tham gia các phong trào yêu nước.
Năm 1927, Nguyễn Thị Vịnh được kết nạp vào Việt Nam Cách mạng
đảng, lấy tên là Nguyễn Thị Minh Khai. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được
thành lập, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai trở thành đảng viên lớp đầu tiên của Đảng.
Đồng chí được được phân công phụ trách công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ,
huấn luyện đảng viên ở khu vực Trường Thi, Bến Thủy và tổ chức Hội Phụ nữ Giải
phóng.
Tháng 3-1930, đồng chí được cử sang Hương Cảng (Hồng Kông -
Trung Quốc), công tác ở Văn phòng chi nhánh Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản,
nhận nhiệm vụ liên lạc với các tổ chức cách mạng Việt Nam ở trong nước. Đồng
chí Nguyễn Thị Minh Khai được đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giáo dục về lý
luận những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm hoạt động bí
mật...
Tháng 4-1931, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị mật thám Anh ở
Hương Cảng bắt, nhưng trước kẻ thù, đồng chí luôn giữ vững khí tiết người cộng
sản, giữ bí mật đường dây liên lạc của Đảng. Năm 1933, đồng chí được trả tự do
và sau đó đến Thượng Hải tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng, trở thành thành
viên của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị tháng 6-1934 của Ban Chỉ huy ở
ngoài của Đảng với đại biểu các Đảng bộ ở trong nước, đồng chí Nguyễn Thị Minh
Khai cùng các thành viên trong Ban Chỉ huy tích cực chuẩn bị dự thảo Báo cáo
chính trị, dự thảo các văn kiện trình đại hội, chuẩn bị chỗ ăn, ở cho đại biểu
từ trong nước ra dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương. Thời
gian đó, nhận được giấy triệu tập của Quốc tế Cộng sản về việc cử Đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản Đông Dương đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tổ chức ở Mátxcơva
(Liên Xô), Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đã quyết định cử các đồng chí: Lê Hồng
Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn và 3 đại biểu nữa tham dự.
Trong lúc chờ dự đại hội, Nguyễn Thị Minh Khai đã vào học hệ
ngắn hạn tại Đại học Phương Đông (tháng 1-1935). Ngày 25-7-1935, Đại hội VII Quốc
tế Cộng sản khai mạc. Ngày 16-8-1935, trên diễn đàn Đại hội VII, đồng chí Nguyễn
Thị Minh Khai đã trình bày tham luận tố cáo chế độ thực dân, phong kiến đã thi
hành chính sách tàn bạo, dã man đối với nhân dân Đông Dương, nhất là với phụ nữ;
đồng thời, nêu bật vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc. Ngày 3-10-1935, tại Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên, đồng chí Nguyễn
Thị Minh Khai đã có bài phát biểu quan trọng, trình bày khái quát tình hình
thanh niên Đông Dương, tình cảnh của thanh niên công nhân, nông dân, trí thức;
hoạt động của thanh niên và những nhiệm vụ trước mắt của Thanh niên Cộng sản
đoàn Đông Dương…
Nữ Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn bất khuất
Cuối năm 1936, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai được cử về nước
hoạt động. Cuối năm 1937, đồng chí được Xứ ủy Nam kỳ chỉ định giữ chức Bí thư
Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và trở thành một trong những người lãnh đạo cao trào
cách mạng 1938-1939 ở Sài Gòn. Đồng chí đã vận dụng linh hoạt những lý luận
cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn được tích lũy khi hoạt động ở nước
ngoài để lãnh đạo các cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son, Công ty Hỏa xa Sài
Gòn, công nhân và phụ nữ Hóc Môn, Gia Định; bám cơ sở, mở nhiều lớp học bí mật
để huấn luyện cho cán bộ ở thành phố và các lớp huấn luyện cho cán bộ nữ ở các
tỉnh Nam Bộ... Thời gian này, đồng chí viết nhiều bài đăng trên báo Dân chúng,
trong đó nêu rõ đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề chống phản động thuộc
địa, chống phong kiến và vận động phụ nữ tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương;
là diễn giả của nhiều buổi mít tinh lớn ở các rạp hát trong thành phố Sài Gòn -
Chợ Lớn - Gia Ðịnh… Những hoạt động của đồng chí góp phần thúc đẩy phong trào
cách mạng ở Sài Gòn - Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ.
Ngày 30-7-1940, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị thực dân
Pháp bắt. Phủ Thống đốc Nam kỳ kết tội đồng chí “là kẻ chủ mưu trong các hoạt động
của Đảng Cộng sản Đông Dương, trong đó có việc tổ chức chiến dịch chống quân
phiệt, chuẩn bị phong trào khởi nghĩa vũ trang và phá hoại”.
Sau 6 tháng bị giam cầm, tra tấn dã man, nhưng không thể lay
chuyển, khuất phục ý chí cách mạng kiên cường, sắt thép của nữ chiến sĩ cộng sản,
ngày 21-1-1941, thực dân Pháp đưa đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai ra xử án. Tại
tòa, đồng chí đã đanh thép dùng lý lẽ để bác bỏ sự buộc tội của kẻ thù và dù
không thể buộc tội, tòa án thực dân vẫn kết án đồng chí 5 năm tù khổ sai và 20
năm biệt xứ. Sau đó, ngày 11-3-1941, Tòa thượng thẩm Sài Gòn đã nâng án của đồng
chí lên 5 năm tù khổ sai, 20 năm biệt xứ, 20 năm mất quyền công dân. Ngày
3-4-1941, thực dân Pháp lại đưa đồng chí ra Tòa án binh Sài Gòn xử cùng với những
chiến sĩ bị bắt trong khởi nghĩa Nam kỳ và kết án tử hình với tội danh “chịu
trách nhiệm về mặt tinh thần”, xúi giục dân chúng làm rối loạn quốc gia và
"mưu toan lật đổ chính phủ". Ngày 28-8-1941, thực dân Pháp đã xử bắn
đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai cùng các đồng chí lãnh tụ kiên trung của Đảng,
như: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần... tại Hóc Môn. Trước pháp trường, đồng
chí Nguyễn Thị Minh Khai hướng về phía đồng bào, nói những lời tâm huyết: “Việc
chúng tôi làm là chính nghĩa. Vì muốn Tổ quốc tôi được độc lập, dân tôi được ấm
no mà chúng tôi làm cách mạng. Chúng tôi không có tội gì”.
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai hy sinh khi mới 31 tuổi, song
lời dặn của đồng chí trước khi ra pháp trường vẫn khắc ghi trong tâm khảm mỗi
người dân Việt Nam yêu nước: "Vững chí bền gan ai hỡi ai/Kiên tâm giữ dạ mới
anh tài/Thời cuộc đẩy đưa người chiến sĩ/Con đường cách mạng vẫn chông
gai".
Tấm gương về lòng yêu nước, đấu tranh cho độc lập, tự do của
Tổ quốc và nhân dân; sự kiên trung, bất khuất, không nao núng - không khuất phục
- không đầu hàng trước kẻ thù; ý chí cách mạng, khí phách anh hùng của người nữ
đảng viên cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai mãi ngời sáng trong lịch sử đấu tranh
cách mạng của dân tộc ta, nhân dân ta.