Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

Phương hướng cần tập trung đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền

 


Một là, đấu tranh với các biểu hiện suy  thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống,  “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền được hiểu  sự chủ động, tích cực nhận diện, phê phán, phản bác, ngăn chặn và kiên quyết xử lý nghiêm minh bằng pháp luật nhằm làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn sử dụng quyền con người gắn với các lĩnh vực chính trị (dân chủ) như một công cụ có tính phổ biến và liên thông trong với ngoài nước, đặc biệt là với một số nước phương Tây, để chống phá nền tảng tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Hai là, nhận diện rõ hạn chế của công tác tư tưởng chính trị trong điều kiện Đảng cầm quyền. Hiện nay, công tác tư tưởng chính trị không chỉ xây dựng niềm tin vào Đảng, vào chế độ, mà còn phải chăm lo xây dựng đời sống tinh thần của xã hội, trong đó có cán bộ, đảng viên, do đó, nội dung tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị chịu sự tác động to lớn của việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì thế, để giành được niềm tin của cán bộ, đảng viên và lòng dân, công tác này dễ sa vào chủ nghĩa thực dụng, mị dân vì những mục tiêu trước mắt. Khi Đảng cầm quyền, công tác tư tưởng chính trị trong nội bộ Đảng được xem như công tác tư tưởng đối với nhân dân. Từ chỗ phải lắng nghe, chia sẻ, thuyết phục cán bộ, đảng viên và người dân, công tác tư tưởng rất dễ biến thành tuyên truyền áp đặt, một chiều không xuất phát từ nhu cầu và lợi ích thiết thực của cán bộ, đảng viên và người dân. Những hạn chế này của công tác tư tưởng chính trị cần phải được khắc phục để đấu tranh có hiệu quả với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên.

Ba là, nâng cao nhận thức về nền tảng tư tưởng và công tác tư tưởng chính trị. Tiếp tục bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học - công nghệ, nhất là thực tiễn đổi mới theo định hướng XHCN ở nước ta; đồng thời, tích cực ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, nhân phẩm của cán bộ, đảng viên qua một số biểu hiện cụ thể, như phai nhạt lý tưởng cách mạng; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; không gắn quyền cá nhân với quyền tập thể; mắc vào tham nhũng, hối lộ, vi phạm thuần phong, mỹ tục và đạo đức,....

Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của công tác tư tưởng chính trị của Đảng. Tăng cường các hoạt động bổ sung, phát triển, hoàn thiện, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với việc đẩy mạnh tập hợp, lôi cuốn, phát động phong trào hành động của cán bộ, đảng viên thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng nhằm xây dựng thành công xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. 

          V3.

Tại sao quân đội lại là mũi nhọn để các thế lực thù địch tập trung chống phá, nhất là âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội?

 


 Xuất phát từ vai trò của Quân đội: là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước XHCN, bảo vệ nhân dân, nòng cốt trong xây dựng nền QP toàn dân Bảo vệ TQ…

 Hiện nay: QĐ ta vẫn là lực lượng trung kiên, tuyệt đối trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

 Do đó các thế lực thù địch tập trung chống phá Quân đội, coi Quân đội là đột phá khẩu trong việc chống phá CM nước ta.

Trong báo cáo gửi Văn phòng Tổng thống Mỹ (năm 2017) Bộ Ngoại giao Mỹ khẳng định: “Mặc dù yếu tố tinh thần của binh lính và hàng ngũ sĩ quan trẻ đã có sự chuyển biến, nhưng Quân đội Việt Nam vẫn là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho ĐCS Việt Nam, người dân Việt Nam vẫn luôn tin tưởng vào sức mạnh và sự trung thành tuyệt đối của Quân đội, do đó để đạt được các mục tiêu chiến lược đối với Việt Nam, phải tăng cường can dự, từng bước “phi chính trị hóa” quân đội.

          T1

Vì sao phải đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận; phòng, chống “tự diễn biến” tự chuyển hóa” trong Quân đội.

 


Bởi vì

Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận phòng, chống “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” là trực tiếp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị.

Đây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa thiết thực và mang tính cấp bách hiện nay.

- Xuất phát từ vị trí, vai trò của tư tưởng, lý luận và từ chính vấn đề đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Đấu tranh tư tưởng, lý luận luôn là bộ phận rất quan trọng và nhạy cảm của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc hiện nay, liên quan trực tiếp đến sự hưng thịnh hay suy vong của quốc gia dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.

I. Lênin đưa ra luận điểm: Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng; chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong dẫn đường thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong

Hồ Chí Minh chỉ rõ “Tư tưởng thông suốt thì mọi việc làm đều tốt”. Người khẳng định “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.

Sự chống đối của kẻ thù về phương diện chính trị, tư tưởng là sự chống đối sâu sắc nhất và mãnh liệt nhất.

- Xuất phát từ âm mưu và thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực TT – LL của các thế lực thù địch

+ Các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá CM nước ta. quyết liệt và phức tạp nhất là trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng chúng coi đây là "mũi đột phá", là "cây cầu dẫn vào trận địa", là lĩnh vực hàng đầu làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

+ Đối với QĐ: chúng đặc biệt chú ý tìm cách hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh, đòi “phi chính trị hoá” Quân đội; tuyên truyền, xuyên tạc bản chất cách mạng, hạ thấp vai trò của Quân đội; kích động sử dụng vũ trang để gây chiến tranh, chia rẽ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân...

- Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Quân đội...

- Xuất phát từ thực trạng đấu tranh trên lĩnh vực TT – LL của QĐ.

Trong thời gian qua công tác đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận của Quân đội đã đạt được những kết quả quan trọng.

Tuy nhiên, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị nhằm chống những quan điểm sai trái, thù địch, phòng chống tự diễn biến, tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được tình hình và nhiệm vụ đặt ra…

Bởi vậy, đấu tranh trên lĩnh vực TT-LL giữ vững trận địa tư tưởng trong Quân đội là trực tiếp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị; là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa thiết thực và mang tính thời sự hiện nay.

T1

 

Một số giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các âm mưu thủ đoạn, quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.

 

 

Do đặc thù phát triển quá nhanh của công nghệ, của các dịch vụ, nội dung thông tin trên mạng nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, chưa cụ thể hóa, bao quát hết các đối tượng và hoạt động cần quản lý, hành vi sai phạm, chế tài xử lý chưa bảo đảm tính răn đe. Trong khi đó, quy trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trên lĩnh vực này theo quy định hiện hành mất khá nhiều thời gian, dẫn đến việc quy định vừa sửa đổi, bổ sung xong đã bắt đầu lạc hậu, gây khó khăn cho công tác quản lý. Vì vậy, để kịp thời ngăn chặn, đập tan âm mưu của các thế lực thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam cần nghiên cứu, vận dụng thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần có giải pháp về cơ chế, chính sách: Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, đảm bảo môi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch, kịp thời bổ sung, xây dựng các văn bản mới và xây dựng cơ chế chính sách về thông tin điện tử cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng hiệu quả quản lý, bổ sung các chế tài xử lý sai phạm nghiêm khắc hơn.

- Tổ chức họp định kỳ, đột xuất nhằm định hướng, chấn chỉnh kịp thời hoạt động của các trang mạng xã hội trong nước.

- Xây dựng chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển, tạo ra những “đơn vị tiên phong” đủ mạnh để cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.

- Nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát, kiên quyết xử lý thông tin sai phạm trên mạng. Đối với các trường hợp vi phạm nhiều lần, mức độ nghiêm trọng có thể xem xét rút giấy phép; tăng cường hướng dẫn, phối hợp với Sở TTTT các địa phương và các đơn vị chức năng có liên quan xử lý hoạt động sai phạm về thông tin điện tử trên mạng.

Thứ hai, cần chú trọng xây dựng tốt công tác kỹ thuật, công nghệ: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các đơn vị quản lý và doanh nghiệp; nghiên cứu, định hướng trong việc xây dựng bộ lọc và có cơ chế cập nhật khi có yêu cầu để các doanh nghiệp thực hiện; kịp thời ngăn chặn truy cập, chia sẻ, tạm ngừng hiển thị nội dung trên mạng internet khi phát hiện thông tin vi phạm. Chuẩn bị các phương án kỹ thuật, công nghệ phù hợp để có thể chủ động ngăn chặn các thông tin vi phạm trong trường hợp khẩn cấp với quyết tâm, thống nhất cao và sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet;

Thứ ba, xây dựng đầu mối tiếp nhận, quy trình xử lý tin giả trên mạng xã hội: Bộ Thông tin và Truyền thông, các Sở Thông tin và Truyền thông tại các địa phương sẽ là đầu mối thực hiện việc xử lý đối với các hành vi tung tin giả của các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.

 Việc xác định tin giả cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành có liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao, đặc biệt trong việc nhận diện và xác định tin giả theo từng lĩnh vực, đối tượng ảnh hưởng đối với các vấn đề ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội... Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân bị ảnh hưởng trực tiếp cần chủ động tập hợp, cung cấp các tài liệu, chứng cứ để các cơ quan chức năng xác lập hành vi của các đối tượng tung tin giả.   

Thứ tư, cần tuyên truyền rộng rãi, nâng cao nhận thức: Các cơ quan chức năng tiếp tục chủ trì, phối hợp với các cơ quan báo chí & truyền thông liên quan triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức cho người sử dụng về các quy định của pháp luật có liên quan nội dung thông tin trên mạng.

- Tăng cường việc tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu với các thế hệ học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh nhằm cung cấp, trao đổi thông tin về những mặt tích cực và tiêu của Internet để thế hệ trẻ biết sàng lọc trước các luồng thông tin xấu độc. 

- Đối với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tuyên truyền, cần coi mạng xã hội cũng là một kênh truyền thông tương tự như báo, đài, truyền hình để tiến hành các hoạt động tuyên truyền. 

- Đối với các ban, ngành hoạt động tiếp xúc với người dân nhiều thì càng cần coi mạng xã hội cũng như Internet là một kênh quan trọng và cần có kế hoạch truyền thông của riêng mình. Cần khuyến khích các cơ quan nhà nước bên cạnh website của mình cần mở thêm một kênh thông tin giới thiệu về chuyên ngành và lĩnh vực mình quản lý, qua đó tiếp cận và minh bạch thông tin với người dân.

- Xây dựng và phổ biến rộng rãi bộ quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội đối với người sử dụng internet tại Việt Nam, thúc đẩy hình thành văn hóa ứng xử, chia sẻ thông tin lành mạnh, lên án, tẩy chay hành vi đi ngược lại lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia trên mạng internet. Triển khai các hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến kỹ năng sử dụng internet an toàn và hiệu quả.

Thứ năm, phát triển mạng xã hội do doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp dịch vụ: Hiện nay tại Việt Nam, một số mạng xã hội của nước ngoài như Facebook, Youtube vẫn đang chiếm phần lớn thị trường, chính vì vậy trong ngắn hạn, các giải pháp quản lý và tuyên truyền vẫn cần tiến hành đối với mạng xã hội này. Tuy nhiên về dài hạn, Việt Nam cần có những mạng xã hội tương đương, có khả năng thay thế hoặc cạnh tranh được với Facebook tại Việt Nam và do doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp dịch vụ. Do đó, cần có các giải pháp, cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy mạng xã hội trong nước phát triển. 

Thứ sáu, các cơ quan cung cấp thông tin báo chí cần quan tâm chú ý nâng cao nhận thức của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Chỉ đạo đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, phóng viên, biên tập viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Xây dựng nền tảng xuất bản mở và đa nền tảng. Ứng dụng các công cụ hỗ trợ quản lý vận hành báo có tính liên thông cao, ví dụ: Nhân sự, công việc, tính hiệu quả cần được liên kết chặt chẽ, lấy công nghệ làm nền tảng, lấy công nghệ làm phương tiện, lấy công nghệ làm công cụ dự báo.  Bám sát việc phát triển công nghệ của toà soạn với hoạt động chuyển đổi số chung của Chính phủ và doanh nghiệp để đồng bộ trong chuẩn giao tiếp về thông tin.

Thứ bẩy,  Ban Chỉ đạo 35 của Ban Tuyên giáo Trung ương cần phối hợp với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông hoàn thiện các văn bản chỉ đạo và quy chế, các tình huống trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.  Ban Chỉ đạo 35 cần chủ động phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy bám sát thực tiễn, kịp thời dự báo những tư tưởng không tích cực, những vấn đề nổi cộm tại các địa phương, chú ý đến việc bảo vệ nhân quyền của các giáo hội …; chủ động cung cấp thông tin với các nước, các tổ chức quốc tế về những nội dung quan điểm nhận thức chưa đúng về công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam

Thứ tám, các cơ quan báo chí cần lựa chọn những người có vị thế, uy tín trong xã hội có nhiều bài viết, nêu gương trong việc đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Tùy theo tính chất nhiệm vụ và khu vực Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức các lớp tập huấn của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí và những phóng viên chủ chốt, tích cực trong việc viết bài, phản ánh không chỉ trên báo mà còn các phương tiện trên  mạng xã hội với những cách làm sáng tạo để kiên quyết đập tan các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.

Trong năm 2021 và những năm tiếp theo, các cơ quan báo chí cần chủ động tuyên truyền về Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII; chú trọng vào việc tuyên truyền các ngày lễ kỷ niệm trong từng năm như: Ngày thành lập Đảng, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước; Quốc khánh 2/9; Cách mạng Tháng Tám thành công; ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam…/.

          T1

Thực tiễn hoạt động mạng xã hội & âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam

 


Mạng xã hội ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, có thể phân thành hai loại: 

Thứ nhất, mạng xã hội của Việt Nam do các doanh nghiệp trong nước cung cấp và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Ở Việt Nam không thiếu các mạng xã hội xưng danh là mạng xã hội Việt, nhưng rất ít trong số đó tồn tại được quá một năm trước khi phải khai tử. Các mạng xã hội Ở Việt Nam, đặc biệt là các trang mạng xã hội đã được cấp phép hoạt động phần lớn đều tuân thủ quy định của pháp luật hiện hành. Số ít trường hợp để xảy ra sai phạm và nội dung vi phạm chủ yếu là do thành viên chia sẻ, trao đổi các nội dung vi phạm về thuần phong mỹ tục, dung tục và phản cảm.

Thứ hai, mạng xã hội của nước ngoài, do các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam, điển hình như: Facebook, Google, Youtube, Twitter, Microsoft... cung cấp vào Việt Nam, được người Việt Nam lựa chọn sử dụng nhiều nhất hiện nay là Facebook và Youtube. Theo báo cáo của Google, Việt Nam là một trong nhóm 10 nước có lượng người dùng Youtube vào loại cao trên thế giới. Cả hai loại mạng xã hội này đều hoạt dộng và cạnh tranh lẫn nhau ở Việt Nam.

Trong môi trường phát triển số hóa mạnh mẽ như ngày nay, mạng xã hội cũng như “con dao hai lưỡi”. Không thể phủ nhận tiện ích mà mạng xã hội đem lại cho con người trong đời sống hiện đại; thế nhưng, đây lại là một thế giới ảo, thật giả lẫn lộn, có những điều tốt nhưng có cả “thuốc độc”. Tính chất thật, giả lẫn lộn không chỉ trên phương diện cá nhân, đối với từng con người, mà còn đối với phương diện xã hội, càng đặc biệt trở nên nguy hiểm khi nó được sử dụng vào các hoạt động chính trị. Với khả năng tương tác và tính lan truyền nhanh, làm cho sự thật giả của những thông tin trên mạng xã hội càng trở nên nguy hiểm. Tuy nhiên, vấn đề không phải là cấm mạng xã hội, nhưng mạng xã hội bộc lộ nhiều mặt trái mà chúng ta cần phải hạn chế, quản lý, đặc biệt là sự lợi dụng mạng xã hội để công kích, chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ. Một hệ thống luật pháp đầy đủ để quản lý và điều chỉnh hành vi những người sử dụng mạng xã hội và thiết bị trực tuyến là đòi hỏi bức thiết của tình hình.

Thực tế mạng xã hội ở nước ta hiện nay cho thấy, tình trạng mất an toàn thông tin mạng xã hội diễn biến rất phức tạp, mang tính phổ biến; ý thức bảo đảm an toàn thông tin của một số cá nhân, tổ chức trong sử dụng công nghệ thông tin chưa được đề cao; ý thức bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng của một số cán bộ, chiến sĩ, nhất là số chiến sĩ trẻ còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh mạng thông tin quốc gia, về giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng chưa thật đồng bộ, hiệu lực thi hành chưa cao… Các hành vi tiêu cực như: Tung tin giả mạo, phát tán tin xấu độc, xuyên tạc, bịa đặt, phát ngôn gây thù ghét... chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo, nên có thể tự do phát ngôn, tự do thông tin mà không phải chịu trách nhiệm.

Mạng xã hội trở thành môi trường thuận lợi để thông tin xấu độc, gây hại, những phát ngôn thù ghét tràn lan; mức độ tác động đến xã hội ngày càng nghiêm trọng. Nhiều thông tin không chính thống trên mạng xã hội đã làm nhiễu loạn, ảnh hưởng rất nhiều đến công tác chỉ đạo, điều hành. Tuy nhiên, không thể chỉ ngăn cấm mạng xã hội bằng những mệnh lệnh hành chính, mà phải biết tận dụng mặt tích cực của nó để định hướng dư luận đến với cái đúng, cái tốt, đấu tranh với cái sai, cái xấu. Điều đó chỉ có thể được thực hiện khi cơ quan chức năng chủ động cung cấp thông tin chính xác, kịp thời đến với người dân. 

Trong tình hình mới, không gian mạng sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, các thế lực thù địch ngày càng lợi dụng để chống phá cách mạng nước ta, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong điều kiện đó, vấn đề bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, chúng còn triển khai hướng tiến công “mềm” thông qua việc đẩy mạnh việc sử dụng các mạng thông tin, mạng quốc tế để tuyên truyền chống phá cách mạng nước ta với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt khó lường. Trong đó đáng lưu ý là, việc Mỹ đang lợi dụng những cơ hội của toàn cầu hoá kinh tế để thực hiện chiến lược “Mỹ hoá" toàn cầu. Sự du nhập lối sống phương Tây từ việc mở rộng kết nối Internet đang thách thức sự kiểm soát của Nhà nước ta; sự suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào khả năng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế; sự lẫn lộn về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, phai nhạt ý thức quốc gia dân tộc, suy giảm ý thức quốc phòng trong một bộ phận nhân dân, trước hết là một bộ phận trong thế hệ trẻ là không tránh khỏi.

Với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự, chúng triệt để lợi dụng những vấn đề "dân tộc", "tôn giáo", "dân chủ", "nhân quyền"…; kết hợp "diễn biến hoà bình" với bạo loạn lật đổ chống phá từ bên trong, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, khi cần thiết và có điều kiện thì phát động chiến tranh xâm lược quy mô lớn. “Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”[1].

Đặc biệt, các thế lực thù địch sẽ đẩy mạnh tuyên truyền các luận điệu nhằm ca ngợi chủ nghĩa tư bản, cổ súy cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Chúng tuyên truyền rằng chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội cuối cùng của lịch sử loài người, hiện nay chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là một xã hội áp bức, bóc lột nữa. Đồng thời, chúng cho rằng con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn là “mù mờ”, là “không tưởng”, hoặc cho rằng “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn dân giàu, nước mạnh”. Chúng cố tình tách rời và đối lập độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; đối lập một cách sai lầm chủ quyền dân tộc với ý thức hệ xã hội chủ nghĩa; tuyên truyền luận điệu thù địch cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ý thức hệ cao hơn chủ quyền dân tộc”…

Các thế lực thù địch thông qua việc phát tán các ấn phẩm, tài liệu sách, báo, băng hình trên các phương tiện thông tin, trên các trang mạng xã hội,... nhằm xuyên tạc, bôi nhọ cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng còn đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc, chứ không lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Chúng vin vào một số khuyết điểm, sai lầm trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm cho cách mạng nước ta có lúc gặp khó khăn, đẩy mạnh tuyên truyền các luận điệu nhằm bôi xấu, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Được sự hậu thuẫn mạnh của các thế lực phản động bên ngoài, các phần tử cơ hội chính trị, chống đối ở trong nước tăng cường viết và phát tán các tài liệu đưa ra những luận điệu, quan điểm, sai trái phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên không gian mạng. Họ cho rằng, đã đến lúc phải xét lại cả những nguyên lý cơ bản có tính chất thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên lý về giai cấp, đấu tranh giai cấp, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội… Các thế lực thù địch đã và đang điều chỉnh một số vấn đề về chủ trương, giải pháp sử dụng các thủ đoạn “mềm, ngầm, sâu, điểm”, mở rộng địa bàn hoạt động, nhất là các địa bàn trọng yếu; tích cực móc nối, liên kết các nhóm, tổ chức phản động và tìm mọi cách xâm nhập vào nội bộ ta (nhất là các cơ quan lãnh đạo, chính quyền, đoàn thể) nhằm tạo dựng “ngọn cờ” chuẩn bị thời cơ gây bạo loạn, ly khai ở một số vùng hoặc nhiều vùng có tính chất độc lập để chia cắt nước ta, hy vọng tạo dựng nhà nước “tự do”, “độc lập” chịu sự chi phối của bên ngoài,... Phương thức chống phá của các thế lực thù địch hết sức đa dạng, có lúc lợi dụng sự công khai của báo chí, truyền thông, lợi dụng sự tự do tư tưởng; có lúc ngụy trang dưới nhiều hình thức, vỏ bọc tinh vi, đặc biệt là chúng triệt để lợi dụng mạng xã hội.

Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, internet đã trở thành không gian xã hội mới “không gian mạng” mang lại những cơ hội, vận hội mới để các quốc gia, dân tộc cùng nhau  hợp tác và phát triển. Các thế lực thù địch, phản động đang tận dụng những ưu thế vượt trội của công nghệ số, mạng xã hội để tuyên truyền những tư tưởng độc hại; thu thập thông tin, bí mật nhà nước, bí mật quân sự, phá vỡ niềm tin và cắt đứt sợi dây liên kết giữa Đảng với nhân dân; xuyên tạc, phủ nhận những thành quả cách mạng trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Với sự phát triển rất sôi động và phong phú của mạng thông tin toàn cầu, thì đó lại là một "điều kiện", "thời cơ" thuận lợi để các thế lực thủ địch thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin, truyền thông hiện đại như báo chí, đài phát thanh đặt ở ngoài nước, internet, các trang mạng xã hội, các blog, tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng còn trực tiếp tiến công vào báo chí cách mạng nước ta, làm nhiễu mạng điện tử, tiến công vào những nhà báo cách mạng.

Sự chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt lợi dụng báo chí, mạng xã hội chống phá cách mạng nước ta, làm cho việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay gặp những khó khăn, thách thức mới. Trong Báo cáo gửi Bộ Ngoại giao Mỹ, Jon Aloisi (cựu Phó Đại sứ Mỹ tại Việt Nam) từng viết: “Thành công lớn nhất là đã thực hiện việc đưa vào Việt Nam mạng lưới internet. Đó là phương tiện hữu hiệu cho chiến dịch truyền bá các tư tưởng phương Tây nằm trong chiến lược nhằm thay đổi chính thể ở quốc gia này”.

Trong tình hình mới, “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam càng quyết liệt và nguy hiểm hơn. Cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam ngày càng phức tạp, khó khăn. Trong thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, trong đó tập trung tuyên truyền, phủ nhận nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những thời điểm Quốc hội thông qua các văn bản pháp luật mới; phủ nhận thành quả cách mạng, vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc chủ trương củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội; bóp méo sự thật lịch sử, bôi nhọ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, quân đội; đả kích bản sắc văn hóa dân tộc; làm giảm sút lòng tin của nhân dân ta đối Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam là phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy xây dựng là chính, tích cực chủ động phòng, chống là quan trọng; kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.

T1

Đấu tranh làm thất bại quan điểm sai trái trên mạng xã hội hiện nay

 


Yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam là phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy xây dựng là chính, tích cực chủ động phòng, chống là quan trọng; kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng”. Trong quá trình cách mạng, Đảng ta thường xuyên cảnh giác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng; đồng thời cũng đặt ra yêu cầu nâng cao nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, nên đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống quan điểm, nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường, biện pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và là cơ sở vững chắc để Đảng đề ra chủ trương, đường lối lãnh đạo; là kim chỉ nam định hướng cho mọi hành động của mình. Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được cấu thành bởi hai thành tố có mối quan hệchặt chẽ, khăng khít với nhau là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thế giới mà chúng ta sống đang diễn ra những quá trình, những xu hướng quá độ mà sự vận động của nó là điều rất khó dự lường, tác động mạnh mẽ và sâu sắc, làm thay đổi toàn bộ đời sống nhân loại. Thế giới hiện nay vẫn đang quá độ từ trật tự thế giới cũ của thời kỳ chiến tranh lạnh sang trật tự thế giới mới, nhưng vẫn chưa được định hình rõ nét, đặc biệt trở nên rất khó đoán lường sau khi ông Joe Biden làm Tổng thống Mỹ. Thế giới cũng bắt đầu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, (cách mạng công nghiệp 4.0), với sự phát triển vô cùng nhanh chóng, mà hiện nay chúng ta chưa có thể nắm bắt và tiên lượng hết mọi điều sẽ diễn tiến và hệ quả của nó đối với cuộc sống con người, mọi quốc gia dân tộc và cộng đồng nhân loại. Thế giới hiện nay lại đang chứng kiến sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc và dân túy, những nguy cơ phá vỡ nhiều luật lệ và tổ chức, thiết chế quốc tế tưởng như đã phát triển ổn định, bền vững của thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Thế giới vẫn đang phải đối mặt với sự gia tăng sức mạnh quốc phòng, quân sự, đặc biệt là sự ra đời nhiều loại vũ khí trang bị mới, kể cả vũ khí hạt nhân với những chính sách cực đoan của nhiều nước, đặc biệt là các nước lớn, các nước phát triển, treo lơ lửng trên đầu nhân loại nguy cơ xung đột, chiến tranh quy mô lớn, có thể bùng phát vào bất kỳ ở đâu và thời điểm nào.

Toàn bộ những quá trình, những xu hướng quá độ nêu trên đang vận động, biến đổi và phát triển nhanh chóng trong điều kiện mới của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, cách mạng công nghiệp 4.0, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa phát triển hết sức mạnh mẽ và sâu rộng; phản ánh sâu sắc tính chất gay go, phức tạp mới của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu trong bối cảnh lịch sử mới. Những quá trình, những xu hướng đó tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng vừa gián tiếp vừa trực tiếp đến nền tảng tư tưởng và hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Sự phát triển của mạng xã hội và sự lợi dụng không gian mạng chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch ảnh hưởng đến hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay... Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam, gây nhiều khó khăn đối với các đơn vị cung cấp thông tin, quản lý mạng xã hội hiện nay.

T1

Giải pháp nâng cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Để phát huy trách nhiệm tự giác, tích cực nêu gương của cán bộ, đảng viên trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức chính trị, ý thức trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự ý thức trách nhiệm nêu gương của mình; phải nhận thức rằng, nếu cán bộ, đảng viên mà không nêu gương thì không còn xứng đáng là cán bộ, đảng viên nữa.

Thứ hai, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm nêu gương trước quần chúng nhân dân; từ đó, nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo, làm nên lịch sử, là nguồn lực, là sức mạnh của Đảng. Nhân dân là đối tượng lãnh đạo, quản lý, nhưng dân là chủ và dân làm chủ. Cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân, trước hết phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, suốt đời phấn đấu vì tự do, hạnh phúc, lợi ích chính đáng của nhân dân.

Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương thực hiện tốt đường lối nhân dân của Đảng, trước hết là phải thường xuyên quán triệt mục tiêu, lý tưởng của Đảng là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc đem lại lợi ích cho nhân dân.

Để nâng cao ý thức trách nhiệm với nhân dân, điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình; phải làm tốt, xử lý hài hòa mối quan hệ với nhân dân theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Khắc phục những tác động tiêu cực của mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế. Tổ chức đảng, cơ quan quản lý nhà nước phải có quy định cụ thể, lấy tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân làm thước đo chuẩn mực đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên.

Thứ ba, nâng cao ý thức trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Lẽ tự nhiên là sự lớn mạnh của Đảng, sức mạnh của Đảng nằm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất và năng lực, có đức, có tài, có trách nhiệm nêu gương và sự nhiệt tình, tâm huyết trong công tác xây dựng Đảng. Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên là tích cực tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nhưng để trách nhiệm nêu gương đó được thực hiện tốt thì cần có sự chuyển động từ hai phía: cán bộ, đảng viên và cấp ủy.

Với cấp ủy, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong tổ chức đảng, tổ chức tốt việc tự phê bình và phê bình như lời căn dặn của Bác Hồ. Cán bộ lãnh đạo các cấp thực sự gương mẫu, tôn trọng nguyên tắc sinh hoạt đảng, tôn trọng tập thể, lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên... Có như vậy, tính tích cực, tự giác trong mỗi cán bộ, đảng viên mới được phát huy mạnh mẽ.

Với cán bộ, đảng viên, phải tích cực học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn; tham gia vào các quá trình xây dựng đường lối chính trị; góp phần quán triệt, triển khai đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong nhân dân; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ tư, nâng cao ý thức trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên đối với cộng đồng, gia đình, xã hội. Trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, việc xác định rõ, nêu cao ý thức trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên trước gia đình, cộng đồng, Tổ quốc là rất quan trọng để phát huy tính tích cực của họ; đồng thời, hạn chế tác động tiêu cực từ những nhân tố khách quan đó.

Duy trì và tự giác thực hiện các giá trị truyền thống tốt đẹp, các chuẩn mực đạo đức trong gia đình, có lối sống mực thước, nêu gương trong học tập, lao động, sản xuất, công tác; người trên làm gương cho người dưới, thế hệ trước làm gương cho thế hệ sau, cán bộ, đảng viên nêu gương trước quần chúng là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Phải luôn luôn đoàn kết, tôn trọng và bảo vệ cộng đồng; phát huy và bảo vệ tập quán, truyền thống tốt đẹp; có ý thức cộng đồng, ý thức về cội nguồn, đạo lý uống nước nhớ nguồn; tôn trọng quy tắc ứng xử của cộng đồng; lên án hành vi xâm hại lợi ích chung của cộng đồng, gây phương hại đến lợi ích của các thành viên trong cộng đồng.

Thứ năm, xác định rõ trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên trên vị trí công tác. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc xây dựng phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống qua xác định trách nhiệm chung với Tổ quốc, dân tộc, nhân dân, Đảng, Nhà nước, cộng đồng xã hội, gia đình chỉ có hiệu quả khi xác định rõ trách nhiệm nêu gương cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên. Để mỗi người đều thấy rõ trách nhiệm của chính mình, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự rèn luyện đạo đức cách mạng, coi đó là nhiệm vụ không thể thoái thác, tự thân... cần xác định rõ nghĩa vụ và quyền lợi trên mỗi cương vị công tác. Đó là trách nhiệm của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể.

Phẩm chất chính trị, đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên được thể hiện trong sự tôn trọng bản thân, thể hiện trong các mối quan hệ với chính mình, với người và với việc. Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của mỗi người thể hiện qua trách nhiệm với công việc được giao. Mọi công việc phải được làm cho đến nơi đến chốn, làm cho kỳ được với tinh thần “việc thiện thì nhỏ mấy, khó mấy cũng nên làm; việc ác thì nhỏ mấy cũng phải tránh”./.

Lật tẩy thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng đất nước

 


Nhận thấy sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định chiều hướng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch thường xuyên thực hiện thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với nhiều luận điệu tinh vi, thâm hiểm. Một mặt, họ thẳng thừng đòi bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; mặt khác, họ khéo léo che đậy mục tiêu thực sự của mình khi lập luận rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc; nhưng không có khả năng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa”(!). Để củng cố lập luận trên, họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam giỏi lãnh đạo trong chiến tranh, nhưng không có kỹ năng lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội trong thời bình”(!). Từ đây, họ kết luận: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, do đó cần trao vai trò lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước cho các lực lượng chính trị khác”(!), thực chất là đòi trao cho các thế lực chống đối con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những luận điệu này được họ lặp đi, lặp lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức, trong nhiều thời điểm khác nhau, nhất là vào thời gian Đảng ta tiến hành đại hội nhiệm kỳ, hay những lúc tình hình kinh tế - xã hội của đất nước gặp khó khăn, hoặc trong những ngày kỷ niệm lớn của Đảng, của đất nước. Họ hy vọng tác động của những luận điệu đó sẽ góp phần thúc đẩy sự “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, dẫn đến Đảng ta tự tan rã.

Mục tiêu thực sự của các luận điệu trên đều hướng vào xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; cổ súy cho “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam. Sâu xa hơn, là nhằm xóa bỏ mọi thành quả cách mạng và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta; hướng lái sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi theo họ, nếu Đảng Cộng sản không còn giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thì tất yếu đất nước sẽ không phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là điều mà các thế lực thù địch, chống đối từng thành công ở Liên Xô trong thập niên cuối của thế kỷ trước và họ hy vọng sẽ thành công ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những thành tựu của sự nghiệp xây dựng, phát triển nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong suốt 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới là thực tiễn sinh động bác bỏ mọi xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Nhìn lại quãng thời gian 10 năm sau chiến tranh giải phóng (1975 - 1985), đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Nguyên nhân một phần do điểm xuất phát của chúng ta về kinh tế là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh; cùng với đó, do chính sách bao vây, cấm vận kinh tế của Mỹ và các nước phương Tây; “song chủ yếu là do chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong tiến trình công nghiệp hóa và trong cơ chế quản lý kinh tế”1. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, tại Đại hội VI, Đảng ta đã nghiêm túc tự phê bình, nhận khuyết điểm, chủ động đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới theo hướng xóa bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn trong hơn 35 năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước thời kỳ đổi mới. Thế bị bao vây, cấm vận được phá bỏ. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng trung bình khoảng 07% mỗi năm trong suốt 35 năm qua. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước từ chỗ chỉ đạt 6,3 tỉ USD vào năm 1989 đã không ngừng tăng lên, đạt 342,7 tỉ USD vào năm 2020, đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư trong ASEAN. Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 mới chỉ đạt 2,4 tỉ USD, thì năm 2020 đã đạt hơn 280 tỉ USD, tăng gần 120 lần trong vòng 30 năm. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của đất nước phát triển khá nhanh với nhiều công trình lớn, hiện đại, làm cho diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi, tiến bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP hiện nay. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành và phát triển, đã có 79 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Năm 2021, mặc dù chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, song do những nỗ lực của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự gắng sức của các doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, sau hơn một tháng thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ về “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 11/2021 tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 11 tháng năm 2021, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2020. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tháng 11 so với tháng trước tăng 44,6% về số doanh nghiệp, 38% về vốn đăng ký, 30,2% về số lao động. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục phục hồi. Tính đến ngày 20/11/2021, vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 26,46 tỉ USD, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Điều đó cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 11 tháng năm 2021 vẫn duy trì tốc độ tăng cao, đạt 599,12 tỉ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt  299,67 tỉ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước.

Quan hệ đối ngoại của nước ta ngày càng rộng mở và đi vào chiều sâu; từng bước chuyển từ “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”. Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, bao gồm cả 05 nước Thường trực Hội đồng Bảo an; có quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư với 230 nước và vùng lãnh thổ; là thành viên của nhiều định chế kinh tế quốc tế lớn, như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), v.v. Nước ta đã hai lần đảm nhận vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009, 2020 - 2021) và còn đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng trong các tổ chức quốc tế khác. Hàng loạt chuyến thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước ta đến Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Thụy Sỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia, một số nước Tây Âu, Vatican,… và nguyên thủ các nước này đến thăm nước ta trong thời gian qua, đã khẳng định vị thế và uy tín ngày càng cao của Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế. Từ năm 2014, nước ta bắt đầu tham gia vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, thể hiện trách nhiệm trong việc xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Trên cơ sở kinh tế phát triển, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người trong những năm đầu đổi mới chỉ đạt khoảng 250 USD/năm, đến năm 2020 đạt 3.521 USD, đứng thứ sáu trong ASEAN. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Tiến bộ và công bằng xã hội đạt nhiều kết quả ấn tượng, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Các vấn đề an sinh xã hội luôn được quan tâm chăm lo, ngay cả lúc nền kinh tế gặp khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới, hay của đại dịch Covid-19. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 03% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng gần 46% từ năm 1990 đến năm 2019, nằm trong số các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế giới. Năm 2019 HDI của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước phát triển con người cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nhất là phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, đi vào chiều sâu, tạo nhiều chuyển biến tích cực, rõ rệt. Nhờ đó, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được củng cố, tăng cường. Con số 99,6% cử tri tham gia Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 trong điều kiện khó khăn, phức tạp do đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh, là minh chứng sinh động về lòng tin của nhân dân vào thể chế chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nói trên đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là minh chứng thuyết phục về năng lực lãnh đạo của Đảng trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập; là thực tiễn khách quan bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”2. Trong một công trình nghiên cứu cùng Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), các nhà nghiên cứu của Viện Phát triển quốc tế thuộc trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) cũng có nhận xét: “Ở Việt Nam, trong tương lai, khó có thể hình dung cơ sở xã hội cho việc xây dựng một đảng có khả năng cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Bởi lẽ, ở Việt Nam hơn 90 năm qua, đại đa số nhân dân thừa nhận sự lãnh đạo độc tôn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; trìu mến gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng ta” và coi Đảng là người đại biểu trung thành cho lợi ích của mình, do Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Để tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, Đại hội XIII của Đảng đã xác định “phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”3, xem đó là nhiệm vụ then chốt. Tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, quyết liệt, đồng bộ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn liền với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, là cách làm hiệu quả nhất để bác bỏ những mưu toan và hành động xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.

T1

Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

 

Thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, là một phương thức lãnh đạo của Đảng ta. Các cấp ủy, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương phải nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.

Nêu gương bằng những việc làm, hành động cụ thể hằng ngày, với phương châm “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau”, “học tập đi đôi với làm theo Bác”. Đề cao vai trò, trách nhiệm tiên phong, gương mẫu với nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cương vị càng cao càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để nhân dân noi theo; phải thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng đúng đắn, phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thực sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể...

Nêu gương là đề cao “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, nâng cao tính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực; đồng thời, khuyến khích, cổ vũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của nhân dân, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh.

Đảng ta luôn coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Sự nêu gương của cán bộ, đảng viên có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều quy định về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Mới đây nhất, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, về “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” tiếp tục khẳng định vai trò, trách nhiệm gương mẫu, đi đầu của cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên có những chuyển biến tích cực, thể hiện qua các mặt sau:

Về tư tưởng chính trị, đa số cán bộ, đảng viên giữ vững lập trường tư tưởng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào sự lãnh đạo, đường lối đổi mới của Đảng; gương mẫu trong việc thực hiện, tuyên truyền và bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên đã nhận thức đầy đủ hơn tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; bước đầu có chuyển biến rõ rệt trong nhận diện và tham gia đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để tự soi, tự sửa.

Về đạo đức, lối sống, nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, đã tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện các bộ quy tắc, chuẩn mực đạo đức công vụ gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị; qua đó, tạo được sự chuyển biến bước đầu trong nhận thức và nêu cao tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có thái độ chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; có tác phong sâu sát thực tế, gần gũi với cấp dưới, với nhân dân; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí... Việc thực hiện các quy định về nếp sống văn minh, văn hóa công sở... có nhiều tiến bộ.

Về tự phê bình và phê bình, nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu đã gương mẫu thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần xây dựng, cầu thị, tự giác. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đã có chuyển biến tích cực, từng bước khắc phục tình trạng độc đoán, chuyên quyền hoặc dân chủ hình thức. Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình, đã xác định rõ hơn trách nhiệm của từng cá nhân trong khuyết điểm của tập thể.

Về quan hệ với nhân dân, nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, đã sâu sát cơ sở, gần dân, sát dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để có hướng xử lý phù hợp. Một số cấp ủy và chính quyền đã có cách làm hiệu quả, như tổ chức đối thoại trực tiếp giữa lãnh đạo cấp ủy - chính quyền với nhân dân, để kịp thời lắng nghe những vấn đề phát sinh từ cơ sở; công bố số điện thoại đường dây nóng, số điện thoại cơ quan, đơn vị để nhân dân phản ánh kịp thời về tinh thần trách nhiệm, thái độ thực thi nhiệm vụ và phục vụ nhân dân... Qua đó, vừa nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tiếp thu được ý kiến của nhân dân, giải quyết các vụ việc bức xúc, phức tạp, vừa kịp thời chấn chỉnh thái độ, phong cách giao tiếp, phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên; góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, đảng viên.

Về trách nhiệm trong công tác, một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp đã nêu gương về đổi mới tư duy, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận nhiệm vụ do tổ chức phân công. Thực thi công vụ bảo đảm nguyên tắc, kỷ cương, hoàn thiện các quy trình, đổi mới cách làm, tận tụy với công việc; xây dựng và thực hiện các quy chế, quy ước, đạo đức công vụ, nhất là về thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí.

Về ý thức tổ chức, kỷ luật, đa số cán bộ, đảng viên gương mẫu chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết và các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật trong chi bộ, cơ quan, đơn vị. Tuân thủ sự phân công, điều động của tổ chức; gương mẫu thực hiện chế độ sinh hoạt đảng và các nội quy, quy chế của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Về đoàn kết nội bộ, ở nhiều nơi, cán bộ, đảng viên đã tích cực tham gia xây dựng đoàn kết nội bộ trong tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhiều cán bộ chủ chốt là tấm gương trong đoàn kết, tạo môi trường làm việc dân chủ, hợp tác và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; tích cực đấu tranh chống các biểu hiện chia rẽ, cục bộ, bè phái, ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị và khi phát hiện có dấu hiệu mất đoàn kết nội bộ, người đứng đầu đã chủ động gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu, nắm bắt thông tin từ nhiều nguồn để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý kịp thời.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên cũng còn hạn chế, khuyết điểm:

Một là, một số cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu, thậm chí cả Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, cán bộ chủ chốt chưa thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung chủ yếu vào đảng viên có chức vụ. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt thiếu gương mẫu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong, với các biểu hiện, như nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, trục lợi; lạm dụng tài sản công (công quỹ, xe công, nhà công vụ...); lãng phí trong công tác và sinh hoạt, tiêu dùng xa xỉ, tiệc tùng xa hoa; thiếu minh bạch trong kê khai tài sản, thu nhập; lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong công tác cán bộ; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, không thực sự sâu sát cơ sở, chưa kịp thời nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ diễn ra ở một số cơ quan, đơn vị chưa được giải quyết kịp thời, vẫn còn cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo chủ chốt, ngại khó khăn, gian khổ, không sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi được tổ chức phân công. Một số cán bộ, trong đó có cả cán bộ cao cấp đã vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, vẫn còn tình trạng vi phạm quy chế làm việc của cấp ủy; thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình còn mang nặng tính hình thức, chưa thực sự phát huy hết vai trò, trách nhiệm nêu gương. Tinh thần, trách nhiệm của nhiều cán bộ, đảng viên trong tự phê bình và phê bình chưa cao, chưa mạnh dạn, chưa thẳng thắn, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, né tránh không nhận khuyết điểm, sai phạm của mình. Trong đấu tranh còn có biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm, ngại góp ý với đồng chí, đồng nghiệp, nhất là khi phê bình người đứng đầu; có nơi, có lúc vẫn còn tình trạng lợi dụng phê bình để xu nịnh, lấy lòng, thổi phồng thành tích hoặc nói xấu, cường điệu khuyết điểm, hạ thấp uy tín của nhau.

Ba là, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định nêu gương của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thường xuyên, nghiêm túc, chủ yếu lồng ghép với kiểm tra, giám sát các nghị quyết, quy định, chỉ thị khác. Nhiều vi phạm của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, chủ yếu do cấp trên kiểm tra, giám sát phát hiện hoặc do đơn, thư tố cáo, phản ánh, kiến nghị, góp ý của đảng viên, nhân dân và báo chí. Việc xử lý vi phạm ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm, tính răn đe chưa cao.

Bốn là, công tác sơ kết, đánh giá việc thực hiện quy định nêu gương còn nhiều hạn chế. Hằng năm, không có báo cáo riêng về thực hiện trách nhiệm nêu gương. Việc phát hiện, xây dựng gương người tốt, việc tốt và tổng kết mô hình mới, cách làm hay để nhân rộng và biểu dương, khen thưởng chưa được kịp thời.

Đấu tranh với các qua điểm sai trái trên không gian mạng.

 


 

Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng Internet, các trang mạng xã hội để đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc, làm lẫn lộn đúng - sai, thật - giả; hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch; bôi nhọ, vu khống lãnh tụ, kích động bạo lực, lừa đảo trên mạng, đánh cắp thông tin…

Song do nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như tác hại của quan điểm sai trái, thù địch đối với xã hội còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan ban, ngành trong tuyên truyền và đấu tranh, phản bác còn mang tính hình thức, thụ động, chưa đa dạng, phong phú về nội dung, có nơi, có lúc còn thiếu sắc bén, tính thuyết phục chưa cao; việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại một số địa phương còn sơ hở, thiếu sót; việc giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện ở một số nơi còn chậm, kéo dài, vượt cấp, gây bức xúc trong nhân dân… là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng tuyên truyền các luận điệu sai trái, thù địch với nước ta.

Thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng 2 trang mạng xã hội là Facebook và Youtube để đăng, chia sẻ những thông tin sai trái, cơ hội chính trị lên không gian mạng Internet. Thủ đoạn thường được chúng sử dụng đó là dùng những tin, bài, những hình ảnh trên các báo chí chính thống của ta ở trong nước, sau đó viết lại, chỉnh sửa thành những nội dung bịa đặt hoặc định hướng sai lệch để đăng tải. Điều này thu hút sự quan tâm của người xem, người đọc trước những thông tin có nội dung giống với các thông tin chính thống, tạo cảm giác nửa tin, nửa ngờ và nếu không tìm hiểu, nghiên cứu kỹ sẽ bị tác động xấu bởi những thông tin xuyên tạc này. Ngoài ra, các đối tượng sử dụng trang Blog để nói xấu, chống phá Đảng, Nhà nước, khi nó kết hợp với mạng xã hội, các bài viết trên Blog được chia sẻ lên mạng xã hội tạo sức lan tỏa lớn.

Để  đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội hiện nay cần phải đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung thông tin chính thống, đảm bảo phong phú, đa dạng, nhiều cấp độ, tùy theo đối tượng để cung cấp, phổ biến, truyền tải. Đồng thời luôn xây dựng bản lĩnh vững vàng, có nhận thức đúng đắn, có sự suy xét khi tiếp cận những thông tin nhạy cảm, ở những thời điểm diễn ra các sự kiện mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng để xuyên tạc, chống phá. Loại bỏ những thông tin xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch ra khỏi không gian mạng bằng cách tạo môi trường trong sạch về thông tin. Đặc biệt, các cơ quan báo chí, truyền thông, các tổ chức đoàn thể và toàn thể nhân dân cần phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp chỉ rõ các quan điểm sai trái, vạch trần các âm mưu phản động thù địch, từng bước cô lập chúng trên mạng xã hội. Chủ động chia sẻ, lan tỏa những tin, bài, ảnh có nội dung tích cực, gương người tốt việc tốt trong học tập, công tác, lao động sản xuất, trong cuộc sống, sinh hoạt thường ngày... “lấy cái đẹp để dẹp cái xấu”. Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không tin theo, không truy cập và tán phát, chia sẻ những thông tin xấu độc, cũng là góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng.

T1