Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

Nhận diện và đấu tranh chống âm mưu tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao vai trò, tầm vóc của chủ nghĩa Mác-Lênin và luôn khẳng định là một người mácxít-lêninít. Trong âm mưu, thủ đoạn tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, các thế lực thù địch, phản động đã rất tinh vi, xảo quyệt khi âm mưu tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đấu tranh phản bác âm mưu này là một việc làm thiết thực để góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

V.I. Lênin vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực trong điều kiện cụ thể của nước Nga _Nguồn: Tạp chí Cộng sản

V.I. Lênin vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực trong điều kiện cụ thể của nước Nga 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) thông  qua đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đã minh chứng rằng, nhờ có chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn đường, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc và đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng cũng cho thấy, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hai cấu phần hợp thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và hai yếu tố này có quan hệ hữu cơ với nhau, không thể thiếu một yếu tố nào.

Tuy nhiên, thời gian qua đã xuất hiện một số ý kiến muốn tách rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí còn tìm cách luận giải cho rằng chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với cách mạng Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác-Lênin là “tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc”, không phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và đã bị chối bỏ ở nơi quê hương của nó, “du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử”; do đó chỉ cần nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh và đi đến kết luận võ đoán rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin”(?). Đây thực chất là một quan điểm sai trái, xuyên tạc về mối quan hệ gắn bó mật thiết, hữu cơ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác-Lênin. Quan điểm này tưởng như là sự đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, tưởng như là sự khẳng định những công lao, cống hiến của Hồ Chí Minh với đất nước và dân tộc Việt Nam, nhưng thực chất là nhằm tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin; âm mưu phủ định cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin; phủ định thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là bước đi nhằm tiến tới phủ định bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trên thực tế, các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới, trong đó nổi lên hiện nay là sự chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Rõ ràng, tư tưởng, văn hóa là mặt trận hết sức gay gắt, quyết liệt của cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, làm thất bại các âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, phản động. Thực tế cho thấy đang xuất hiện nhiều hơn những mưu toan kích động, xuyên tạc nhằm “hạ bệ thần tượng”, làm nghi ngờ, gây hoang mang, dao động, thậm chí gây chia rẽ, hỗn loạn nhận thức về nền tảng tư tưởng của Đảng trong hàng ngũ những người cộng sản, từ đó dẫn tới mất phương hướng, mâu thuẫn, rối loạn trong tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn, đưa đến những sai lầm, làm mất uy tín, ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng nhân dân và do đó đánh mất vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị. Những mưu toan này có lúc công khai, trắng trợn, có lúc tinh vi, xảo quyệt. Việc tuyên truyền, xuyên tạc về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tách rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí cho rằng “Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin” là một âm mưu rất tinh vi, xảo quyệt, nằm trong những mưu toan đó của các thế lực thù địch, phản động và thực chất không có gì mới. Nhưng vào những dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc, đất nước, kỷ niệm thành lập Đảng, hoặc những sự kiện chính trị đặc biệt, thì những quan điểm này lại xuất hiện theo kiểu “bổn cũ soạn lại”. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhận diện và đấu tranh phản bác, làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, trong đó có âm mưu tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin, là công việc mang ý nghĩa hết sức quan trọng và thường xuyên hiện nay.

Trước hết, cần phải nhận rõ mưu toan cắt xén và đánh tráo khái niệm của các ý kiến xuyên tạc, tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin.

Những ý kiến xuyên tạc, âm mưu tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, Hồ Chí Minh là một người yêu nước, là một người theo chủ nghĩa dân tộc, chỉ mong muốn làm thế nào để giải phóng đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam. Trong khi đó, chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về đấu tranh giai cấp, là hệ tư tưởng chỉ của riêng giai cấp công nhân, nên đối lập với cả chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Những ý kiến kiểu này đã cố ý không thấy một thực tế là Hồ Chí Minh không chỉ muốn giải phóng đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc, mà quan trọng hơn nữa là phải làm thế nào để toàn thể người dân được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, ấm no thực sự sau khi giành được độc lập, như Người đã từng tâm sự: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Bởi trong quan niệm của Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Người chỉ rõ: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.

Đó chính là lý do để lý giải vì sao mặc dù đánh giá cao cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp và đúc kết được những kinh nghiệm quý báu từ hai cuộc cách mạng tiêu biểu này trong thời cận đại, nhưng Hồ Chí Minh đã thẳng thắn nêu lên nhận xét về những cuộc cách mạng đó xét về bản chất đều là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, chỉ mang lại quyền lợi cho một thiểu số người trong xã hội, trong khi đại đa số những người dân lao động vẫn phải chịu cảnh bị áp bức, bóc lột, bất công và vẫn phải mưu tính làm cách mạng lần nữa. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã quyết định không lựa chọn con đường cứu nước và phát triển của dân tộc Việt Nam theo hình mẫu của các cuộc cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp. Thực tế, như chúng ta đều biết, qua quá trình nghiên cứu, khảo sát nhiều trào lưu tư tưởng chính trị trong hành trình bôn ba nước ngoài, Người đã lựa chọn con đường cách mạng do chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra: con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện ba sự nghiệp giải phóng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong một chỉnh thể thống nhất để thực sự mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc triệt để cho tất cả người dân, không phân biệt giàu nghèo, vùng miền, không phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số, có tôn giáo hay không theo tôn giáo, nam hay nữ, .... Nói cách khác, con đường cách mạng vô sản theo ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc một cách triệt để mà Hồ Chí Minh luôn phấn đấu thực hiện.

Các ý kiến cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đánh tráo khái niệm khi luận giải Hồ Chí Minh đặt vấn đề dân tộc lên trên hết và trước hết, trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ coi trọng vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, coi trọng bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân. Như vậy, rõ ràng là tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin (?).

Đúng là trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khi giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề dân tộc lên trên hết, trước hết và xác định vấn đề giai cấp phải xếp sau vấn đề dân tộc, phục vụ cho vấn đề dân tộc. Nhưng đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là sự quán triệt, vận dụng đúng đắn linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lênin - phương pháp luận duy vật biện chứng, vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa phong kiến như Việt Nam; là sự vận dụng quy luật chung vào hoàn cảnh cụ thể, đặc thù, hết sức sinh động, muôn màu, muôn vẻ của những hiện tượng, quá trình lịch sử riêng biệt. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó là cần thiết, đã thể hiện theo đúng lời dặn của V.I.Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”. Vì vậy, không thể đánh đồng sự vận dụng và phát triển sáng tạo với sự mâu thuẫn, đối lập.

Thứ hai, Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao vai trò, tầm vóc của chủ nghĩa Mác-Lênin

Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh không chỉ trăn trở tìm kiếm lời giải bài toán làm thế nào, bằng cách nào để giành lại nền độc lập của nước nhà, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị ngoại bang, mà còn mong muốn tìm ra một hệ tư tưởng làm nền tảng soi sáng cho con đường đi của dân tộc trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng xã hội mới, một triết lý phát triển của dân tộc. Qua những trải nghiệm phong phú trong thực tiễn, khảo sát, phân tích sâu sắc về những trào lưu tư tưởng, những con đường cứu nước của các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh nhận thức rõ rằng đường lối cứu nước, giải phóng và phát triển dân tộc phải được xây dựng trên một nền tảng tư tưởng nhất định thì mới đảm bảo tính nhất quán và sự thông suốt trong cả tư tưởng và hành động của lực lượng cách mạng, trước hết là lực lượng lãnh đạo, từ đó đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Lực lượng lãnh đạo phải có chủ nghĩa làm cốt và ai cũng phải hiểuai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, tức là phải thống nhất quán triệt, vận dụng chủ nghĩa ấy trong quá trình vận động và tổ chức sự nghiệp cách mạng thì sự nghiệp đó mới thành công được.

Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, lực lượng lãnh đạo mà không có chủ nghĩa làm nòng cốt thì cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam (la bàn). Người không có trí khôn thì đương nhiên sẽ không thể có chủ trương, đường lối đúng đắn được; và tàu không có la bàn dẫn đường thì cũng sẽ không thể xác định được hướng đi đúng giữa đại dương mênh mông, bao la.

Nhưng vấn đề còn quan trọng hơn nữa trong thời đại của Hồ Chí Minh là Người  xác định, phải lựa chọn đi theo chủ nghĩa nào, học thuyết nào. Bởi lẽ, như Người từng thấy rõ: “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều”. Đó là hệ tư tưởng tư sản, hay hệ tư tưởng vô sản, hoặc nhân danh là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, nhưng thực chất đã bị tha hóa, biến tướng, như chủ nghĩa công liên, nghiệp đoàn vàng, chủ nghĩa xét lại ....? Đi theo chủ nghĩa nào, tư tưởng nào là vấn đề hết sức quan trọng đặt ra, buộc phải có sự lựa chọn, cân nhắc cẩn thận, chính xác. Trong bối cảnh đầy những phức tạp, tiềm ẩn nhiều “ngõ cụt” đó, Hồ Chí Minh đã biết phát hiện ra và tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng tiên tiến nhất, cách mạng nhất và nhân văn nhất của thời đại, trong khi những người Việt Nam khác, dù cũng giàu lòng yêu nước và từng sống nhiều năm ở nước ngoài như nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, ... nhưng vẫn không nhìn ra được. Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đó là sự tổng kết, đúc rút của Hồ Chí Minh từ thực tiễn nghiên cứu, khảo sát phong phú các trào lưu tư tưởng, các phong trào đấu tranh yêu nước, các cuộc cách mạng của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Có thể nói chặng đường mà Hồ Chí Minh đã đi để đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là “chặng đường chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được những sai lầm dẫn tới ngõ cụt”.

Sau này, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định vai trò hết sức quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Với nhiều cách thức diễn đạt khác nhau, Người đã chỉ ra vai trò nền tảng tư tưởng, dẫn đường của chủ nghĩa Mác-Lênin: “chủ nghĩa Mác-Lênin làm gốc”; “Chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho hành động”; “Chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất”; chủ nghĩa Mác-Lênin “không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”...

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, việc hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là yêu cầu, điều kiện không thể thiếu để Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên hoàn thành vai trò, nhiệm vụ được giao. Với tổ chức Đảng, Người chỉ ra rằng: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo. Muốn lãnh đạo được phải hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin”. Với mỗi cán bộ, đảng viên, Người nêu rõ: “Có học tập lý luận Mác-Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình”. Người nhắc nhở: “hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ”.

Đặc biệt, với trái tim nhân văn sâu sắc, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan niệm hết sức độc đáo về vai trò quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đó là giúp nhân lên những giá trị tích cực trong mỗi người, cộng đồng và xã hội: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được”.

Đánh giá rất cao vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng nhắc nhở các cán bộ, đảng viên phải biết vận dụng đúng đắn và phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, tránh căn bệnh máy móc, giáo điều. Người chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”.

Thứ ba, Hồ Chí Minh luôn nhất quán khẳng định bản thân là một người mácxít-lêninnít

Tháng 7-1920, khi đọc Luận cương của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã hết sức xúc động. Sau này, Người có tâm sự về thời điểm đặc biệt đó: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!". Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.

Trên nền tảng lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã từ một người yêu nước nhiệt thành trở thành người cộng sản chân chính, đã tìm ra con đường đi đúng đắn cho bản thân và con đường giải phóng, phát triển chính xác, phù hợp với lịch sử và thời đại của dân tộc. Đó là con đường dựa chủ yếu vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết của toàn thể quốc dân đồng bào, đồng thời tích cực tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh đuổi giặc ngoại xâm, đi tới xây dựng một xã hội mới mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no thực sự cho tất cả mọi người dân, một xã hội không còn áp bức, bất công, thực hiện giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó chính là con đường phát triển khoa học, cách mạng triệt để và nhân văn sâu sắc. Thực tế lịch sử dân tộc cho thấy con đường này đã được dân tộc lựa chọn, ủng hộ và tin theo. Đúng như Đảng đã khẳng định: “Với tấm lòng yêu nước nồng nàn, Hồ Chủ tịch đã sớm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin ánh sáng soi đường cứu dân, cứu nước”.

Cũng chính là trên nền tảng lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là phương pháp luận duy vật biện chứng, với trí tuệ lỗi lạc và tư duy lý luận sắc sảo, thấm đẫm thực tiễn phong phú, Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó hạt nhân cốt lõi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã hoàn thành xuất sắc không chỉ vai trò là người tìm đường, mà còn cả vai trò người mở đường và dẫn đường, trở thành vị lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của dân tộc Việt Nam, vị Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất. Đồng thời, với những hoạt động, cống hiến hết sức phong phú trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cũng trở thành người chiến sĩ quốc tế lỗi lạc trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân tiến bộ trên thế giới, đã “góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.... những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.

Tháng 7-1946, ngay tại thủ đô Pari (Pháp), trên cương vị nguyên thủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang thăm nước Cộng hòa Pháp, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn trả lời các nhà báo quốc tế: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”.

Chỉ một thời gian ngắn trước khi qua đời, trong bài trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp Sáclơ Phuốcniô (ngày 15-7-1969), Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Lúc đầu, chính là do chủ nghĩa yêu nước mà tôi tin theo Lênin. Rồi, từng bước một, tôi đi đến kết luận là chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”. Nêu lên những thắng lợi của nhân dân Việt Nam từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng - mà không phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 Ngày sinh Lênin - chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Trọn cuộc đời, Hồ Chí Minh đã phấn đấu theo lý tưởng cách mạng, khoa học, nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, đã mang lại những thành công cho cách mạng Việt Nam và đưa dân tộc Việt Nam đến những thành tựu như hiện nay. Chính trên tinh thần đó, từ những bài học của cách mạng Việt Nam, đặc biệt là qua 35 năm đổi mới và 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã nhấn mạnh một trong những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là “phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(25). Đây là một vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động./.

ST.

Đấu tranh chống sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện từ mùa xuân năm 1930 và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhờ đó đất nước Việt Nam “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

Ảnh minh họa: TTXVN

Ảnh minh họa: TTXVN

Hiện thực lịch sử vẻ vang đó được toàn dân tộc thừa nhận, tự hào và bạn bè quốc tế khâm phục, quý trọng. Đó là sự thật, không ai có thể phủ nhận. Nhưng vẫn có những thế lực thù địch, phản động ở trong nước và ở nước ngoài cố tình xuyên tạc lịch sử Đảng hòng hạ thấp và chống phá sự lãnh đạo của Đảng.

1. Có một số thế lực cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và tầm vóc, giá trị lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Họ coi đó chỉ là sự “ăn may” của cộng sản, Việt Minh. Thực tế lịch sử đã khẳng định Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng diễn ra liên tục suốt 15 năm với sự lãnh đạo của Đảng từ cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, phong trào dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.

Trong phong trào giải phóng dân tộc, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện đường lối, đặt mục tiêu giành độc lập dân tộc lên hàng đầu; xây dựng lực lượng chính trị rộng lớn, đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh; xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng rộng khắp trên cả nước; xác định phương pháp đấu tranh đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành độc lập và chính quyền; dự báo và nắm bắt thời cơ cách mạng. Đó là những điều căn bản và quyết định thắng lợi của cách mạng.

Điểm nổi bật có giá trị lý luận và thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý đúng đắn vấn đề tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ. Thời cơ bảo đảm cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi là: Cao trào cách mạng của nhân dân cả nước phát triển mạnh mẽ (Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945); kẻ địch lâm vào khủng hoảng, hoang mang, mất sức chiến đấu (Pháp chạy, Nhật hàng Đồng minh); các tổ chức đảng và Việt Minh đủ mạnh trên cả nước, quyết tâm lãnh đạo đưa quần chúng vào hành động cách mạng. Cùng với nắm bắt thời cơ, Đảng đã chỉ rõ nguy cơ: Quân Đồng minh (Anh và Trung Hoa dân quốc) kéo vào giải giáp quân Nhật và lợi dụng danh nghĩa đó để xâm chiếm Việt Nam; lợi dụng sự thất bại của Nhật, quân Pháp quay lại áp đặt sự cai trị như trước ngày 9-3-1945. Đảng đã lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước khi quân Đồng minh vào và trước khi quân Pháp quay lại.

Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang từ ngày 14 đến 15-8-1945 quyết định tổng khởi nghĩa với nguyên tắc chỉ đạo: Tập trung, thống nhất, kịp thời và nhanh chóng giành thắng lợi trong nửa cuối tháng 8-1945. Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã xóa bỏ chế độ thuộc địa gần một thế kỷ và chế độ quân chủ phong kiến hàng nghìn năm, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do với bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945-1954) do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là cuộc kháng chiến thần thánh với những chiến công vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”. Bạn bè quốc tế nhắc đến Điện Biên Phủ gắn liền với Việt Nam-Hồ Chí Minh-Võ Nguyên Giáp. Vậy mà đến nay vẫn có thế lực cố tình xuyên tạc. Họ cho rằng có thể tránh được cuộc chiến tranh "nếu phía Việt Nam không hiếu chiến".

Sự thật đã bác bỏ quan điểm sai trái đó. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”.

Lập trường hòa bình và sự nhân nhượng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa rất rõ ràng. Khi kháng chiến diễn ra ở Nam Bộ, ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh đã ký với J.Sainteny, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Hà Nội bản Hiệp định Sơ bộ cho phép 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân đội Trung Hoa dân quốc; Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và tài chính riêng trong liên bang Đông Dương và thuộc khối liên hiệp Pháp. Đó là sự nhân nhượng rất lớn nhưng cần thiết mặc dù Pháp chưa công nhận Việt Nam độc lập và còn phải ở trong khối liên hiệp Pháp. Nhân nhượng đó thể hiện mong muốn hòa bình và quan hệ thân thiện với nước Pháp. Để thúc đẩy quá trình đó, ngày 25-4-1946, đoàn Quốc hội Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu thăm nước Pháp. Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội thăm chính thức nước Pháp với mong muốn hòa bình và hợp tác giữa hai nước. Ngày 6-7-1946, cuộc đàm phán Việt-Pháp bắt đầu ở Fontainebleau (Pháp). Do phía Pháp không thành thật muốn đàm phán nên giải pháp hòa bình không thành. Trước khi trở về nước ngày 14-9-1946, Hồ Chí Minh ký bản Tạm ước với Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Moutet nhân nhượng một số quyền lợi của Pháp ở Việt Nam. Ngày 18-10-1946, về đến cảng Cam Ranh, Hồ Chí Minh gặp Cao ủy Pháp D’Argenlieu trao đổi về thực hiện Tạm ước 14-9.

Sau khi ra miền Bắc, quân đội Pháp liên tiếp gây hấn, vi phạm Hiệp định Sơ bộ 6-3. Ngày 20-11-1946, Valluy, Quyền Cao ủy Pháp, ra lệnh cho quân Pháp tấn công Hải Phòng. Ở Hà Nội, quân Pháp trắng trợn dùng vũ lực và đòi kiểm soát thành phố. Trước hành động chiến tranh của Pháp, dân tộc Việt Nam buộc phải chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội Pháp mong muốn chấm dứt chiến sự, nối lại đàm phán nhưng phía Pháp không đáp lại. Bàn tay hòa bình của Việt Nam đưa ra nhưng phía Pháp đã không đáp lại bằng thái độ hòa bình. Chính phủ Pháp đã lao sâu vào cuộc chiến tranh mà chính người Pháp gọi là chiến tranh phi nghĩa, “chiến tranh bẩn thỉu” để cuối cùng nhận lấy thất bại đau đớn.

3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) phải vượt qua nhiều gian khổ, hy sinh mới đi đến Ngày toàn thắng 30-4-1975, thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc. Chính giới Hoa Kỳ và các tướng lĩnh Mỹ thừa nhận hành vi chiến tranh của họ ở Việt Nam, những bài học và nguyên nhân thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nhiều cựu binh Mỹ đã trở lại Việt Nam có lời sám hối về cuộc chiến tranh phi nghĩa của Chính phủ Mỹ và những tội ác do họ gây ra, mong muốn được góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh, nhất là sự tàn phá của chất độc da cam/dioxin. Vậy mà vẫn có những tiếng nói lạc lõng, trắng trợn, coi chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc “nội chiến” giữa phe cộng sản và phe quốc gia. Đó là sự xuyên tạc lố bịch nhất.

Năm 1950 mở đầu sự can thiệp của Mỹ khi tàu chiến Mỹ đến cảng Sài Gòn và ngày 19-3-1950, 30 vạn nhân dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ can thiệp. Sau thảm bại của Pháp ở Điện Biên Phủ (7-5-1954), tháng 6-1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng trong Chính phủ Bảo Đại do Pháp dựng lên từ ngày 13-6-1949. Đó là sự chuẩn bị để Mỹ thay thế Pháp ở Việt Nam. Sau Hiệp định Geneva được ký kết (tháng 7-1954), Việt Nam tạm chia làm hai miền với Vĩ tuyến 17. Ở miền Nam, Mỹ chính thức thay chân Pháp khi quân Pháp rút hết về nước (28-4-1956). Mỹ dựng lên chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, từ chối hiệp thương với miền Bắc để tổng tuyển cử thống nhất đất nước như quy định của Hiệp định Geneva, mưu toan chia cắt lâu dài nước Việt Nam.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên là bất hợp pháp, giả hiệu; là phản dân, hại nước. Ngụy là giả. Vì vậy, chính quyền và quân đội do Mỹ xây dựng được gọi là ngụy quyền, ngụy quân. Họ không đại diện cho quốc gia, dân tộc dù họ tự gọi mình là "chính phủ quốc gia", “chính nghĩa quốc gia”. Ngày 13-5-1957, tại Mỹ, Ngô Đình Diệm trắng trợn tuyên bố: “Biên giới của Hoa Kỳ kéo dài đến Vĩ tuyến 17”(2). Lời tuyên bố đó và cả hành động thực tế đã cho thấy bản chất của một chính quyền tay sai, bán nước, công cụ chiến tranh của Mỹ, hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ suốt đến sau này. Khi chính quyền đó không đáp ứng được lợi ích của Mỹ thì Mỹ sẵn sàng gạt bỏ, “thay ngựa giữa dòng”. Cái chết bi thảm của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu trong cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 đã chứng tỏ điều đó.

Mỹ đã lần lượt thất bại trong mô hình thực dân mới ở miền Nam Việt Nam; trong “Chiến tranh đặc biệt” 1961-1964, “Chiến tranh cục bộ” 1965-1968 và “Việt Nam hóa chiến tranh” 1969-1975. Có những hành động chiến tranh vô cùng tàn bạo của Mỹ như rải chất độc hóa học hủy diệt sự sống ở miền Nam (10-8-1961); ném bom miền Bắc từ ngày 5-8-1964; ồ ạt đưa quân Mỹ tham chiến ở miền Nam (8-3-1965); sử dụng lượng vũ khí lớn ở Thành cổ Quảng Trị; ném bom hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972. Cuối cùng, quân Mỹ đã thất bại, chấp nhận ký Hiệp định Paris (27-1-1973), rút hết quân Mỹ về nước. Cách mạng Việt Nam phát triển, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

4. Vào những năm 1988-1991, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Do chủ nghĩa xét lại, cơ hội, sự suy thoái trong các Đảng Cộng sản cầm quyền và sự phản bội đã dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động ở Việt Nam cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội đã thất bại. Họ coi việc truyền bá lý luận Mác-Lênin vào Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm. Họ đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ sự lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng và đa nguyên chính trị, xóa bỏ con đường xã hội chủ nghĩa.

Đảng đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm thực tiễn, đề ra các nguyên tắc chỉ đạo đổi mới kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ dứt khoát lựa chọn từ năm 1930; trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bác bỏ đa nguyên, đa đảng. Đảng đề ra "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (1991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, hội nhập quốc tế và đối ngoại ngày càng mở rộng, đời sống về mọi mặt của nhân dân không ngừng được nâng cao.

Việt Nam vẫn vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã công bố tác phẩm quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Đó là công trình tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới, làm sáng tỏ mục tiêu, mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, các giải pháp và quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với lý luận khoa học và thực tiễn Việt Nam, đóng góp vào kho tàng lý luận về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là vì nhân dân, vì con người. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”.

Đất nước và dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo đang phát triển mạnh mẽ, vững chắc trên con đường đúng đắn dựa trên cơ sở khoa học và hiện thực. Mọi sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng và sự lãnh đạo của Đảng không cản trở được khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam./.

ST.

Phê phán luận điệu: Việt Nam muốn thịnh vượng thì phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH

Các luận điệu chống phá cho rằng: Việt Nam muốn giàu có, thịnh vượng thì phải dũng cảm từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa(!). Đáng tiếc, những quan điểm, luận điệu như vậy vẫn được một số người, trong đó có những trí thức có học hàm học vị ở trong nước cổ súy.

Ảnh minh hoạ

Ảnh minh hoạ

Với mưu đồ phá hoại, từ lâu các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhiều chiêu trò chống phá Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng và những thành quả cách mạng. Trong số đó, có những quan điểm cho rằng, chủ nghĩa xã hội (CNXH) là nghèo khổ vì “chủ nghĩa Mác - Lênin dị ứng với sự giàu có”; rằng Việt Nam “không chịu phát triển”, “không thể phát triển” bởi Việt Nam “lạc nhịp” với thế giới, “sa lầy trong tư duy” về chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH. Theo đó, họ rêu rao, Việt Nam muốn giàu có, thịnh vượng thì phải dũng cảm từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN)(!). Đáng tiếc, những quan điểm, luận điệu như vậy vẫn được một số người, trong đó có những trí thức có học hàm, học vị ở trong nước cổ súy. 

Thực ra, cả lý luận và thực tiễn, cả logic và lịch sử trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều bác bỏ những quan điểm nói trên. 

Thứ nhất, về mặt tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin không dị ứng với giàu có, thịnh vượng như một số người xuyên tạc. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết rõ: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”. Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyên bố công khai mục đích của phong trào XHCN hiện đại là xây dựng xã hội mới giàu có, thịnh vượng cho đa số nhân dân chứ không phải một xã hội trong đó “sự áp bức và lao động kiệt sức đối với đa số, sự giàu có và hạnh phúc ấm no đối với một số ít người”. Theo Mác, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản (xã hội XHCN) không tránh khỏi “người này giàu hơn người kia”… 

V.I.Lênin viết: “Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ mới”.Từ thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin cho rằng, giải pháp chiến lược để từng bước tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản (CNTB) chính là thực hiện Chính sách kinh tế mớiĐây là chính sách kinh tế nhiều thành phần - đặc trưng cho toàn bộ thời kỳ quá độ lên CNXHTheo đó, người cộng sản cũng phải học cách buôn bán, học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý, khai thác, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế, xã hội để phát triển sản xuất, xây dựng nền sản xuất lớn công nghiệp hiện đại. Người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình “bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”; phải “dùng cả hai tay mà hứng lấy những cái tốt của nước ngoài”; phải “đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống hằng ngày”...

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh nêu rõ: “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”; “Xã hội chủ nghĩa là ai cũng được làm việc, được ăn no mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì được săn sóc. Nói tóm lại, xã hội chủ nghĩa là sung sướng ấm no”. Điều mong muốn cuối cùng trong bản Di chúc lịch sử, Người cũng viết: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”… 

Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là xã hội giàu có về mọi phương diện và giàu có cho số đông, hơn hẳn CNTB và là sự thay thế hợp quy luật đối với CNTB. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chủ trương xóa áp bức, bóc lột, lạc hậu, bất công, nghèo khổ chứ không hề dị ứng với giàu có, thịnh vượng, không hề chủ trương “xóa giàu”như một số người lầm tưởng, suy diễn, xuyên tạc. 

Thứ hai, về mặt thực tiễn, Liên Xô và nhiều nước XHCN trước đây đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và chứng minh rằng, giàu có, thịnh vượng cho đất nước và đông đảo nhân dân không chỉ là mơ ước, lý tưởng, khát vọng cháy bỏng; không chỉ là chủ trương, chính sách của các Đảng Cộng sản, của các Nhà nước XHCN mà đã từng là hiện thực lịch sử sinh động ở một số quốc gia

Sau cách mạng Tháng Mười năm 1917, từ đống đổ nát bởi chiến tranh, với một nền kinh tế kiệt quệ, đầy tàn tích nông nô, nước Nga Xô viết (từ 1922 là Liên Xô) đã nhanh chóng vươn lên thành cường quốc. Đến năm 1932, Liên Xô trở thành nước công nghiệp, trong đó, sản phẩm công nghiệp chiếm 70,7% tổng sản phẩm nền kinh tế quốc dân. Trong 5 năm (1927-1932), thu nhập quốc dân tăng 85%; chi phí của Nhà nước về bảo hiểm xã hội và y tế tăng 4 lần; ngày làm việc của công nhân giảm xuống 7h/ngày; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, 98% trẻ em từ 8-11 tuổi đã được cắp sách đến trường; nạn mù chữ đã được thanh toán; đại đa số người lớn biết đọc, biết viết. Sau chiến tranh thế giới II, một số nước XHCN ra đời và cũng có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng. 

Đến năm 1970, chỉ tính riêng các nước XHCN ở châu Âu đã chiếm 40% sản lượng công nghiệp thế giới, 1/3 giá trị xuất khẩu toàn thế giới; 4 nước XHCN được xếp trong số 20 nước phát triển của thế giới là Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Cộng hòa nhân dân Ba Lan, Cộng hòa XHCN Tiệp Khắc; Liên Xô trở thành một trong hai siêu cường của thế giới (Xô - Mỹ). Liên Xô và các nước XHCN không chỉ có tốc độ phát triển kinh tế, công nghiệp nhanh, không chỉ đạt nhiều thành tựu về khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật mà còn thực thi hệ thống chính sách xã hội tất cả vì con người, nhất là chính sách về lao động, việc làm cho mọi người; chính sách giáo dục, y tế không mất tiền; chính sách ưu tiên đối với trẻ em, phụ nữ, người già và dân tộc thiểu số... Những ưu việt này không chỉ đem lại sự thụ hưởng hạnh phúc cho nhân dân các nước XHCN mà còn là mục tiêu hấp dẫn, vẫy gọi đấu tranh đối với công nhân, lao động trên thế giới. Trước áp lực đấu tranh của người lao động, các chính đảng và nhà nước tư sản buộc phải điều chỉnh chủ trương, chính sách kinh tế xã hội theo hướng coi trọng hơn các phúc lợi xã hội… 

Cần nói thêm rằng, Liên Xô và các nước XHCN đi lên từ điểm xuất phát thấp, xây dựng CNXH trong sự bao vây, chống phá điên cuồng của thế giới tư bản nhưng nhờ vào trí tuệ, ý chí, sự nỗ lực sáng tạo của đông đảo công nhân lao động trong tư cách, vị thế, niềm tin của những người làm chủ xã hội mà có được sự phát triển nhanh chóng và đạt được những thành quả vĩ đại. Cho dù, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do những người lãnh đạo cao nhất trong bộ máy đảng, nhà nước XHCN xa rời, thậm chí từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, phản bội CNXH khiến từ cuối thập niên 80 đầu 90 của thế kỷ XX, Liên Xô tan rã, chế độ XHCN ở Đông Âu thất bại thì cũng không thể phủ nhận sự thật lịch sử là chính chủ nghĩa Mác-Lênin, CNXH, chứ không phải CNTB đã từng đưa một số quốc gia dân tộc vượt qua lạc hậu, vươn lên phát triển, giàu mạnh; đưa Liên Xô trở thành một trong hai siêu cường của thế giới. Qua 30 năm, kể từ khi Liên Xô tan rã, đến nay vẫn chưa thấy khả năng nước Nga và các quốc gia, dân tộc tư bản trong không gian Liên Xô cũ tìm lại, phục hưng được vị trí siêu cường thế giới như thời Liên Xô. Một số nước trong không gian Liên Xô cũ đã và đang rơi vào cảnh trì trệ, bất ổn, xung đột...

Trong khi đó, cũng lâm vào trì trệ, khủng hoảng kinh tế xã hội, cũng đi vào cải cách, mở cửa, đổi mới như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, nhưng một số nước khác, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam lại thành công. Một trong những bí quyết đem lại thành công là kiên định mục tiêu, kiên trì con đường XHCN, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Thứ ba, trong tư duy, nhận thức của một số người, ta - CNXH là nghèo nàn, lạc hậu, còn tư bản, nước ngoài là văn minh, giàu có. Sự thật không phải như vậy. Nước ngoài là nước khác, không phải nước ta. Nước ngoài cũng có nước tư bản, có nước XHCN, có nước giàu, nước nghèo. Trong số gần 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, tuyệt đại đa số đang theo chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ TBCN đều phát triển, giàu có, thịnh vượng. Trong hơn 190 quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ TBCN thì đa số là các nước chưa phát triển, đang phát triển, nghèo, kém phát triển và không ít nước có bất ổn về chính trị xã hội. Số liệu thống kê, tổng hợp năm 2018 cho thấy, 10 nước nghèo đói nhất thế giới đều là những nước theo chế độ tư bản ở châu Phi và 50 quốc gia nghèo nhất thế giới cũng đều là các nước theo chế độ tư bản. 

Một số nước tư bản được xem là giàu có, văn minh bậc nhất thế giới thì chính họ đồng thời cũng là những quốc gia đã và đang tiếp tục gây ra cho nhân loại rất nhiều tai họa. Hơn nữa, trong chính những nước này, sự giàu có không phải cho số đông mà chỉ dành cho số ít và sự phân hóa giàu nghèo là rất khủng khiếp. Có khu vực, 1% người sở hữu 99% tài sản và 99% người chỉ sở hữu 1% tài sản. Mười năm trước, sự phân hóa ấy bùng phát thành phong trào “Chiếm lấy phố Wall” ở Mỹ và lan ra nhiều nước khác. Tại khu vực Mỹ la tinh, nơi nhiều nước từng là “sân sau” của CNTB, trong vài thập kỷ gần đây đã liên tục trỗi dậy, tẩy chay CNTBvà bước đầu tìm kiếm, thử nghiệm con đường, mô hình phát triển mới -con đường, mô hình “CNXH thế kỷ XXI”. 

Còn ở một số nước tư bản được xem là giàu có và văn minh khác, nhất là các nước Bắc Âu, với vai trò cầm quyền, chi phối của các đảng xã hội dân chủ thì ở đó, không chỉ có các nhân tố tư bản mà còn có các nhân tố có tính chất XHCN mới làm nên giá trị phát triển của những nước này. Ngay từ năm 1847, trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen viết, những người XHCN dân chủ “đi theo cùng con đường với những người cộng sản”, họ muốn thực hiện một phần những biện pháp cách mạng, “nhưng không coi đó là những biện pháp quá độ dẫn đến chủ nghĩa cộng sản, mà coi đó là những biện pháp đầy đủ để xóa bỏ cảnh nghèo nàn và những tai họa của xã hội hiện nay”. Tuy nhiên, thực tế các nước Bắc Âu cũng đang nảy sinh những giới hạn, mâu thuẫn. Việc đánh thuế cao để có phúc lợi cao khiến các nhà đầu tư giảm động lực, nhiều người di chuyển tư bản sang nước có thuế thu nhập thấp hơn để tăng thêm sự giàu có cho riêng họ. Ngược lại, phúc lợi xã hội cao cũng làm cho người lao động trở nên ỷ lại, trông chờ, dựa dẫm vào nhà nước... 

Do đó, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta lựa chọn quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là hoàn toàn đúng đắn. Tất nhiên, trong khi chọn lọc kế thừa những thành tựu, giá trị văn minh, tiến bộ mà nhân loại đạt được dưới CNTB, chúng ta phải dứt khoát bỏ qua những thói hư tật xấu, bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột TBCNvà phải tỉnh táo, phê phán, bác bỏ những nhận thức ảo tưởng, mơ hồ, những luận điệu ca ngợi một chiều CNTB

Thứ tư, cần nhắc lại rằng, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nước Việt Nam không còn tên trên bản đồ thế giới. Đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, chia cắt, nhân dân lầm than, đói nghèo, cực khổ. Ngay từ đầu, các tầng lớp nhân dân Việt Nam yêu nước, yêu hòa bình đã đứng dậy chống thực dân Pháp xâm lược dưới những ngọn cờ khác nhau, trong đó có cả ngọn cờ dân chủ tư sản. Tuy nhiên, tất cả đều dẫn đến kết cục thất bại, bế tắc. Cuối cùng, lối thoát để cứu nước, cứu dân được tìm thấy bởi Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Lịch sử đặt ra yêu cầu; lịch sử tạo ra điều kiện, tiền đề và biện pháp, con đường và lực lượng để tổ chức, lãnh đạo giải quyết những yêu cầu đó. Lịch sử đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam với con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, con đường cách mạng vô sản theo tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, con đường cách mạng được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin học thuyết “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”. 

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN, tuy mỗi thời kỳ, giai đoạn có những chính sách, biện pháp khác nhau (trong đó không tránh khỏi có cả những sai lầm, khuyết điểm) nhưng điểm nhất quán là Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương xóa đói nghèo, lạc hậu, áp bức, bóc lột, bất công và hướng tới xây dựng nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.

Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc xác định “dân giàu”, “nước mạnh” là những mục tiêu hàng đầu trong hệ mục tiêu của CNXH ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn và hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp để từng bước thực hiện “dân giàu”, “nước mạnh”… Đó là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, “phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội....

Ảnh minh hoạ

Ảnh minh hoạ

Theo tinh thần đó, trong hơn 35 năm đổi mới, với sự nỗ lực của các thành phần kinh tế, xã hội, sự đồng sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, “đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Công tác xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao... Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công và là 1 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đây là điều kiện, tiền đề, là động lực, niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta xác định yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, với ý chí, khát vọng quyết tâm mạnh mẽ hơn để thực hiện các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo lộ trình đến năm 2025, năm 2030 và năm 2045.

Những thành quả cách mạng và triển vọng tốt đẹp của đất nước luôn gắn liền với sự kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và CNXH, sự kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu của đất nước và xu thế thời đại. Thực tế lịch sử đó hoàn toàn bác bỏ nhận thức cho rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin, CNXH cản trở, kìm hãm sự phát triển của đất nước.  

Thứ năm, hiện nay, đúng là nước ta mới ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển để trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Nước ta vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan. Từ góc độ của chủ đề bài viết, có thể nêu một số nguyên nhân như: 

1) Thực hiện quá độ lên CNXH từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, lực lượng sản xuất rất thấp.

Trong khi ở nhiều nước phát triển trên thế giới, giai cấp tư sản dân tộc là người tổ chức, lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước và giải phóng dân tộc thì ở nước ta, giai cấp tư sản dân tộc ra đời muộn, bị thực dân, đế quốc chèn ép, mặc dù cũng rất yêu nước, anh dũng nhưng nhỏ yếu về tiềm lực kinh tế, chính trị… nên tư sản dân tộc không đảm đương được những nhiệm vụ lịch sử nặng nề ấy. Và sự vận động của lịch sử dân tộc đã tạo ra điều kiện, tiền đề để giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam gánh vác sứ mệnh lãnh đạo, tổ chức thực thi nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… Như vậy, giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam không những không được thừa kế di sản công nghiệp hiện đại (các cơ sở công nghiệp do thực dân, đế quốc để lại chủ yếu là trình độ lạc hậu và bị phá hủy nhiều) mà còn phải tự mình lãnh đạo, tổ chức thực thi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

2) Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, dai dẳng.

Sau năm 1975, cả nước thống nhất quá độ lên CNXH, nhưng tiếp đó đất nước lại phải tiếp tục gồng mình, dốc sức, đương đầu với hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu biên giới mà độ ác liệt, tàn khốc và hậu quả của nó cũng không thua kém gì so với hai cuộc kháng chiến trường kỳ trước đó. Do đó, về cơ bản, thời gian chúng ta có hòa bình để phát triển cũng chưa đầy 40 năm. Theo dự tính, phải hơn 100 năm nữa chúng ta mới có thể rà phá, xử lý hết bom mìn sót lại; hàng triệu người tàn tật, nạn nhân chiến tranh; những vết thương nhức nhối chia cắt, ly tán… về tình cảm, chính trị… vốn đã không dễ xoa dịu, hàn gắn lại thường bị các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, kích động, chống phá… Sau khi kết thúc chiến tranh, đất nước ta lại tiếp tục phải đương đầu với chính sách bao vây, cấm vận rất phản động và vô nhân đạo kéo dài của các thế lực tư bản, đế quốc và hiện nay các thế lực thù địch, phản động vẫn thường xuyên sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn để chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới, phát triển theo định hướng XHCN của nhân dân ta… 

3) Những điểm yếu tâm lý tiểu nông cùng với tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến, đế quốc kết hợp với mặt trái của kinh tế thị trường gây ra những ảnh hưởng, tác động sâu sắc đến tâm lý, nhận thức, hành vi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức, thói quen, lối sống của con người hiện tại, kể cả với đội ngũ doanh nhân và cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong đó có những biểu hiện của tư duy cào bằng, xem nhẹ kinh doanh buôn bán, “phép vua thua lệ làng”, “một người làm quan cả họ được nhờ”, quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm, làm ăn nhỏ lẻ, chụp giật, thiếu tầm nhìn xa, vừa ỷ lại, trông chờ vào nhà nước và xã hội… 

4) Làm giàu để có cuộc sống vật chất sung túc và tinh thần phong phú là nhu cầu, ước vọng của toàn nhân loại nhưng ước vọng đó luôn bị quy định, giới hạn bởi các điều kiện lịch sử xã hội. Thực tế cho thấy, từ góc độ cá nhân cũng như quốc gia, dân tộc, quá trình hiện thực hóa khát vọng chính đáng ấy, thất bại vẫn dễ hơn và nhiều hơn thành công. Từng cá nhân làm giàu đã rất khó, làm giàu cho nhiều người, cho hàng trăm triệu người thì lại vạn lần khó khăn hơn, nhất là từ nền nông nghiệp lạc hậu, từ chiến tranh, đổ nát đi lên trong sự bao vây, chống phá của các thế lực phản động, thù địch… 

Về phía chủ quan, trong quá trình lãnh đạo cách mạng XHCN, Đảng ta cũng đã không tránh khỏi có những sai lầm, khuyết điểm, nhất là khoảng thời gian 10 năm đầu cả nước thống nhất quá độ lên CNXH, như có biểu hiện duy ý chí, nóng vội trong cải tạo XHCN, nhấn mạnh tính chất XHCN của quan hệ sản xuất trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn đa dạng và cơ bản là thấp; nhấn mạnh quá mức việc phát triển công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp… Thực ra, những sai lầm, khuyết điểm này là biểu hiện của sự nhận thức phiến diện, không đầy đủ, thiếu sâu sắc về bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng đã nhận ra điều đó và “nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên”. Thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm đổi mới đất nước là minh chứng sống động khẳng định trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm của Đảng; khẳng định vai trò của việc kiên định, nắm vững và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để Đảng tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo nhân dân vững bước trên con đường XHCN. 

Từ những lý giải, phân tích trên đây cho thấy, các quan điểm cho rằng: CNXH là nghèo khổ, chủ nghĩa Mác-Lênin dị ứng với sự giàu có; và Việt Nam muốn giàu có, thịnh vượng thì phải dũng cảm từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường XHCN...(!) là những quan điểm sai trái cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, cần khẳng định rằng, muốn đất nước giàu có, thịnh vượngkhông những phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; không những phải khơi dậy, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực, trí tuệ, sự thông minh, sáng tạo, ý chí, khát vọng của con người Việt Nam để chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, làm giàu cho bản thân, gia đình và góp phần xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; mà đồng thời, còn phải chủ động đấu tranh, uốn nắn, phê phán, bác bỏ những nhận thức lệch lạc, sai trái bởi nó cũng là một trong những lực cản vô hình nguy hiểm không thể xem thường trên con đường đi tới giàu có, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam./.

ST.

Chiêu trò đòi "tự trị dân tộc" - sự mơ mộng hão huyền

Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với nước ta, hoạt động kích động người dân tộc thiểu số (DTTS) đòi ly khai tự trị dân tộc luôn là một trong những nội dung chủ đạo được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định an ninh chính trị ở các vùng DTTS...

Ảnh minh họa. TTXVN.

Ảnh minh họa. TTXVN.

Qua theo dõi có thể thấy, thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn, phương thức để tiến hành hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc chống phá nước ta. Trong đó, chúng tập trung vào một số phương thức, thủ đoạn sau:

Một là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các vấn đề về nguồn gốc lịch sử tộc người, đất đai, lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo phức tạp, giải quyết các “điểm nóng” tại địa phương; những tác động của mặt trái kinh tế thị trường... để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tìm cách bôi đen cán bộ lãnh đạo để kích động tư tưởng ly khai, dân tộc hẹp hòi, tâm lý mặc cảm, kỳ thị dân tộc và cho rằng, chỉ có thành lập “nhà nước mới, quốc gia mới riêng thì mới giàu có, văn minh, phát triển” để lôi kéo, vận động đồng bào DTTS chống lại chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tham gia biểu tình, bạo loạn, phá hoại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.  

Hai là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng chiêu bài “tôn giáo hóa dân tộc”, thông qua tôn giáo thâm nhập, gây ảnh hưởng, tập hợp lực lượng là người DTTS, tiến tới hình thành tổ chức phản động trên địa bàn. Chúng lợi dụng các tôn giáo ở vùng DTTS hoặc lập ra một số hình thức "tôn giáo riêng" cho người DTTS như: "Tin lành Đề ga" ở Tây Nguyên để hình thành “Nhà nước Đề ga độc lập”; lợi dụng "Tin lành của người Mông" để thành lập “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc; lợi dụng "Phật giáo Nam Tông Khmer" để thành lập “Vương quốc Chăm Pa” ở vùng DTTS Nam Trung Bộ, “Nhà nước Khmer Kampuchea Krom” ở Tây Nam Bộ... Chúng tập trung móc nối, lôi kéo người có uy tín trong đồng bào DTTS, học sinh, sinh viên, thanh niên DTTS, đối tượng cầm đầu, cốt cán các “tà đạo, đạo lạ”, “hiện tượng tôn giáo mới” trong vùng DTTS...

Thế lực thù địch đặc biệt triệt để lợi dụng chiêu bài “đấu tranh đòi quyền lợi cho người DTTS, đòi ly khai, tự trị” để thu hút, lôi kéo người tham gia tổ chức phản động. Ở bên ngoài, các thế lực thù địch xây dựng, phát triển lực lượng chống đối; nuôi dưỡng, hậu thuẫn, tổ chức các lớp đào tạo, huấn luyện kỹ năng hoạt động và chỉ đạo số này móc nối, tác động, xâm nhập về nước hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Ba là, núp dưới chiêu bài hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện” của các tổ chức phi chính phủ để lôi kéo, kích động người DTTS, người dân ở vùng sâu, vùng xa chống phá Nhà nước ta. Đây là một thủ đoạn mới hết sức tinh vi mà các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng để tác động, mua chuộc đồng bào DTTS; dùng thần quyền, giáo lý để nắm và khống chế người DTTS, chi phối các địa bàn; qua đó hòng kích động, lôi kéo người DTTS tham gia hoạt động đòi ly khai, tự trị, thành lập “nhà nước riêng”; gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Đặc biệt, thông qua hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện”, kẻ địch còn tìm cách thâm nhập vào các địa bàn chiến lược, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa để thu thập tình hình, cung cấp cho các tổ chức phản động lưu vong bên ngoài báo cáo xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. 

Bốn là, chúng tìm cách đánh tráo và đồng nhất khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các DTTS để tuyên truyền, xuyên tạc nhằm làm cho một số đồng bào các dân tộc ngộ nhận rằng, “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của riêng các DTTS, từ đó, chúng tìm cách kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc đòi thành lập nhà nước riêng, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc như: “Nhà nước Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Chăm Pa” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc... Lợi dụng “quyền dân tộc tự quyết” làm điều kiện trong quan hệ ngoại giao với nước ta; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các DTTS ở trong nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.

Năm là, tìm mọi cách để tác động quốc hội các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo... hoặc tổ chức nhiều cuộc điều trần, hội thảo, họp báo nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở các vùng DTTS trong nước. Thông qua đó, họ tìm cách vận động các nước, các chính khách, người Việt ở nước ngoài tài trợ vật chất, tiền, phương tiện để tiến hành các hoạt động đòi ly khai, tự trị dân tộc đối với nước ta. Họ còn tăng cường “quốc tế hóa” vấn đề “quyền dân tộc tự quyết” để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống đối Nhà nước ta từ bên trong. Bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong như: "Hội người Mông thế giới", "Hội những người miền núi", "Nhà nước Đề ga độc lập"... tăng cường tổ chức biểu tình ủng hộ các đối tượng trong nước hoạt động tích cực, quyết liệt hơn. 

Thời gian qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những khó khăn trong cuộc sống của đồng bào DTTS để tổ chức truyền đạo trái pháp luật, đội lốt tôn giáo hoạt động chính trị, móc nối xây dựng cơ sở. Đi liền với việc truyền bá các tà đạo, phát triển cái gọi là “hiện tượng tôn giáo mới”; chúng khuyến khích đồng bào các DTTS duy trì tập tục lạc hậu, thiếu khoa học, cổ vũ cho lối sống thực dụng trong thanh niên, thiếu niên, từng bước làm băng hoại đạo đức, bản sắc văn hóa dân tộc. Họ cũng tận dụng thế mạnh các phương tiện thông tin đại chúng trong đó tập trung sử dụng internet, đài phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc; in ấn tài liệu, văn hóa phẩm, đặc biệt là sử dụng phương pháp tuyên truyền miệng, rỉ tai để kích động hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc đối với đồng bào các DTTS ở trong nước.  

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS ở nước ta không ngừng được cải thiện, nâng lên, các quyền cơ bản của đồng bào DTTS ngày càng được bảo đảm. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề dân tộc trong thời gian qua còn có những hạn chế nhất định. Đó là đời sống văn hóa-xã hội của đồng bào DTTS tuy đã có những tiến bộ đáng kể, song mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của người dân còn thấp, vẫn còn một bộ phận đồng bào DTTS có cuộc sống khó khăn. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số vùng DTTS còn yếu; công tác quản lý xã hội còn có sơ hở, chưa sát dân, chưa nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của đồng bào, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới. Công tác nắm tình hình có lúc, có nơi còn yếu, chưa phát hiện kịp thời các vụ việc phức tạp xảy ra, dẫn đến việc giải quyết còn lúng túng, thụ động; chính quyền ở một số địa phương còn sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhất là các chính sách về dân tộc, tôn giáo để các đối tượng và các thế lực bên ngoài lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá ta.

Từ thực tế trên, trong thời gian tới, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc hòng “diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Do vậy, công tác phòng ngừa, đấu tranh cần có sự tham gia của cả hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp trên nhiều lĩnh vực xã hội, trong đó, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau đây: 

Một là, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc của các thế lực thù địch để chống phá Đảng, Nhà nước ta; nâng cao ý thức tự giác của nhân dân trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; tích cực tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động này. Tiếp tục phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng trong công tác đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để chống phá nước ta.  

Hai là, tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xã hội cho đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo nhằm góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của đồng bào các DTTS, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở pháp luật. Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; quan tâm xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân thực sự vững chắc, trong đó, tập trung xây dựng các khu vực phòng thủ “cơ bản, toàn diện, liên hoàn, vững chắc”; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững an ninh trật tự tại địa phương.   

Ba là, không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu lực hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân; là “cầu nối” giữa Đảng với nhân dân, làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với đồng bào các DTTS ngày càng gắn bó khăng khít. Tiếp tục phát huy và thực hiện đồng bộ, triệt để, hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Đề cao tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với lợi ích chung của đất nước; kiên quyết chống tư tưởng kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo.

Bốn là, chủ động nắm chắc tình hình từ sớm, từ xa; ngay từ trung tâm của các tổ chức phản động lưu vong; tập trung đánh giá, dự báo sát tình hình biến động của cục diện thế giới, khu vực; sự điều chỉnh chiến lược, chính sách các nước lớn... để kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động đòi ly khai, tự trị dân tộc của các thế lực thù địch chống phá nước ta. Giải quyết triệt để, kịp thời các “điểm nóng”, các mâu thuẫn, khiếu kiện trong đồng bào DTTS ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn gắn với chế độ đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác dân tộc, tôn giáo ở địa phương.  

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, trong đó có các quyền của đồng bào DTTS. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, bảo đảm quyền của đồng bào DTTS ở nước ta. Qua đó, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia, các chính khách quốc tế và cộng đồng người Việt ở nước ngoài đối với nước ta./.

ST.