Thứ Hai, 29 tháng 7, 2024

CỐNG HIẾN LÀ LẼ SỐNG, LÀ DANH DỰ

 Những ngày qua, toàn Đảng, toàn dân ta thương tiếc tiễn đưa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về nơi an nghỉ cuối cùng. Có chứng kiến tình cảm của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đối với đồng chí Tổng Bí thư mới thấy hết giá trị của hai từ "cống hiến".

Và hình ảnh của Tổng Bí thư sẽ luôn nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên phải nỗ lực không ngừng để cống hiến cho sự nghiệp chung của Đảng, đất nước và nhân dân. Bởi đó chính là lẽ sống, là danh dự của người cộng sản.
1. Mỗi con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành đều có những bổn phận, trách nhiệm. Đối với cán bộ, đảng viên, ngoài con người xã hội, mỗi đồng chí còn là người cộng sản. Khi đọc lời thề trước cờ Tổ quốc, cờ Đảng, trước chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại thì chính là lúc chúng ta đã chọn lựa con đường của sự cống hiến và chịu sự ràng buộc của trách nhiệm thiêng liêng ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta hiểu rằng vào Đảng, làm cán bộ trước hết là để cống hiến phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, vì: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”. Cho nên, cống hiến chính là lẽ sống của người đảng viên.
Người nào nỗ lực trở thành cán bộ mà không tận tâm cống hiến, chỉ chăm chăm thu vén lợi ích cá nhân, thỏa mãn sự tham lam vật chất, hưởng thụ là trái với đạo đức cách mạng và sai cả về luân thường đạo lý. Và đương nhiên, khi đã phạm vào những giá trị căn bản đó thì cũng đồng nghĩa đã đánh mất danh dự. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết một điều và trở thành chân lý: “Danh dự là điều thiêng liêng cao quý nhất”. Do đó, cống hiến là giá trị đạo đức, cũng chính là danh dự của cán bộ, đảng viên.
Thực tế đã chứng minh, không ít người quyền cao, chức trọng, nhưng vì tham lam dẫn đến tham ô, tham nhũng để rồi bị kỷ luật, bị cách chức, phải vào tù. Những người đó hẳn có lúc phải nhìn lại cuộc đời mà hối hận vì đã không coi trọng giá trị của tinh thần cống hiến, không xác định cống hiến là lẽ sống, là danh dự. Sự mất mát của người xa rời tinh thần cống hiến khi mang sứ mệnh phải cống hiến là vô cùng lớn. Không chỉ mất chức tước, danh dự, phẩm giá, với người đã rơi vào vòng lao lý thì ngay cả ước mơ nhỏ nhoi về tự do, về một ngày bình yên đơn sơ giản dị cũng trở nên xa vời. Ngay cả những cán bộ, đảng viên chưa đến mức phải trả giá đắt như vậy, nhưng một khi không nỗ lực cống hiến vì cái chung mà nặng về chủ nghĩa cá nhân cũng thường phải chịu những hệ quả đáng tiếc, bị xã hội lên án, bị nhân dân khinh bỉ.
Thực tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả những người giữ chức vụ cao chưa thực hiện tốt trách nhiệm cống hiến vì cái chung, còn để lại hệ lụy tiêu cực rất to lớn cho xã hội, cho đất nước, cho Đảng. Con số thất thoát ngân sách nhà nước do tham ô, tham nhũng, lãng phí lên tới hàng nghìn tỷ đồng chỉ là một phần. Đó còn là những công trình hạ tầng đầu tư kém chất lượng, vừa nghiệm thu đã hỏng hóc, xuống cấp; là những chính sách xa rời thực tiễn, thủ tục hành chính nhiêu khê, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp; là sự vô cảm trước nhu cầu, đòi hỏi bức xúc của nhân dân; là dễ làm, khó bỏ, làm qua quýt, qua loa, đùn đẩy, né tránh, sợ trách nhiệm dẫn đến công việc chung bị đình trệ, lỡ thời cơ phát triển... Đó còn là tình trạng cán bộ thu mình thủ thế chờ thời, cục bộ, bè phái, “thân quen, cánh hẩu”, “nhóm lợi ích”... với những tác động tiêu cực về niềm tin của người dân với Đảng, Nhà nước.
Những biểu hiện đi trái với trách nhiệm, lý tưởng cống hiến ấy đã được Trung ương Đảng chỉ rõ qua 27 biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
2. Khơi dậy tinh thần và trách nhiệm cống hiến là việc có ý nghĩa ngày càng quan trọng. Đây là giải pháp xây dựng đạo đức, xây dựng văn hóa trong Đảng; là giải pháp hàng đầu để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh".
Để làm được việc này cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp cả ở vĩ mô và cụ thể tại mỗi tổ chức Đảng. Với các cấp ủy tổ chức Đảng, ngay lúc này cần bắt tay triển khai giải pháp mang lợi ích lớn là tổ chức đợt học tập tấm gương cống hiến trọn đời vì nước, vì dân của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trong 80 năm cuộc đời và gần 60 phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu tấm gương sáng và “mãnh liệt truyền cảm hứng” về tinh thần cống hiến đến hơi thở cuối cùng vì lý tưởng của Đảng, vì sự trường tồn của đất nước, dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Soi chiếu con người mình vào tấm gương của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ giúp mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta nhận rõ ý nghĩa của cuộc sống, nhất là giá trị của trách nhiệm cống hiến. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhắc đến nhân vật Pavel Korchagin, nhân vật chính trong tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Liên Xô Nikolai A.Ostrovky với tuyên ngôn về lý tưởng sống cao đẹp. Và đồng chí khẳng định: “Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi hổ thẹn vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, bị mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta có thể tự hào rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc, sự vẻ vang của giống nòi và hạnh phúc của nhân dân!”.
Thiết nghĩ, nếu mỗi chi bộ ngay trong đợt sinh hoạt thường kỳ đầu tháng 8-2024 này bắt đầu ngay với chủ đề nghiên cứu và làm theo gương cống hiến trọn đời vì nước, vì dân của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ có tác dụng lan tỏa mạnh mẽ. Đồng thời với những cách làm sáng tạo, các cấp ủy, cơ quan, tổ chức, địa phương có thể tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, các buổi kể chuyện thời sự chính trị gắn với những câu chuyện về tấm gương đạo đức của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, từ đó sẽ có tác dụng nâng cao nhận thức, thức tỉnh nhân tâm trong Đảng, trong dân và nhân lên những giá trị chân - thiện - mỹ trong xã hội.
Bên cạnh đó, một giải pháp có tính căn cơ, mấu chốt để cán bộ, đảng viên làm tròn phận sự, trách nhiệm của mình là cấp ủy tổ chức Đảng phải không ngừng tăng cường kỷ cương, kỷ luật; trọng tâm là tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ, khắc phục triệt để tình trạng cào bằng; nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, chủ động phòng ngừa vi phạm từ sớm, từ xa; đặc biệt phải coi trọng ý kiến của nhân dân, phát huy vai trò tai mắt của nhân dân, thực sự dựa vào dân để xây dựng Đảng.
Dẫu vậy, sự tự giác nâng cao nhận thức và bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên vẫn là yếu tố quyết định. Bởi chỉ có bản thân người cán bộ, đảng viên mới thực sự kiểm soát được ý nghĩ, hành động của chính mình. Lựa chọn học tập tấm gương đạo đức sáng ngời như Chủ tịch Hồ Chí Minh, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí lãnh đạo tiền bối khác chính là cách học tập, rèn luyện nhanh nhất và khả thi nhất./.
St

TẦM VÓC VĨ ĐẠI, Ý NGHĨA TO LỚN CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2-9 MÃI TRƯỜNG TỒN

 Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh 2-9 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.

Thế nhưng, cứ mỗi dịp kỷ niệm, trên Internet và một số trang mạng xã hội lại xuất hiện những bài viết có nội dung phán xét, xuyên tạc, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Đây chính là thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch vô cùng thâm độc.
Xuyên tạc lịch sử- Sự tráo trở của những kẻ vô ơn
Những ngày thu lịch sử, càng gần đến kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2- 9, mỗi người con đất Việt lại thêm một lần khắc ghi về nguồn cội, về giá trị hòa bình và lịch sử truyền thống hào hùng của dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám - nơi kết tinh, hội tụ và tỏa sáng ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu - chính là một trong những biểu tượng lịch sử vĩ đại như vậy của dân tộc. Từ đây, một trang sử vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam đã được mở ra, nhân dân đã thực sự được làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của quốc gia, dân tộc mình. Sự kiện đó như một thiên anh hùng ca bất hủ, ngàn năm sáng mãi, sẽ còn lưu danh đến muôn đời, một chiến công chói lọi, đã viết tiếp trang sử vàng của dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.
Chiến thắng ấy có giá trị, tầm vóc, ý nghĩa lịch sử và thời đại sâu sắc, không chỉ góp phần đánh bại tàn dư của chế độ phong kiến, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phát xít mà còn là tấm gương sáng ngời, cổ vũ động viên mạnh mẽ cho các quốc gia, dân tộc đang mất độc lập, tự do noi theo. Từ hào khí thắng lợi to lớn ấy đã tạo nên sức mạnh quật khởi, ý chí và niềm tin bất diệt, cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, quyết chí bền gan đấu tranh giành độc lập dân tộc, để rồi liên tiếp giành được những thắng lợi mang tính lịch sử, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Với tầm vóc và ý nghĩa vĩ đại của thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc” (1).
Ấy vậy mà, đi ngược lại với niềm tự hào của toàn dân tộc, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên tung lên các trang mạng xã hội các bài viết với giọng điệu hết sức lạc lõng, hằn học, phản động, cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử. Họ tổ chức các diễn đàn nhằm kêu gọi, kích động, tổ chức các hoạt động phản kháng, chống phá cách mạng nước ta, phủ nhận, bóp méo sự thật về giá trị nhân văn và ý nghĩa thời đại của sự kiện lịch sử trọng đại này hòng hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị không từ mọi thủ đoạn để xuyên tạc bản chất, ý nghĩa, tính chính nghĩa của Cách mạng Tháng Tám. Chúng thản nhiên phán xét, phủ nhận lịch sử, công lao, sự hy sinh và máu xương của cha ông ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xuyên tạc và bôi nhọ tầm vóc, ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn của sự kiện trọng đại này. Chúng đưa ra luận điệu công kích hết sức hàm hồ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vai trò to lớn của Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam, xuyên tạc thành quả của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.
Xét về bản chất, xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử chính là một thủ đoạn phá hoại về tư tưởng, đổi trắng thay đen, mục đích tạo sự hoài nghi, gây hoang mang, xáo trộn trong dư luận xã hội, nhất là thế hệ trẻ - rường cột tương lai của đất nước đối với truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc. Với dã tâm phá hoại, lối tư duy lệch lạc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thản nhiên quy chụp yếu tố quyết định làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám với việc thành lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền hoàn toàn là do gặp thời, ăn may, do hoàn cảnh khách quan đem lại - phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh chứ Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh không có vai trò, công cán gì.
Thể hiện rõ bản chất phản động và thói lộng ngôn, xảo biện, những kẻ “lật sử” còn tiếp tục nhai lại luận điệu cũ rích, cố tình đơm đặt, vu khống nhằm hạ bệ lãnh tụ, chúng cho rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh du nhập Chủ nghĩa Mác - Lênin với học thuyết đấu tranh giai cấp vào Việt Nam đã gây ra thảm cảnh “nồi da nấu thịt” suốt mấy chục năm, đi lên chủ nghĩa xã hội là lựa chọn hết sức sai lầm. Trắng trợn và lố bịch hơn, chúng còn rêu rao rằng: Cách mạng Tháng Tám đã đưa dân tộc ta vào chỗ chết, là nguyên nhân trực tiếp đưa dân tộc đến thảm họa của hai cuộc chiến tranh (1945 -1954) và (1954 - 1975), làm cho đất nước bị tàn phá, dân tộc bị phân ly, để lại tàn dư nghèo nàn và đói khổ, tham nhũng và bất công xã hội cho đến ngày nay. Nực cười hơn, chúng còn ảo tưởng đến ấu trĩ khi cho rằng, không cần tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, độc lập dân tộc vẫn có thể có được với biện pháp đàm phán hòa bình, chỉ cần “khéo hạ mình xin chính quốc” trao trả độc lập thì tự khắc tránh được cảnh đầu rơi máu chảy cho cả dân tộc. Và, chỉ có lựa chọn con đường phát triển theo định hướng tư bản của các nước phương Tây thì Việt Nam mới có thể nhanh chóng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Tệ hại hơn nữa, chúng còn đưa ra những luận điệu hết sức hàm hồ: Đến Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định con đường đi lên CNXH - lôgic tất yếu của Cách mạng Tháng Tám, kiên định với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự lạc nhịp, lỗi thời, là không phù hợp với quy luật và xu thế phát triển chung của lịch sử, là hiện tượng trái với quy luật mà chính Các Mác đã nêu trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội; chủ nghĩa xã hội là một quái thai của lịch sử, cần sửa chữa và loại bỏ ngay lập tức...
Xét về bản chất, đây chính là thủ đoạn chiến tranh tâm lý, là cái bẫy “bôi nhọ lịch sử” của các thế lực thù địch, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc, cần nhận diện sự thật và kiên quyết phản bác mạnh mẽ. Những kẻ xảo biện, ngông cuồng đó không phải không biết rằng, để có được thắng lợi “trời long, đất lở” của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, biết bao nhiêu máu xương của các anh hùng liệt sĩ, đồng chí, đồng bào Việt Nam đã đổ xuống trong suốt hơn 80 năm mà “gan không núng, chí không mòn”.
Ấy vậy mà, với dã tâm thâm độc, mưu đồ bất chính, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn bất chấp mọi thủ đoạn xấu xa, cố tình bóp méo sự thật, làm sai lệch bản chất, phủ nhận tính chính nghĩa, nhân văn, nhân đạo, phủ nhận giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám và công lao của biết bao thế hệ các anh hùng liệt sĩ, đồng chí, đồng bào.
Với những chiêu bài cũ kỹ, các thế lực phản động, thù địch đã cố tình xuyên tạc lịch sử, âm mưu kích động, chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Song, những luận điệu đó đã không thể lừa phỉnh, qua mặt được bất kỳ ai. Và, chính điều vô lý ấy lại càng tôn vinh thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, càng khẳng định rõ hơn tầm vóc, giá trị và ý nghĩa của chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù 79 năm đã đi qua, nhưng hơn bao giờ hết, mỗi người dân Việt Nam càng thêm hiểu lịch sử dân tộc, thêm yêu và trân quý giá trị của hòa bình và độc lập, càng khắc ghi niềm tự hào dân tộc và biết ơn sâu sắc công lao to lớn của thế hệ cha anh.
Tầm vóc, ý nghĩa Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 mãi trường tồn
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã trở thành thiên anh hùng ca bất hủ, khẳng định chân lý và niềm tin bất diệt: Một dân tộc có thể đất không rộng, người không đông, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, vũ khí còn thô sơ, phương tiện quân sự thiếu thốn trăm bề, nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt, bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức của một Đảng cách mạng chân chính, sự chung sức “trên dưới đồng lòng, nhất hô bá ứng” thì dân tộc ấy vẫn có thể làm nên những sự kiện lịch sử vĩ đại có tầm vóc và đi vào lịch sử của dân tộc và thế giới như một địa chỉ đỏ, một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa điển hình ở khu vực và trên thế giới.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Trong quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, ba cột mốc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Chiến thắng Điện Biên Phủ và Chiến thắng mùa Xuân 1975 mãi mãi sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kỳ tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường quốc, đế quốc chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới”.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 càng làm sáng ngời chân lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội trong thời đại ngày nay: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều phụ thuộc vào trạng thái tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”, “Chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công” (2) và quan điểm của Đảng, Bác Hồ kính yêu: “Không một quân đội nào, không có khí giới nào có thể đánh gục ngã được tinh thần hy sinh của cả dân tộc; nhất là ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của quân và dân ta”.
Thực tiễn quá trình đấu tranh gian khổ chống ách đô hộ của thực dân Pháp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, đặc biệt là quyết định táo bạo đầy sáng suốt trong thay đổi phương châm tác chiến ở tầm chiến lược: “Lựa tình thế, chớp thời cơ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là minh chứng sinh động nhất về bản chất cách mạng, tiến bộ, chính nghĩa và nhân văn sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám. Thực tiễn đấu tranh cách mạng đó đã bác bỏ mọi quan điểm sai trái, bôi đen của các thế lực thù địch, phản động về sự kiện lịch sử này, càng khẳng định rõ bản chất cách mạng của Đảng ta: Đảng của dân, do dân, dựa vào dân và vì dân, lãnh đạo nhân dân chiến đấu vì hòa bình, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Qua đó càng làm sáng ngời mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân - Đảng hết lòng vì dân, dân một lòng tin và theo Đảng, càng thấm đẫm tầm vóc, giá trị, ý nghĩa lý luận và bài học thực tiễn sâu sắc quý báu của thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám trong thời đại ngày nay.
Thắng lợi vang dội của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 đã một lần nữa khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần quyết tử “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của dân tộc Việt Nam anh hùng. Bản lĩnh Việt Nam, tầm vóc và tinh thần Cách mạng Tháng Tám mãi âm vang, trường tồn, bất diệt, mãi là nguồn động lực to lớn khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; truyền cảm hứng, cổ vũ và lan tỏa các giá trị truyền thống cao đẹp cho các thế hệ trên hành trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
ST

VIỆT NAM CHĂM LO CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG BẰNG CHÍNH THỰC LỰC

 Thời gian qua, trên không gian mạng xuất hiện quan điểm xuyên tạc, chống phá cho rằng: Việt Nam không có thực lực khi thực hiện chi trả lương mới cho người lao động; nguồn tiền chủ yếu đi vay của nước ngoài, bởi nền kinh tế đang suy thoái nghiêm trọng...

Cả về lý luận và thực tiễn đều minh chứng việc cải cách tiền lương, lộ trình tăng lương mà Việt Nam đang triển khai là chủ trương hết sức đúng đắn và nhân văn của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời, được triển khai theo đúng lộ trình và dựa trên thực lực của chính mình...
Chủ động tăng lương theo lộ trình
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã xác định lộ trình triển khai cải cách tiền lương cụ thể từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; nhấn mạnh yêu cầu cải cách chính sách tiền lương, xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước...
Sau thời gian chuẩn bị và bị trì hoãn cải cách tiền lương do dịch Covid-19, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã quyết nghị, thực hiện đầy đủ hai nội dung cải cách tiền lương khu vực doanh nghiệp theo đúng Nghị quyết 27.
Mức điều chỉnh tăng này đã được các cơ quan quản lý tính toán kỹ lưỡng trong bối cảnh chưa có đủ điều kiện bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay (chưa thực hiện các bảng lương và phụ cấp mới), tạo được sự thống nhất đồng thuận, hiệu ứng tâm lý tích cực và tác động kinh tế lan tỏa rất lớn trong xã hội do bảo đảm công bằng, hợp lý, hài hòa, có sự chia sẻ giữa người đang hưởng lương hưu và người đang đóng bảo hiểm xã hội, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa các thế hệ tham gia và thụ hưởng chính sách; đồng thời bảo đảm khả năng cân đối của ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm xã hội trong dài hạn; tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc, góp phần ổn định xã hội.
Bám sát sức khỏe nền kinh tế, hỗ trợ tổng cầu, tạo động lực phát triển
Nhìn chung, các mức tăng lương ở Việt Nam thời gian qua thấp hơn mức tăng năng suất lao động, quy mô và thu nhập bình quân đầu người của nền kinh tế, cũng như thấp hơn nhu cầu chi tiêu bảo đảm đời sống ngày càng tăng nhanh của người lao động.
Năng suất lao động của người Việt trong giai đoạn 2010-2020 tăng trưởng 64% theo giá hiện hành, cao hơn so với nhiều nước trong khu vực, chủ yếu nhờ sự cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn.
Từ năm 2007 đến giữa 2023, quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng khoảng 7,7 lần; trong khi tiền lương cơ sở chỉ tăng khoảng 4 lần, từ mức 540.000 đồng/tháng kể từ ngày 1-1-2008 lên 2,34 triệu đồng/tháng từ ngày 1-7-2024.
Trong thời gian diễn ra dịch Covid-19, Việt Nam đã trì hoãn một đợt tăng lương theo lộ trình và cũng mới triển khai gói hỗ trợ tài chính với quy mô khiêm tốn ước khoảng 0,5% GDP so với gói kích thích tài chính khổng lồ tới khoảng 20% GDP như của Mỹ và một số nước khác cùng thời gian này. Bởi vậy, đợt tăng lương tháng 7-2024 là sự tiếp nối lộ trình tăng lương theo kế hoạch nêu trên và sự tiếp tục các giải pháp hỗ trợ tăng cả tổng cung và tổng cầu của chính sách phục hồi kinh tế hậu Covid-19.
Trên thực tế, việc tăng lương lần này không chỉ góp phần cải thiện mức sống của người hưởng lương, bảo đảm nguyên tắc tiền lương phải đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động nhận lương và gia đình họ theo nguyên lý kinh tế thị trường; mà còn cho phép tăng tổng cầu có khả năng thanh toán của xã hội; từ đó, góp phần kích thích sản xuất và củng cố động lực tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh tổng cầu xã hội còn thấp và thị trường thế giới chưa có sự đột phá mạnh mẽ gắn với chu kỳ kinh tế đang chậm lại của nền kinh tế thế giới....
Mặt khác, cơ sở vật chất-tài chính cho tăng lương đã được chuẩn bị khá chu đáo. Theo đó, Chính phủ đã tích lũy cân đối được 913.000 tỷ đồng ngân sách nhà nước làm nguồn chi trả đáp ứng tổng nhu cầu kinh phí điều chỉnh lương cơ sở tăng 30%, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp lũy kế 3 năm 2024-2026 tăng thêm là hơn 900 nghìn tỷ đồng.
Đặc biệt, nền tảng tăng lương của Việt Nam ngày càng được củng cố. Suốt thời gian từ khi bắt đầu đại dịch Covid-19 đến nay, nền kinh tế vĩ mô luôn ổn định; lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm tốt. Việt Nam đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực, cải thiện vị thế quốc tế nhờ duy trì động lực tăng trưởng cân bằng cả trong và ngoài nước; sức mạnh nội lực và vị thế kinh tế quốc tế được thế giới ghi nhận và dự báo tiếp tục sự hồi phục và tăng trưởng tích cực...
Cụ thể, theo Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 có nhiều khởi sắc về sự đồng đều và chất lượng tăng trưởng, với GDP tăng 6,42%, vượt kịch bản đề ra và là mức cao của khu vực và thế giới. Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tháng 4-2024 cũng chỉ ra, Việt Nam là đại diện Đông Nam Á duy nhất lọt vào top 10 với dự báo tăng trưởng 6,4% từ năm 2024 đến 2029 và sẽ trải qua một giai đoạn tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đặt đất nước vào hàng ngũ các nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.
Theo ông Paulo Medas, Trưởng đoàn Tham vấn và giám sát kinh tế vĩ mô Việt Nam của IMF, Việt Nam tiếp tục hội nhập và nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhanh chóng trong nửa đầu năm 2024, sau giai đoạn khó khăn cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi nhanh hơn dự kiến, một phần nhờ vào xuất khẩu mạnh và đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như hiệu quả từ những hành động của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, như việc cắt giảm lãi suất, gia tăng đầu tư công, tăng lương...
Còn theo báo cáo công bố tháng 4-2024 của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam được giữ nguyên dự báo mà WB đã công bố đầu năm là sẽ tăng trưởng 5,5% GDP trong năm 2024 và tiếp tục nằm trong nhóm đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn, nằm trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao với tiềm năng tăng trưởng khoảng 8%.
Đặc biệt, những năm gần đây, cùng với duy trì tốc độ và động lực tăng trưởng ổn định, cân đối ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối có nhiều cải thiện, liên tục vượt dự toán kế hoạch thu ngân sách nhà nước hằng năm và duy trì mức dự trữ ngoại hối cao; kiểm soát tốt nợ công và thâm hụt ngân sách nhà nước dưới mức Quốc hội cho phép. Bởi vậy, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới liên tục duy trì mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba2 (Moody’s ) hoặc BB+ (Fitch Ratings) với triển vọng chung là “Ổn định”. Trong đó, tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings (Mỹ) xếp hạng tín nhiệm quốc gia đối với Việt Nam trong dài hạn ở mức BB+ và trong ngắn hạn ở mức B. Triển vọng về xếp hạng tín nhiệm trong dài hạn là “Ổn định”.
Những kết quả và triển vọng tăng trưởng kinh tế tích cực như nêu trên là minh chứng thuyết phục khẳng định và tiếp tục tạo nền tảng vững chắc cải thiện nguồn thu ngân sách nhà nước và thu nhập xã hội bảo đảm cho cuộc cải cách tiền lương thời gian tới ở Việt Nam thực sự dựa vào nguồn lực của chính mình và góp phần làm tăng nguồn nội lực đó...
Tiếp tục các giải pháp tăng lương bền vững
Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, chắc chắn, bài bản, khoa học để thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Năm 2024, Quốc hội giao Chính phủ triển khai thực hiện các nội dung đã rõ, đủ điều kiện để thực hiện, gồm: Hoàn thiện chế độ nâng lương; bổ sung chế độ tiền thưởng; quy định nguồn kinh phí thực hiện chế độ tiền lương; hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập. Mới đây, ngày 30-6, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó đã hướng dẫn cụ thể nguồn kinh phí thực hiện việc tăng lương cơ sở...
Về trung và dài hạn, Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ đề ra cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, tập trung vào việc xây dựng các bảng lương và chế độ phụ cấp mới, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về các chế độ, chính sách gắn với mức lương cơ sở, vị trí việc làm trong hệ thống chính trị và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, bảo đảm tính khả thi, công bằng, hợp lý, tổng thể, phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội và nguồn lực của đất nước.
Theo Bộ Nội vụ, tính đến nay, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và lãnh đạo các bộ, ngành đã ban hành 39 thông tư hướng dẫn và 100% bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành phê duyệt Đề án vị trí việc làm. Thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng danh mục vị trí việc làm xã hội; bản mô tả công việc và khung năng lực của vị trí việc làm; tiếp tục rà soát tổng thể tất cả bảng lương và nghiên cứu, tính toán hài hòa vấn đề phụ cấp, khen thưởng và một số chế độ đặc thù của lực lượng vũ trang và của cán bộ, công chức, viên chức một số chuyên ngành (đặc biệt là phụ cấp theo nghề) mà trong quá trình thực hiện có phát sinh bất hợp lý.... Trên cơ sở đó tính toán nguồn lực và có giải pháp thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tiền lương xã hội.
Tóm lại, việc tăng lương cho người lao động đang được triển khai theo chủ trương và lộ trình trung và dài hạn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ; đồng thời, bám sát sự phát triển chung của nền kinh tế, phù hợp với các nguồn lực tài chính hiện có của đất nước. Việc tăng lương hay cải cách tiền lương là một sự quan tâm đặc biệt đến đời sống nhân dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận được sự đồng thuận của nhân dân, đáp ứng được mong mỏi của người lao động, thể hiện tính nhất quán, tính ưu việt, nhân văn của chế độ ta...
ST

TIẾC THƯƠNG MỘT NHÂN CÁCH LỚN

 Tối 25/7, dù đã muộn nhưng từng đoàn người nối dài vẫn xếp hàng bên ngoài Nhà tang lễ quốc gia (số 5 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội), kiên nhẫn chờ đến lượt để vào tiễn biệt Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ai nấy đều mang nỗi niềm bùi ngùi, tiếc thương khi nhắc đến nhà lãnh đạo có tâm, có tài, hết lòng vì nước, vì dân.

Mờ sáng đi xe máy từ Ninh Bình tới Hà Nội tiễn đưa Tổng Bí thư
Hòa chung vào dòng người, cô giáo Đỗ Thị Thìn và Đỗ Thị Phương của Trường THCS Ninh An (Hoa Lư, Ninh Bình) cho biết, các cô đã cất công đi xe máy từ Ninh Bình vào 4 rưỡi sáng sớm nay, nhưng vào buổi sáng, Ban Lễ tang chỉ đón các đoàn lãnh đạo nên cô giáo Thìn cùng người đồng nghiệp đã di chuyển qua viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ở quê nhà Đông Anh trước.
Khi đến xếp hàng bên ngoài Nhà tang lễ quốc gia từ 14 giờ chiều để được vào viếng Tổng Bí thư tối nay, cô giáo Thìn cho hay: Được tận mắt nhìn di ảnh bác, tôi thực sự xúc động về vị lãnh đạo tài đức vẹn toàn, đặc biệt xuất sắc.
Có mặt ở khu vực gần nhà tang lễ từ sớm, ông Trần Đức Nhuận (Tây Hồ, Hà Nội) cho biết, buổi sáng ông đã đến nhưng không được vào, nên buổi chiều ông đã quay lại và đến từ sớm vì sợ đông.
"Nhất quyết phải tiễn Tổng Bí thư lần cuối. Tôi rất cảm kích bác Trọng từ khi bác còn là Bí thư Thành ủy Hà Nội", ông Nhuận nói.
Nhắc đến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông Nhuận cho biết có thể đúc kết bằng 3 từ “rất nhân hậu”.
"Người dân ai cũng muốn gần bác. Khi nghe tin bác Trọng mất, tôi đã rất đau xót và buồn bã từ hôm đó tới bây giờ. Bác Trọng từ trần là đất nước mất một nhân tài. Đồng chí Tổng Bí thư là một tấm gương sáng cho tất cả người dân Việt Nam noi theo", ông Nhuận nhấn mạnh.
Khi biết tin Tổng Bí thư qua đời, chị Trần Thị Mai Hồng, trú tại quận Tây Hồ, Hà Nội đã khóc nhiều ngày nay. Và đến ngày viếng, chị chia sẻ bản thân đã rất mệt khi phải xếp hàng dài để được viếng bác, thế nhưng, khi đến lượt được vào viếng Tổng Bí thư, chị cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Chị chia sẻ, ngày trước, chị còn trẻ và chưa có đủ điều kiện để đến viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi bác qua đời, khiến chị cảm thấy rất hối tiếc. Do đó, khi có đám viếng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chị tự nhủ nhất định phải đi.
Cũng là một người thường xuyên theo dõi hoạt động chính trị, kinh tế-xã hội, lịch sử… và trên hết là một người yêu nước, chị cho rằng những lời căn dặn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất quý báu.
“Bác như một tấm gương để tôi noi theo về đạo đức. Bác là người đại diện của Đảng để giúp tôi hiểu hơn về Đảng. Có rất nhiều câu nói của bác mà tôi rất thích, nhưng câu nói mà tôi ấn tượng nhất chính là ‘Tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất’. Tôi thực sự cảm thấy hạnh phúc khi đã hoàn thành tâm nguyện được vào viếng bác, nói lời tiễn biệt bác, và sự đợi chờ này là xứng đáng”, chị Hồng bồi hồi nói.
Tiếc thương một nhân cách lớn, một người bạn lớn
Đến viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - người bạn học từ thời phổ thông của mình, họa sĩ Phạm Ngọc Khôi, thương binh chống Mỹ cho biết, ông và đồng chí Tổng Bí thư là bạn đồng niên, cùng theo học tại Trường THPT Nguyễn Gia Thiều năm xưa.
Bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm cùng bạn học, họa sĩ Phạm Ngọc Khôi lần giở ký ức khi cùng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hội ngộ trong những lần họp khóa, họp trường, được gặp người bạn đáng quý của mình.
“Gần đây nhất là năm 2020, trường kỷ niệm 70 năm thành lập, tôi cùng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn khoác vai nhau thân thương, sau đó còn về Lại Đà để thắp hương nhà thờ họ Nguyễn Phú. Khi vào viếng Tổng Bí thư, tôi chỉ nghĩ thầm: 'Anh Trọng ơi, Ngọc Khôi đến viếng anh đây'", ông Khôi nghẹn ngào nói.
Do rất đông người dân đến viếng, mỗi người không có nhiều thời gian trước linh cữu, người họa sĩ-cựu chiến binh cho biết, bản thân ông rất tiếc nhưng cũng rất xúc động trong thời khắc chia tay người bạn đồng niên, tiếc thương một nhân cách lớn, một người bạn lớn của các cựu học sinh Trường Nguyễn Gia Thiều.
“Cả ngày hôm nay, tôi xem vô tuyến tường thuật phúng viếng mà trong lòng đầy cảm xúc. Tôi còn giữ được 3 bài thơ mà bạn Trọng làm khi ra trường, đã viết tay đặc biệt tặng tôi. Hôm nay tôi đã mang 3 bài thơ ra đọc lại. Thật khó để quên những lần tựu trường được nói chuyện, tán gẫu cùng nhau đầy xúc động”, họa sĩ Phạm Ngọc Khôi chia sẻ.
Trước đó, trong sáng nay, các thế hệ thầy, trò Trường THPT Nguyễn Gia Thiều đã trang trọng tổ chức Lễ tưởng niệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - cựu học sinh của nhà trường niên khóa 1957-1963.
Chia sẻ tại lễ tưởng niệm, thầy Lê Trung Kiên, Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Gia Thiều cho biết, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là người chiến sĩ cách mạng kiên cường, nhân hậu, trọng dân, đã dành trọn cuộc đời cống hiến cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, có lối sống giản dị, gần gũi, thân tình.
“Đồng chí mất đi là một tổn thất vô cùng to lớn của Đảng ta, nhân dân ta. Trường Nguyễn Gia Thiều mất đi một cựu học sinh ưu tú xuất sắc, một nhân cách lớn trong đạo nghĩa tình thầy trò”, thầy Lê Trung Kiên xúc động cho biết./.
St

NGƯỜI ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN

 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại cho chúng ta tấm gương về cuộc đời một chiến sĩ cộng sản, người đảng viên cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Sự nghiệp lớn lao ấy được xây đắp từ những điều giản dị mà cao cả, như lời Tổng Bí thư nhiều lần tự nhắc nhở mình: “Hãy là người cộng sản”.

Người cộng sản là ai? Đó là những đảng viên đang đứng trong hàng ngũ của Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trưởng thành trong phong trào của quần chúng, đắm mình trong thực tiễn, lăn lộn trong đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; tiên phong trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tích cực lao động sản xuất; gương mẫu trong đời sống, trong công việc mà trưởng thành.
Vì sao họ trở thành người đảng viên cộng sản? Vì họ thừa nhận Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, tự nguyện suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, của Tổ quốc, của dân tộc là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắn nhủ: “Hãy là người cộng sản”. Điều ấy không khó nhưng không bao giờ là dễ nếu mỗi người không tự răn mình.
Ngày nay, trước yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân hạnh phúc, người đảng viên không phải ai xa lạ mà là chính những người vượt lên trong số đông quần chúng, biết đặt lợi ích riêng hài hòa trong lợi ích chung, vì lợi ích chung, vì nước, vì dân mà làm việc, công tác, cống hiến.
Người đảng viên phải gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống; dám nghĩ, dám làm, dám hành động vì lợi ích chung; dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám đi đầu trong mọi lĩnh vực, nhất là trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội lành mạnh; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư...
Người cán bộ là đảng viên không được thờ ơ, vô cảm, xa dân; cần tiên phong tập trung giải quyết công việc vào những nội dung có tính đột phá, việc mới, việc khó, việc tồn tại, bức xúc của nhân dân. Nó hoàn toàn ngược lại với những người mang danh Đảng, “đội lốt" đảng viên để làm những việc sai trái. Trên thực tế, có không ít đảng viên đã không còn giữ được mình; đã rơi vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như Đảng ta đã nhiều lần cảnh báo.
Không dễ để tự cho mình, tự nói mình là người đảng viên cộng sản nếu không xây dựng cho mình động cơ phấn đấu đúng đắn, thái độ làm việc nghiêm túc, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện mình cả về năng lực, phẩm chất, suy nghĩ và hành động. Sinh thời, Bác Hồ đã căn dặn: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến”. Đó là lời nhắc nhở mà mọi cán bộ, đảng viên đều phải suy nghĩ để ứng xử, làm việc, hành động.
Thời nào cũng vậy, quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của mỗi đảng viên, mỗi con người là quá trình thường xuyên, liên tục, nó như việc rửa mặt hằng ngày. Chỉ có vậy, người đảng viên cộng sản mới làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân và trước chính mình./.
St

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG

 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp to lớn đối với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân. Đối với công tác xây dựng Đảng, Đồng chí giữ vai trò là ngọn cờ lý luận, là người truyền cảm hứng, là nhà lãnh đạo xuất sắc trong thực hành công tác xây dựng Đảng, là người cộng sản mẫu mực, là tấm gương sáng ngời cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện.

1. Tổng Bí thư là ngọn cờ lý luận về xây dựng Đảng
Với trọng trách là hạt nhân lãnh đạo của Đảng, đồng chí đặc biệt coi trọng công tác lý luận của Đảng nói chung và lý luận về xây dựng Đảng nói riêng. Đồng chí trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về công tác xây dựng Đảng; kiên định bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm sai trái, thù địch.
Đồng chí đã để lại nhiều nghiên cứu có giá trị lớn về lý luận xây dựng Đảng, được tập hợp trong các công trình tiêu biểu, các cuốn sách: Xây dựng và chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (năm 2012); Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua (năm 2018); Vững bước trên con đường đổi mới (năm 2021); Toàn Đảng, toàn dân chung sức, đồng lòng xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc (năm 2021); Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (năm 2022); Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh (năm 2023); Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc (năm 2023); Cả nước đồng lòng, tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII, (năm 2023); Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (năm 2024)…
2. Tổng Bí thư là người truyền cảm hứng, là nhà lãnh đạo xuất sắc trong thực hiện công tác xây dựng Đảng
Những quan điểm chỉ đạo của Đồng chí trong xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã cung cấp phương pháp luận, phương pháp tổ chức thực hiện và cổ vũ quyết tâm thực hiện của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên.
Trong xây dựng Đảng về chính trị, Đồng chí cùng Trung ương Đảng chú trọng xây dựng Cương lĩnh, đường lối, quyết sách chính trị đúng đắn, sáng tạo; là hạt nhân lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, đường lối, quyết sách chính trị đã đề ra; chú trọng củng cố và nâng cao vị trí cầm quyền, vai trò lãnh đạo, uy tín chính trị của Đảng, nâng cao phẩm chất, bản lĩnh, lập trường chính trị cho cán bộ, đảng viên. Đồng chí là hạt nhân xây dựng sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; tạo được sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị về mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, quyết tâm chính trị; qua đó giành được nhiều thành tựu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực phát triển đất nước, với những dấu ấn nổi bật, làm cho cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước được củng cố và phát triển.
Trong xây dựng Đảng về tư tưởng, cùng với Trung ương Đảng, đồng chí luôn khẳng định và định hướng tiếp tục thực hiện “4 kiên định” gồm: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (1); chú trọng tăng cường công tác nghiên cứu, phát triển lý luận, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; công tác nghiên cứu, học tập quán triệt nghị quyết của Đảng; công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; công tác văn hóa - văn nghệ; kiên quyết, kiên trì bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Trong xây dựng Đảng về đạo đức, đồng chí cùng Trung ương Đảng đẩy mạnh lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp với yêu cầu: “kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, chiến lược; “chống” là quan trọng, cấp bách. Đề cao tinh thần “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không bị tác động bởi bất cứ tổ chức, cá nhân không trong sáng nào. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Nâng cao tính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực; đồng thời khuyến khích, cổ vũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của nhân dân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh” (2).
Trong xây dựng Đảng về tổ chức, Đồng chí cùng Trung ương Đảng tập trung lãnh đạo đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Việc củng cố, kiện toàn đội ngũ cấp ủy viên các cấp, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo chính trị, công tác quản lý, rà soát, sàng lọc đảng viên, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ được Đồng chí quan tâm chỉ đạo sát sao.
Trong xây dựng Đảng về cán bộ, Đồng chí Tổng Bí thư xác định công tác cán bộ là nhiệm vụ trọng tâm, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ là giải pháp đột phá. Đồng chí cùng Trung ương Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hệ thống các quy định và tổ chức thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, lựa chọn, giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm, đãi ngộ, tạo môi trường khuyến khích, bảo vệ cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung”(3). Đồng thời, chú trọng kiểm soát quyền lực, sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, qua đó góp phần bảo đảm kỷ cương, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng và chế độ.
Trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, Đồng chí đã cùng Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, thiết thực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả, thực hiện đúng phương châm “chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả”, bảo đảm công minh, chính xác, kịp thời, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.
Trong công tác dân vận của Đảng, với vai trò của người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí là tấm gương quy tụ, đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị, giữ mối liên hệ mật thiết, máu thịt giữa Đảng với nhân dân, thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Đồng chí quán triệt: “Kết quả và thành công của Đại hội là rất quan trọng, tuy nhiên đó cũng mới chỉ là bước mở đầu. Còn làm được hay không, mai kia có biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động hay không; có làm ra của cải vật chất, mang lại giàu có và hạnh phúc cho nhân dân hay không, đấy mới là thành công thực tế của Đại hội”(4) và tiếp tục yêu cầu: “Cần quan tâm hơn nữa đến nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, hài hòa và ngang tầm với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(5).
Đồng chí có những đóng góp to lớn vào công tác phát triển lý luận của Đảng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bằng sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt với tinh thần: “Phải kiên trì giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về đức tính liêm khiết, chính trực… Cán bộ, đảng viên, trước hết là người lãnh đạo phải gương mẫu chấp hành, thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phòng chống tham nhũng, tiêu cực… biết trọng liêm sỉ, giữ danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân có hành vi tham nhũng, tiêu cực”(6) , “chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai để “không dám” tham nhũng, tiêu cực” (7) và mục tiêu “nhằm làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước, để phát triển đất nước. Đây là cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”, không phải là cuộc đấu giữa các “phe cánh” hay “đấu đá nội bộ”, như có người không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc với động cơ sai, dụng ý xấu”(
😎
. Nhờ đó, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với nhiều cách làm mới, sáng tạo, đã đạt được những kết quả trên cả hai mặt “phòng” và “chống”, tiếp tục tạo bước đột phá trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, được cán bộ, đảng viên, nhân dân tin tưởng, đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và phát triển về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới, Đồng chí cùng Trung ương Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện; chú trọng lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy dân chủ, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
3. Tổng Bí thư là người cộng sản mẫu mực về bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, uy tín; là tấm gương sáng ngời cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện
Trong các cương vị quan trọng được Đảng giao cho, Đồng chí luôn trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Toàn bộ quan điểm, lời nói và hành động của Đồng chí thể hiện rõ sự tôn trọng, tin tưởng, gần gũi và gắn bó mật thiết với nhân dân, quan tâm chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi hành vi gây phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích của Đảng, Nhà nước và của nhân dân.
Đồng chí là minh chứng cho chí khí của người cộng sản, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, cả cuộc đời bền bỉ nghiên cứu, học tập, hoàn thiện bản thân; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thách thức, hành động vì lợi ích chung, vì nước, vì dân; nỗ lực hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc. Đồng chí là hạt nhân đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong nhân dân.
Đồng chí là tấm gương tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, suốt đời trung thực trước Đảng, trong công việc, trước nhân dân, thẳng thắn trong đấu tranh tự phê bình và phê bình, có phong cách lãnh đạo, chỉ đạo dân chủ, quyết liệt, khách quan, công tâm, có đời sống cá nhân thanh bạch, luôn đề cao tự trọng, giữ gìn phẩm giá, coi danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất của người cộng sản, như đại ý của câu nói mà đồng chí thường nhắc tới: “Cái quý nhất của con người là Cuộc sống và Danh dự sống, bởi vì đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi hổ thẹn vì những việc làm ty tiện, đớn hèn, bị mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta có thể tự hào rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời - sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì sự trường tồn của Dân tộc, sự vẻ vang của Giống nòi và hạnh phúc của Nhân dân!”(9).
Sự khiêm tốn của người cộng sản mẫu mực thể hiện trong lời phát biểu của đồng chí: “tất cả những gì tôi đã làm là vô cùng nhỏ bé so với công lao giáo dục, rèn luyện của Đảng; sự kèm cặp, chỉ bảo của các đồng chí đảng viên đi trước; sự cộng tác, giúp đỡ của đồng chí, đồng nghiệp; sự động viên, ủng hộ của nhân dân, mà trực tiếp là những cơ quan - nơi tôi từng học tập, công tác và làm việc”(10).
Người cộng sản mẫu mực Nguyễn Phú Trọng đã truyền cảm hứng, giúp cán bộ, đảng viên có thêm động lực để tiếp tục bền bỉ tu dưỡng, rèn luyện, nuôi dưỡng niềm tin và lý tưởng cộng sản, như Đồng chí vẫn thường nhắc: “Tôi xin nguyện suốt đời phấn đấu, hy sinh, tuyệt đối trung thành với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện; cố gắng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xứng đáng là một đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, như lời của một bài hát: “Nếu là hoa hãy là hoa hướng dương; nếu là chim hãy là chim câu trắng; nếu là đá hãy là đá kim cương; nếu là người hãy là người cộng sản”” (11)./.
St

NGƯỜI THỨ BA ĐƯỢC NHẬN GIẢI THƯỞNG LÊNIN

 Ra đời gần 100 năm, nhưng những cá nhân được nhận Giải thưởng Lênin không nhiều. Ở Việt Nam, giải thưởng này mới trao cho ba người: Tổng Bí thư Lê Duẩn (1980), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ (1985) và người thứ ba không ai khác chính là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đảng Cộng sản Liên bang Nga có ý chọn đúng ngày kỷ niệm lần thứ 76 ngày sinh (14/4/1944) của Tổng Bí thư để thông qua Nghị quyết trao tặng Giải thưởng.

Giải thưởng Lênin của Đảng Cộng sản Liên Xô (trước đây) và Đảng Cộng sản Liên bang Nga (hiện nay) ra đời tháng 6 năm 1925, là phần thưởng cao quý nhất dành trao tặng những tập thể, cá nhân có đóng góp xuất sắc trong hoạt động xã hội, góp phần thúc đẩy công bằng, nhân văn và tiến bộ xã hội; vì sự nghiệp bảo vệ và hiện thực hóa những giá trị của chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là phần thưởng dành cho những người làm công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn vì đã góp phần làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên bang Nga đã nêu rõ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đã có những đóng góp cá nhân to lớn vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển phong trào cộng sản trong giai đoạn hiện nay; nhiều năm hoạt động nghiên cứu và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin; nghiên cứu khoa học những vấn đề thời sự của chủ nghĩa xã hội khi còn là Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản và Chủ tịch Hội đồng Lý luận của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam”./.
St

VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI THẮNG LỢI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

 Cách mạng Tháng Tám 1945 là biểu hiện cao nhất, kết quả minh chứng rõ nhất cho một hành trình dài Hồ Chí Minh chuẩn bị các điều kiện để hiện thực hóa khát vọng đem lại độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Bài viết phân tích vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đó là: định hình đường lối chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn; dự báo sớm, nhận định đúng thời cơ cách mạng; phân hóa đối tượng, tranh thủ tận dụng hiệu quả sự giúp đỡ của các lực lượng; kiên quyết, kịp thời lãnh đạo nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa thành công.

Đặt vấn đề
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, là mốc son chói lọi của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh đã có một lộ trình miệt mài, kiên trì, bản lĩnh chuẩn bị cho khát vọng cứu nước, giải phóng dân tộc trở thành hiện thực. Lộ trình ấy bắt nguồn từ mục tiêu và hành động của người thanh niên Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước (1911) đến các hoạt động sôi nổi trong phong trào cách mạng thế giới; chuẩn bị các điều kiện và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930); chủ động triệu tập, chủ trì Hội nghị Trung ương tám (5-1941) với những quyết sách, chiến lược quan trọng có tính chất quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
1. Định hình đường lối chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn
Điều này thể hiện rõ qua vai trò chủ động của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Trung ương 8. Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 họp tại Pác Bó (Cao Bằng), do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Hội nghị nhận định nếu tấn công Liên Xô, phát xít Đức sẽ bị tiêu diệt; cách mạng nhiều nước sẽ thành công; một loạt nước xã hội chủ nghĩa sẽ ra đời. Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là chuẩn bị cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tập trung mũi nhọn vào bọn xâm lược Nhật - Pháp. Hội nghị nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng cuộc khởi nghĩa võ trang”. Hội nghị đã phân tích kỹ những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi cho một cuộc tổng khởi nghĩa; dự đoán sự phát triển mau lẹ của tình hình, đồng thời cũng nhấn mạnh ý thức tự lực, tự cường. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh).Hội nghị đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng Đảng, gấp rút đào tạo cán bộ, chú trọng tăng thành phần công nhân trong Đảng.Hội nghị Trung ương 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược theo tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, là sự trở về với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc đã nêu trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng (năm 1930). Ngay sau Hội nghị, Người viết thư “Kính cáo đồng bào” (6-6-1941) gửi đến các tầng lớp nhân dân cả nước, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng…”. Hồ Chí Minh cho xuất bản Báo Việt Nam độc lập (gọi tắt là Việt lập), tuyên truyền, vận động nhân dân hăng hái tham gia cách mạng. Người viết tác phẩm Lịch sử nước ta (năm 1942), nêu bật truyền thống yêu nước, bất khuất, đoàn kết của dân tộc và đúc rút bài học về đoàn kết: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Phong trào cách mạng tiếp tục phát triển mạnh mẽ với mục tiêu tập trung cho nhiệm vụ trung tâm, trước tiên là giải phóng dân tộc. Theo đó hàng loạt các điều kiện được chuẩn bị: xây dựng lực lượng chính trị (Mặt trận Việt Minh mà nòng cốt là các đoàn thể cứu quốc); xây dựng lực lượng vũ trang (các đội du kích, thành lập Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân); xây dựng căn cứ địa cách mạng (từ Cao Bằng - Thái Nguyên - Tuyên Quang... đến Việt Bắc); tranh thủ mọi điều kiện có thể để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo; tuyên truyền và thực hiện chủ trương hợp tác với đồng minh; xây dựng sức mạnh nội lực và tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám, Đảng và Hồ Chí Minh đã nêu cao mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc với ý chí tự lực, tự cường, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc để tập hợp, đoàn kết nhân dân trong Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc. Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng và tổ chức, thống nhất ý chí hành động trong toàn Đảng.
2. Dự báo sớm, nhận định đúng thời cơ cách mạng
Chớp đúng thời cơ khởi nghĩa luôn là một vấn đề có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Đối với Hồ Chí Minh, đó là cả một hành trình dài trong sự tổng hợp, chiêm nghiệm hoạt động thực tiễn, quan sát để có được những nhận thức, đánh giá đúng, sát hợp thực tiễn, có đủ thế, lực, thời thì mới có thể chớp thời cơ thành công được.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề thời cơ, Người coi thời cơ là sức mạnh, là lực lượng. Theo người, có lực, có thế còn phải biết tạo thời và tranh thời. Nếu hành động đúng thời cơ thì lực lượng nhỏ cũng có thể giành thắng lợi lớn...
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai vừa bùng nổ (1939), Nguyễn Ái Quốc đã có những dự báo tài tình về phong trào cách mạng thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Cuối tháng 9-1944, sau khi được trả tự do từ nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh trở về nước, kịp thời hoãn cuộc khởi nghĩa đã được chuẩn bị của Liên tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn, vì nhận thấy trong nước nhiều nơi chưa sẵn sàng khởi nghĩa, cán bộ, vũ khí còn phân tán, thiếu hẳn một lực lượng nòng cốt.
Khi cục diện chiến tranh có lợi cho phe Đồng minh chống phát xít. Thời cơ cho dân tộc Việt Nam đang đến gần. Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào toàn quốc (10-1944). Người phân tích tình hình và dự đoán thời cơ của cách mạng Việt Nam: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”.
Ngoài đội các Cứu quốc quân được xây dựng từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn, đến ngày 22-12-1944, đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được Người quyết định thành lập và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Thực hiện chỉ thị của Người “trận đầu phải thắng”, chỉ sau vài ngày thành lập, Đội đã lập hai chiến công hạ đồn Phai Khắt (25-12-1944) và Nà Ngần (26-12-1944). Chiến thắng đó có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng của quần chúng.
Từ đầu tháng 5-1945, Hồ Chí Minh chuyển “đại bản doanh” của cách mạng từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang), để thuận tiện cho việc chỉ đạo phong trào cách mạng đang dâng cao trong cả nước. Người nhận định: Nay vùng giải phóng đã bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng lân cận của các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên, địa thế nối liên nhau, nên lập thành một khu căn cứ cách mạng, lấy là Khu giải phóng. Chấp hành chỉ thị của Người, Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập Hội nghị cán bộ tuyên bố thành lập Khu giải phóng, chuẩn bị về mọi mặt làm bàn đạp để tiến lên giải phóng toàn quốc.
Dự báo về thời cơ còn được thể hiện sâu sắc hơn khi Hồ Chí Minh nhận định thời điểm để tiến hành Tổng khởi nghĩa thành công chỉ khoảng nửa tháng tính từ khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam giải giáp phát xít Nhật theo quyết định tại Hội nghị Pốtxđam. Đồng thời, Người cũng xác định cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam nhất thiết phải đứng trong phong trào cách mạng thế giới, phải là một bộ phận của lực lượng đồng minh chống chủ nghĩa phát xít, coi đó là một điều kiện quan trọng bảo đảm sự thành công của cách mạng. Điều này thể hiện tư duy sáng tạo, thực tiễn của Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc với cuộc cách mạng vô sản chung của nhân loại tiến bộ trên thế giới theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong cả lý luận và thực tiễn.
3. Phân hoá đối tượng, tranh thủ tối đa hiệu quả sự giúp đỡ của các lực lượng
Là nhà hoạt động chính trị, rất nhạy cảm với các vấn đề quốc tế, Hồ Chí Minh thấy lúc này cần tranh thủ các lực lượng. Điều này thể hiện rất rõ không chỉ đối với các lực lượng, thế lực bên ngoài (Quốc dân Đảng Trung Quốc, OSS, Việt Quốc, Việt Cách...) mà ngay cả với các lực lượng trong nước. Chủ trương bắt liên lạc, hợp tác với Đồng minh; thành lập mặt trận Việt Minh... là những minh chứng tiêu biểu cho vai trò phân hóa đối tượng, tranh thủ tối đa hiệu quả sự giúp đỡ của các lực lượng.
Tháng 3-1945, thông qua việc cứu giúp một phi công Mỹ (bị lực lượng phòng không của Nhật Bản bắn rơi) trở về Bộ Tư lệnh không quân Mỹ đóng tại Côn Minh (Trung Quốc), Hồ Chí Minh đại diện Mặt trận Việt Minh đã tiếp xúc và thiết lập quan hệ với lực lượng Mỹ. Người Mỹ cảm ơn Việt Minh những người Việt Nam có công cứu Trung úy phi công Mỹ William Shaw. Người trả lời “đó là bổn phận của những người chống phát xít, làm tất cả những việc gì có thể làm được để giúp đỡ Đồng minh”. Từ tháng 5-1945, một số quân nhân, sĩ quan Mỹ đã lần lượt đến Việt Bắc giúp Mặt trận Việt Minh về điện đài, huấn luyện về chiến thuật quân sự và cách sử dụng một số loại vũ khí; giúp Mặt trận Việt Minh một số vũ khí, thuốc men,... Sự hoạt động của lực lượng Mỹ tại Việt Nam thể hiện sự sáng suốt của Hồ Chí Minh trong việc tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ từ bên ngoài cho cách mạng Việt Nam, đồng thời, thể hiện tinh thần quốc tế của nhân dân Việt Nam ngay từ đầu đã đứng về phe Đồng minh chống phát xít, góp phần vào thắng lợi chung trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Giữa những ngày đầu năm 1945, nhất là sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp và Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta ngày 12-3-1945 của Trung ương Đảng, cao trào kháng Nhật cứu nước, không khí khởi nghĩa đã sục sôi khắp mọi miền Tổ quốc, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục kiên trì tranh thủ tìm cách vừa có thể phân hóa lại vừa có thể tranh thủ được các đối tượng ủng hộ của cách mạng. Đầu tháng 4-1945, Hồ Chí Minh đến Bách Sắc - một thị trấn nhỏ nhưng có vị trí chiến lược quan trọng ở phía Tây Nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Trương Phát Khuê và liên lạc với tổ chức Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách). Hồ Chí Minh đã căn dặn Hoàng Quốc Việt - một thành viên của đoàn lưu ý khi quan hệ hợp tác với các lực lượng rằng: “cần bí mật, cẩn thận, cảnh giác”, “Chúng ta không hy vọng gì ở họ nhưng cần tranh thủ họ cho tới khi không thể tranh thủ được”.
Cách mạng Tháng Tám đã huy động được tuyệt đại đa số nhân dân tham gia, bao gồm các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo... kết thành một khối thống nhất cùng nhau hành động để đánh Pháp, đuổi Nhật, cứu giống nòi khỏi ách xâm lược. Đó là sức mạnh của toàn thể nhân dân được tổ chức trong Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không có tổ chức Mặt trận chặt chẽ, thống nhất như thế thì không có được lực lượng chính trị hùng hậu để từ đó xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
4. Kiên quyết, bản lĩnh kịp thời lãnh đạo nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa thành công
Bản lĩnh và tài năng lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo trong thắng lợi lịch sử của Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 được chứng minh bằng nghệ thuật chớp thời cơ. Việc lựa chọn đúng thời điểm để kêu gọi toàn dân Tổng khởi nghĩa xuất phát từ thực lực của lực lượng cách mạng Việt Nam đã được dày công chuẩn bị, từ tinh thần "đem sức ta mà giải phóng cho ta". Trong thời điểm lịch sử vô cùng sôi động đó, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước. Người viết: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, căn cứ vào tinh thần Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khát vọng độc lập tự do cháy bỏng, với quyết tâm to lớn, hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam từ Bắc tới Nam đã vùng lên làm cuộc Tổng khởi nghĩa oanh liệt trên toàn quốc.
Hồ Chí Minh đã thể hiện quyết tâm sắt đá, dù phải đánh đổi nhưng cũng kiên quyết phải thực hiện cho bằng được mục tiêu Người suốt đời theo đuổi. Thế nên dù đang ốm rất nặng, nhưng khi Võ Nguyên Giáp vào thăm, Người khẳng định như một mệnh lệnh rõ ràng, dứt khoát: “Bây giờ thời cơ thuận lợi đang tới, dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã diễn ra và giành thắng lợi nhanh chóng trong vòng 15 ngày, trong đó thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có ý nghĩa quyết định. Ngày 2-9-1945, tại cuộc mít tinh lớn ở vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám 1945 có những tính chất tiêu biểu: Đây là cuộc khởi nghĩa có tính chất nhân dân, chúng ta có thể nhìn vào số lượng vài nghìn cán bộ đảng viên so với khoảng 22 triệu dân khi ấy nhưng Đảng đã huy động, lãnh đạo được toàn dân đoàn kết đứng lên sẵn sàng hy sinh, chiến đấu và giành thắng lợi, thì đó quả là sức mạnh vĩ đại của nhân dân, là niềm tin của dân vào Đảng, là mục tiêu, ước nguyện của Đảng đã hoà quyện vào mục tiêu, khát vọng của nhân dân, Tổ quốc.
Kết luận
Thật khó có thể đề cập hết những vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám. Song, qua những tư liệu lịch sử, phần nào có thể khái quát được vai trò quyết định của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945. Đây là quá trình Người cùng Đảng và nhân dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa thành công, đưa tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một bước ngoặt cách mạng chưa từng có trên con đường phát triển của dân tộc Việt Nam./.
ST