Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng về tư tưởng - nhìn từ các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc Việt Nam (1954 - 1975)

Trong thực tiễn lãnh đạo từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và xác định, đây là lĩnh vực trọng yếu nhằm xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng với tinh thần sáng tạo và đạt kết quả cao nhất. Những cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975 - giai đoạn có ý nghĩa lịch sử quan trọng - để lại những bài học kinh nghiệm quý về công tác xây dựng Đảng trong lĩnh vực tư tưởng giai đoạn hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các học viên dự lớp bồi dưỡng đảng viên mới của Đảng bộ Hà Nội, tháng 5-1966_Nguồn: hochiminh.vn

Các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc Việt Nam (1954 - 1975) - một số kinh nghiệm rút ra

Sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ, nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ lịch sử đặc biệt. Theo nội dung Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954), nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc, lấy vĩ tuyến 17 dọc sông Bến Hải, thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị là giới tuyến quân sự tạm thời. Ngay sau khi Hiệp định vừa ký kết, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp, chiếm đóng miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam. Thực tiễn lịch sử khắc nghiệt đó đặt ra cho Đảng và nhân dân ta phải đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với mục tiêu hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Hai chiến lược đó có quan hệ mật thiết, quyết định lẫn nhau dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng.

Để thực hiện đồng thời hai chiến lược này, yêu cầu nâng cao vai trò, hiệu quả lãnh đạo của Đảng được đặc biệt coi trọng. Trong nhiều giải pháp, Đảng nhấn mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với 5 cuộc vận động, chỉnh đốn Đảng lớn được thực hiện ở miền Bắc trong thời kỳ 1954 - 1975:

1- Cuộc vận động chỉnh đốn tổ chức gắn liền cải cách ruộng đất (tháng 12-1954 đến tháng 7-1956). Ngày 7-12-1954, Đảng ban hành Chỉ thị “Về việc chỉnh đốn chi bộ nông thôn trong cải cách ruộng đất”, nhằm mục tiêu xây dựng các chi bộ trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị ở nông thôn, bảo đảm đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh ở nông thôn.

2- Cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961. Ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW “Về cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân 1961”, là cuộc chỉnh huấn lớn nhất về tư tưởng từ khi hoà bình lập lại ở miền Bắc. Mục đích nhằm tích cực bồi dưỡng và xây dựng tư tưởng mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động, để trên cơ sở đó khắc phục những tư tưởng sai lầm đang cản trở sự nghiệp cách mạng.

3- Cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965. Ngày 2-1-1965, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 88-CT/TW tiến hành cuộc vận động, chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965. Cuộc vận động, chỉnh huấn được tiến hành trong toàn Đảng nhằm nâng cao ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức và kỷ luật, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

4- Cuộc vận động xây dựng chi bộ bốn tốt (1962 - 1968). Đầu tháng 6-1962, Ban Bí thư Trung ương Đảng mở cuộc vận động “Xây dựng chi bộ, đảng bộ bốn tốt”. Tiếp đó, ngày 6-7-1965, Ban Bí thư ra Nghị quyết số 122-NQ/TW “Về tăng cường lãnh đạo, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở bốn tốt” trong ba năm (1965 - 1968). Mục tiêu của hai cuộc vận động này nhằm làm cho chi bộ và tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân lãnh đạo vững chắc, đủ sức tổ chức và lãnh đạo quần chúng hoàn thành tốt những nhiệm vụ cơ bản đề ra cho từng loại cơ sở, thiết thực đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị của miền Bắc.

5- Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh (1970 - 1972). Ngày 6-3-1970, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 195-NQ/TW quyết định mở cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Mục đích chính của cuộc vận động là giáo dục, bồi dưỡng đảng viên, kết nạp đảng viên bảo đảm chất lượng, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng nhằm tăng cường sức chiến đấu, củng cố sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, làm cho Đảng luôn trong sạch và vững mạnh.

Từ việc Đảng lãnh đạo tiến hành các cuộc vận động, chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho công tác xây dựng Đảng về tư tưởng:

Một là, xây dựng Đảng về tư tưởng phải xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ chính trị.

Thời kỳ 1954 - 1975 là giai đoạn đầy khó khăn, thử thách trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, ở miền Bắc, các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng đều chú trọng đến việc xây dựng một hệ thống tố chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, vững mạnh, có tính kỷ luật cao; xây dựng các cấp ủy đảng đặc biệt chi bộ, đảng bộ cơ sở; tăng cường số lượng, chất lượng, tính chiến đấu cho đội ngũ đảng viên trở thành nòng cốt cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam… Cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961 diễn ra khi miền Bắc thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Lúc này, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên có nhiều diễn biến phức tạp, sự giác ngộ về chủ nghĩa xã hội còn yếu, tư tưởng tiểu tư sản còn nặng, còn có những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, tinh thần phấn đấu cách mạng bị giảm sút, ý thức tổ chức và quan điểm lao động chưa được đề cao tương xứng với tinh thần triệt để của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, Đảng xác định cần phải tiến hành cuộc chỉnh huấn lớn về công tác tư tưởng với mục đích làm cho tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng lao động phù hợp với yêu cầu phát triển của cách mạng và trở thành một lực lượng vật chất mạnh mẽ bảo đảm thi hành Nghị quyết Đại hội III của Đảng, hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước và thúc đẩy cách mạng phát triển lên những bước mới. Do đó, nội dung của cuộc chỉnh huấn tập trung vào xây dựng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động tinh thần làm chủ Nhà nước, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa; quan điểm phục vụ sản xuất; quan điểm cần, kiệm xây dựng Tổ quốc; quan điểm tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Từ năm 1965, tình hình ở Việt Nam có những thay đổi quan trọng, từ bối cảnh chiến tranh ở phạm vi một nửa quốc gia, đã lan rộng trên phạm vi cả nước. Nhiệm vụ chính trị của miền Bắc lúc này là tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại, tiếp tục thực hiện cao hơn nhiệm vụ là hậu phương lớn cho miền Nam. Nhưng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã xuất hiện tư tưởng ngại gian khổ, sợ hy sinh, thiếu cảnh giác cách mạng, tinh thần trách nhiệm và tính chủ động, sáng tạo trong công tác còn thấp. Trước tình hình đó, Đảng thực hiện cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965 gắn với “chuyển hướng tư tưởng” theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW của Trung ương Đảng. Sau chỉnh huấn, đại đa số các tổ chức của Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của miền Bắc vững vàng, kiên định về lập trường tư tưởng trong khói lửa của chiến tranh.

Như vậy, các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975 được thực hiện trên cơ sở bám sát các nhiệm vụ chính trị. Gắn với điều kiện thực tiễn và yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mà nội dung các cuộc chỉnh huấn luôn có sự linh hoạt, điều chỉnh. Điều này đã góp phần đưa miền Bắc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ miền Bắc và là hậu phương vững chắc để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hai là, xây dựng Đảng về tư tưởng phải gắn chặt với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tổ chức.

Xác định đúng mối quan hệ giữa xây dựng Đảng về tư tưởng với xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức, trong quá trình xây dựng Đảng về tư tưởng ở miền Bắc giai đoạn 1954 - 1975, Đảng luôn chú trọng sự gắn kết với xây dựng Đảng về tổ chức. Cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961 và mùa Xuân năm 1965 được triển khai sâu rộng với nội dung đẩy mạnh hoạt động bồi dưỡng lý luận Mác - Lê-nin và tư tưởng vô sản cho cán bộ, đảng viên. Quá trình này tác động tới công tác tổ chức, mà cụ thể là chất lượng các tổ chức đảng. Đơn cử, tại tỉnh Bắc Giang, sau cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961, chất lượng các chi bộ đều có sự chuyển biến, sau xếp loại, đã có có 26 chi bộ kém trở thành chi bộ trung bình, 4 chi bộ từ kém lên khá, 37 chi bộ từ trung bình lên khá. Tại Tổng cục Đường sắt, trong cuộc chỉnh huấn, đã tiến hành phân loại được 229 chi bộ, đạt tỷ lệ 60%; mặc dù tiêu chuẩn phân loại chi bộ quy định cao hơn trước nhưng số chi bộ khá và trung bình đều được tăng lên, số chi bộ kém qua mỗi kỳ phân loại thấp dần. Sau cuộc chỉnh huấn, số chi bộ khá chiếm 20%, chi bộ kém chỉ còn 4,3%. Sự vững mạnh của chi bộ đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở trong những năm sau này. 

Thực tiễn của cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở “bốn tốt” đã cho thấy sức gắn kết tự nhiên và cần thiết giữa nội dung, kết quả xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và xây dựng Đảng về tổ chức. Cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở “bốn tốt” đều nhằm vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và lấy đó là một tiêu chí quan trọng để đánh giá kết quả cuộc vận động. Quá trình chuyển biến của số đông chi bộ, đảng bộ cơ sở từ trung bình hoặc từ kém trở thành “bốn tốt” chính là quá trình tăng cường, chú trọng công tác tư tưởng, chính trị và kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, chính trị với công tác tổ chức. Năm 1965, kết quả xếp loại chi bộ ở khu vực nông thôn: Số chi bộ trung bình giảm từ 38,6% xuống còn 33,2%, số chi bộ kém giảm từ 9,8% xuống còn 8,5%; ở khu vực xí nghiệp, số chi bộ trung bình giảm từ 44,5% xuống còn 36,7%, số chi bộ kém giảm từ 3,1% xuống còn 2,2,%. Điều này cho thấy, việc làm tốt công tác tư tưởng, chính trị gắn với công tác tổ chức đã tạo nên nhiều chi bộ, đảng bộ cơ sở “bốn tốt”, nâng cao hơn tinh thần phấn đấu cách mạng, ý thức trách nhiệm, sự gương mẫu của người đảng viên, đồng thời góp phần củng cố, kiện toàn các chi bộ đảng.

Ba là, xây dựng Đảng về tư tưởng cần chú trọng đến nguyên tắc tự phê bình và phê bình.

Luôn coi trọng công tác tự phê bình và phê bình theo tinh thần “thật thà, tự nguyện, chân tình, xây dựng”, các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc Việt Nam (1954 - 1975) đã tạo ra không khí cởi mở, dân chủ, khách quan, phê bình đúng người, đúng việc để nhận xét, đánh giá, phân tích, đưa ra ưu điểm và khuyết điểm có lý, có tình. Mỗi cán bộ, đảng viên tiến hành kiểm thảo trên bốn mặt: Nhận thức nhiệm vụ cách mạng; quan điểm lập trường giai cấp; ý thức tư tưởng; tác phong công tác. Trong khi kiểm thảo, các cá nhân thực hiện tự phê bình và phê bình trên tinh thần khách quan, giúp đỡ, không có những hiện tượng phê phán sai trọng tâm hoặc phê phán chụp mũ. Tiến hành phê bình trên cơ sở công việc cụ thể của mỗi người, xác định ưu điểm, khuyết điểm chính và nguyên nhân, tránh lối nêu sự việc chung chung. Thái độ của người được phê bình khiêm tốn, dũng cảm nhận sai lầm và khuyết điểm để sửa chữa. Các cơ quan, đơn vị tiến hành tự phê bình và phê bình với tinh thần tự nguyện, tự giác, qua đó, những tư tưởng sai trái, tự mãn công thần, địa phương, cục bộ, tự do vô kỷ luật, quan liêu mệnh lệnh, ỷ lại, bảo thủ, thiếu trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên và quần chúng đã được phê phán sâu sắc. Trong cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961, các cán bộ, đảng viên đã nêu cao tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình, xem xét lại bản thân một cách nghiêm túc, thấy rõ những sai lầm để sửa chữa và ưu điểm để phát huy. Đơn cử, với tinh thần đó, các cơ quan, đơn vị tiến hành kiểm thảo đối với 114 đồng chí của Ban Dân tộc Trung ương. Kết quả: có 80 người tư tưởng suy bì đãi ngộ hưởng thụ, 66 người không yên tâm công tác, 68 người kém đấu tranh nội bộ, 54 người kém tinh thần trách nhiệm, 52 người hoài nghi thiếu tin tưởng ở cán bộ lãnh đạo, 47 người cầu an, ngại khó ngại khổ, 47 người tư tưởng rụt rè, 51 người quan liêu đại khái, 68 người phô trương hình thức, 32 người tư tưởng bảo thủ, 16 người tư tưởng dân tộc lớn, tư tưởng dân tộc địa phương…

Trong cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh (1970 - 1972), tại Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, với tinh thần tự phê bình và phê bình cao, chỉ ra những khuyết điểm và đưa ra cách thức sửa chữa cho mỗi đảng viên, nên sau một thời gian đã đưa tỷ lệ đảng viên tốt tăng từ 51% năm 1969 lên 68,6% năm 1972. Với việc thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình trong chỉnh huấn, tư tưởng của mọi người có nhiều biến chuyển, nhiệt tình cách mạng và ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân được nâng lên, đoàn kết nội bộ được củng cố, sức chiến đấu của tổ chức đảng được tăng cường. Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên càng nhận rõ trách nhiệm của mình trước tình hình, nhiệm vụ mới, thấy rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần tập thể, quyết tâm phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh vực công tác để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới của cách mạng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp có những chuyển biến tốt, nỗ lực phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững được vai trò, vị trí tiền phong gương mẫu, ngày càng nâng cao được năng lực, trình độ tổ chức lãnh đạo quần chúng thực hiện nhiệm vụ cách mạng.

Chi bộ Đại diện Văn phòng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức về nguồn và kết nạp đảng viên mới tại Di tích lịch sử chiến khu Rừng Sác Cần Giờ_Nguồn: baovephapluat.vn

Vận dụng vào công tác xây dựng Đảng về tư tưởng trong giai đoạn hiện nay

Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xem đây là nhiệm vụ then chốt, quyết định sức mạnh, uy tín của Đảng. Trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến tích cực. Bản chất, lập trường giai cấp công nhân của Đảng được giữ vững, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và người đứng đầu các cấp từng bước được nâng lên. Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và trong nước đang có những diễn biến phức tạp, nổi bật là những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tình trạng tham nhũng, tiêu cực diễn biến phức tạp… Do đó, nhìn từ những kinh nghiệm cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975, để góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng về tư tưởng trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp:

Thứ nhất, tiếp tục chú trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, bám sát nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng. Trong mọi thời kỳ, công tác tư tưởng của Đảng luôn bám sát nhiệm vụ chính trị. Với giai đoạn hiện nay, điều này lại càng cần thiết. Toàn Đảng, toàn quân và nhân dân đang thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, công tác tư tưởng phải gắn bó mật thiết và phục vụ hiệu quả mục tiêu trên. Xây dựng Đảng về tư tưởng cần được triển khai đồng bộ, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên luôn có tư tưởng cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến công. Đó là kiên định vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Xây dựng Đảng về tư tưởng còn là sự chủ động trong đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Để làm được điều đó, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đặt ra yêu cầu với mỗi cán bộ, đảng viên ý thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, luôn có tinh thần trau dồi, nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Thứ hai, xây dựng Đảng về tư tưởng luôn gắn liền với xây dựng Đảng về chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng với xây dựng Đảng về chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, gắn bó mật thiết. Bởi vậy, Đảng luôn chú trọng đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện trên tất cả các mặt. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng về tư tưởng sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Quá trình này cũng góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của tổ chức đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về mọi mặt trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Thứ ba, tiếp tục chú trọng nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Để làm tốt công tác tư tưởng, đẩy lùi những suy thoái về tư tưởng, tránh tình trạng mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, cần chú trọng nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Bởi lẽ, thông qua công tác tự phê bình và phê bình là để “thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động” trong Đảng. Tự phê bình và phê bình chính là một cuộc “đấu tranh” trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Việc tự phê bình và phê bình phải được tiến hành kiên quyết, triệt để, thường xuyên trên cơ sở của tình yêu thương đồng chí, để cho đồng chí mình tiến bộ hơn, tốt hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Trong giai đoạn hiện nay, cần đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tự phê bình và phê bình gắn với nhận diện sớm những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Từ đó, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ của một đảng duy nhất cầm quyền./.

ST.

Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở gắn với phát huy dân chủ trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, góp phần nâng cao chất lượng đời sống người nông dân hiện nay

Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở gắn với phát huy dân chủ là nhiệm vụ chính trị căn bản được thể hiện nhất quán trong hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng; bảo đảm sự tương thích, tính ưu việt của nền chính trị Việt Nam trước yêu cầu của thực tiễn. Trong bối cảnh, tình hình mới, cần có những giải pháp đột phá, toàn diện nhằm phát huy dân chủ ở cơ sở gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, từ đó, nâng cao chất lượng đời sống người nông dân một cách thực chất, vững bền.

Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở gắn với phát huy dân chủ - nền tảng của những thắng lợi vẻ vang

Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm các thiết chế chính trị như tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân (được tổ chức và hoạt động trên địa bàn các xã, phường, thị trấn dựa trên những nguyên tắc nhất định); thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân tại cơ sở; có “vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư”. Việc phát huy dân chủ ở khu vực nông thôn (các thôn, xóm, buôn, làng,...) gắn chặt với công tác xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, cụ thể là cấp xã, nơi chính quyền nằm ngay trong lòng dân (cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị 4 cấp (cùng với cấp huyện, tỉnh và Trung ương) và là hạt nhân của chế độ chính trị cũng như đời sống xã hội; nơi diễn ra cuộc sống của dân, “chính quyền và các đoàn thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân cư để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình”.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan và Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái Đỗ Đức Duy thăm vùng chè cổ thụ Suối Giàng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái_Nguồn: baodantoc.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”. Thực tế, hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp chính quyền gần dân nhất, trực tiếp thực hiện giải quyết và bảo đảm việc phát huy quyền làm chủ, lợi ích hợp pháp của nhân dân; tổ chức hành động, thực hiện nhiệm vụ nhằm đưa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, gắn kết giữa “ý Đảng” với “lòng dân”; tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Do đó, cấp xã là địa chỉ cuối cùng kiểm nghiệm, khẳng định sự thành công của những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Những năm đầu xây dựng chế độ mới, trong sự chuyển mình của một dân tộc từ địa vị nô lệ, thuộc địa trở thành một nước độc lập, tự do, dân chủ, hệ thống chính trị ở cơ sở dù còn non trẻ song sớm được củng cố bởi tinh thần đoàn kết, đồng lòng trong cộng đồng ở những thời khắc quan trọng, quyết định vận mệnh của đất nước..., qua đó, dần định hình giá trị của con người mới xã hội chủ nghĩa (những quyền căn bản của cá nhân cũng như quyền độc lập và tự quyết của dân tộc được khẳng định, bảo vệ). Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hệ thống chính trị ở cơ sở tiếp tục được củng cố và kiện toàn, huy động tối đa sức người, sức của cho tiền tuyến, cho chiến thắng, góp phần hoàn thành hai nhiệm vụ lịch sử là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đồng thời, chứng minh sự đóng góp to lớn và ý chí quật cường, kiên định của nông dân, là “lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thực sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân”. Những năm đầu thời kỳ hòa bình, ổn định, toàn dân xây dựng đất nước, với xuất phát điểm là nền nông nghiệp truyền thống, mới bước vào giai đoạn đổi mới, hệ thống chính trị ở cơ sở là nơi trực tiếp tiếp nhận sự thay đổi, chuyển giao những yêu cầu, đòi hỏi cấp bách đặt ra từ thực tiễn cuộc sống; nhiều thành tựu trong quá trình đổi mới (trước hết là tư duy mới về phát triển kinh tế, cơ chế khoán sản phẩm đến hộ gia đình trong hợp tác xã nông nghiệp…) chủ yếu xuất phát từ quá trình nông dân tìm tòi, sáng tạo cách làm ăn mới. Có thể thấy, hệ thống chính trị đã được xây dựng phù hợp, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn đất nước ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trình độ khoa học - kỹ thuật phát triển vượt bậc (đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay), khoa học - công nghệ đã trở thành yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn và là cơ hội lớn để nông dân tham gia chủ động, sáng tạo vào chu trình sản xuất, quản lý. Do đó, thực hiện mục tiêu “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh” là nhu cầu cấp bách đối với hệ thống chính trị ở cơ sở cũng như với người nông dân và vai trò chủ thể của người dân cần được phát huy hơn bao giờ hết.

Sức sáng tạo không giới hạn của người nông dân được kết tinh trong quá trình lao động sản xuất và thông qua việc phát huy dân chủ, củng cố hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn trong điều kiện mới; nhiều sáng tạo của người dân rất có giá trị, như: máy gieo hạt tự động năng suất gấp 40 lần so với 1 người, máy nông nghiệp đa năng, phương thức canh tác mới, áp dụng các công nghệ thông minh (công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ rô-bốt và tự động hóa, công nghệ sinh học, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI)) trong sản xuất nông nghiệp; các phương thức, mô hình phát triển sản xuất mới, như: mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng (tỉnh Lâm Đồng), mô hình du lịch nông nghiệp (tỉnh Gia Lai), mô hình nông nghiệp sa mạc (tỉnh Bình Thuận), mô hình chuỗi giá trị nông nghiệp (tỉnh Quảng Ngãi),...

Việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở chỉ thành công khi thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tuy nhiên, bài học kinh nghiệm đó có lúc, có nơi vẫn chưa được nhận thức và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, thay vào đó là lối tư duy xa rời quần chúng, chủ quan, duy ý chí, chưa thực sự xuất phát từ lợi ích của người dân…, thậm chí, có những bức xúc của người dân không được xử lý kịp thời từ cơ sở. Một số chính sách, quyết định được ban hành còn mang nặng tính chủ quan, xa rời thực tiễn, chưa đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở cần đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn và sâu sát thực tiễn; dựa trên sự giám sát có hiệu quả, thực chất của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị và đánh giá đối với phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Một số khó khăn, thách thức trong bối cảnh mới

Ngoài những đặc điểm chung, hệ thống chính trị ở cơ sở còn bị chi phối bởi các yếu tố mang tính đặc thù về lịch sử, văn hóa, địa lý… (sự đa dạng giữa các vùng, miền từ vùng núi, trung du, đồng bằng, hải đảo...; mật độ, quy mô dân số, diện tích, đất đai, phương thức canh tác khác nhau, trình độ kinh tế, đời sống văn hóa, hạ tầng kỹ thuật, tính chất cộng đồng dân cư, dân tộc, tín ngưỡng - tôn giáo, phong tục, tập quán các địa phương khu vực nông thôn...), gây nhiều khó khăn trong hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Những mối đe dọa an ninh truyền thống hay phi truyền thống (tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội ở vùng nông thôn có những diến biến phức tạp, dịch bệnh, thiên tai, sự đình trệ của các chuỗi cung ứng  hàng hóa…) khiến việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cũng như phát huy dân chủ ở cơ sở phải đối mặt với nhiều thách thức:

Thứ nhất, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, tác động mạnh mẽ đến chiến lược quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp trong hoạt động xây dựng và phát triển đô thị, khiến một bộ phận người nông dân rơi vào tình trạng thiếu đất sản xuất. Nhiều doanh nghiệp nông nghiệp áp dụng thành tựu khoa học - công nghệ, khiến phương thức canh tác nông nghiệp truyền thống dần mất lợi thế cạnh tranh, người làm nông rơi vào cảnh bị thua thiệt, phải làm thuê trên chính mảnh đất của mình. Việc bị lệ thuộc về tư liệu sản xuất dẫn đến hạn chế ít nhiều việc thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của người nông dân. Sự xuất hiện của “nhóm lợi ích” trong nông nghiệp, nông thôn (thể hiện ở các lợi ích kinh tế thiếu lành mạnh, mối quan hệ chằng chéo trong hệ thống dòng tộc làng, xã và văn hóa nông thôn Việt Nam), càng khiến tình trạng bất bình đẳng, thiếu dân chủ dễ phát sinh, ảnh hưởng tiêu cực tới lợi ích của người dân, uy tín, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, điều hành của hệ thống chính trị và tư cách, phẩm chất của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.

Thứ hai, sự dịch chuyển lao động từ nông thôn đến các thành phố (nơi có nhiều nhà máy, khu công nghiệp, cơ hội việc làm,...) gắn với quá trình công nghiệp hóa khiến vùng nông thôn chỉ còn chủ yếu là người già, người có kiến thức và kỹ năng lao động nông nghiệp thấp. Thực trạng đó không chỉ gây thiếu hụt lao động nông nghiệp, mà còn gây khó khăn trong việc tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho hệ thống chính trị cơ sở. Ngoài ra, nhiều nguồn lực trong nông nghiệp chưa được khai thác triệt để, tình trạng hoang phí tài nguyên trong nông nghiệp, nông thôn vẫn diễn ra phổ biến.

Thứ ba, việc thiếu vốn, trình độ khoa học - công nghệ hạn chế, chậm áp dụng những phương thức kinh doanh mới; năng lực đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng có giới hạn; sử dụng các phương thức vận tải và bảo quản hiện đại còn hạn chế… cũng là những thử thách, khó khăn không nhỏ đối với người nông dân Việt Nam, từ đó ít nhiều ảnh hưởng tới hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, điều hành của hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn hiện nay.

Cán bộ khuyến nông huyện Kbang, tỉnh Gia Lai hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cây trồng cho đồng bào dân tộc thiểu số_ Nguồn: baogialai.com.vn

Những nhiệm vụ, giải pháp trong tình hình mới

Bối cảnh mới tất yếu đặt ra những yêu cầu mới trong xây dựng, củng cố hệ thống chính trị gắn với phát huy dân chủ ở cơ sở, phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống người nông dân, theo đó, cần thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp:

Thứ nhất, đổi mới, nâng cao nhận thức về các mục tiêu cụ thể trong phát huy dân chủ cơ sở gắn với xây dựng nông thôn mới.

Cần xác định những vấn đề cụ thể trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”.

Về nông nghiệp sinh thái: Việc xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái sẽ bảo đảm vấn đề an ninh lương thực, bảo vệ môi trường, tôn trọng sự bền vững của hệ sinh thái và có định hướng rõ ràng trong xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Hiện nay, việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu là tất yếu, khách quan; cần bảo đảm những tiêu chí của sản phẩm nông nghiệp sạch, tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường… trong quá trình nâng cấp thương hiệu nông nghiệp.

Về nông thôn hiện đại: Cùng với quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, cần nhanh chóng thực hiện việc rút ngắn khoảng cách, trình độ phát triển giữa đô thị và nông thôn, thiết lập tính công bằng giữa các vùng, các đối tượng ngành, nghề và sự bình đẳng, ổn định xã hội nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Nông thôn hiện đại gắn với việc bảo tồn các yếu tố truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Nông thôn hiện đại còn là sự đô thị hóa những phương thức sinh hoạt ở nông thôn, qua đó giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và việc tiếp cận khoa học - công nghệ hiện đại của người dân trở nên dễ dàng hơn.

Về nông dân văn minh: Mọi sự phát triển đều vì con người, trình độ phát triển được thể hiện qua văn minh vật chất, tinh thần của người nông dân; mức độ đóng góp vào sự phát triển xã hội; sự tiện nghị, chất lượng đời sống ở nông thôn. Ngoài ra, mục tiêu nông dân văn minh còn thể hiện ở trình độ nhận thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường, xã hội và sẵn sàng tiếp nhận thành quả của quá trình toàn cầu hóa, hiện đại hóa.

Thứ hai, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả.

Để hệ thống chính trị ở cơ sở vận hành hiệu quả, cần phát huy thực chất dân chủ ở cơ sở, để thực sự "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước” và “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.

Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở thông qua việc vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên vào điều kiện cụ thể của địa phương một cách phù hợpvận động, thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở hiệu quả; thực hành dân chủ trong tổ chức đảng làm hạt nhân mở rộng dân chủ ra xã hội... Xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở thạo việc, liêm chính, phục vụ, chú trọng việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành, tạo thuận lợi cho người dân; nghiêm túc thực hiện việc công khai, minh bạch, cung cấp thông tin, đối thoại và trách nhiệm giải trình trước nhân dân theo quy định. Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở một cách thực chất; xây dựng quy chế phối hợp của Mặt trận Tổ quốc với chính quyền cơ sở; nâng cao năng lực của các tổ chức tự quản trên địa bàn dân cư, phát huy vai trò giám sát của cộng đồng trong việc thực hiện các kế hoạch phát triển ở địa phương, cơ sở...

Thứ ba, không ngừng nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.

Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở là quá trình lan tỏa những mục tiêu cao đẹp “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đến từng người dân, nên quá trình phổ biến giá trị phải thực sự mang lại niềm cảm hứng, tính hiệu quả, gần gũi với đời sống nhân dân; do đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ có tâm, có tầm và tinh thần cách mạng để dân tin yêu.

Xuất phát từ vai trò then chốt của cấp cơ sở trong hệ thống chính trị ở nông thôn nên đòi hỏi người cán bộ ở cơ sở phải có trình độ và năng lực tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Thực tiễn cho thấy, nơi nào có đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở vững mạnh thì ở đó tình hình chính trị - xã hội ổn định; kinh tế, văn hóa phát triển; quốc phòng, an ninh được giữ vững và ngược lại. Do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở cơ sở nhằm nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, chất lượng và hiệu quả công việc trong tình hình mới là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng, then chốt.

Thứ tư, tăng cường phát huy dân chủ ở khu vực nông thôn trong xây dựng nông thôn mới.

Xây dựng nông thôn mới là quá trình nhằm tạo ra động lực và mở ra cơ hội cho nông thôn phát triển; nhu cầu ấy phải được xuất phát từ tư duy mới của Đảng, được thấm nhuần trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị nông thôn, thể hiện ở vai trò đi đầu, dẫn dắt của cán bộ, đảng viên; xuất phát từ nền tảng thực tiễn của phát triển nông thôn, của quá trình xây dựng nông thôn mới từ mọi vùng, miền. Đích đến phải là mức sống, điều kiện sống và làm việc của cư dân trong cả nước phải công bằng trong sự đa dạng và tiếp nối với truyền thống dân tộc(7).

Tổ chức thực hiện hiệu quả Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 4, ngày 10-11-2022, nhất là đối với việc xây dựng nông thôn mới. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, sự tinh gọn của bộ máy và hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo, quản lý được thể hiện một phần quan trọng qua năng lực tiếp nhận, xử lý công việc và truyền đạt thông tin của đội ngũ cán bộ cơ sở, sự kết nối thông suốt giữa các bộ phận của hệ thống chính trị nông thôn trên cơ sở thấu hiểu, vận dụng các phương pháp lãnh đạo và quản trị hiện đại hơn, thể hiện sự thích ứng cao độ với những đổi thay nhanh chóng của thực tiễn, phù hợp với tiêu chí “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”./.

Nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, quyết định sự thành công của từng nghị quyết nói riêng, uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng nói chung. Nghị quyết đi vào cuộc sống là minh chứng sinh động thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng đều là của dân, do dân, vì dân; nhờ vậy, dân hiểu Đảng, tin Đảng, theo Đảng. Trong bối cảnh chuyển đổi số, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, việc tuyên truyền nghị quyết của Đảng nói riêng, truyền thông chính sách nói chung cần những sự thay đổi phù hợp, hiệu quả.

Chuyển đổi số và ý chí, khát vọng phát triển đất nước

Những năm gần đây, khái niệm chuyển đổi số dần trở nên quen thuộc với người dân trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Chuyển đổi số không chỉ là khẩu hiệu, sự hô hào hay lý thuyết trừu tượng mà ngày càng thâm nhập, ăn sâu vào đời sống người dân, trên hầu khắp các lĩnh vực. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 hoành hành, chuyển đổi số như được tiếp thêm động lực để phát triển mạnh mẽ, rộng khắp hơn, ở các cấp độ khác nhau, từ người dân đến từng đơn vị, ngành, nghề và cả quy mô quốc gia. Tại Việt Nam, xu hướng chuyển đổi số được đẩy mạnh trong bộ máy nhà nước. Chính phủ và chính quyền các cấp đang nỗ lực xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Hơn 30 thành phố đã, đang và có dự định xây dựng thành phố thông minh (Smart City) với các nền tảng công nghệ mới. Nhiều hội thảo, hội nghị được tổ chức trực tuyến, thu hút đông đảo người tham gia, mang lại hiệu quả rõ rệt.

Trước hết, cần điểm qua những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về chuyển đổi số. Trong Văn kiện Đại hội XIII, ý chí, khát vọng phát triển đất nước được thể hiện đậm nét, biểu hiện bằng những chỉ tiêu, mục đích, cột mốc cụ thể: Đến năm 2025, nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đặc biệt, có những khái niệm lần đầu tiên được đề cập, đó là: Chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số, với nội hàm rõ ràng, nhấn mạnh nhiều lần.

Đề cập định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”; “Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”…

Trong khi đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, ngay tên chủ đề đã thể hiện nội dung chuyển đổi số, cụ thể là: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển thu nhập cao”. Chiến lược đưa ra 5 quan điểm phát triển, trong đó có 2 quan điểm nhấn mạnh về chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Quan điểm 1 xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Quan điểm 2 yêu cầu: “Hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới”.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, trên mọi lĩnh vực, chuyển đổi số là phương thức quan trọng để thực hiện ý chí, khát vọng phát triển đất nước trong thời gian tới. Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay là yêu cầu bức thiết, là chủ trương nhất quán, được thể hiện mạnh mẽ, với quyết tâm chính trị cao, trên cơ sở khoa học, phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Chuyển đổi số không chỉ là xu hướng, mà đã trở thành yêu cầu tất yếu khách quan đối với mỗi quốc gia. Để có thể tiến hành thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số ở nước ta hiện nay, việc truyền thông chính sách trong bối cảnh chuyển đổi số theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là một trong những bước đi đầu tiên, đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.

Hình thức mới và hiệu ứng tích cực

Truyền thông chính sách, trước hết và rất quan trọng là việc tuyên truyền nghị quyết của Đảng, nhằm đưa nghị quyết của Đảng đến với nhân dân, đi vào cuộc sống. Trong bối cảnh mới, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong tuyên truyền, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng vào cuộc sống là đòi hỏi tất yếu. Dấu mốc không thể không nhắc đến đó là lần đầu tiên, Đảng ta triển khai học tập, quán triệt nghị quyết theo hình thức mới: Trong 2 ngày 27 và 28-3-2021, Bộ Chính trị chủ trì tổ chức hội nghị theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII, với 67 điểm cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và hơn 7.400 điểm cầu cơ sở, với sự tham dự của gần 1 triệu đảng viên. Tiếp đó, Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Hội nghị tổng kết công tác Mặt trận Tổ quốc toàn quốc và việc quán triệt nghị quyết các Hội nghị Trung ương khóa XIII, các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển vùng cũng diễn ra theo hình thức kết hợp trực tiếp và trực tuyến.

Năm 2022, trong hai ngày 21 và 22-7, ngày 5 và 6-12, Bộ Chính trị tổ chức Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, 6 khóa XIII bằng hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến nối điểm cầu Trung ương tại Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội (thành phố Hà Nội) và hơn 11.600 điểm cầu cấp huyện, cấp xã trên toàn quốc với hơn 1 triệu cán bộ, đảng viên tham gia nghiên cứu, học tập.

Những hội nghị học tập, quán triệt, triển khai nghị quyết trên cho thấy, nhiều sự chuyển biến tích cực, hiệu quả rõ rệt khi lần đầu tiên rất nhiều cán bộ, đảng viên được nghe các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng truyền đạt nghị quyết một cách trực tiếp mà không phải thông qua các cấp trung gian. Những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, những điểm chính yếu, quan trọng của mỗi nghị quyết,… đều được truyền đạt một cách trực tiếp, nhanh chóng, đầy đủ, chính xác nhất. Điều này được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân trên cả nước hết sức đồng tình, ủng hộ, vui mừng, đồng thuận, hy vọng vào sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với bối cảnh mới, nhằm tối ưu hóa việc tổ chức thực hiện nghị quyết, đồng thời góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với việc tiếp tục xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” như Hiến pháp năm 2013 xác định.

Những buổi học tập, quán triệt, triển khai nghị quyết của Đảng theo hình thức trực tuyến đã trở thành những đợt sinh hoạt chính trị quan trọng ngày càng đi vào nền nếp của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Sự chuyển biến, thay đổi phương thức học tập nghị quyết trong bối cảnh chuyển đổi số đã thể hiện đúng tinh thần nội dung Chỉ thị số 01-CT/TW, ngày 9-3-2021, của Bộ Chính trị, tổ chức thật tốt việc quán triệt, học tập, nghiên cứu nghị quyết của Đảng là để “tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, sự đồng thuận cao trong nhân dân”.

Không chỉ giúp nâng cao hiệu quả tuyên truyền về nội dung các nghị quyết nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ, chính xác, mà việc tổ chức tuyên truyền, nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bằng hình thức trực tiếp kết hợp với trực tuyến còn tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức, tiền bạc, khi cắt giảm được nhiều hội nghị ở các cấp trung gian khác nhau. Tất nhiên, muốn nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, tạo những bước chuyển biến tích cực, những “cú huých” trong phát triển ở từng bộ, ngành, địa phương, còn cần sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện của từng nơi, sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong học tập, quán triệt, thực hiện nghị quyết với các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, sát hợp, khoa học, có trọng tâm, trọng điểm, mang tính khả thi cao.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, việc tuyên truyền nghị quyết của Đảng nói riêng, truyền thông chính sách nói chung cần những sự thay đổi phù hợp, hiệu quả (Trong ảnh: Các đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng sử dụng thiết bị điện tử để nghiên cứu các nội dung của kỳ họp)_Ảnh: TTXVN

Tiếp tục nâng cao hiệu quả học tập, nghiên cứu, quán triệt, triển khai nghị quyết của Đảng

Kể từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII, việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai nghị quyết của Đảng trong bối cảnh chuyển đổi số đã cho thấy sự đổi thay và những hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, để tiếp tục nâng cao hiệu quả học tập, nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, cần lưu ý một số vấn đề sau.

Thứ nhất, cần có các giải pháp kỹ thuật để thông tin được bảo mật an toàn, không để lộ lọt thông tin quan trọng ra ngoài những đối tượng được truyền đạt, tránh gây ra những hậu quả không mong muốn, nhất là khi các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị dựa vào đó để cắt xén một phần rồi xuyên tạc, bóp méo, thổi phồng nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta. Bên cạnh đó, cần bảo đảm tính liên tục, thông suốt, chất lượng của đường truyền kết nối giữa các điểm cầu với điểm cầu trung tâm ở Trung ương, để các đại biểu dù ở điểm cầu nào cũng có thể nghe được trọn vẹn các nội dung từ báo cáo viên cao cấp trình bày.

Thứ hai, các cấp ủy cần có biện pháp quán triệt nghiêm túc, hiệu quả tới tất cả các đối tượng tham dự hội nghị học tập, nghiên cứu, quán triệt, triển khai nghị quyết, để việc tham dự đạt chất lượng, hiệu quả. Theo đó, các nội dung chính của nghị quyết cần phải được đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm vững một cách chủ động, chất lượng, thiết thực, hiệu quả để tiếp tục tuyên truyền, quán triệt, triển khai tới các cấp, trong đơn vị và vận dụng trực tiếp vào công việc mà mình đảm nhiệm. Đồng thời, cần lấy kết quả học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết là cơ sở để kiểm điểm, đánh giá tập thể cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên hằng năm, cả nhiệm kỳ.

Thứ ba, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần nêu gương, thể hiện vai trò, trách nhiệm trong việc tiếp thu, quán triệt, triển khai nghị quyết một cách phù hợp, sáng tạo, linh hoạt tại cơ quan, đơn vị, địa phương, ngành mình. Các cấp ủy cần bám sát quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của nghị quyết để triển khai một cách chủ động, có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, thiết thực, hiệu quả, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, tình hình của địa phương, cơ quan, đơn vị… Việc triển khai xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cần chú trọng giải quyết các nhiệm vụ trọng yếu, những vấn đề bức xúc, còn vướng mắc, những khâu đột phá tại cơ quan, đơn vị.

Thứ tư, sau mỗi hội nghị học tập, nghiên cứu, quán triệt, triển khai nghị quyết, cần tiếp tục tuyên truyền sâu rộng, kịp thời trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua các hình thức, phương tiện tuyên truyền khác, như tọa đàm, hội thảo, hội nghị…, nhất là đối với các vấn đề quan trọng, cơ bản, cốt lõi, những điểm mới của nghị quyết, để mỗi cán bộ, đảng viên đều có thể nắm bắt được, qua đó xây dựng các chương trình hành động, kế hoạch thực hiện hợp lý, khả thi, hiệu quả. Đồng thời, cần sáng tạo, linh hoạt, tận dụng tối đa sự tiện lợi, sức mạnh của cuộc cách mạng số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết thông qua các nền tảng truyền thông khác nhau, với những hình thức phù hợp, hiệu quả.

Thứ năm, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tuyên truyền, quán triệt, triển khai nghị quyết, qua đó kịp thời phát hiện những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm để khắc phục, bổ sung nhiệm vụ, giải pháp sát hợp; đồng thời, có hình thức biểu dương những đơn vị, cá nhân thực hiện tốt; phê bình, xử lý những tập thể, cá nhân vi phạm. Cần phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát, phản biện, góp ý của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, sao cho nghị quyết được cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đạt hiệu quả ở các cấp ủy, tổ chức đảng, giải quyết khâu yếu nhất và chậm được khắc phục lâu nay đó là nghị quyết thì đúng, trúng, hay, nhưng chậm đi vào cuộc sống./.

ST.

Phát triển nguồn nhân lực của các hợp tác xã ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay

Để kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã khẳng định được vai trò và có đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương, đất nước, vấn đề phát triển nguồn nhân lực cần được đặc biệt quan tâm và coi đây là điều kiện tiên quyết đối với sự phát triển của hợp tác xã, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay.

Những kết quả đạt được

Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong những năm qua đã đạt được những kết quả nổi bật, cụ thể là:

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi được Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện. Trên cơ sở Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 18-3-2002, của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, định kỳ 5 năm, 10 năm, 15 năm, Bộ Chính trị đều chỉ đạo tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW và ban hành kết luận đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, trong đó có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của các hợp tác xã. Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16-6-2022, “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới”. Quốc hội tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã cho phù hợp tình hình mới. Các bộ, ngành, địa phương theo chức năng tham mưu, ban hành các văn bản để tổ chức thực hiện nhằm đạt hiệu quả cao. Theo đó, giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2021, có hơn 162.093 lượt cán bộ, thành viên hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng (trong đó có hơn 12.816 cán bộ hợp tác xã được hỗ trợ đào tạo trình độ từ sơ cấp đến đại học). Số lượt người được tham gia đào tạo và bồi dưỡng có xu hướng ngày càng tăng dần qua các năm.

Chị Vì Thị Oanh (áo xanh), Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã dệt thổ cẩm và dịch vụ du lịch Chiềng Châu, huyện Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) hướng dẫn kỹ thuật dệt thổ cẩm cho hội viên_Ảnh: TTXVN

Cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng từng bước được hoàn thiện và đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tập trung vào các chính sách về tài chính trong đào tạo, bồi dưỡng, như: Hỗ trợ tiền vé đi lại; kinh phí mua tài liệu; chi phí tổ chức, quản lý lớp học; thuê hội trường; thù lao giảng viên, kinh phí tham quan, khảo sát thực tế... Cùng với đó, một số địa phương xây dựng kế hoạch triển khai thí điểm chính sách thu hút cán bộ trẻ về công tác tại hợp tác xã, như: Miễn học phí cho sinh viên đại học theo các ngành kinh tế, kỹ thuật với điều kiện ra trường về làm việc cho các hợp tác xã tối thiểu 5 năm; hỗ trợ học phí cho cán bộ, thành viên, con em thành viên của hợp tác xã được cử đi học đại học, cao đẳng có cam kết về phục vụ cho hợp tác xã tối thiểu 5 năm. Một số nơi có chính sách hỗ trợ lương cho cán bộ trẻ có trình độ về làm việc cho hợp tác xã trong thời hạn từ 3 - 5 năm…

Đối tượng, nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngày càng được mở rộng, phong phú và thiết thực. Đối tượng bồi dưỡng bao gồm cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã ở các địa phương và các chức danh cán bộ chủ chốt của hợp tác xã, thành viên làm công việc chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ của các hợp tác xã. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng khá đa dạng, đáp ứng được một phần yêu cầu tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã, được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương, như: hướng dẫn nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về hợp tác xã, các văn bản pháp luật liên quan, các vấn đề về tài chính, kế toán, tổ chức quản lý hợp tác xã, hướng dẫn xây dựng kế hoạch, phương án sản xuất, kinh doanh... Hình thức đào tạo, bồi dưỡng tập trung vào tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cấp chứng chỉ, đến các hội thảo, hội nghị, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, học tập kết hợp tham quan mô hình thực tế. Phương pháp bồi dưỡng linh hoạt, lý luận đi đôi với thực tiễn, gắn thực hành, hướng dẫn trực quan, “cầm tay chỉ việc” để đem lại hiệu quả cao nhất.

Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã và cán bộ, thành viên trong các hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi ngày càng được nâng lên. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng góp phần giúp cho đội ngũ cán bộ chuyên trách nâng cao trình độ, kiến thức về loại hình kinh tế tập thể, hợp tác xã, đáp ứng ngày càng tốt hơn công tác quản lý nhà nước về hợp tác xã. Tỷ lệ cán bộ quản lý hợp tác xã có trình độ cao ngày càng tăng. Công tác tổ chức, điều hành hợp tác xã được cải thiện, từng bước kinh doanh hiệu quả, nâng cao chất lượng hợp tác xã yếu kém, trung bình, tăng số lượng hợp tác xã khá, giỏi, với mô hình đa dạng, ngành nghề kinh doanh phù hợp, đáp ứng nhu cầu thị trường.

Hệ thống giáo dục vùng dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục được củng cố, mở rộng, nhất là các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học dân tộc; chất lượng giáo dục của các trường phổ thông dân tộc nội trú được nâng lên. Đến nay, có 99,5% số xã có trường tiểu học; 93,2% số xã có trường trung học cơ sở; 12,9% số xã có trường trung học phổ thông và 96,6% số xã có trường mẫu giáo/mầm non; 100% số xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Loại hình trường nội trú, bán trú đang phát triển, hiện nay, cả nước có 294 trường phổ thông dân tộc nội trú với 80.832 học sinh; 4 trường dự bị đại học với trên 3.000 học sinh/năm. Tất cả các tỉnh vùng dân tộc và miền núi đều có trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong những năm qua vẫn còn một số hạn chế, bất cập:

Số lượng cán bộ, thành viên hợp tác xã được đào tạo, bồi dưỡng còn chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 5,3%) so với cả nước, trong khi nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã và thành viên hợp tác xã chưa được tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên còn rất lớn. Kinh phí cho các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng mặc dù đã được quan tâm nhưng vẫn còn hạn chế so với nhu cầu thực tế.

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng thường nặng về lý thuyết, ít nội dung về kinh nghiệm thực tiễn của các hợp tác xã. Đội ngũ giảng viên chưa thực sự chuyên nghiệp, phần lớn là cán bộ kiêm nhiệm, thiếu hệ thống đào tạo chính quy, bài bản, thống nhất trong cả nước.

Trình độ của không ít cán bộ quản lý hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn thấp, năng lực quản trị, điều hành còn hạn chế, thiếu nhạy bén với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, thị trường, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Năng lực tham mưu, tổng hợp, chỉ đạo, hướng dẫn của một số cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Lao động trong khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã là người dân tộc thiểu số được đào tạo nghề chưa nhiều, chỉ chiếm trên 14% trong tổng số người dân tộc thiểu số trong độ tuổi lao động; đa số người dân tộc thiểu số mới tham gia học nghề ngắn hạn, số lao động là người dân tộc thiểu số học nghề trình độ trung cấp, cao đẳng nghề rất thấp (chủ yếu tham gia các lớp ngắn hạn dưới 3 tháng và tập trung vào nghề nông nghiệp).

Nhiều lao động người dân tộc thiểu số được đào tạo nhưng không có việc làm hoặc làm những công việc không phù hợp với ngành nghề được đào tạo; lao động học nghề phi nông nghiệp khó có điều kiện áp dụng kiến thức, kỹ thuật vào sản xuất, số lao động người dân tộc thiểu số chuyển đổi từ nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ sau học nghề còn hạn chế.

Ngoài chính sách chung đối với giáo viên vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, đến nay vẫn chưa có chính sách riêng cho giáo viên dạy nghề ở các trường, trung tâm dạy nghề cho người dân tộc thiểu số và giáo viên dạy nghề là người dân tộc thiểu số. Giáo viên trường dạy nghề chưa được hưởng chế độ chính sách như hệ thống các trường chuyên biệt. Các địa phương chưa chú trọng để đào tạo giáo viên dạy nghề là người dân tộc thiểu số.

Đào tạo nghề điện công nghiệp ở Trường Trung cấp Dân tộc nội trú tỉnh Thái Nguyên_Ảnh: TTXVN

Các cơ sở đào tạo nghề vẫn còn những chương trình đào tạo nghề chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Công tác tuyên truyền và định hướng nghề nghiệp và hỗ trợ học viên có việc làm sau đào tạo chưa thực sự có hiệu quả. Việc đầu tư nâng cao năng lực và tăng thu nhập cho giảng viên dạy nghề còn hạn chế.

Những hạn chế nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những nguyên nhân đến từ công tác quản lý nhà nước và từ phía người dân.

Từ phía công tác quản lý nhà nước, hầu hết các chính sách chưa đề cập đầy đủ đến tính đặc thù của vùng dân tộc thiểu số và đặc điểm của từng địa phương, vùng, miền, nên còn tình trạng áp dụng máy móc, rập khuôn, cào bằng. Thiếu các chính sách đầu tư chiến lược cho các cơ sở đào tạo nghề và xây dựng xã hội học tập có sự tham gia vào đào tạo nghề của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp.

Nhiều chính sách dạy nghề còn bất cập, chưa phân rõ trách nhiệm của cơ quan thực hiện chương trình tại địa phương. Việc hướng dẫn triển khai thực hiện chính sách thiếu kịp thời, công tác giám sát thực thi chính sách chưa được quan tâm đúng mức.

Ở nhiều nơi, chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan liên quan chưa quan tâm đầy đủ đến công tác phát triển nguồn nhân lực khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã, nên công tác đào tạo nghề cho lao động vùng dân tộc thiểu số chưa gắn kết với các chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội cụ thể. Nhiều địa phương còn thụ động trong xây dựng kế hoạch tư vấn việc làm và các chương trình đào tạo nghề.

Việc tổ chức lớp học cho đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn do điều kiện giao thông không thuận lợi, cách thức tổ chức lớp học chưa phù hợp với tập quán sản xuất, văn hóa và địa bàn, nên chưa thu hút được người tham gia. Nguồn kinh phí bố trí thực thi chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi có lúc, có nơi được sử dụng chưa đúng, không hiệu quả.

Lao động là đồng bào dân tộc thiểu số ít có điều kiện để áp dụng kiến thức, kỹ năng được học trong công việc do điều kiện địa lý, giao thông không thuận tiện, sản xuất quy mô nhỏ, trình độ còn lạc hậu.

Đối với người dân, do trình độ của người dân vùng dân tộc thiểu số không đồng đều, đa số chưa qua đào tạo nghề, một bộ phận lớn tuổi, trình độ văn hóa, khả năng tiếp thu kiến thức hạn chế, nên ngại đi học và cũng chưa chủ động tìm kiếm việc làm. Còn tâm lý là đi học nghề sẽ mất thời gian, phải nghỉ việc nên mất đi thu nhập đang có...; đặc biệt là tập quán sinh hoạt cộng đồng, tâm lý ngại thay đổi môi trường sống, thay đổi cách thức làm ăn, nên đồng bào chưa nhận thức đúng, chưa hiểu được tầm quan trọng của việc học nghề để lập nghiệp.

Do đại bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã sản xuất nông, lâm nghiệp là chủ yếu, nên còn mang nặng tác phong của nền kinh tế tiểu nông, tự cấp tự túc (tùy tiện về giờ giấc, hành vi), chưa được trang bị kiến thức, kỹ năng, tinh thần và thái độ làm việc của nền sản xuất công nghiệp. Hơn nữa, tình trạng bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, làm theo kinh nghiệm hơn là sáng tạo, đã ăn sâu trong tiềm thức của một bộ phận không nhỏ lao động là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Bên cạnh đó, một số chính sách còn chưa khuyến khích tinh thần tự lực, tự tạo sinh kế, dẫn đến tâm lý ỷ lại ở bà con.

Những giải pháp quan trọng

Từ thực trạng trên, để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho các hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cần thực hiện tốt một số giải pháp:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, phát huy vai trò của các bộ, ngành, địa phương trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16-6-2022, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới” đã xác định những chủ trương, biện pháp quan trọng nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã trong những năm tới. Các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, cần cụ thể hóa và ban hành các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã.

Thứ hai, củng cố, nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ cán bộ, giảng viên làm công tác giảng dạy về kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tập trung nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng hiện có và các trường dạy nghề. Đầu tư nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng, chuẩn hóa hệ thống giáo trình, tài liệu đáp ứng yêu cầu giảng dạy, học tập. Từ đó, có quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã, dạy nghề cho thành viên hợp tác xã một cách bài bản, từ khâu tuyển sinh, đào tạo, bồi dưỡng đến tạo việc làm sau khi ra trường.

Đội ngũ cán bộ, giảng viên làm công tác giảng dạy về kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cần được đào tạo bài bản và được chuẩn hóa theo quy định. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về tình hình kinh tế - xã hội, kiến thức chuyên sâu về kinh tế tập thể, hợp tác xã, tổ chức tham quan, nghiên cứu thực tế, học tập kinh nghiệm các mô hình hợp tác xã điển hình trong và ngoài nước, góp phần nâng cao trình độ, kiến thức, đáp ứng yêu cầu công tác giảng dạy.

Thứ ba, mở rộng đối tượng, đổi mới nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của các hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, ngoài việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ liên quan đến hợp tác xã, cần mở rộng ra cả đối tượng đào tạo là cán bộ phụ trách lĩnh vực phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã ở các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong cả nước. Nội dung bồi dưỡng toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu, gắn với từng ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đặc thù của vùng, miền, địa phương, đáp ứng yêu cầu phát triển hợp tác xã trong điều kiện mới, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và môi trường cạnh tranh, hội nhập quốc tế sâu rộng. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng linh hoạt, sáng tạo, vận dụng phù hợp với từng đối tượng, loại hình hợp tác xã, điều kiện, khả năng hiện có của cả đơn vị tổ chức và đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng.

Thứ tư, thiết lập và mở rộng hợp tác đào tạo nguồn nhân lực về kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi với các cơ sở đào tạo ở trong và ngoài nước. Đa dạng hóa các hình thức liên kết, hợp tác đào tạo với các trường cao đẳng, đại học, viện nghiên cứu. Đưa chương trình đào tạo về kinh tế tập thể, hợp tác xã vào một số trường đại học, một số cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại các tỉnh, thành phố; đưa nội dung kinh tế tập thể, hợp tác xã vào giảng dạy chính thức tại các lớp lý luận chính trị, lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức.

Tăng cường hợp tác với các nước, đặc biệt là tổ chức hợp tác xã của các nước có điều kiện phát triển tương đồng với Việt Nam; hằng năm, cử cán bộ trẻ đi đào tạo chính quy về kinh tế tập thể, hợp tác xã tại một số quốc gia có phong trào hợp tác xã phát triển mạnh và có cơ sở đào tạo tốt. Thường xuyên phối hợp với các nước tổ chức hội thảo, tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh tế tập thể nói chung và trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các hợp tác xã nói riêng.

Thứ năm, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số chất lượng cao. Trong đó, cần tăng đầu tư của Nhà nước cho phát triển nhân lực, nhất là đầu tư cho giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển nhân lực. Đồng thời, khuyến khích các hợp tác xã đầu tư cho đào tạo nhân lực với các hình thức khác nhau, nhất là việc thành lập cơ sở đào tạo trong hợp tác xã, gắn đào tạo với nhu cầu của hợp tác xã, nhu cầu xã hội. Tăng cường đàm phán, vận động và xúc tiến đầu tư để thu hút các nguồn vốn từ ngoài nước, như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn viện trợ chính thức và tài trợ của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài, vốn của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài…, trong đó, cần có sự tham gia tích cực của tất cả các cấp, các ngành, của người dân.

Thứ sáu, chú trọng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Triển khai các kế hoạch, biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài của nguồn nhân lực, tạo chuyển biến thật sự mạnh mẽ trong việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực. Các địa phương cần có những cơ chế, chính sách hợp lý về sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng để thu hút nhân tài, khắc phục tình trạng “chảy máu chất xám”, đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Tăng cường thông tin rộng rãi về nguồn nhân lực, làm cho người dân, đặc biệt là đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay. Hằng năm, cần tổng kết, đánh giá đúng những mặt được và chưa được, kịp thời rút kinh nghiệm để xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn nhân lực cho phù hợp.

Thứ bảy, tiếp tục đổi mới nhận thức về phát triển, sử dụng, quản lý nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nói chung và nguồn nhân lực dân tộc thiểu số có chất lượng nói riêng. Phát triển nguồn nhân lực là một giải pháp quan trọng góp phần phát triển nhanh và bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đẩy nhanh tốc độ triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 theo tinh thần Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18-11-2019, của Quốc hội về “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”. Đây là cơ sở, tiền đề quan trọng để các địa phương được thụ hưởng chính sách đặc biệt của Đảng và Nhà nước quyết tâm chỉ đạo xây dựng cơ sở dữ liệu, xác định nhu cầu đào tạo, xác định phương thức đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng nhân lực. Đồng thời, các tỉnh có cơ chế, chính sách thu hút học sinh, sinh viên đã tốt nghiệp được trang bị các kiến thức, kỹ năng tại các trường nghề, các trường đào tạo về nông nghiệp và phát triển nông thôn về công tác tại địa phương./.

ST.