Thứ Ba, 1 tháng 8, 2023

Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho lực lượng vũ trang ta luôn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.

Bằng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản quý báu, thể hiện ở một số nội dung sau:

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở cho mọi mặt khác, coi việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần là một trong những yêu tố quyết định đến tiến trình và kết cục của chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị” và “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”

Tư tưởng coi trọng nhân tố chính tri – tinh thần, coi trọng nguyên tắc xây dựng về chính trị thể hiện tập trung ở vấn đề cốt lõi là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ta luôn luôn là lực lượng chính trị trung thành tin cậy của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân

Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang ở một nước mà thành phần tham gia lực lượng vũ trang là con em của các tầng lớp nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, là đóng góp lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về sự thống nhất gắn bó giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của lực lượng vũ trang nhân dân.

Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản như quan hệ giữa lực lượng vũ trang với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, quan hệ giữa lực lượng vũ trang ta với lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa – những mối quan hệ cơ bản quyết định quá trình hình thành, phát triển bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị gắn liền với những quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua thực tiễn hơn sáu thập kỷ qua những tư tưởng đó ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và trở thành những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng  lực lượng vũ trang. Đó là nguyên tắc coi trọng xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị là “gốc”, là cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện; không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tinh nhân dân, tính dân tộc; giữ  vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác lập và không ngừng nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị; xây dựng tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.

Thực tiễn hơn 60 năm xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã tạo dựng được sức mạnh chính trị – tinh thần to lớn của lực lượng vũ trang để chiến đấu và chiến thắng những lực lượng vũ trang xâm lược nhà nghề có số lượng đông, có vũ khí, trang bị, kỹ thuật hiện đại. Lực lượng vũ trang ta đã lập nên những chiến công vẻ vang, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp đấu tranh giành quyền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Những giá trị lý luận xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn lực lượng vũ trang phải tập trung sức tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở.TB 16/6/2020



Đặc điểm của cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay

Cuộc dấu tranh tư tưởng hiện nay đang diễn ra trên quy mô toàn cầu, song địa bàn quan trọng của nó lại nằm trong các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bởi vì, Việt Nam là một trong những nước kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đã đạt được những thành công hết sức to lớn trên con đường đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay dược các thế lực thù địch thực hiện một cách có bài bản. Thực hiện chiến lược "đánh đòn phủ đầu”, các thế lực thù địch đã xác định mục tiêu rõ ràng, sách lược và biện pháp cụ thể, lại có cả một lộ trình" để thực hiện từng bước, được qui theo các mốc thời gian nhằm đạt được mục tiêu thống trị và áp đặt "giá trị" của chóng trên toàn thế giới. Trong chiến lược này, mục tiêu tư tưởng được đặt lên hàng đầu, được "ưu tiên" tiền của, phương tiện, trí tuệ để thực hiện.

Cuộc đấu tranh này được các thế lực thù địch kết hợp giữa đấu tranh hệ tư tưởng lý luận với chiến tranh tâm lý, kết hợp các thủ đoạn gây sức ép, khống chế về kinh tế với răn đe về quân sự và bạo lực, khai thác triệt để các nhân tố nội bộ trong Đảng Cộng sản, trong nội bộ của quốc gia, kết hợp cả những nhân tố "mưa dầm" với gây đột biến, bạo loạn mất ổn định chính trị, kết hợp cả việc tác động làm chếch hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường với việc khai thác các yếu tố dân chủ, tự do, nhân quyền nhằm mục đích kích động tâm lý ly khai chống đối.

Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo quan điểm Mác – Lênin


 Cũng như giai cấp và nhà nước, chiến tranh và quân đội là những hiện tượng chính trị xã hội. Sự xuất hiện của chiến tranh và lực lượng vũ trang gắn chặt với  sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin đã nghiên cứu lý luận về chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với lý luận về giai cấp và nhà nước.

Lực lượng vũ trang là một hiện tượng lịch sử. Lực lượng vũ trang ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu và loài người bị phân chia thành các giai cấp. Đi đôi với việc phân chia xã hội thành giai cấp, sự bất bình đẳng về sở hữu tài sản càng trở nên sâu sắc, lực lượng vũ trang được tăng cường và có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn. Khi xuất hiện bộ máy cưỡng bức đặc biệt là nhà nước, thì cũng  đẻ ra thiết chế xã hội mới về chất là lực lượng vũ trang

Khi đã xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước, nảy sinh mâu thuẫn đối kháng thì chiến tranh cũng xuất hiện trong đời sống xã hội. đối với bọn bóc lột thì chiến tranh đã trở thành phương tiện và công cụ quan trọng để nô dịch các dân tộc khác, để củng cố địa vị thống trị của chúng ở trong nước. Ăng ghen đã viết: “ Quân đội là một tập đoàn người vũ trang có tổ chức, do nhà nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công hoặc chiến tranh phòng ngự”

Như vậy, sự xuất hiện của hiện tượng  lực lượng vũ trang trong lịch sử gắn chặt với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, giai cấp, nhà nước và chiến tranh. Lực lượng vũ trang là công cụ để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định.

C. Mác,  Ph. Ăng ghen và Lênin xem xét vấn đề chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ với chính trị. Phạm trù bạo lực, chiến tranh và lực lượng vũ trang bao giờ cũng gắn liền với phạm trù chính trị - giai cấp. Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực; lực lượng vũ trang là công cụ để tiến hành chiến tranh, để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định

Lực lượng vũ trang là lực lượng đặc biệt của một giai cấp, là công cụ vũ trang chủ yếu của nhà nước để tiến hành chiến tranh nhằm thực hiện mục đích chính trị của giai cấp. lực lượng vũ trang hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, bị chi phối bởi chính trị, là công cụ thực hiện chính trị. Mọi mặt hoạt động của lực lượng vũ trang đều bị quy định bởi chính trị và phụ thuộc vào chính trị. Chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang với giai cấp, với chế độ xã hôi, với nhan dân, với dân tộc. Lực lượng vũ trang  bao giờ cũng gắn chặt với giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu sắc. Không có và không thể có  lực lượng vũ trang “phi giai cấp” hoặc “siêu giai cấp”, “quân đội phi chính trị” hoặc “đứng ngoài chính trị”.

Trong khi chăm lo xây dựng sức mạnh toàn diện của lực lượng vũ trang, để làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới thực sự trung thành và phục vụ lợi ích của giai cấp vô sản, Mác, Ăng ghen và Lênin hết sức chăm lo xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, nhất là chăm lo củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, coi đó là vấn đề sống còn của lực lượng vũ trang cách mạng, là một trong những nguyên tắc hết sức cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới.   

Trong quá trình xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị; xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin đã thường  xuyên quan tâm xây dựng cả 3 phương diện chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là sự kiên định và thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp công nhân; giáo dục hệ tư tưởng Mác – Lênin, thực hiện đường lối, nguyên tắc tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ quan lực lượng vũ trang theo quan điểm, đường lối của giai cấp công nhân. Mặt khác, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin rất quan tâm xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang với nhân dân, coi đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới khác về chất với các kiểu lực lượng vũ trang của giai cấp, nhà nước bóc lột trước đây. Đồng thời, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin rất quan tâm đến tăng cường xây dựng các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, nhất là mối quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ trên tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, trên cơ sở thống nhất về nghĩa vụ và quyền lợi; tăng cường củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa trên tinh thần quốc tế vô sản.

V.I Lênin đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành công tác tưởng, công tác tổ chức trong lực lượng vũ trang, coi đó là một nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, trực tiếp nâng cao chất lượng chính trị, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. V.I Lênin đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ luận điểm sai lầm và phản động của giai cấp tư sản coi lực lượng vũ trang “ là trung lập đứng ngoài chính trị”, từ đó đi tới phủ nhận nội dung giai cấp trong xây dựng lực lượng vũ trang.

Những thảm kịch ở Liên Xô và Đông Âu đầu những năm 90 vừa qua là bài học đau xót và lời cảnh tỉnh cho những ai xa rời những nguyên lý, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, nhất là vấn đề xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang kiểu mới.TB. ĐĂNG16/6/2020

 

 

Đấu tranh với những luận điệu vô ơn, bội nghĩa

Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, nhân dân Việt Nam không bao giờ quên công lao của những thế hệ đã hy sinh xương máu, đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Bất chấp đạo lý, các thế lực thù địch, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn để đánh tráo, xuyên tạc bản chất các cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Việt Nam, hạ thấp giá trị độc lập, tự do, phủ nhận sự hy sinh của các liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng nhằm kích động, chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Những luận điệu xảo trá

Thực tế, không chỉ dịp 27/7 mà hoạt động đền ơn đáp nghĩa đã trở thành truyền thống văn hoá với mọi tầng lớp nhân dân, ở khắp các vùng, miền đất nước. Hiện nay các chủ trương, chính sách dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng ngày càng được hoàn thiện; công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng tu bổ đền đài, nghĩa trang liệt sĩ luôn được quan tâm. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, diện thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng được mở rộng, chế độ chăm sóc, ưu đãi được nâng lên, các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng thật sự trở thành phong trào rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân, với nhiều hình thức tổ chức, nhiều việc làm cụ thể thiết thực, phong phú, sáng tạo trở thành nét đẹp văn hóa trong đời sống xã hội.

Thế nhưng những năm gần đây, trên không gian mạng xuất hiện những bài viết, video clip và một số tác phẩm viết dưới dạng văn học của một số cá nhân chống đối, phần tử cơ hội, bất mãn, họ lợi dụng một số vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách ở một số nơi để phủ nhận, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và sự chung tay của toàn xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. Có bài viết cho rằng, nhà cầm quyền Việt Nam “vô ơn với liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc, lạnh lẽo khói hương ngày giỗ các anh”; “sự hy sinh là vô nghĩa do cả tin, bị dối lừa”…

Nguy hiểm và trắng trợn hơn, họ còn kêu gọi, tập hợp những đối tượng bất mãn, cơ hội lập ra các hội, nhóm cựu chiến binh để tiến hành các hoạt động trái pháp luật, từ đó tuyên truyền, kích động, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin tham gia, gây mất an ninh trật tự… Các thế lực phản quốc lưu vong xới lại điệp khúc cũ, coi cuộc đấu tranh chống Pháp, Mỹ và các thế lực tay sai để giải phóng dân tộc của nhân dân ta là cuộc "chiến tranh ý thức hệ, huynh đệ tương tàn", "miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam" để từ đó đi đến đồng nhất nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của lực lượng cách mạng với những kẻ cầm súng giúp sức cho ngoại bang là liệt sĩ - tử sĩ. Với luận điệu này, họ đòi hỏi sự đổ máu nào cũng phải đối xử công bằng, không phân biệt bên này, bên kia! Khi không được đáp ứng thì họ lại giở tấu hài rằng, ngay trong lúc đi tìm sự hòa hợp, chúng ta vẫn chỉ đi tìm từ phía “kẻ thắng” nên khó mà tìm ra sự đồng thuận!

Một số thế lực cố tình xuyên tạc lịch sử, tuyên truyền rằng Quân đội Việt Nam Cộng hoà mới là “những người yêu nước, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ độc lập dân tộc”, đồng thời bôi đen Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chúng còn xuyên tạc rằng cái chết của quân và dân ta là “những cái chết vô nghĩa, bị Đảng Cộng sản lợi dụng cho mục đích chính trị”, vu cáo “nhà cầm quyền Việt Nam vô ơn với liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc”… Mới đây, một số đối tượng còn tổ chức đại nhạc hội với tên gọi “Cảm ơn anh, người thương binh Việt Nam Cộng hoà”, hát những bài có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước, tưởng nhớ, ca ngợi cái gọi là “hy sinh anh dũng” của quân lực Việt Nam Cộng hoà. Không khó khi nhận ra những kẻ rêu rao luận điệu này được tài trợ tiền từ nước ngoài, nay muốn thể hiện để nhận được trợ giúp.

Những luận điệu xuyên tạc trên tuy không mới song nằm trong âm mưu thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Việc xuyên tạc, phủ nhận, hạ thấp sự hy sinh của các liệt sĩ, thương binh, người có công là thủ đoạn thể hiện bản chất xảo trá, vô ơn, bạc nghĩa để phục vụ mục tiêu chống phá, tạo ra nhận thức lệch lạc, làm suy giảm lòng tin của một bộ phận quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ. Việc lặp lại những luận điệu này còn gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời khoét sâu vào mất mát, nỗi đau chiến tranh, tổn thương của thân nhân gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng.

Tiếp nối đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”

Trong những ngày tháng đất nước còn khói lửa chiến tranh, biết bao người con giã từ gia đình, quê hương, xung phong lên đường chiến đấu, một lòng vì Tổ quốc “Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi/ Ra đi, ra đi thà chết chớ lui”. Hơn ai hết, họ đã chuẩn bị một tâm thế, lòng tin vững vàng trước sự hy sinh của cuộc chiến đầy gian nan, khốc liệt phía trước và vẫn lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào ngày độc lập, tự do của Tổ quốc.

Chúng ta không bao giờ quên hình ảnh những người đã xả thân vì nước, quyết không để quân thù cướp từng tấc đất quê hương. Không thể quên câu nói của người thanh niên trẻ Lý Tự Trọng: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”; không thể quên tinh thần quả cảm của chiến sĩ giao liên Kim Đồng, sự bất khuất, hiên ngang của nữ Anh hùng Võ Thị Sáu; xúc động và tự hào biết bao trong tiếng hô vang khẩu hiệu yêu nước của người chiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Trỗi trước khi bị hành hình: “Hồ Chí Minh muôn năm! Việt Nam muôn năm!”…

Đó là sự hy sinh anh dũng của những cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc; nguồn cảm hứng lãng mạn, khát khao cống hiến cháy bỏng của những chàng trai, cô gái đôi mươi xung phong ra tuyến đầu chống giặc được thể hiện trong Nhật ký Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm… Vẻ đẹp, sự dũng cảm, hy sinh vì độc lập, tự do của các anh, các chị không một dòng văn thơ nào có thể diễn tả hết, đó chính là vẻ đẹp bất diệt. Máu của các anh, các chị “đã làm cho lá cờ của cách mạng thêm đỏ chói”; “Sự hy sinh của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do” (Hồ Chí Minh).

Ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Từ tháng 7/1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày Thương binh toàn quốc” thành “Ngày Thương binh, liệt sĩ” để ghi nhận và tri ân những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 8/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27/7 hằng năm trở thành Ngày Thương binh, liệt sĩ của cả nước. Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn trân trọng, ghi công các Anh hùng liệt sĩ, quan tâm và dành những tình cảm đặc biệt, chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, chăm sóc người có công đã thực sự trở thành phong trào rộng khắp, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc ở tất cả các cấp, các ngành, địa phương.

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên… Cân đối ngân sách để tiếp tục thực hiện việc nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công; nâng cao các công trình “đền ơn đáp nghĩa”. Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, ngày 27/10/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg về việc tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng; Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 25/01/2016 về tăng cường thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công.

Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả để lại ngày nay vẫn còn nặng nề. Bao thân nhân liệt sĩ, những bậc ông bà, cha mẹ, những người chồng, người vợ, người con đã mãi mãi không thể gặp lại người thân yêu của mình. Hàng triệu người đã ngã xuống vì khát vọng cháy bỏng độc lập, tự do, thống nhất và đi lên CNXH. Nó phản ánh nghị lực phi thường của nhân dân ta, đồng thời khẳng định ý chí, quyết tâm thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là sự hy sinh anh dũng, nguyện đi theo Đảng, trung thành với Đảng, sống và chiến đấu cho sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, trở thành một khối đại đoàn kết thống nhất. Cho nên, với luận điệu của các thế lực thù địch cho rằng sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ trong kháng chiến cứu nước là “những cái chết vô nghĩa” thì đó là lập luận của những kẻ vô ơn, bội nghĩa mà chúng ta cần phải đấu tranh, lên án.

Nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong thời kỳ mới

Nâng cao bản lĩnh chính trị (BLCT) cho cán bộ, chiến sĩ (CB,CS) có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng được xây dựng để tiến lên hiện đại, đòi hỏi phải nâng cao BLCT của CB,CS làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng, giao phó. Vì vậy, để nâng cao BLCT cho CB,CS trong quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một là, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, lý luận cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông” dẫn tới khuyết điểm và trước hết, nguy hiểm nhất là “khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan” mà “nếu không chữa ngay, để nó lây ra, thì có hại vô cùng”3 . Vì thế, học tập lý luận chính trị, đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị là công việc quan trọng, cần thiết, cấp bách, thường xuyên và lâu dài của mỗi tổ chức, CB,CS trong quân đội. Theo đó, tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của bộ đội; tăng cường bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận, đạo đức cách mạng cho đội ngũ CB,CS; đặc biệt là CB,CS công tác ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khó khăn, phức tạp... Cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp phải tập trung nghiên cứu, quán triệt sâu sắc những nguyên lý, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, bám sát nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đơn vị và tình hình thực tiễn, chủ động tiến hành toàn diện các hoạt động giáo dục chính trị, góp phần nâng cao BLCT của bộ đội, xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị.

Hai là, tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng, chống chủ nghĩa cá nhân ở cán bộ, chiến sĩ trong quân đội Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, phát huy vai trò nêu gương, thống nhất giữa nói và làm của mỗi CB,CS nhằm tăng cường “sức đề kháng” chống lại “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Rèn luyện nâng cao BLCT phải luôn gắn với “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” theo phương châm mọi tổ chức, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải tự giáo dục và rèn luyện như “cơm ăn, nước uống, rửa mặt” hằng ngày. Trong đó, gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII, XIII) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị 87-CT/QUTW của Quân ủy Trung ương “Về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Quy định số 08-QĐ/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên...”; Quy định 205-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền… đối với CB,CS. Thực hiện tốt chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đối với việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết và đưa vào tiêu chí thi đua, đánh giá xếp loại đảng viên, tổ chức đảng của đơn vị hằng năm.

Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội Bản lĩnh chính trị của CB,CS trong quân đội chỉ có được thông qua kết quả tác động tổng hợp của các hoạt động giáo dục, huấn luyện, tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện của bản thân họ. Trong đó, hoạt động tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng, nó luôn thâm nhập, đan quyện và là một trong những nguyên nhân trực tiếp góp phần tạo nên BLCT của CB,CS. Hoạt động tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện gồm nhiều hình thức, phương pháp, trong mỗi hình thức, phương pháp vừa có mặt tích cực, vừa có những hạn chế nhất định. Nếu biết kết hợp vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp thì sẽ phát huy tác dụng của những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế của mỗi hình thức, phương pháp tự học, tự rèn. Vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp để nâng cao chất lượng tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện của CB,CS có ý nghĩa thiết thực, phù hợp đặc điểm, tính chất công việc ở mỗi cơ quan, đơn vị hiện nay. Trong những hình thức, phương pháp tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện của CB,CS cần tìm cho mình hình thức, phương pháp phù hợp với bản thân từng người.

Hình thức, phương pháp tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao BLCT của CB,CS hiện nay rất đa dạng, phong phú như: tự tìm hiểu qua nghiên cứu sách, báo, tạp chí, bản tin tuyên truyền, tổng hợp thời sự chính trị, qua mạng thông tin quân sự, cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của các đơn vị, qua những trang tin chính thống trên internet, mạng xã hội...; thông qua học tập những kinh nghiệm điển hình tiên tiến của các cá nhân, các tập thể trong tự học, tự rèn; thông qua tổ chức, triển khai thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị; qua các hội nghị sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác giáo dục chính trị; qua thực hiện nền nếp, chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt của tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng trong đơn vị; qua hình thức tự quan sát, tự nghiên cứu đối tượng có mục đích, có tổ chức, có hệ thống và có kế hoạch để rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm thiết thực, đổi mới hình thức tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện của mình một cách phù hợp, thiết thực, để nâng cao BLCT.

Gần 80 năm qua, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi CB,CS quân đội đã và sẽ không ngừng rèn luyện, nâng cao BLCT, nâng cao chất lượng công tác, khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, góp phần xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh về mọi mặt đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Giải pháp bồi dưỡng kỹ năng ứng xử trên mạng xã hội cho cán bộ ở đơn vị cơ sở hiện nay

Mạng xã hội là nền tảng trực tuyến, nơi mọi người dùng để xây dựng các mối quan hệ với người khác có chung tính cách, nghề nghiệp, công việc, trình độ..., hay có mối quan hệ ngoài đời thực. Mạng xã hội có nhiều dạng thức và tính năng khác nhau, có thể được trang bị thêm nhiều công cụ mới, vận hành trên tất cả các nền tảng như máy tính để bàn, máy tính xách tay, máy tính bảng hay điện thoại thông minh... Mạng xã hội cho phép người dùng chia sẻ câu chuyện, bài viết, ý tưởng cá nhân, đăng ảnh, video; đồng thời, thông báo về hoạt động, sự kiện trên mạng hoặc trong thế giới thực, giúp người dùng kết nối với những người sống ở nhiều vùng hoặc trên toàn thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của MXH đã hình thành nên văn hóa ứng xử trên MXH bao gồm hệ thống giá trị chi phối nhận thức, thái độ, hành vi của cá nhân, cộng đồng trong các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và với chính bản thân các chủ thể.

Cán bộ ở đơn vị cơ sở (ĐVCS) được đào tạo ở các chuyên ngành khác nhau, được Đảng, Nhà nước và quân đội giao trọng trách trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy, quản lý giáo dục bộ đội ở các ĐVCS, thực hiện các nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác theo chức năng của quân đội. Đội ngũ cán bộ ở ĐVCS tuyệt đại đa số có bản lĩnh chính trị vững vàng, có sức khỏe tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang đặt ra những yêu cầu cao đối với phẩm chất và năng lực của người cán bộ ở ĐVCS; trong đó, ứng xử có văn hóa trong giao tiếp phải trở thành kỹ năng, nhu cầu, thói quen trong đời sống hàng ngày của mỗi quân nhân. Kỹ năng ứng xử trên MXH của cán bộ ở các ĐVCS là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm đã lĩnh hội được  để tương tác nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất trong thực hiện mối quan hệ giữa con người với con người trên MXH theo đúng chuẩn mực và quy định của pháp luật, góp phần giữ vững truyền thống, bản chất người quân nhân cách mạng trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Kỹ năng ứng xử trên MXH của cán bộ ở ĐVCS hiện nay rất phong phú, đa dạng, như: kỹ năng kết bạn; kỹ năng lựa chọn ứng dụng; kỹ năng đóng góp, chia sẻ; kỹ năng bình phẩm, nhận xét; kỹ năng blook tài khoản ảo và chặn những cá nhân spam, tin nhắn rác; kỹ năng kiểm soát, bảo mật thông tin...

Ứng xử văn hóa trên MXH là rất cần thiết, bởi nó không chỉ thể hiện phẩm chất, năng lực của mỗi cán bộ, mà còn trực tiếp góp phần xây dựng và phát huy giá trị văn hóa con người Việt Nam, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong cộng đồng mạng trên toàn thế giới. Theo đó, để đội ngũ cán bộ ở ĐVCS có kỹ năng ứng xử trên MXH hiệu quả, chủ thể các cấp cần thực hiện một số giải pháp bồi dưỡng cơ bản sau:

Một là, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho chủ thể các cấp về mạng xã hội, ứng xử trên mạng xã hội làm cơ sở để bồi dưỡng kỹ năng ứng xử trên mạng xã hội cho cán bộ ở đơn vị cơ sở Lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện trong việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ ở ĐVCS về MXH, bản chất, những nguy cơ tiềm ẩn khi tham gia MXH. Tuyên truyền, phổ biến Luật An ninh mạng; Nghị định số 15/2020/ NĐ-CP về “xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử”; Chỉ thị số 118-CT/ QUTW ngày 20/02/2017 của Quân ủy Trung ương “Về việc tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ quân đội trong tình hình hiện nay”... Qua đó, giúp mỗi cán bộ hiểu rõ ý nghĩa, giá trị, nội dung, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và những hành vi bị cấm liên quan đến văn hóa ứng xử khi tham gia MXH; đồng thời, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần cảnh giác, góp phần kịp thời phát hiện những biểu hiện tiêu cực, sai trái, âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên MXH. Cùng với đó, đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên “biến” MXH thành một kênh thông tin hữu ích để tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và quân đội; phân tích, bình luận, chia sẻ các bài viết về những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Trên cơ sở đó, xác lập ý thức, thái độ tham gia MXH một cách khoa học, đúng đắn, tạo cơ sở để hình thành và bồi dưỡng kỹ năng ứng xử trên MXH theo đúng chuẩn mực, quy định của pháp luật.

Hai là, thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp bồi dưỡng kỹ năng ứng xử trên mạng xã hội cho cán bộ ở đơn vị cơ sở Đa dạng hóa các hình thức, phương pháp bồi dưỡng kỹ năng ứng xử trên MXH không chỉ giúp cán bộ ở ĐVCS lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng một cách tích cực, sáng tạo, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho họ trải nghiệm thực tiễn ứng xử trên không gian mạng. Theo đó, cần thực hiện hiệu quả các phương pháp, hình thức bồi dưỡng thường xuyên, như: tổ chức trao đổi, tọa đàm về MXH; thành lập và tổ chức hoạt động câu lạc bộ đấu tranh chống các quan điểm sai trái trên không gian mạng; tổ kỹ thuật, tư vấn thao tác trên các trang MXH ở các đơn vị; các hội thi tìm hiểu về kỹ năng ứng xử trên các trang MXH; kết hợp tổ chức các hoạt động trao đổi, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm theo từng loại hình ứng xử trên MXH với giáo dục thái độ, trách nhiệm người cán bộ, đảng viên khi tham gia MXH; phát huy vai trò nòng cốt Ban Chỉ đạo 35, Lực lượng 47 trong xử lý các tình huống kỹ thuật trên MXH cũng như phổ biến kinh nghiệm cho cán bộ, sĩ quan trong toàn đơn vị về cách sử dụng, cách thức thao tác, đến các kỹ năng giao tiếp, ứng xử cụ thể trên các trang MXH; kết hợp mời các chuyên gia (công nghệ thông tin, an ninh mạng, MXH) tọa đàm trao đổi về cách thức xử lý các tình huống ứng xử phù hợp trên MXH...

Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động của đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở trong tự bồi dưỡng kỹ năng ứng xử trên mạng xã hội Đội ngũ cán bộ ở ĐVCS vừa là đối tượng, vừa là chủ thể trong hoạt động tự bồi dưỡng kỹ năng ứng xử trên MXH; đồng thời, là người quyết định trình độ và sự thuần thục của kỹ năng ứng xử trên MXH. Do đó, cần tích cực học tập, quán triệt cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng, Nhà nước, quân đội trên mọi lĩnh vực; chủ động nghiên cứu nâng cao năng lực chuyên môn, tạo dựng cho bản thân nền tảng tri thức chính trị - xã hội đúng đắn, khoa học, cách mạng; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phong cách tư duy, ứng xử, làm việc, sinh hoạt… theo phong cách Hồ Chí Minh, để nâng cao khả năng phân tích, đánh giá, phản biện, đấu tranh trên không gian mạng. nguyên tắc ứng xử khi tham gia MXH, như: không lập nhóm, hội để nói xấu, công kích lẫn nhau; không đăng tải, chia sẻ thông tin có thể gây xúc phạm, làm mất uy tín, danh dự cá nhân của người khác hoặc làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; không khai thác trái phép dữ liệu cá nhân của người khác cho mục đích thương mại, hoặc các mục đích khác; không “vào hùa” theo đám đông chia sẻ, nhận xét, phê bình trước một thông tin, sự kiện khi chưa hiểu rõ về vụ việc đó, hoặc không có căn cứ để khẳng định sự kiện đó là có thật; không cổ xúy, tiếp tay cho các trào lưu lệch lạc, thiếu văn hóa, gây phản cảm, bị xã hội lên án; không đưa thông tin bịa đặt, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, gây kích động bạo lực, phân biệt dân tộc, vùng miền, giới tính, tôn giáo, hình ảnh trái thuần phong mỹ tục Việt Nam, thông tin vi phạm pháp luật; không sử dụng những ứng dụng không rõ nguồn gốc để tránh bị làm phiền bởi các tin rác hay bị lấy cắp thông tin tài khoản...

Bốn là, tăng cường quản lý xây dựng môi trường giáo dục và các điều kiện đảm bảo cho đội ngũ cán bộ tham gia, sử dụng hiệu quả mạng xã hội Chú trọng xây dựng các mối quan hệ đoàn kết tốt đẹp, tinh thần nhân ái, tương trợ giúp đỡ nhau trong sinh hoạt, học tập và công tác, nhằm tạo bầu không khí dân chủ, tin cậy. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của cấp ủy đảng, người chỉ huy các cấp đối với hệ thống thông tin nói chung, mạng internet nói riêng, nhất là các cổng thông tin điện tử, các trang MXH có nội dung xấu, độc. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng các thiết bị điện tử thông minh của cán bộ trong đơn vị. Chủ động nắm, quản lý, dự báo, thông tin, định hướng tư tưởng cho cán bộ trước các thông tin xấu độc, các hiện tượng mạng, tội phạm công nghệ cao…, giúp cán bộ có cách ứng xử phù hợp. Đảm bảo tốt nhất điều kiện cơ sở vật chất, trang, thiết bị, phương tiện kỹ thuật, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho cán bộ khai thác, sử dụng mạng trong môi trường an toàn; sử dụng các trang, thiết bị hiện đại tạo tình huống giả định giúp cán bộ bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng ứng xử trên MXH sát với thực tiễn ở đơn vị và trong xã hội hiện nay.

Đẩy mạnh hoạt động đấu tranh trên không gian mạng của cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam

Bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trên KGM là tổng thể nội dung, biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi hoạt động sử dụng KGM xâm phạm an ninh chính trị - xã hội, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, quốc phòng, đối ngoại, thông tin, môi trường... và các lợi ích khác của quốc gia, nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là nhiệm vụ cấp bách, lâu dài của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trong đó, Quân đội nhân dân Việt Nam giữ vai trò nòng cốt và cán bộ, chiến sĩ quân đội là lực lượng tiên phong đấu tranh trên KGM hiện nay.

Đối với quân đội, các thế lực thù địch sử dụng các thủ đoạn như bịa đặt thông tin, làm mới những thông tin cũ, xuyên tạc những hình ảnh của cán bộ, chiến sĩ nhằm bôi nhọ truyền thống của quân đội, làm lu mờ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, để thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” quân đội, làm cho quân đội mất phương hướng, suy giảm khả năng chiến đấu. Để phát huy những điểm mạnh và khắc phục những tồn tại của hoạt động đấu tranh trên KGM hiện nay, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, theo chúng tôi, các đơn vị quân đội cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động đấu tranh trên không gian mạng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đến việc đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh trên KGM cho cán bộ, chiến sĩ. Bởi vì, BVTQ trên KGM là bảo vệ KGM của quốc gia, bao gồm: bảo vệ các hệ thống thông tin; các chủ thể hoạt động trên KGM; hệ thống dữ liệu, tài nguyên mạng; các quy tắc xử lý và truyền số liệu… Do đó, thực hiện tốt giải pháp này không chỉ tạo nên sự chuyển biến về nhận thức, thống nhất ý chí và hành động cho cấp ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị, mà còn tạo nên sự đồng thuận của các lực lượng tham gia đấu tranh trên KGM.

Hai là, kiện toàn tổ chức, bộ máy của các cơ quan quản lý ở các đơn vị quân đội về không gian mạng Các đơn vị phải thường xuyên kiện toàn, củng cố, xây dựng lực lượng đấu tranh trên KGM vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, nhân viên, chuyên môn kỹ thuật nâng cao trình độ giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Xây dựng lực lượng tác chiến KGM nhạy bén về chính trị, nhận thức sâu sắc về tình hình nhiệm vụ, nhận rõ đối tượng, đối tác, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Tăng cường giáo dục về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ động phòng, chống mọi âm mưu, thủ đoạn xâm nhập, phá hoại của địch. Xây dựng nền nếp chính quy, duy trì kỷ luật; hoàn thiện cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin, quy trình phối hợp xử lý giữa các cơ quan chức năng trong từng đơn vị và giữa các đơn vị trong toàn quân; giữa quân đội với các bộ, ban, ngành và cấp ủy chính quyền địa phương trong xử lý các tình huống trên KGM. Chú trọng xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi trong xây dựng, phát triển lực lượng đấu tranh trên KGM. Tập trung triển khai xây dựng, kiện toàn tổ chức, biên chế lực lượng đấu tranh trên KGM theo hướng tinh, gọn, linh hoạt, có cơ cấu tổ chức đồng bộ hợp lý giữa các thành phần lực lượng, phân rõ chức năng, nhiệm vụ.

Ba là, đẩy mạnh bồi dưỡng kỹ năng đấu tranh trên không gian mạng cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ BVTQ, cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp phải đẩy mạnh các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng đấu tranh trên KGM cho cán bộ, chiến sĩ. Thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm thiết lập các trang tin (Website, Blog, Facebook, Fanpage...) để tuyên truyền, hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ nhận diện, ngăn chặn các tin xấu, độc... trên KGM.

Thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ kỹ năng phòng, chống, phản bác các quan điểm chống phá đường lối, chính sách quân sự, quốc phòng, đòi “phi chính trị hóa” quân đội; phủ nhận lịch sử truyền thống cách mạng; bản chất, truyền thống quân đội... Rèn luyện kỹ năng phòng, chống sự xâm nhập, phát tán thông tin phản ánh sai sự thật, thêm bớt, cắt xén, điều chỉnh, cải biến thông tin, bôi nhọ, nói xấu cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội; hạ thấp uy tín, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, chia rẽ tình đoàn kết quân dân… Kịp thời định hướng thông tin đúng đắn trước các sự kiện, vụ việc thu hút dư luận xã hội, như: ban hành các dự thảo luật, xét xử những đối tượng phản động chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội; các vụ án, phiên tòa xét xử kỷ luật cán bộ, đảng viên vi phạm trong lĩnh vực kinh tế, đất đai quốc phòng, tham ô, hối lộ... Thường xuyên tổ chức cho những đồng chí có năng lực (nhất là các nhà khoa học, cán bộ, giảng viên ở các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu) viết bài đăng trên chuyên mục chống “diễn biến hòa bình” của các báo, tạp chí trong và ngoài quân đội.

Bốn là, tăng cường các hoạt động tập huấn, diễn tập đấu tranh trên không gian mạng cho cán bộ, chiến sĩ các đơn vị. Cấp ủy, chỉ huy các cấp phải thường xuyên tổ chức tập huấn, diễn tập, hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ viết bài phản bác lại các thông tin sai trái, chia sẻ rộng rãi trên KGM để cộng đồng mạng hiểu cặn kẽ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, từ đó tham gia đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trên KGM... Tích cực viết bài, đưa tin chia sẻ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, các nội dung tuyên truyền về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, các vấn đề gắn với lịch sử truyền thống cách mạng, truyền thống văn hóa, bản sắc dân tộc, truyền thống quân đội…, để cộng đồng mạng hiểu, ủng hộ và cùng tham gia đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch... Tích cực tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tập huấn, diễn tập... để cán bộ, chiến sĩ có môi trường thực tiễn tham gia đấu tranh trên KGM; trang bị kỹ năng, kỹ xảo cho cán bộ, chiến sĩ để họ thành thục các yếu lĩnh động tác tham gia đấu tranh trên KGM; bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm và tạo hiệu ứng lan tỏa, say mê viết bài đấu tranh trên KGM cho cán bộ, chiến sĩ. Đây cũng là cơ sở để cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp phát hiện, tập hợp, xây dựng Lực lượng 47 của đơn vị mình thực sự tinh, gọn, sắc sảo, có sức chiến đấu cao, xứng đáng là lực lượng tiên phong, xung kích trong tham gia đấu tranh, góp phần BVTQ trên KGM một cách vững chắc trong giai đoạn hiện nay.

Phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội trong phòng, chống các thách thức an ninh phi truyền thống

Quân đội có vai trò đặc biệt quan trọng trong phòng, chống các thách thức an ninh phi truyền thống (ANPTT). Để quân đội hoàn thành nhiệm vụ đó phải phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó nhân tố chính trị - tinh thần giữ vai trò cơ sở, nền tảng; góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp để phòng, chống có hiệu quả các thách thức ANPTT. Bài viết làm rõ vai trò, tầm quan trọng và thực trạng phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội trong phòng, chống các thách thức ANPTT, từ đó đề xuất các biện pháp để nâng cao hiệu quả của vấn đề này trong thời gian tới:

Một là, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng về phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội trong phòng, chống các thách thức an ninh phi truyền thống Đây là biện pháp cơ bản, giữ vai trò chủ đạo bảo đảm cho các tổ chức, các lực lượng luôn nắm vững để có ý thức, trách nhiệm trong phòng, chống các thách thức ANPTT. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, quán triệt cho các tổ chức, lực lượng nắm chắc những diễn biến phức tạp, nguy hiểm khó lường của các thách thức ANPTT hiện nay; nắm chắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phòng, chống các thách thức ANPTT. Nhất là, những đặc điểm, tính chất, nội dung, phạm vi ảnh hưởng và những nguy hại của các thách thức ANPTT đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; thấy rõ được vai trò của quân đội, những thuận lợi, khó khăn và vai trò đặc biệt quan trọng của việc phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội trong phòng, chống các thách thức ANPTT. Thông qua hoạt động thực tiễn quân đội tham gia phòng, chống thiên tai, thảm họa, giúp nhân dân khắc phục hạn hán, bão, lũ, sạt lở đồi, núi, cứu hộ, cứu nạn trên biển, nhất là công tác tuần tra, kiểm soát biên giới, quản lý cách ly tập trung trong phòng, chống đại dịch Covid-19 hiện nay để mọi cán bộ, chiến sĩ luôn thấy rõ vai trò và tầm quan trọng của nhân tố chính trị - tinh thần đối với việc phòng, chống các thách thức ANPTT. Qua đó, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và chỉ huy các cấp đối với việc phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội trong phòng, chống các thách thức ANPTT. Vấn đề này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục để mỗi cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn thấm nhuần trong nhận thức và thực hiện.

Hai là, triển khai thực hiện đồng bộ các nội dung, hình thức, biện pháp để phát huy hiệu quả nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội trong phòng, chống các thách thức an ninh phi truyền thống Đây là biện pháp quan trọng, sát thực để nâng cao chất lượng, hiệu quả phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội trong phòng, chống các thách thức ANPTT. Theo đó, về nội dung cần tiếp tục giữ vững, phát triển, gia tăng và làm lan tỏa các nội dung cốt lõi trong nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội; nhất là giá trị, bản chất, truyền thống và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Những thành tựu, kết quả nổi bật, các nội dung đặc sắc của quân đội đã đạt được trong phòng, chống các thách thức ANPTT thời gian qua, những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, những tấm gương hy sinh anh dũng trong phòng, chống thiên tai bão lũ cứu dân, phòng, chống đại dịch Covid-19, phòng, chống tội phạm ma túy…Giáo dục và lan tỏa sâu rộng các nội dung đó trong toàn quân, kết hợp đưa nội dung giáo dục ANPTT vào chương trình giảng dạy và học tập chính trị trong các nhà trường, cơ quan, đơn vị quân đội. Bên cạnh đó, cần chủ động đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, luôn tìm cách lợi dụng, xuyên tạc nhiệm vụ phòng, chống các thách thức ANPTT để chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa quân đội với nhân dân. Vận dụng đa dạng, linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội trong phòng, chống các thách thức ANPTT. Thông qua công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục chính trị, tọa đàm, diễn đàn, đẩy mạnh Phong trào thi đua Quyết thắng trong quân đội, cổ vũ, biểu dương gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến. Thực hiện đồng bộ có chất lượng, hiệu quả các mặt hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức, chính sách trong phòng, chống thiên tai, thảm họa, dịch bệnh. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong phòng, chống các thách thức ANPTT hiện nay.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp, huy động sự vào cuộc đồng bộ của các tổ chức, các lực lượng trong phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội đối với nhiệm vụ phòng, chống các thách thức an ninh phi truyền thống Các thách thức ANPTT có tính chất đa dạng, phức tạp, khó lường, đầy hiểm nguy. Do đó, để phát huy hiệu quả nhân tố chính trị - tinh thần của quân đội trong phòng, chống các thách thức đó hiện nay, cần phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, mọi lực lượng, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, các cơ quan, ban ngành từ Trung ương đến địa phương, trực tiếp là của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp, các cơ quan chức năng, các tổ chức quần chúng trong quân đội đối với vấn đề này. Từ thực tiễn tham gia của quân đội với các hoạt động, phòng chống bão, lụt, cứu hộ, cứu nạn, dịch bệnh, tội phạm ma túy xuyên quốc gia thời gian qua, đều phải có sự phối hợp, sự hỗ trợ, sự vào cuộc đồng bộ của tất cả các ban, bộ, ngành, nhất là mạng lưới nhân dân rộng khắp ở các địa bàn, địa phương. Vì vậy, thời gian tới, quân đội cần có quy chế để thực hiện tốt hơn nữa cơ chế phối hợp giữa quân đội với các tổ chức, các lực lượng khác, nhất là với cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân ở các địa phương trong phòng, chống các thách thức ANPTT. Chủ động xây dựng kế hoạch, xây dựng các kịch bản, các tình huống và biện pháp ứng phó; trên cơ sở đó, tổ chức hiệp đồng với chính quyền và các lực lượng ở các địa phương, các địa bàn đóng quân luyện tập các phương án trong phòng, chống các thách thức ANPTT. Mặt khác, quân đội cũng cần tăng cường đầu tư, bổ sung các cơ sở vật chất, trang, thiết bị chuyên dụng và thiết yếu phù hợp với hoạt động phòng, chống thiên tai thảm họa, dịch bệnh; thường xuyên quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống các thách thức ANPTT.

Nâng cao văn hóa ứng xử trên không gian mạng cho sinh viên trong bối cảnh chuyển đổi số

Trong thời gian gần đây, văn hóa ứng xử trên không gian mạng đang là vấn đề đáng quan tâm, bởi những phát ngôn, bình luận “thiếu văn hóa”, không phù hợp với đạo đức, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của Việt Nam... gây bất bình cho mọi người và xã hội nói chung, các nhà trường nói riêng. Tuy nhiên, việc kiểm tra, giám sát đòi hỏi phải đồng bộ cả về phương pháp, công nghệ, nguồn lực, cho đến các chế tài xử lý theo quy định của pháp luật. Lợi dụng sự phát triển của không gian mạng, các thế lực thù địch, phản động đăng tải, tuyên truyền nhiều nội dung xấu, độc; làm cho sinh viên có tư tưởng hoài nghi, dao động... dẫn đến có suy nghĩ, lối sống không lành mạnh, có nhiều đối tượng vi phạm pháp luật. Mặt khác, làm cho sinh viên suy giảm tinh thần đấu tranh chống lại những biểu hiện sai trái trong cuộc sống, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không lên án, né tránh những việc ảnh hưởng đến cá nhân, có thái độ vồ cảm về chính trị, thiếu trách nhiệm với cộng đồng; chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân mà quên đi lợi ích tập thể, quên đi vinh dự và trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, tập thể cao trong học tập, công tác, rèn luyện. Nguy hại hơn, có thể dẫn đến sự phai nhạt lý tưởng, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, biểu hiện bi quan, mất niềm tin khi gặp phải những khó khăn trong cuộc sống.

Do đó, để giúp sinh viên hình thành văn hóa ứng xử chuẩn mực trên không gian mạng, cần phải sử dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp giáo dục, rèn luyện gắn với quản lý sinh viên:

Một là, tiếp tục hoàn thiện quy chế, quy định quản lý, sử dụng không gian mạng chặt chẽ.

Quy chế quản lý va sử dụng không gian mạng là một trong những biện pháp mạnh, có tính răn đe, phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng. Để xây dựng nội dung về quy chế quản lý và sử dụng không gian mạng, trên cơ sỏ những văn bản pháp luật, các nghị định, hướng dẫn, các nhà trường cần xác định nội dung cụ thể đối với việc sử dụng không gian mạng và đưa vào quy chế quản lý. Khi xây dựng nội dung, các nhà trường cần căn cứ các quy định của pháp luật hiện hành để dưa ra những nội dung cụ thể trong quản lý, như về hành vi, thái độ, bình luận vi phạm quy định và có những hình thức kỷ luật phù hợp với từng vi phạm cụ thể. Nội dung quy chế quản lý cần phải xác định rõ những hành vi, thái độ, bình luận được phép, khuyến khích như những thông tin có nguồn gốc chính thống, đáng tin cậy; những hành vi ứng xử phù hợp với giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam; những bình luận cần sử dụng ngôn từ phù hợp, không gây chia rẽ, mất đoàn kết và ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm cá nhân hay tổ chức...

   Cần đưa vào quy chế những hành vi không được phép, như: sử dụng ngôn ngữ phản cảm, tung tin giả, xuyên tạc, kích động, gây hoang mang dư luận xã hội... để có những hình thức kỷ luật tương xứng. Những biện pháp xử lý đủ mạnh sẽ mang tính chất răn đe, kịp thời ngăn chặn những hành vi, thái độ và bình luận trên không gian mạng không chuẩn mực ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức. Các nhà trường cần có cơ chế kiểm tra, giám sát phù hợp để kịp thời ngăn ngừa những hành vi tiêu cực trên không gian mạng của sinh viên.

Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, chính trị cho sinh viên.

Mọi hoạt động thông tin tuyên truyền, giáo dục phải hướng đến mục tiêu không ngừng bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng, tinh thần cảnh giác để cán bộ, giảng viên, sinh viên luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, không dao động trong mọi tình huống; luôn có thái độ, hành vi đúng đắn khi tham gia vào môi trường không gian mạng. Công tác giáo dục, tuyên truyền phải làm rõ âm mưu của các thế lực thù địch trong sử dụng mạng truyền thông để tác động tâm lý sinh viên; làm rõ các thủ đoạn đã, đang và sẽ được các thế lực thù địch sử dụng để lôi kéo, kích động sinh viên; khuyến cáo sinh viên cảnh giác trước thông tin trên các trang mạng xã hội.

Cần thường xuyên đưa những thông tin chính xác, kịp thời vạch rõ âm mưu, thủ đoạn, cách thức của các thế lực thù địch chống phá trên mạng internet, khắc phục tình trạng nhiễu thông tin dẫn đến hoang mang, nảy sinh tư tưởng tiêu cực. Đối với sinh viên, mọi công tác liên quan đến học tập, rèn luyện cần được công khai, minh bạch; tạo mọi điều kiện để sinh viên hoàn thành chương trình học tập, rèn luyện, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, người đứng đầu các nhà trường, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể có vai trò quyết định đến kết quả xây dựng môi trường văn hóa, là chủ thể hướng dẫn, uốn nắn các hành vi ứng xử có văn hóa, đạo đức trong sinh viên, tổ chức duy trì, quản lý hoạt động giáo dục, đào tạo theo chức trách, nhiệm vụ, tạo bầu không khí dân chủ trong các nhà trường.

Ba là, phát huy vai trò tự giác của sinh viên trong tự học, tự rèn nâng cao nhận thức về không gian mạng.

Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng, tác động tích cực đến chất lượng, hiệu quả xây dựng văn hóa của sinh viên trên không gian mạng. Thực chất, đó là quá trình sinh viên chủ động học tập, bổ sung kiến thức, tiếp nhận thông tin từ không gian mạng một cách khoa học, khai thác những ưu điểm của không gian mạng phục vụ cho học tập, phân biệt được những thông tin xấu, độc từ không gian mạng. Từ nhận thức đúng đắn, sinh viên sẽ nỗ lực và tự giác trong việc lựa chọn nội dung truy cập không gian mạng phù hợp, phân bổ thời gian hợp lý, từ đó sẽ tránh dược là những tác động tiêu cực của không gian mạng./.

PHÒNG NGỪA HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG ÂM NHẠC ĐỂ XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ ĐẤT NƯỚC

 

Lâu nay, trong xã hội, nhất là trên không gian mạng xuất hiện tình trạng một số bài hát truyền thống, ca khúc cách mạng bị xuyên tạc, “hát nhại” không thể chấp nhận được. Sự phát triển tự do, khó kiểm soát nội dung trên các nền tảng mạng xã hội khiến cho các ca khúc bị xuyên tạc với nhiều ca từ dung tục không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc lan truyền rất nhanh. Nguy hiểm hơn, một số người đã đem những ca khúc “cải biên” ấy ra hát trong các cuộc nhậu, ở những nơi tụ tập đông người… xem đó như một trò tiêu khiển…. Tình trạng trên không chỉ làm làm xấu đi thị trường âm nhạc nước nhà, tác động tiêu cực đến nhân dân, nhất là giới trẻ mà còn dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền chống phá Việt Nam.
Có nhiều cách nhìn khác nhau trước tình trạng trên, nhưng tựu chung lại có hai cách cơ bản.
Cách thứ nhất cho rằng, người hát “nhại”, “cải biên” chỉ là trò đùa do hạn chế về ý thức chính trị nên hát cho vui chứ không nhằm mục đích gì…
Cách thứ hai cho rằng, không loại trừ hành vi trên nhằm động cơ và mục đích xấu, có sự hà hơi tiếp sức của kẻ địch để chống phá Việt Nam. Cách này khá phổ biến.
Khi nghe những giọng điệu “hát nhại”, “cải biên” theo kiểu xuyên tạc, bôi nhọ ấy, một số người kém hiểu biết thì cười vui tán thưởng, khen là “sáng tạo”. Nhưng hầu hết dư luận, nhất là các bậc cao niên, cán bộ hưu trí, các cựu chiến binh… khi nghe con cháu nghêu ngao những bài hát xuyên tạc, với những ca từ dung tục ấy đều lắc đầu, bày tỏ sự phẫn nộ bởi đó là hành vi lố bịch, lạc lõng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta…
Có thể nói dù theo cách nào thì đó cũng là hành vi không thể chấp nhận được, cần lên án và đấu tranh để loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi mà các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng những mặt trái trong xã hội để chống phá ta trên mọi lĩnh vực, nhất là trên mặt trận văn hóa, văn học nghệ thuật.
Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển đất nước. Từ quan điểm đó, những năm qua, bằng nhiều chủ trương, chính sách Đảng và Nhà nước ta luôn trân trọng và tạo mọi điều kiện để các cá nhân, nhất là các văn nghệ sĩ được phát huy tài năng, sức sáng tạo góp phần nâng cao và làm phong phú hơn đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân…
Đồng thời, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn tận gốc những mầm mống văn hóa xấu độc đi ngược lại truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Quán triệt tinh thần ấy, cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục định hướng thẩm mỹ cho công chúng, dư luận cho rằng, cơ quan chức năng cần có các biện pháp xử lý kịp thời, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện xuyên tạc các ca khúc truyền thống như đã nêu để bảo vệ sự lành mạnh trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân và cũng là góp phần đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch./.
St

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 02/8


“Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn”.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên, đầu tháng 8/1959.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy, nhà giáo dục vĩ đại. Cả cuộc đời Người đã đào tạo biết bao thế hệ cán bộ, những chiến sĩ ưu tú cho cách mạng và dành nhiều tình cảm quan tâm đến với các thầy, cô giáo. Bác đặc biệt đề cao vai trò của người thầy, bởi người thầy không chỉ dạy chữ mà còn dạy người, không chỉ truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm, khơi nguồn sáng tạo mà còn là tấm gương mẫu mực về đạo đức cho học sinh noi theo qua từng giờ lên lớp. Người thầy là những người “đạo cao”, “đức trọng”, người có uy tín được xã hội tôn kính. Có thể nói, ở bất cứ xã hội nào nghề dạy học luôn được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Do vậy, người thầy phải có lập trường tư tưởng đúng, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có chuyên môn giỏi và không ngừng được phát triển, sáng tạo thì mới hoàn thành trọng trách vẻ vang mà xã hội tin tưởng trao gửi.
Thấu triệt lời Bác dạy, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn khắc ghi tinh thần “chính trị là linh hồn” mà Bác đã huấn thị: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự” và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội; phù hợp với yêu cầu, nội dung của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phải tập trung giáo dục, rèn luyện bộ đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có thái độ phân biệt đúng, sai, không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy. Nói và làm đúng nghị quyết; ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng tổ chức đảng TSVM, cơ quan, đơn vị VMTD, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc.



Nhận diện và đấu tranh với những kẻ “cơ hội chính trị”

Để đấu tranh có hiệu quả với những kẻ “cơ hội chính trị”, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nói chung, các cơ quan, đơn vị trong Quân chủng nói riêng cần nhận thức đúng những biểu hiện của kẻ “cơ hội chính trị” và tính chất phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống kẻ “cơ hội chính trị” hiện nay. Từ đó, chủ động, kịp thời, kiên quyết thực hiện những biện pháp, bước đi thích hợp, kết hợp chặt chẽ giữa “phòng” và “chống”, không thỏa hiệp với những tư tưởng, biểu hiện của kẻ “cơ hội chính trị” ở mọi nơi, mọi lúc. Đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, lý luận, kinh tế, văn hóa, xã hội, không cho chúng có cơ hội trở thành một trào lưu, một lực lượng ảnh hưởng tới sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Nhân dân ta.

Nhận diện những kẻ “cơ hội chính trị”

“Cơ hội chính trị” là một bộ phận không nhỏ những kẻ cơ hội, thiếu lý tưởng cộng sản, tìm cách chui vào Đảng, mang danh cán bộ, đảng viên cộng sản để tìm cơ hội “thăng quan tiến chức”. Bất chấp lợi ích của Đảng, của nhân dân, họ tìm cách vun vén cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng tộc để đạt danh vọng, làm giàu cho bản thân và gia đình. Họ say mê quyền lực, địa vị, coi như một thứ có thể mua bán, tiến thân, từ đó mà khéo luồn lách, xun xoe, nịnh bợ cấp trên; đe nẹt, chèn ép cấp dưới. Họ kéo bè kết cánh, móc ngoặc trên dưới, trong ngoài, dựa vào các mối quan hệ thân thiết, tiền bạc để tìm cách chạy chức, chạy quyền, chạy danh, chạy lợi, chạy chỗ, chạy bằng cấp, chạy tuổi... Họ lợi dụng việc tuyển chọn, đánh giá, luân chuyển cán bộ để trục lợi cá nhân, tìm mọi cách đưa người “cùng cánh” vào nắm những chức vụ quan trọng trong cơ quan, đơn vị mà không chịu chọn những người có đức, có tài, đủ tâm, đủ tầm vào vị trí xứng đáng, thậm chí họ sẵn sàng “dìm” người khác để nâng mình lên, vì lợi ích cá nhân mà bất chấp lợi ích tập thể; không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; không gương mẫu trong công tác; không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao; không chấp hành sự phân công của tổ chức, kén chọn chức danh, vị trí công tác, chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó. Từ đó, họ dần từ bỏ trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, không còn là “công bộc” của dân, trở thành những “ông quan” cách mạng, đục khoét tiền bạc, của cải của nước, của dân.

Ngoài những kẻ cơ hội trên thì còn phải kể đến những đối tượng cơ hội chính trị cực đoan. Nhóm này thường bộc lộ công khai tư tưởng bất mãn, chống đối. Họ triệt để khai thác các khiếm khuyết của cơ chế, chính sách, lợi dụng những người có địa vị, uy tín cá nhân nhưng bất mãn hoặc đã từng bị xử lý, nhằm tạo dựng ngọn cờ, tập hợp lực lượng, công kích chính diện vào chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của chế độ ta với động cơ và mục đích không lành mạnh, gieo rắc tâm trạng hoài nghi, tư tưởng bất mãn, chống đối, phục vụ cho mưu đồ bạo loạn, lật đổ khi có đủ các điều kiện. Hay có những đối tượng do hạn chế về nhận thức, thiếu thông tin hoặc tiếp nhận thông tin từ những kênh không chính thống, bị kẻ xấu lợi dụng, đứng trước các sự kiện phức tạp về chính trị xã hội thường tỏ ra dao động, thiếu tự chủ, mất niềm tin, mất phương hướng, hành động lệch chuẩn, gián tiếp tiếp tay cho các thế lực thù địch. Bộ phận khác do “công thần”, sống vụ lợi ích kỷ, thiếu tu dưỡng rèn luyện, khi lợi ích cá nhân không được đáp ứng, thể hiện và biểu lộ công khai quan điểm bất mãn. Họ thường nói và là trái với quan điểm của Đảng, gây xáo trộn và phân tâm trong xã hội, tạo môi trường xấu…

Có thể khẳng định, những kẻ cơ hội chính trị có nhiều cấp độ biểu hiện, có nhiều dạng và tồn tại ở nhiều vị trí khác nhau, nó là những con “sâu”, con “mọt” đang ngày đêm đục khoét phá hoại Đảng ta và chế độ XHCN ở nước ta, làm suy yếu sức mạnh của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, gây ra thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Chính vì vậy, nhận diện và đấu tranh với những kẻ “cơ hội chính trị” là một trong những nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa sống còn trong giai đoạn hiện nay.

Đấu tranh với những kẻ “cơ hội chính trị”

Để đấu tranh có hiệu quả với những kẻ “cơ hội chính trị”, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nói chung, các cơ quan, đơn vị trong Quân chủng nói riêng cần nhận thức đúng những biểu hiện của kẻ “cơ hội chính trị” và tính chất phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống kẻ “cơ hội chính trị” hiện nay. Từ đó, chủ động, kịp thời, kiên quyết thực hiện những biện pháp, bước đi thích hợp, kết hợp chặt chẽ giữa “phòng” và “chống”, không thỏa hiệp với những tư tưởng, biểu hiện của kẻ “cơ hội chính trị” ở mọi nơi, mọi lúc. Đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, lý luận, kinh tế, văn hóa, xã hội, không cho chúng có cơ hội trở thành một trào lưu, một lực lượng ảnh hưởng tới sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Nhân dân ta.

Cùng với đó, thực hiện kiên quyết, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Phải quán triệt, cụ thể hóa các nội dung Nghị quyết thành các văn bản pháp luật, thành kế hoạch, đề án cụ thể; đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ trì trong nêu gương thực hiện Nghị quyết, nêu gương trong lời nói, hành động, công việc, đời sống riêng và thực hiện nghiêm chế tài giám sát, kiểm soát sự nêu gương ấy. Đặc biệt, phải thực hiện nghiêm Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị về “Việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Trong đó, kiên quyết xử lý nghiêm, không có vùng cấm đối với các hành vi chạy chức, chạy quyền và hành vi bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền.

Xây dựng các tổ chức đảng TSVM, cơ quan, đơn vị VMTD; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự vững mạnh, không tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mất đoàn kết. Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo chuyển biến rõ rệt về ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và phong cách công tác của cán bộ, đảng viên. Thực hiện có nền nếp và chất lượng việc đấu tranh tự phê bình và phê bình, chủ động ngăn chặn, ngăn ngừa xu hướng cơ hội chính trị. Đặc biệt, thường xuyên nâng cao trình độ lý luận về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng để tạo sức “đề kháng” trước sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Tăng cường công tác quản lý nội bộ, kịp thời đấu tranh và xử lý đối với kẻ cơ hội chính trị, những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trọng nội bộ.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp và tổ chức chặt chẽ của các lực lượng tạo thành thế trận vững chắc, nhiều tầng, nhiều lớp trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, chống chủ nghĩa cơ hội nói riêng. Nâng cao tính chuyên sâu của các cơ quan, các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, của các lực lượng và tính kịp thời, đa dạng, phong phú của các cơ quan thông tấn, báo chí trong đấu tranh với những kẻ “cơ hội chính trị”, góp phần xây dựng các tổ chức đảng TSVM, cơ quan, đơn vị VMTD.