Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

Nhận diện luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xuất khẩu lao động

 Tái diễn chiêu trò “bình cũ, rượu mới”, các đối tượng thường xuyên rêu rao, xuyên tạc, đơm đặt phủ nhận những thành quả trong hợp tác quốc tế của Việt Nam khi tổ chức phối hợp đào tạo, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mới đây, sau khi trang Việt Tân chia sẻ bài viết với nội dung “Ơn Đảng, ơn Chính phủ, hơn 48.000 người Việt đi xuất khẩu lao động từ đầu năm”, số tay chân cộm cán ồ ạt bình luận, chia sẻ theo dạng “té nước theo mưa” hòng định hướng dư luận theo chiều hướng tiêu cực. Đáng chú ý, nội dung luận điệu xuyên tạc còn hướng tới bới móc, phủ nhận mọi nỗ lực, kết quả của cơ quan chức năng Việt Nam trong công tác quản lý di cư, bảo hộ công dân. Ngày 8/5/2024, lợi dụng việc Bộ Thương mại Mỹ tổ chức phiên điều trần về nâng cấp quy chế thị trường cho Việt Nam, tổ chức theo dõi Nhân quyền (HRW) tiếp tục đưa thông cáo xuyên tạc việc bảo đảm quyền của người lao động, phủ nhận vai trò của Việt Nam trong việc bảo hộ công dân ở nước ngoài. Những luận điệu đó không chỉ gây bức xúc dư luận mà còn tác động gây hoang mang đối với công dân Việt Nam đang lao động tại nước ngoài.

Trong khi đó, lao động và việc làm là một trong những quyền cơ bản của công dân được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, được cụ thể hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật cũng như bảo đảm thực thi trong đời sống. Tại Điều 35, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Bộ luật Lao động năm 2019 tại khoản 1, Điều 4 về chính sách lao động nêu rõ: “Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, người làm việc không có quan hệ lao động; khuyến khích những thỏa thuận bảo đảm cho người lao động có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động”…

Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là không đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bằng mọi giá mà phải bảo đảm hỗ trợ, tạo điều kiện để người lao động ra nước ngoài làm việc cũng như sau khi về nước có vị trí làm việc phù hợp. Người lao động được tự do lựa chọn hình thức làm việc phù hợp, không bị ép buộc phải làm việc trái ý muốn. Nhà nước Việt Nam thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài thi hành mọi biện pháp để công dân Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền và lợi ích theo pháp luật nước tiếp nhận, điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước đó ký kết, tham gia hoặc theo tập quán quốc tế.

Khi các quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam bị xâm phạm, cơ quan đại diện có nghĩa vụ thi hành mọi biện pháp để khôi phục những quyền và lợi ích chính đáng đó. Trách nhiệm Nhà nước trong việc thực hiện mọi biện pháp cần thiết phù hợp với pháp luật sở tại, luật pháp và thông lệ quốc tế và pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền và lợi ích của công dân Việt Nam ở nước ngoài được quy định tại hầu hết văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước như: Hiến pháp năm 2013 (khoản 3, Điều 17), Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (Điều 5); Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài năm 2009 (Điều 8 và Điều 9), Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020…

Những năm qua, các nhà “dân chủ” giả hiệu, các thành phần chống đối chính trị luôn tìm cách châm chọc, gieo rắc những quan điểm méo mó về vấn đề xuất khẩu lao động khi rêu rao rằng: “Đất nước yên bình, hạnh phúc mà sao dòng người Việt cứ tìm đủ mọi cách ra đi”; “người dân Việt Nam vẫn ồ ạt sang nước ngoài để bán sức lao động, đây là một điều đáng buồn cho đất nước khi dân phải bỏ xứ ra đi”… Dân gian có câu “lưỡi không xương trăm đường lắt léo, miệng không vành méo mó tứ phương”, thật đáng lên án, phê phán luận điệu của những kẻ lao động bằng nghề “dân chủ” giả hiệu, chỉ biết ngửa tay nhận tài trợ từ các thế lực thù địch, các tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam ở nước ngoài. Những người chuyên “ăn bám” bằng việc bồi bút xuyên tạc nhưng vì một động lực vô hình, họ bỏ qua danh dự, lòng tự trọng chê bôi đất nước, dè bìu, xỉa xoáy những người lao động chân chính.

Mặc dù công tác tuyên truyền luôn được các cơ quan chức năng, các nhà quản lý, các doanh nghiệp chú trọng nhưng với vỏ bọc ngụy trang “những người yêu nước”, “các nhà dân chủ”, sự trợ giúp của mạng xã hội nên luận điệu xuyên tạc được tán phát rộng rãi trên không gian mạng, tác động không nhỏ đến nhận thức của một bộ phận người dân, người lao động nhẹ dạ cả tin; gây ra sự phân tâm, lo lắng, hoài nghi về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với người lao động. Đồng thời gián tiếp tác động làm giảm sự nhiệt huyết của những ai đang có dự định ra nước ngoài làm việc hoặc cố tình gây “chiến tranh tâm lý”, tạo dựng một viễn cảnh méo mó về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam, gây hoang mang dư luận.

Thực tiễn công tác phòng, chống thiên tai bão lũ - minh chứng phản bác mọi luận điệu xuyên tạc

 Thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan đang diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường, hậu quả thiên tai gây ra là không thể tránh khỏi. Chúng ta chỉ có thể nắm bắt tình hình, dự báo sớm để chủ động phòng ngừa, hạn chế thấp nhất hậu quả xảy ra và nỗ lực khắc phục thiệt hại. Trong thực tế, chúng ta đã rất chủ động đối phó với cơn bão ngay từ sớm.

Thủ tướng đã ban hành các công điện chỉ đạo các bộ, ban, ngành, địa phương triển khai nhiều biện pháp cấp bách chủ động ứng phó thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả, đồng thời phân công các thành viên Chính phủ, các cơ quan chức năng kiểm tra việc ứng phó, lập ban chỉ đạo tiền phương để kịp thời chỉ đạo xử lý các tình huống đặt ra trước, trong và sau khi bão đổ bộ. Toàn dân tộc đã phát huy tinh thần đại đoàn kết, đồng lòng, chung tay giúp đỡ đồng bào vượt qua khó khăn.

Để phòng, chống bão số 3, Bộ Công an đã huy động hơn 100.000 lượt cán bộ, chiến sĩ của Công an 35 tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng, giúp đỡ nhân dân chằng chống nhà cửa, tuyên truyền, vận động nhân dân đến nơi tránh trú bão an toàn, sơ tán gần 53.000 người trên lồng bè, chòi canh nuôi thuỷ sản, trong các nhà yếu đến nơi an toàn. Phối hợp Bộ đội Biên phòng kiểm đếm, hướng dẫn hơn 51.000 tàu cá, gần 220.000 người về nơi tránh trú an toàn; bố trí các trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác phòng chống bão.

Theo báo cáo của Cục Cứu hộ cứu nạn, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân đội đã huy động hơn 450 nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ và hơn 10.000 phương tiện ứng phó siêu bão số 3. Trước khi bão đổ bộ, các đơn vị Quân đội đã nhanh chóng có mặt tại những nơi nguy hiểm, xung yếu hỗ trợ chính quyền địa phương và nhân dân ứng phó, khắc phục hậu quả bão lũ. Trong những ngày xảy ra mưa lũ trên diện rộng, Công an các địa phương phía Bắc tập trung hỗ trợ sơ tán người dân di dời khỏi vùng nguy hiểm, tham gia gia cố đê kè ngăn lũ, trực tiếp tuần tra, đưa người bị mắc kẹt trong lũ đến nơi an toàn, đưa người bị nạn đi cấp cứu.

Hậu bão số 3 đã gây ra lũ quét, lũ lụt diện rộng cho nhiều tỉnh, thành phố phía Bắc với nhiều thiệt hại về người và của. Để ứng phó, khắc phục hậu quả mưa lũ, sạt lở đất, lũ ống, lũ quét, giúp đỡ nhân dân nhanh chóng ổn định sản xuất, cuộc sống, không để người dân nào bị đói, rét, không nơi ở, đảm bảo an ninh trật tự, thực hiện hiệu quả công tác cứu nạn, cứu hộ, lực lượng Công an đã khẩn trương huy động tối đa lực lượng, phương tiện ở nhiều đơn vị, địa phương. Công an các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng… huy động toàn lực lượng từ cấp tỉnh tới cấp xã sử dụng các phương tiện tiếp cận, di chuyển toàn bộ người và tài sản trong vùng có nguy cơ ngập lụt nghiêm trọng tới nơi tránh trú.

Đã có nhiều tấm gương anh dũng trong thực hiện nhiệm vụ, trong đó có cán bộ đã hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản cho nhân dân, đó là Thượng úy Nguyễn Đình Khiêm (sinh năm 1997), Đại đội trưởng Đại đội 3, Tiểu đoàn Công binh 1, Lữ đoàn Công binh 513, Quân khu 3; Trung tá Trần Quốc Hoàng (sinh năm 1987), cán bộ Trại giam Quảng Ninh.

Đặc biệt, sau khi xảy ra tai nạn sập cầu Phong Châu và trận lũ quét kinh hoàng làm hơn 100 người bị vùi lấp ở bản Làng Nủ, Lào Cai, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ Công an địa phương và CSCĐ thuộc Bộ Tư lệnh CSCĐ cùng một số đơn vị Quân đội đã đến hiện trường tiến hành cứu nạn, cứu hộ với quyết tâm, nỗ lực cao nhất.

Trong bão tố, người Việt không chỉ cùng nhau vượt qua những thử thách mà còn thể hiện rõ nét tinh thần tương thân tương ái. Những căn nhà trống mở cửa đón người trú bão, những dòng xe tải chậm rãi che chắn cho xe máy hay những người lặng lẽ chia sẻ đồ ăn, thức uống - tất cả đã tạo nên một bức tranh đẹp về lòng nhân ái giữa thiên tai. Hình ảnh lực lượng Công an, Quân đội và các lực lượng khác cùng dân chống bão; nhiều người dân hỗ trợ nhau vượt qua thiên tai, khắc phục thiên tai trong những ngày qua thêm lần nữa cho thấy sự quý giá của tình quân dân, nghĩa đồng bào.

Có thể thấy trong bão lũ, những nghĩa cử cao đẹp được trao đi để cùng nhau vượt qua gian khó. Đó là tinh thần đoàn kết, lá lành đùm lá rách của người Việt Nam. Những nghĩa cử đẹp trong cộng đồng hướng về nơi chịu thiệt hại về thiên tai đã cho thấy niềm tin về lòng tốt, sự sẻ chia, là trách nhiệm và ý thức công dân của con người trong xã hội vẫn luôn tỏa sáng và hơn thế, chính sự ấm áp, những nghĩa cử cao đẹp đã đưa con người xích lại gần nhau hơn, cho thấy một Việt Nam đoàn kết, sáng ngời tấm lòng sẻ chia.

Các giá trị đó đã làm nên cốt cách và bản sắc văn hóa, là nền móng, sức mạnh nội sinh để dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Ngày nay, đoàn kết, tương thân, tương ái vẫn là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam tiếp tục phát triển vững mạnh, đạt được nhiều thành tựu mới.

Hình ảnh những cán bộ, chiến sĩ Công an, Quân đội cùng các lực lượng dầm mình trong mưa gió để cứu nạn, cứu hộ, trắng đêm đảm bảo an toàn cho tính mạng và tài sản của nhân dân là hình ảnh thân thuộc, ở mỗi bản làng, khu phố trong thiên tai, bão lụt. Đó là minh chứng sinh động của tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, phủ nhận mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động.

Những thông tin xuyên tạc trên không gian mạng

Ngay sau khi cơn bão số 3 (bão Yagi) đổ bộ vào Việt Nam gây nên những thiệt hại to lớn về người và của, đồng thời hoàn lưu bão gây sạt lở đất và lũ lụt diện rộng ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng, bên cạnh sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước và địa phương trong việc ứng phó nhằm giảm tối đa thiệt hại về người và của thì trên không gian mạng lại có những tiếng nói xuyên tạc, lạc lõng.

Có thể kể đến một số trang tin như Việt Tân, VOA Tiếng Việt, RFA... đã ra sức đăng tải những thông tin sai trái, xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến công tác phòng, chống bão lũ, bỏ mặc nhân dân tự chống chọi với thiên tai.

Họ vu cáo với các luận điệu như: “Đừng trông chờ gì Đảng, Nhà nước Việt Nam hỗ trợ người dân sau bão Yagi”; “Các nhóm lợi ích và sau lưng những kẻ bảo kê cho nhóm lợi ích chỉ nghĩ đến tiền thôi, họ không màng đến sự sống của người dân”; “Phải chi Nhà nước dùng ngân sách bảo vệ dân bằng một phần nhỏ ngân sách để bảo vệ Đảng, có lẽ nhiều người dân đã được cứu”…

Trang Việt Tân đưa các hình ảnh người dân bị thiệt hại sau bão lũ rồi kích động: “Trong các báo cáo diễn tập, những thiên tài của Đảng luôn tuyên bố “hoàn thành xuất sắc công tác phòng, chống lụt bão”, vậy mà…”; “Mưa bão tới đâu, lãnh đạo cho diễn tới đó”; “Nhân dân lâm nguy, chính quyền vẫn ưu tiên bệnh thành tích”; “Rất nhiều người kêu cứu trong tuyệt vọng, không rõ chính quyền, công an, cứu hộ đi đâu”…

Họ mỉa mai rằng, chỉ có dân cứu dân khi hoạn nạn, dân không thể kêu cứu chính quyền mà chỉ có thể nhờ ai đó giúp mình; rằng “tuyên truyền thì ngạo nghễ, thực tế thì ngao ngán”! Thậm chí, một số trường hợp còn đưa những hình ảnh không chính xác rồi miệt thị đó là ảnh “biểu diễn” cứu hộ, cứu nạn trong bão lũ nhằm “lừa mị dân”…

Các tổ chức phản động lưu vong lợi dụng việc bão lớn làm đổ nhiều cây xanh, cột điện, hỏng nhiều đường sá, cầu cống rồi cố tình chọn đăng một vài hình ảnh cây mới trồng không có nhiều rễ, cột điện có ít lõi sắt (cả ảnh thật và ảnh cắt ghép, ảnh không rõ nguồn gốc và thời điểm chụp) rồi từ việc phê phán chính quyền thiếu trách nhiệm, tham nhũng, tắc trách để quy chụp “cây xanh dưới cơ chế của đảng thì phải chấp nhận vậy thôi”!

Có đối tượng bất mãn, chống đối lại đưa ra những luận điệu kiểu “tâm linh” như cho rằng, cơn bão Yagi đổ bộ vào Việt Nam càn quét gây thiệt hại nặng nề là do “trời trừng phạt và do chế độ độc Đảng lãnh đạo”. Từ đó, những đối tượng này cổ xuý, muốn chống bão lụt thì dân hãy tự lo lấy, chừng nào còn độc đảng thì chừng đó chính quyền còn bỏ mặc nhân dân và hả hê trước những thiệt hại to lớn về người và của trước sự tàn phá của cơn bão.

Bên cạnh đó, trong khi Đảng, Nhà nước và các địa phương, lực lượng chức năng cùng quân dân miền Bắc đang gồng mình ứng phó với trận bão, lũ lịch sử, huy động tối đa các nguồn lực để phòng, chống và giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả; trong khi cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đồng bào cả nước đang hướng về miền Bắc, tích cực ủng hộ, giúp đỡ người dân ở những vùng gặp nạn thì trên mạng xã hội lại có những hình ảnh, bài viết thông tin sai sự thật, nhất là thông tin sai về việc vỡ đập, vỡ đê, ngập lụt, sạt lở... dẫn đến người dân hoang mang.

Không chỉ xuất hiện tin giả, tin sai lệch về bão số 3, một số đối tượng còn lợi dụng thiệt hại do bão gây ra để kêu gọi ủng hộ nhằm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Các đối tượng lừa đảo sử dụng hình ảnh, thông tin giống các trang chính thống kêu gọi những người hảo tâm quyên góp, chuyển tiền vào tài khoản cá nhân để chiếm đoạt… Những hành vi này vừa gây nhiễu loạn trong dư luận, vừa tạo cớ để các thế lực xấu lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thiên tai, hoạn nạn.

Những thông tin xuyên tạc, thông tin mang tính quy kết “gắp lửa bỏ tay người” của các thế lực thù địch và các tổ chức phản động lưu vong, các phần tử bất mãn nói trên đi ngược với cộng đồng, gây nên sự hoài nghi, hoang mang trong dư luận. Từ việc hướng lái dư luận hiểu sai lệch, cho rằng Đảng, Nhà nước không quan tâm đến đời sống dân sinh, bỏ mặc người dân trong tình cảnh khốn khó, âm mưu của các đối tượng nhằm gây chia rẽ giữa nhân dân với Đảng, chính quyền, chia rẽ giữa lực lượng vũ trang và nhân dân, bôi lem Đảng, chế độ, kích động chống đối từ bên trong.

Có một quy luật quen thuộc trên không gian mạng là cứ hễ khi đất nước gặp khó khăn thì được các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động lại coi đây là thời cơ để lợi dụng chống phá. Điều này vốn từng xảy ra suốt thời gian chúng ta đối phó với đại dịch COVID-19.

Cảnh giác trước luận phản động

 

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.

Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.

Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.

Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.

2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...  

3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.

 Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).

Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.

Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.

Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.

Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam.

Đấu tranh với âm mưu xuyên tạc quan hệ láng giềng

 

Trải qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, mối quan hệ giữa Việt Nam với 3 quốc gia láng giềng là Lào, Campuchia và Trung Quốc đã chứng minh sự bền chặt và trở thành tài sản quý giá, niềm tự hào của người dân mỗi nước.

Nhưng thử thách chưa hẳn đã hết khi các thế lực thù địch, phản động vẫn đang âm thầm thực hiện ý đồ xuyên tạc, nhằm tạo ra bầu không khí nghi kỵ, hòng chia rẽ các mối quan hệ này.

Thực tiễn đã chứng minh các mối quan hệ Việt Nam-Lào, Việt Nam-Campuchia, Việt Nam-Trung Quốc đã vượt ra ngoài phạm vi của các mối quan hệ thông thường và được đặt vào vị trí ưu tiên hàng đầu trong tổng thể chính sách đối ngoại của mỗi nước. Thực tế đó trước hết bắt nguồn và được nuôi dưỡng từ truyền thống ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau của Việt Nam và 3 quốc gia láng giềng trong từng giai đoạn lịch sử, nhất là trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc của mỗi nước trước đây. Cùng với đó, trong thế giới đầy biến động hiện nay, việc duy trì quan hệ láng giềng hữu nghị càng đóng vai trò quan trọng đối với an ninh và phát triển của các quốc gia có chung đường biên giới. Nói cách khác, việc bảo vệ, giữ gìn và phát triển mối quan hệ láng giềng không chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan mà còn từ thực tế khách quan của cả Việt Nam, Lào, Campuchia và Trung Quốc. Cũng có thể khẳng định, cùng với đà thay đổi hết sức nhanh chóng của tình hình khu vực và quốc tế hiện nay, việc củng cố và phát triển môi trường hợp tác hữu nghị xuyên biên giới với Lào, Campuchia và Trung Quốc là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phù hợp với truyền thống giữ nước của ông cha ta. Khi nhiều nơi trên thế giới đang khốn khổ vì chiến tranh và xung đột, có lẽ người dân các nước thấm thía rằng, việc duy trì hiện trạng hòa bình, hợp tác, hữu nghị và phát triển trên mỗi tuyến biên giới là điều hết sức đáng quý.

Dĩ nhiên, quan hệ láng giềng cũng giống như bất kỳ mối quan hệ quốc tế nào khác, bên cạnh những điểm tương đồng thì vẫn tồn tại những vấn đề vướng mắc, tồn đọng, mà đối với Việt Nam, Lào, Campuchia và Trung Quốc điển hình là vấn đề biên giới, lãnh thổ. Thực tế cho thấy, trong nhiều năm qua, với tinh thần cầu thị, Việt Nam cùng 3 quốc gia láng giềng đã kiên trì, bền bỉ giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ và đạt được những kết quả quan trọng trong hoạch định biên giới trên đất liền. Bằng chứng là sau khi Việt Nam và Trung Quốc chính thức ký Hiệp ước hoạch định biên giới vào tháng 12-1999 và được Quốc hội hai nước phê chuẩn vào năm 2000, hai bên đã tiến hành phân giới, cắm mốc và đến cuối năm 2008, công tác phân giới, cắm mốc cơ bản hoàn thành. Trong khi đó, với biên giới Việt Nam-Campuchia, tháng 10-2019, hai nước đã ký chính thức hai văn kiện nhằm ghi nhận thành quả 84% chiều dài đường biên giới trên đất liền được phân giới, cắm mốc. Với biên giới Việt Nam-Lào, tháng 6-1981, hai bên đã phân giới trên thực địa và cắm mốc xong 95% đường biên giới; đến tháng 10-1987, hai bên ký Nghị định thư bổ sung ghi nhận toàn bộ kết quả công tác phân giới, cắm mốc theo Hiệp ước bổ sung, kết thúc quá trình phân giới, cắm mốc toàn bộ đường biên giới Việt Nam-Lào.

Thế nhưng, biên giới, lãnh thổ quốc gia luôn là vấn đề nhạy cảm, phức tạp nên thường xuyên bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để chống phá đường lối, chính sách đối ngoại, phá hoại sự ổn định về chính trị-xã hội của Việt Nam cũng như chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam và 3 quốc gia láng giềng. Không chỉ phủ nhận hoặc cố tình xuyên tạc những thành quả của quá trình giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền nói trên, đến nay, một số đối tượng vẫn tiếp tục sử dụng vấn đề biên giới, lãnh thổ cùng với các vấn đề tôn giáo, sắc tộc, nhân quyền để kích động, cổ vũ cho các hành vi vi phạm pháp luật và gây bất ổn ở biên giới, từ đó thực hiện mưu đồ chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng.

Cùng với đó, không thể không nhắc đến âm mưu thực hiện chiến lược “mưa dầm thấm lâu” nhằm xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam với Lào, Campuchia, Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng vào đời sống chính trị, kinh tế quốc tế và các quốc gia láng giềng cũng có nhiều hoạt động mở rộng, tăng cường quan hệ đối ngoại. Ví dụ có nhiều, song có lẽ điển hình nhất là trước, trong và sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden hồi tháng 9-2023. Lợi dụng việc Việt Nam đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ, một số đối tượng liên tục "phân tích bừa" rằng Việt Nam đã quay lưng lại với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ để “đi với nước này chống nước kia”, hoặc Việt Nam đang triển khai chính sách “đi dây” trong quan hệ với các cường quốc... Không khó để thấy rằng, mưu đồ cốt lõi phía sau những luận điệu xuyên tạc này là gây nghi kỵ trong dư luận nhân dân và tiếp tục “tập hợp lực lượng” để chống phá, chia rẽ quan hệ Việt Nam-Trung Quốc.

Phải thừa nhận, mặc dù những luận điệu xuyên tạc kết hợp với hành động phá bĩnh nói trên không thể làm suy chuyển đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam nhưng cũng tạo dư luận xấu trong một bộ phận quần chúng ít tiếp cận với nguồn thông tin chính xác, gây khó khăn cho hoạt động đối ngoại và xử lý các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam, trong đó có quan hệ với Lào, Campuchia,Trung Quốc. 

Song song với công cuộc đổi mới toàn diện và mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, những năm qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng và chăm lo gìn giữ, phát triển mối quan hệ với Lào, Campuchia, Trung Quốc. Trong đó, Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống.

Thực sự đáng mừng là các mối quan hệ ấy đã và đang phát triển tốt đẹp, góp phần rất quan trọng vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định ở các khu vực biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho nỗ lực phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân mỗi nước. Trên cơ sở xác định quan hệ chính trị là nền tảng, quan hệ giữa Việt Nam với Lào, Campuchia, Trung Quốc đang được mở rộng và hướng tới các hoạt động hợp tác thực chất trên mọi lĩnh vực như chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, quốc phòng-an ninh, giao lưu nhân dân, hợp tác ứng phó với thiên tai, môi trường...

Những kết quả hợp tác, nhất là ở khu vực biên giới, chính là lời phản bác đầy sức nặng đối với mưu đồ chia rẽ quan hệ Việt Nam-Lào, Việt Nam-Campuchia và Việt Nam-Trung Quốc, đồng thời là hồi chuông cảnh tỉnh với một bộ phận xã hội-những người xuất phát từ mong muốn đất nước tốt hơn song lại dễ bị mê hoặc bởi những luận điệu gây chia rẽ, kích động dư luận trên mạng xã hội.

Đâu cần gì cao xa, chỉ cần hiểu đúng về nỗ lực củng cố, bồi đắp mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng là đã góp phần không nhỏ cho hòa bình, ổn định và quá trình đi lên của đất nước.

Các tân sinh viên cần đề phòng những chiêu trò lừa thu học phí

Lợi dụng thời điểm các sinh viên vừa trúng tuyển đang làm thủ tục nhập học, một số đối tượng đã giả mạo là đầu mối của một số trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, để lừa chuyển tiền học phí, lệ phí nhập học. Trường Đại học Sài Gòn mới đây phát đi thông tin về việc một số thí sinh trúng tuyển nhận được tin nhắn yêu cầu đóng lệ phí nhập học năm 2024 với số tiền 6.953.000 đồng vào số tài khoản ngân hàng theo hướng dẫn trong tin nhắn lừa đảo. Bên cạnh đó, hàng loạt các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cũng đưa ra cảnh báo đối với các hình thức lừa đảo trên.

Đối tượng lừa đảo có thể tạo ra các trang web giả mạo trông giống như trang web chính thức của trường đại học. Ngoài ra, đối tượng còn giả danh là nhân viên của trường đại học và gửi email hoặc gọi điện yêu cầu sinh viên cung cấp thông tin cá nhân hoặc thanh toán học phí qua các phương thức không chính thức.

Cục An toàn thông tin khuyến cáo người dân kiểm tra các thông tin từ trường đại học hoặc tổ chức tài chính qua các kênh chính thức và liên hệ trực tiếp với trường nếu có bất kỳ nghi ngờ nào. Tuyệt đối không nhấp vào liên kết trong các email hoặc tin nhắn không rõ nguồn gốc và không cung cấp thông tin cá nhân cho các bên không xác định. Luôn thực hiện các khoản thanh toán học phí qua các kênh thanh toán chính thức do trường đại học hoặc tổ chức tài chính cung cấp.

Xuất hiện tình trạng nhờ shipper mua hàng hộ để chiếm đoạt tài sản

Các đối tượng lừa đảo thường tạo ra đơn hàng giả và yêu cầu shipper giao hàng đến địa chỉ không có thật hoặc không tồn tại. Bên cạnh đó, đối tượng thường xuyên yêu cầu shipper phải thanh toán một khoản tiền trước khi nhận đơn hàng hoặc yêu cầu thanh toán tiền mặt từ khách hàng khi không có lý do rõ ràng. Để tạo lòng tin, các đối tượng còn cung cấp thông tin cá nhân giả mạo, đưa ra lời hứa sẽ thanh toán thêm tiền hoa hồng với nhân viên giao hàng. Sau khi nạn nhân đồng ý và thực hiện giao hàng đến địa chỉ theo yêu cầu thì sẽ bị các đối tượng chặn liên lạc và chiếm đoạt tài sản.

Trước tình trạng trên, Cục An toàn thông tin khuyến cáo người dùng, đặc biệt là nhân viên giao hàng cần xác minh đơn hàng và địa chỉ giao hàng thông qua các kênh chính thức của hệ thống quản lý đơn hàng. Tuyệt đối không thực hiện giao hàng nếu có nghi ngờ về tính xác thực của đơn hàng. Chỉ thanh toán tiền và nhận tiền từ các nguồn tin cậy và theo quy trình chính thức của công ty hoặc nền tảng giao hàng. Không chia sẻ thông tin cá nhân hoặc tài chính với những người không xác định hoặc qua các phương tiện không an toàn. Trong trường hợp nghi ngờ bản thân bị lừa đảo, người dân cần ngay lập tức báo cáo cho cơ quan chức năng hoặc các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng để được hỗ trợ, giải quyết và ngăn chặn kịp thời. 

Tạo sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh

 Phòng, chống chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch là vấn đề khó khăn, phức tạp. Trên thực tế hiện nay, còn không ít người đang mơ hồ về chiến tranh tâm lý. Một bộ phận người dân do nhận thức hạn chế nên không nhận diện được các thủ đoạn chiến tranh tâm lý; thậm chí một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những người đã được rèn luyện, thử thách qua các thời kỳ cách mạng, song do chủ quan, mất cảnh giác trong nhận thức nên đã “sập bẫy” chiến tranh tâm lý và vô hình trung trở thành người cổ xúy cho các thế lực chống phá Đảng, Nhà nước.

Do vậy, để các tầng lớp nhân dân có nhận thức tốt hơn về chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch, các cấp, các ngành, các địa phương, cơ sở phải chủ động tuyên truyền, trang bị cho cán bộ, đảng viên, nhân dân những hiểu biết cơ bản về phương thức, thủ đoạn, kỹ thuật tiến hành chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Đây là cơ sở, yêu cầu hàng đầu nhằm góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch.

Cần phải đa dạng hóa hoạt động đấu tranh theo hướng thiết lập và sử dụng các trang thông tin chính thống, website, mạng xã hội, diễn đàn để đăng tải những bài viết tuyên truyền về quan điểm chính thống, định hướng dư luận, đồng thời đấu tranh phản bác các thông tin chiến tranh tâm lý nguy hại của các thế lực thù địch. Xây dựng và mở rộng đội ngũ cộng tác viên đưa tin, viết bài, bình luận; nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, có tính thuyết phục cao. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp; giữa xây và chống, trong đó lấy xây là chính; chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí, truyền thông của Đảng, Nhà nước để đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả.

Chủ động cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng trong mặt trận đấu tranh tâm lý. Với phương châm chỉ đạo công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu, không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá Đảng và Nhà nước, các cơ quan chức năng cần quan tâm nghiên cứu biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo để phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng đấu tranh cho các lực lượng. Việc chậm trễ cung cấp thông tin và sự thiếu chủ động trong việc định hướng dư luận chính là tự tạo ra "khoảng trống" thông tin, là mầm mống nảy sinh những biểu hiện bất lợi về tâm lý, tư tưởng trong xã hội; ở mức độ đơn giản là nảy sinh những đồn đoán tùy tiện, ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị các cấp.

Thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu nêu trên chắc chắn sẽ tạo ra hiệu quả trong phòng, chống, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch, phản động hiện nay.

Sự nguy hại từ âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tâm lý

Chiến tranh tâm lý là các hoạt động phá hoại tâm lý của đối phương; các thủ đoạn của đấu tranh tư tưởng tác động vào tâm lý con người, xã hội của đối phương, nhằm tạo ra những xung đột tư tưởng, lý tưởng, niềm tin, lợi ích và quyền lợi chính trị, kinh tế, xã hội, giá trị văn hóa... Từ đó gây ra mất đoàn kết, khủng hoảng và xung đột nội bộ, suy giảm tinh thần chiến đấu, dẫn đến phe cánh, bè phái, nội chiến rồi tự suy sụp, tan rã.

Trong thời bình, các thế lực thù địch thường coi chiến tranh tâm lý là “vũ khí chiến lược” hòng làm thay đổi sắc thái hòa bình, khiến cho hòa bình chính trị mất đi tính chất yên ổn, từ đó thừa cơ thực hiện tham vọng đen tối. Lợi dụng sự phát triển của khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, chiến tranh tâm lý trong thời bình mang những màu sắc tinh vi, khó nhận diện cho đến khi nó xuất hiện trên cả không gian thực và không gian ảo. Do đó, nguy cơ tác động từ chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch đến tư tưởng, tâm lý con người là rất khó kiểm soát.

Công cụ, lực lượng trực tiếp và chủ yếu tiến hành chiến tranh tâm lý là các cơ quan tình báo, các trung tâm truyền thông đại chúng, tổ chức phi chính phủ của một số quốc gia. Ngoài ra, cũng có một số người Việt Nam lưu vong cũng tham gia hành động này. Hoạt động tuyên truyền chiến tranh tâm lý đối với các tầng lớp nhân dân thông qua việc chuyển và tán phát tài liệu chống đối trong nước; tác động, lôi kéo phát triển lực lượng nội địa, xâm nhập vào hệ thống chính trị của ta. Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi năm ta đã phát hiện hàng nghìn tài liệu có nội dung chiến tranh tâm lý, tài liệu tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước được tán phát vào Việt Nam. Các đối tượng còn lập ra và sử dụng các đài phát thanh và truyền hình, các báo, tạp chí điện tử có trụ sở ở nước ngoài để tuyên truyền chiến tranh tâm lý. Họ thường xuyện lợi dụng các phương tiện truyền thông này để đưa nhiều nội dung thông tin xuyên tạc về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước hòng gây bất lợi đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam. Thi thoảng họ phát động những chiến dịch nhằm thổi phồng những khó khăn phức tạp trong xã hội; xuyên tạc tình hình đất nước, lợi dụng tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để kích động tâm lý bất bình, bất mãn trong xã hội hòng lôi kéo quần chúng nhân dân vào các hoạt động chống đối Đảng, Nhà nước ta.

MỘT KIỂU LÀM NỘI DUNG BẨN KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN ĐƯỢC!

         Thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên (tỉnh Lào Cai) là một trong những nơi chịu thiệt hại nghiêm trọng trong cơn bão lũ vừa qua. Cho đến nay, tại làng Nủ đã có 52 người chết và vẫn còn 14 người mất tích. Nỗi đau này quả thật là không siết với mỗi chúng ta khi nghe tin!

Vậy mà trên kênh Youtube “Những bài học nhỏ”, một kênh youtube có hơn 324 nghìn người theo dõi với những đoạn phim hoạt hình tựa như chương trình bài học cuộc sống nhằm giáo dục các cháu nhỏ lại đăng một video với tựa đề “Quả báo”. Nhìn ảnh bìa của video cũng là “Quả báo” nhưng khi ấn vào xem thì dòng tiêu đề rất to, hiện rất nhanh là “QUẢ BÁO LÀNG NỦ LÀO CAI” khiến ai hiểu chuyện xem cũng đều giật mình. Không biết đây là lỗi kỹ thuật hay một chiêu trò câu view, câu like của chủ kênh. Bởi đoạn phim hoạt hình này lại không hề nhắc tới làng Nủ. 

Tuy nhiên, khán giả đã tỏ ra vô cùng tức giận, họ đang mong chờ một sự giải thích thích đáng từ kênh cũng như sự vào cuộc xác minh, xử lý của cơ quan chức năng. 

Sau khi bị dân mạng phản ánh và lên tiếng, chủ kênh Youtube đã thay đổi ảnh đại diện (thumbnail) của video, nhưng trong nội dung video vẫn còn hình ảnh đáng lên án này!

Chủ kênh Youtube này xứng đáng phải lên phường.😡

Yêu nước ST.

BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH - “SỨC ĐỀ KHÁNG” CỦA THẾ HỆ TRẺ TRƯỚC NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN MẠNG XÃ HỘI HIỆN NAY

 Bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh là tổng hòa của các yếu tố tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực thực tiễn chính trị của Hồ Chí Minh; thể hiện tài năng, đức tính tự quyết định một cách độc lập thái độ, hành động quan điểm của mình không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi chính kiến với tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm trong toàn bộ quá trình tìm đường giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

Thế hệ trẻ Việt Nam là những công dân lứa tuổi thanh niên và là lực lượng đông đảo, xung kích trong công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước. Là lực lượng năng động, ham học hỏi, thích ứng nhanh nhưng việc tiếp thu và chọn lọc thông tin còn hạn chế. Do vậy, đây cũng là đối tượng mà các thế lực thù địch, phản động tập trung thực hiện âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” hết sức tinh vi, thâm độc. Thực trạng hiện nay cho thấy, nhiều bạn trẻ dành nhiều giờ mỗi ngày để “lướt mạng”, đọc tin, xem video, chia sẻ, bình luận,… mà không cần quan tâm đâu là thông tin thật, đâu là tin giả... Trong mớ hỗn độn của các luồng thông tin đúng - sai, thật - giả, tốt - xấu ấy, nhiều thanh, thiếu niên hoang mang, mất định hướng, không thể kiểm soát nhận thức, cảm xúc và hành vi của mình, bị thao túng, dẫn dắt bởi “hội chứng đám đông”, dẫn đến lệch lạc trong nhận thức, sai trái trong một số hành động, việc làm. Một bộ phận giới trẻ có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng, có lập trường chính trị, tư tưởng không vững vàng, bản lĩnh non kém, thiếu niềm tin, hoài nghi, dao động, thậm chí tin theo những luận điệu của các thế lực thù địch, xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ Đảng và chế độ, một bộ phận không nhỏ chạy theo lối sống buông thả, lơ là học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, thậm chí sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật Nhà nước. Cho nên, việc giáo dục cho họ có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, nhận biết được những luận điệu của kẻ thù, không bị nhiễu khi tiếp nhận thông tin, tạo ra sức “đề kháng” và “miễn dịch” cho thế hệ trẻ là một nội dung hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với việc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội hiện nay, cần giáo dục bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh trên những nội dung sau:

Giáo dục tinh thần kiên định với mục tiêu chính trị, kiên quyết đấu tranh với những luận điểm trái chiều

Để kiên định mục tiêu chính trị, thế hệ trẻ cần phải kiên quyết đấu tranh chống các luận điểm trái chiều, quan điểm sai trái. Đấu tranh tư tưởng, lý luận có vai trò trong đấu tranh chính trị, liên quan trực tiếp đến sự thành bại của dân tộc và sự sống còn của chế độ xã hội. Đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận rất khó khăn và phức tạp, nhất là trong những thời điểm các thế lực thù địch đang ra sức công kích, bài xích. Điều này đòi hỏi thế hệ trẻ phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn sáng suốt để phân định những luận điểm trái chiều, quan điểm sai trái.

Giáo dục ý chí, nghị lực phi thường, khát vọng vươn lên

Giáo dục ý chí, nghị lực phi thường, khát vọng vươn lên cho thế hệ trẻ, cần chú ý đến giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ về ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Theo Hồ Chí Minh, tuổi trẻ là tuổi của tương lai, muốn có tương lai tốt đẹp thì phải chiếm lấy bằng ý chí và nghị lực của chính bản thân; thế hệ trẻ là những người chủ tương lai của đất nước, do đó, cần ra sức rèn đức luyện tài, chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động cơ học tập đúng đắn, học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu được học tập tốt là yêu nước; tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội; không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, tuyên truyền, lôi kéo, kích động, cám dỗ; biết đấu tranh chống lại các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc; luôn tích cực nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị; biết trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của công nghệ, phát triển bản thân, đề kháng trước các quan điểm sai trái, thù địch.

Giáo dục tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo

Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch đã lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin, nhất là internet, mạng xã hội để xâm nhập, móc nối, tác động tiêu cực tới tư tưởng, ý chí của thế hệ trẻ với mục đích làm “chuyển hóa” suy nghĩ và tư tưởng của giới trẻ. Điều đó đòi hỏi thế hệ trẻ phải luôn tỉnh táo, không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trí tuệ và bản lĩnh, bảo vệ được quan điểm, chính kiến của mình; tự mình làm chủ mọi suy nghĩ, hành động, không bị a dua lôi kéo; đặc biệt là phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong nhận thức, tư duy và hành động đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tạo thế chủ động trên mặt trận đấu tranh trên internet, mạng xã hội.

 

PHỦ NHẬN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM - ÂM MƯU CŨ, THỦ ĐOẠN MỚI

 Chúng ta luôn hiểu rằng: Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu xuyên suốt của kẻ thù nhất là những thời điểm nhạy cảm như trước và sau mỗi kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, những dịp kỷ niệm sự kiện lịch sử của đất nước, những sai phạm của cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ cấp cao, ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Trung ương đảng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ta, thì lại xuất hiện không ít những quan điểm sai trái phủ nhận con đường đi lên CNXH của nước ta. Gần nhất, Hội nghị Trung ương Tám (khóa XIII) vừa diễn ra được Đảng ta thông qua rất nhiều nội dung trong đó có “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, trên các trang mạng lại xuất hiện nhiều bài viết sai trái phủ nhận con đường quá độ lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn nhằm kích động, gây hoang mang, dao động, làm xói mòn, giảm sút lòng tin trong một bộ phận nhân dân với Đảng, Nhà nước. Qua đó, đẩy mạnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chia rẽ và làm suy yếu trong nội bộ Đảng để tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế, việc nhận diện kịp thời và phê phán có cơ sở khoa học, chỉ rõ mục đích chính trị phản động của các quan điểm sai trái phủ nhận con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết.

Để đấu tranh đúng, trúng và hiều quả với âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Chúng ta cần hiểu rõ hơn về một số thủ đoạn mới nhằm phủ nhận con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gần đây như sau:

Một là, triệt để lợi dụng hiện tượng sụp đổ mô hình CNXH ở Liên Xô, Đông Âu với chiêu trò mới

Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã xảy ra hơn 30 năm nhưng đâu vẫn là sự kiện mà các thế lực thường xuyên lợi dụng để xuyên tạc, kích động, chống phá, làm suy giảm niềm tin cách mạng của nhân dân về một mô hình chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng đã bị sụp đổ trong quá khứ. Tuy vẫn là âm mưu cũ, song chiêu trò mới là kết hợp giữa các thế lực thù địch với các phẩn tử cơ hội chính trị để đưa ra nhiều luận điểm sai trái và phản động, phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

Hai là, những luận điệu mới về CNXH ở Việt Nam

Chúng cho rằng Việt Nam luận điệu“Việt Nam quá độ đi đâu?Nghe thì tưởng chừng như chúng đã thừa nhận con đường quá độ đi lên CNXH của chúng ta nhưng “không”. Thực chất, chúng tiến hành lèo lái dư luận rằng: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề. Với điểm xuất phát rất thấp như Việt Nam thì chưa có tiền lệ, có đi lên CNXH phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, chặng đường, có sự đấu tranh giữa “cái cũ và cái mới”. Thời kỳ ấy, Việt Nam phải thực hiện đan xen nhiều nhiệm vụ nhưng cốt yếu nhất là xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH. Thực tế để phấn đấu đuổi kịp sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại đã khó; trái lại, đặt mục tiêu vượt lên trên chủ nghĩa tư bản thì là điều không thể, nên con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam không bao giờ thành hiện thực mà chỉ là ảo tưởng.

Ba là, về lực lượng và phương thức mới phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Lực lượng đưa ra quan điểm sai trái phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam chủ yếu là những phần tử phản động người Việt ở nước ngoài và ở trong nước đã bị thoái hóa, biến chất, cực đoan. Triệt để lợi dụng tổ chức phản động Việt Tân, cùng các nhóm chống cộng ở hải ngoại ngày càng công khai, tăng cường liên thông, hợp tác phối hợp với các blog cá nhân, thành phần bất hảo trong nhiều năm qua để phát tán tuyên truyền các tài liệu sai sự thật và phản động trên không gian mạng.

Bốn là, tính chất sai trái về khoa học và phản động về chính trị của các quan điểm phủ nhận con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Tính chất các luận điểm sai trái chỉ là “rượu cũ và vỏ bình mới”, áp đặt một cách trơ trẽn với mẫu số chung là “phủ nhận con đường quá độ lên CNXH, đề cao chủ nghĩa tư bản” và “phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, phủ nhận triển vọng, khả năng thực tế bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên CNXH ở Việt Nam. Các quan điểm sai trái thường dựa vào một số hiện tượng xã hội để quy chụp hoặc đánh đồng với bản chất nên rất phản khoa học, với những lý thuyết hỗn độn và không khách quan như dựa vào các học thuyết tư sản phản động, các học thuyết chống cộng, chủ nghĩa duy vật máy móc, lý thuyết “hội tụ”, “xã hội hậu công nghiệp”, “thuyết ba làn sóng văn minh” và “CNXH dân chủ”… Để biện minh cho sự tồn tại vĩnh hằng của chế độ tư bản chủ nghĩa, phủ nhận tính khách quan của con đường đi lên CNXH trong thời đại hiện nay.

 

ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO, NGĂN CHẶN HÀNH VI LỢI DỤNG PHẠM PHÁP

 Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến nay, nhận thức về tôn giáo của Đảng có nhiều đổi mới, phát triển. Bước ngoặt quan trọng mở ra giai đoạn mới trong nhận thức của Đảng được đánh dấu bằng Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Nghị quyết khẳng định: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Kế thừa và phát triển quan điểm của Đảng trong Nghị quyết 24, từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) đến nay, trải qua 5 kỳ đại hội, Đảng ta luôn có những bước phát triển về nhận thức, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, nhằm phát huy tốt nhất vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội; đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực cũng như các hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, trong Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Đảng ta nhận định:

“Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo”. Tuy nhiên, Đảng cũng chỉ rõ mặt còn hạn chế trong công tác quản lý tôn giáo, quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi.

Phát huy những thành tựu đã đạt được, đồng thời khắc phục những mặt còn hạn chế về công tác tôn giáo, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta xác định: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội”.

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, vấn đề dân tộc, tôn giáo có xu hướng diễn biến phức tạp, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo... là những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”.

Cụ thể hóa những nhiệm vụ trên, để đưa Nghị quyết XIII của Đảng vào cuộc sống, chúng ta cần thực hiện một số nội dung sau:

Một là, tiếp tục phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Trong quá khứ cũng như hiện tại, tôn giáo đã và đang có tác động tích cực đối với mọi mặt đời sống xã hội. Do đó, nhằm khai thác có hiệu quả hơn nữa mặt tích cực của các tôn giáo, Đảng ta nhấn mạnh việc phát huy các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Trong đó, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh nguồn lực tinh thần của tôn giáo, phát huy những nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng, giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, góp phần giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, đồng thời “phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan”.

Hai là, vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người.

Đây là nguyên tắc xuyên suốt, nhất quán trong chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Sự tôn trọng tự do, tín ngưỡng ở đây bao gồm sự quan tâm, tạo điều kiện cả trên thực tế và về mặt pháp lý đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật và bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Bốn là, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục cố tình xuyên tạc tình hình tôn giáo ở nước ta nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động chiêu bài đòi “tự do tôn giáo”… Cần chủ động nắm bắt tình hình để phát hiện và xử lý kịp thời các tình huống liên quan đến tôn giáo một cách hài hòa, không để bị động bất ngờ và không để xảy ra các “điểm nóng”. Để tăng cường tính chủ động, hệ thống chính quyền ở cơ sở và cơ quan chức năng cần thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào có đạo, nhất là những nơi có dấu hiệu bất ổn; từ đó tham mưu kịp thời và đưa ra những phương án xử lý phù hợp, hiệu quả. Mặt khác, cần chủ động quan tâm, lắng nghe và giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của đồng bào có đạo nhằm tranh thủ sự ủng hộ, đồng thời phát huy tối đa những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực và kiên quyết đấu tranh, xử lý các biểu hiện tiêu cực, những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng nước ta.

 

NHIỆM VỤ CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng, nhằm đảm bảo cho Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao. Tùy theo tình hình và nhiệm vụ cách mạng từng thời kỳ mà Đảng xác định những vấn đề cần tập trung cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Trong tình hình hiện nay, tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên được Đảng xác định là nhiệm vụ cơ bản, cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.

Đại hội XIII của Đảng đã xác định “đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thử thách và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng”. (Văn kiện Đại hội XIII, tập II, trang 184). Góp phần nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự trong sạch, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao. Để thực hiện được mục tiêu này trong thời gian tới chúng ta phải thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, đó là:

Thứ nhất, “tập trung xây dựng Đảng về đạo đức”. Đây là nhiệm vụ vô cùng gay go, phức tạp, vì vậy, Đảng xác định kiên quyết, kiên trì thực hiện các Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các giải pháp quyết liệt và đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những tấm gương sáng về đạo đức, lối sống; đấu tranh mạnh mẽ với các biểu hiện lệch lạc và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống.

Thứ hai, “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu”. Theo đánh giá của Đại hội XIII, công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống vẫn còn những biểu hiện chung chung, kém hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, Đảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.

Thứ ba là, “kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” với một quyết tâm chính trị cao. Những số liệu của nhiệm kỳ XII cho thấy, tham nhũng vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Để khắc phục tình trạng trên, Đại hội XIII đã xác định “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn” (Văn kiện Đại hội XIII, tập II, trang 250). Kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời không có vùng cấm, không có ngoại lệ, những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí. Coi phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đại hội XIII đã đánh giá và đề ra những nội dung, biện pháp thiết thực nhằm khắc phục tình trạng xuống cấp về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, mỗi cấp ủy đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc các nhiệm vụ, giải pháp được xác định trong Nghị quyết Đại hội để có các chương trình, kế hoạch hành động và những việc làm cụ thể để đưa Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

 

VẤN ĐỀ TỰ DO TÔN GIÁO LUÔN ĐƯỢC VIỆT NAM COI TRỌNG

 Tôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm, thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Đây cũng là lĩnh vực dễ bị lợi dụng vào các hoạt động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thâm độc này là vấn đề cấp thiết.

Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”. Việt Nam có chính sách nhất quán là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Điều đó đã quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật của nước ta.

Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ chức sắc và tín đồ một số tôn giáo không nhận ra thực tế này. Họ có nhiều tham vọng chính trị và bị tác động, ảnh hưởng bởi luận điệu tuyên truyền, lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, nên đã có những hành động cực đoan, quá khích chống lại chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nói riêng và trên các lĩnh vực nói chung. Họ đã lợi dụng tôn giáo, lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ xã hội chủ nghĩa dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”. Họ đã liên kết và phụ họa với các thế lực thù địch, các phần tử phản động, chống đối ở cả trong và ngoài nước trong hoạt động chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Chiêu bài của họ là đối lập tôn giáo với chế độ xã hội chủ nghĩa, tách các tôn giáo khỏi khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Để thực hiện điều đó, họ sử dụng các thủ đoạn xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, bịa đặt, vu cáo cấp chính quyền phân biệt đối xử, đàn áp tôn giáo để kích động, chia rẽ trong nước và hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế… Họ coi các đối tượng cực đoan chống đối trong các tôn giáo là lực lượng nòng cốt để lôi kéo tập hợp quần chúng làm đối trọng với Đảng, Nhà nước và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Cùng với việc hậu thuẫn cho các lực lượng này hoạt động chống phá đất nước, họ còn phối hợp chặt chẽ với các cá nhân, tổ chức quốc tế thiếu thiện chí để bịa đặt, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ cho rằng Chính phủ Việt Nam đàn áp mọi tôn giáo, thường bắt giữ những người biểu tình ôn hòa đòi hỏi "tự do" tín ngưỡng và "tự do" thờ phụng. Nhiều tổ chức tôn giáo không được Chính phủ công nhận và không cấp giấy phép sinh hoạt… Đây là những luận điệu bịa đặt cũ rích được lặp đi, lặp lại với ý đồ chính trị xấu xa.

Điều đó không chỉ gây khó khăn cho công tác tôn giáo mà còn là nguyên nhân và điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thành lập các hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ, gây mất đoàn kết dân tộc và đe dọa ổn định chính trị - xã hội; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội.

Nhà nước ta bên cạnh việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng nghiêm cấm mọi hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Bất kỳ ai, nếu vi phạm pháp luật dù với bất cứ lý do gì đều sẽ bị xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật. Do đó, những luận điệu cho rằng Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo chỉ là những đánh giá chủ quan, phiến diện của một số người thiếu thiện chí với Việt Nam. Những luận điệu sai trái này không thể làm khó Việt Nam trên con đường xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh, mở rộng hợp tác, giao lưu trên trường quốc tế./.

 

ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN VÀ TƯ TƯỞNG CƠ HỘI, THỰC DỤNG CHẶN ĐÀ SUY THOÁI VỀ ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN

 Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa cá nhân trái với đạo đức cách mạng, nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng, một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng”

Trong thực tiễn cuộc sống, chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng cơ hội, thực dụng biểu hiện đa dạng, phong phú, dưới mọi hình thức. Những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng cơ hội, thực dụng luôn có động cơ vụ lợi, tham vọng lớn, cả trong ý nghĩ lẫn hành động. Đôi khi, để đạt được mục đích cá nhân, họ sẵn sàng tìm mọi cách luồn lách, len lỏi, triệt để lợi dụng sự sơ hở của cơ chế, chính sách, sự yếu kém của công tác quản lý để đục khoét của công, biến của công thành của riêng. Những lúc cách mạng gặp khó khăn, hoặc chuyển giai đoạn là lúc những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng cơ hội, thực dụng lộ rõ nguyên hình. Chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng cơ hội, thực dụng tồn tại dưới nhiều cấp độ. Ở cấp độ thấp, nó có mặt mọi lúc, mọi nơi, trong mọi lĩnh vực. Ở cấp độ cao, nó có sức mạnh ghê gớm, có thể làm lũng đoạn tổ chức, xóa nhòa ranh giới giữa cái tốt với cái xấu. Nó là thứ giặc nội xâm, một loại vi khuẩn độc hại, một thứ ung nhọt ẩn náu trong cơ thể Đảng.

Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là vấn đề cấp thiết. Trong điều kiện hiện nay, để đấu tranh có hiệu quả với những căn bệnh này, cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu:

Nâng cao giác ngộ chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên: Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng cơ hội, thực dụng chỉ thực sự có hiệu quả khi mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ mục tiêu lý tưởng, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng; nhiệm vụ, tiêu chuẩn, tư cách, đạo đức cách mạng của người cộng sản; hiểu rõ nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, tác hại của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng. Mỗi cán bộ, đảng viên dù ở bất cứ cương vị nào cũng phải hiểu đúng, làm đúng di huấn của Hồ Chí Minh: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của tổ quốc, Đảng ta không có lợi ích nào khác... vô luận lúc nào, việc gì, đảng viên, cán bộ cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết” .

Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình: Mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải đề cao trách nhiệm, đấu tranh loại trừ tham nhũng, lãng phí, quan liêu; nêu cao vai trò tiên phong, nói đi đôi với làm, nói và làm đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực sự là tấm gương về mọi mặt cho quần chúng noi theo. Cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các tổ chức quần chúng phải tự phê bình và phê bình với tinh thần đồng chí trong sáng, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau; nghiêm túc, khoan dung, thấu tình đạt lý; tự giác, tự nguyện, trung thực, kiên quyết; khách quan, dũng cảm, xuất phát từ cái tâm trong sáng. Kiên quyết chống tư tưởng cục bộ, kèn cựa, bản vị hẹp hòi, địa phương chủ nghĩa làm tổn hại đến tình cảm đồng chí, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: Quán triệt sâu sắc vị trí, vai trò và duy trì thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tạo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức, làm cho Đảng trở thành một khối thống nhất, có kỷ luật chặt chẽ, sức chiến đấu cao. Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của các tổ chức đảng và của từng đảng viên, khắc phục tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Phát huy dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, chống dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, dân chủ vô chính phủ.

Làm tốt công tác kiểm tra giám sát: Công tác kiểm tra, giám sát phải bám sát vào nhiệm vụ chính trị của đơn vị, tình hình thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Nội dung kiểm tra, giám sát phải toàn diện song phải có trọng tâm, trọng điểm. Qua kiểm tra, giám sát phát hiện và ngăn ngừa, xử lý nghiêm những đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật nhà nước. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, thoái hóa biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nói và làm trái với đường lối, quan điểm của Đảng, những đảng viên tham ô, tham nhũng, gây chia rẽ bè phái, mất đoàn kết nội bộ...

Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng phong cách đạo đức Hồ Chí Minh: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà củng cố và phát triển. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tích cực học tập, rèn luyện, thấm nhuần đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải có quyết tâm sửa lỗi, không hiếu danh, không kiêu ngạo, ít lòng ham muốn vật chất. Phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, biết hy sinh lợi ích cá nhân, phục tùng lợi ích tập thể, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của nhà nước. Kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên nói và làm trái với nguyên tắc, điều lệ Đảng, vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của nhà nước, quy định những điều đảng viên không được làm.

 

LỢI DỤNG ĐAU THƯƠNG CỦA ĐỒNG BÀO ĐỂ CHỐNG PHÁ CHẾ ĐỘ

 Cơn bão Yagi - cơn bão mạnh nhất trong 30 năm qua đã để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng về người và tài sản ở các tỉnh miền Bắc. Trong khi toàn Đảng, toàn dân đang đồng lòng, dốc sức khắc phục hậu quả bão lũ thì Việt Tân lại lợi dụng phút đau thương này mà không ngừng lợi dụng, xuyên tạc bôi nhọ lanh đạo Đảng, Nhà nước, chia rẽ dân tộc nhằm vụng lợi chính trị.

Trong những ngày cuối tháng 9 này, ánh mắt và trái tim của mọi con dân Việt Nam trên khắp mọi miền tổ quốc đều đang hướng về rốn lũ miền Bắc mà nghẹn ngào với những đau thương khôn xiết mà bão Yagi gây ra. Toàn thể dân tộc đang đoàn kết, chia sẻ yêu thương, và hành động cụ thể để giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn. Nhưng cách đó nửa vòng trái đất, Việt Tân lại chọn cách cất lên những "bài ca" xuyên tạc với vở kịch đã cũ mèm. Chúng đăng tải những thông tin bịa đặt, châm biếm chính quyền, với giọng điệu không thể “chuyên nghiệp” hơn trong việc chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Trên trang Facebook Việt Tân tràn ngập những bài đăng cập nhật về tình hình bão lũ nhưng lại đều được "chế biến" theo một công thức riêng khi mà thông tin bão lũ hay những lời chia sẻ đau thương chỉ là chút gia vị thêm thắt cho những nội dung xấu độc, xuyên tạc về sự “tham nhũng và quản lý kém” của các cấp chính quyền. Công thức chung là “bới lông tìm vết” và “quy chụp” chúng cố gắng tìm kiếm mọi lý do để bôi nhọ lãnh đạo Đảng và chính quyền, như “cây đổ do tham nhũng” hay “cầu sập vì yếu kém quản lý”... Thực tế, họ không mấy quan tâm đến nỗi đau của những người dân đang vật lộn với thiên tai mà chỉ chăm chăm vào việc vẽ ra những bức tranh tiêu cực để dẫn dắt sư luận theo hướng đi riêng của mình.

Vậy động cơ của họ là gì? Lợi dụng sự quan tâm của đồng bào đối với bão lũ, Việt Tân quyết định “đục nước béo cò”, thổi phồng mọi vấn đề để gây mất niềm tin vào Đảng và chính quyền. Họ lợi dụng tâm lý hoang mang và đau xót của nhân dân trước thiên tai, đổ lỗi cho các cấp chính quyền để kích động sự phẫn uất, bất bình của nhân dân, làm suy yếu niềm tin của người dân vào chế độ chính trị. Qua đó mà gây chia rẽ dân tộc, rối loạn chính trị, còn bản thân thì thừa nước đục thả câu, trục lợi.

Yêu nước và thương dân không bao giờ chỉ là những lời hô hào rỗng tuếch mà cần được kiểm chứng bằng hành động. Triệu trái tim đang cùng chung nhịp đập; tất cả các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị cũng như đồng bào cả nước đang đoàn kết, kề vai sát cánh, chạy đua với dòng nước lũ để giải cứu người dân và tài sản tại các tỉnh bị ảnh hưởng. Ta được chứng kiến bao hình ảnh đẹp, nghĩa đồng bào nhường cơm sẻ áo, tình quân dân vượt lũ cứu người...sự chia sẻ, hi sinh không chỉ ở của cải vật chất mà còn là mồ hôi, nước mắt và cả xương máu. Đau sót khi ngay trong thời bình vẫn có thêm những liệt sĩ hi sinh trong nhiệm vụ phòng chống thiên tai. Còn Việt Tân đang làm gì ngoài đóng góp bằng những bài viết xuyên tạc và lời lẽ đả kích, những lời nói suông.

Lịch sử chứng minh, càng trong những lúc khó khăn gian khổ trong những thời khắc của vận mệnh dân tộc, càng cần hơn nữa sự đoàn kết. Vậy nên, mỗi người dân hãy tỉnh táo nhìn thẳng vào sự thật mà thấy được những hành động thiết thực của các cấp lãnh đạo, lực lượng chức năng, thấy được giá trị của tình yêu đồng bào trước hoạn nạn, thiên tai và cũng thấy được cái bản chất xấu xa của tổ chức phản động Việt Tân.