Thứ Ba, 17 tháng 9, 2024

 

Đấu tranh với các luận điệu lợi dụng việc ứng phó, khắc phục hậu quả bão số 3 để xuyên tạc, chống phá

    Ngay sau khi cơn bão số 3 (bão Yagi) đổ bộ vào Việt Nam gây nên những thiệt hại to lớn về người và của, đồng thời hoàn lưu bão gây sạt lở đất và lũ lụt diện rộng ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng, bên cạnh sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước và địa phương trong việc ứng phó nhằm giảm tối đa thiệt hại về người và của thì trên không gian mạng lại có những tiếng nói xuyên tạc, lạc lõng. Có thể kể đến một số trang tin như Việt Tân, VOA Tiếng Việt, RFA… đã ra sức đăng tải những thông tin sai trái, xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến công tác phòng, chống bão lũ, bỏ mặc nhân dân tự chống chọi với thiên tai. Họ vu cáo với các luận điệu như: “Đừng trông chờ gì Đảng, Nhà nước Việt Nam hỗ trợ người dân sau bão Yagi”; “Các nhóm lợi ích và sau lưng những kẻ bảo kê cho nhóm lợi ích chỉ nghĩ đến tiền thôi, họ không màng đến sự sống của người dân”; “Phải chi Nhà nước dùng ngân sách bảo vệ dân bằng một phần nhỏ ngân sách để bảo vệ Đảng, có lẽ nhiều người dân đã được cứu”… Trang Việt Tân đưa các hình ảnh người dân bị thiệt hại sau bão lũ rồi kích động: “Trong các báo cáo diễn tập, những thiên tài của Đảng luôn tuyên bố “hoàn thành xuất sắc công tác phòng, chống lụt bão”, vậy mà…”; “Mưa bão tới đâu, lãnh đạo cho diễn tới đó”; “Nhân dân lâm nguy, chính quyền vẫn ưu tiên bệnh thành tích”; “Rất nhiều người kêu cứu trong tuyệt vọng, không rõ chính quyền, công an, cứu hộ đi đâu”… Họ mỉa mai rằng, chỉ có dân cứu dân khi hoạn nạn, dân không thể kêu cứu chính quyền mà chỉ có thể nhờ ai đó giúp mình; rằng “tuyên truyền thì ngạo nghễ, thực tế thì ngao ngán”! Thậm chí, một số trường hợp còn đưa những hình ảnh không chính xác rồi miệt thị đó là ảnh “biểu diễn” cứu hộ, cứu nạn trong bão lũ nhằm “lừa mị dân”… Các tổ chức phản động lưu vong lợi dụng việc bão lớn làm đổ nhiều cây xanh, cột điện, hỏng nhiều đường sá, cầu cống rồi cố tình chọn đăng một vài hình ảnh cây mới trồng không có nhiều rễ, cột điện có ít lõi sắt (cả ảnh thật và ảnh cắt ghép, ảnh không rõ nguồn gốc và thời điểm chụp) rồi từ việc phê phán chính quyền thiếu trách nhiệm, tham nhũng, tắc trách để quy chụp “cây xanh dưới cơ chế của đảng thì phải chấp nhận vậy thôi”! Có đối tượng bất mãn, chống đối lại đưa ra những luận điệu kiểu “tâm linh” như cho rằng, cơn bão Yagi đổ bộ vào Việt Nam càn quét gây thiệt hại nặng nề là do “trời trừng phạt và do chế độ độc Đảng lãnh đạo”. Từ đó, những đối tượng này cổ xuý, muốn chống bão lụt thì dân hãy tự lo lấy, chừng nào còn độc đảng thì chừng đó chính quyền còn bỏ mặc nhân dân và hả hê trước những thiệt hại to lớn về người và của trước sự tàn phá của cơn bão. Bên cạnh đó, trong khi Đảng, Nhà nước và các địa phương, lực lượng chức năng cùng quân dân miền Bắc đang gồng mình ứng phó với trận bão, lũ lịch sử, huy động tối đa các nguồn lực để phòng, chống và giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả; trong khi cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đồng bào cả nước đang hướng về miền Bắc, tích cực ủng hộ, giúp đỡ người dân ở những vùng gặp nạn thì trên mạng xã hội lại có những hình ảnh, bài viết thông tin sai sự thật, nhất là thông tin sai về việc vỡ đập, vỡ đê, ngập lụt, sạt lở… dẫn đến người dân hoang mang. Không chỉ xuất hiện tin giả, tin sai lệch về bão số 3, một số đối tượng còn lợi dụng thiệt hại do bão gây ra để kêu gọi ủng hộ nhằm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Các đối tượng lừa đảo sử dụng hình ảnh, thông tin giống các trang chính thống kêu gọi những người hảo tâm quyên góp, chuyển tiền vào tài khoản cá nhân để chiếm đoạt… Những hành vi này vừa gây nhiễu loạn trong dư luận, vừa tạo cớ để các thế lực xấu lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thiên tai, hoạn nạn. Những thông tin xuyên tạc, thông tin mang tính quy kết “gắp lửa bỏ tay người” của các thế lực thù địch và các tổ chức phản động lưu vong, các phần tử bất mãn nói trên đi ngược với cộng đồng, gây nên sự hoài nghi, hoang mang trong dư luận. Từ việc hướng lái dư luận hiểu sai lệch, cho rằng Đảng, Nhà nước không quan tâm đến đời sống dân sinh, bỏ mặc người dân trong tình cảnh khốn khó, âm mưu của các đối tượng nhằm gây chia rẽ giữa nhân dân với Đảng, chính quyền, chia rẽ giữa lực lượng vũ trang và nhân dân, bôi lem Đảng, chế độ, kích động chống đối từ bên trong. Có một quy luật quen thuộc trên không gian mạng là cứ hễ khi đất nước gặp khó khăn thì được các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động lại coi đây là thời cơ để lợi dụng chống phá. Điều này vốn từng xảy ra suốt thời gian chúng ta đối phó với đại dịch COVID-19. Thực tiễn công tác phòng, chống thiên tai bão lũ – minh chứng phản bác mọi luận điệu xuyên tạc Thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan đang diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường, hậu quả thiên tai gây ra là không thể tránh khỏi. Chúng ta chỉ có thể nắm bắt tình hình, dự báo sớm để chủ động phòng ngừa, hạn chế thấp nhất hậu quả xảy ra và nỗ lực khắc phục thiệt hại. Trong thực tế, chúng ta đã rất chủ động đối phó với cơn bão ngay từ sớm. Thủ tướng đã ban hành các công điện chỉ đạo các bộ, ban, ngành, địa phương triển khai nhiều biện pháp cấp bách chủ động ứng phó thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả, đồng thời phân công các thành viên Chính phủ, các cơ quan chức năng kiểm tra việc ứng phó, lập ban chỉ đạo tiền phương để kịp thời chỉ đạo xử lý các tình huống đặt ra trước, trong và sau khi bão đổ bộ. Toàn dân tộc đã phát huy tinh thần đại đoàn kết, đồng lòng, chung tay giúp đỡ đồng bào vượt qua khó khăn. Để phòng, chống bão số 3, Bộ Công an đã huy động hơn 100.000 lượt cán bộ, chiến sĩ của Công an 35 tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng, giúp đỡ nhân dân chằng chống nhà cửa, tuyên truyền, vận động nhân dân đến nơi tránh trú bão an toàn, sơ tán gần 53.000 người trên lồng bè, chòi canh nuôi thuỷ sản, trong các nhà yếu đến nơi an toàn. Phối hợp Bộ đội Biên phòng kiểm đếm, hướng dẫn hơn 51.000 tàu cá, gần 220.000 người về nơi tránh trú an toàn; bố trí các trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác phòng chống bão. Theo báo cáo của Cục Cứu hộ cứu nạn, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân đội đã huy động hơn 450 nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ và hơn 10.000 phương tiện ứng phó siêu bão số 3. Trước khi bão đổ bộ, các đơn vị Quân đội đã nhanh chóng có mặt tại những nơi nguy hiểm, xung yếu hỗ trợ chính quyền địa phương và nhân dân ứng phó, khắc phục hậu quả bão lũ. Trong những ngày xảy ra mưa lũ trên diện rộng, Công an các địa phương phía Bắc tập trung hỗ trợ sơ tán người dân di dời khỏi vùng nguy hiểm, tham gia gia cố đê kè ngăn lũ, trực tiếp tuần tra, đưa người bị mắc kẹt trong lũ đến nơi an toàn, đưa người bị nạn đi cấp cứu. Hậu bão số 3 đã gây ra lũ quét, lũ lụt diện rộng cho nhiều tỉnh, thành phố phía Bắc với nhiều thiệt hại về người và của. Để ứng phó, khắc phục hậu quả mưa lũ, sạt lở đất, lũ ống, lũ quét, giúp đỡ nhân dân nhanh chóng ổn định sản xuất, cuộc sống, không để người dân nào bị đói, rét, không nơi ở, đảm bảo an ninh trật tự, thực hiện hiệu quả công tác cứu nạn, cứu hộ, lực lượng Công an đã khẩn trương huy động tối đa lực lượng, phương tiện ở nhiều đơn vị, địa phương. Công an các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng… huy động toàn lực lượng từ cấp tỉnh tới cấp xã sử dụng các phương tiện tiếp cận, di chuyển toàn bộ người và tài sản trong vùng có nguy cơ ngập lụt nghiêm trọng tới nơi tránh trú. Đã có nhiều tấm gương anh dũng trong thực hiện nhiệm vụ, trong đó có cán bộ đã hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản cho nhân dân, đó là Thượng úy Nguyễn Đình Khiêm (sinh năm 1997), Đại đội trưởng Đại đội 3, Tiểu đoàn Công binh 1, Lữ đoàn Công binh 513, Quân khu 3; Trung tá Trần Quốc Hoàng (sinh năm 1987), cán bộ Trại giam Quảng Ninh. Đặc biệt, sau khi xảy ra tai nạn sập cầu Phong Châu và trận lũ quét kinh hoàng làm hơn 100 người bị vùi lấp ở bản Làng Nủ, Lào Cai, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ Công an địa phương và CSCĐ thuộc Bộ Tư lệnh CSCĐ cùng một số đơn vị Quân đội đã đến hiện trường tiến hành cứu nạn, cứu hộ với quyết tâm, nỗ lực cao nhất. Trong bão tố, người Việt không chỉ cùng nhau vượt qua những thử thách mà còn thể hiện rõ nét tinh thần tương thân tương ái. Những căn nhà trống mở cửa đón người trú bão, những dòng xe tải chậm rãi che chắn cho xe máy hay những người lặng lẽ chia sẻ đồ ăn, thức uống – tất cả đã tạo nên một bức tranh đẹp về lòng nhân ái giữa thiên tai. Hình ảnh lực lượng Công an, Quân đội và các lực lượng khác cùng dân chống bão; nhiều người dân hỗ trợ nhau vượt qua thiên tai, khắc phục thiên tai trong những ngày qua thêm lần nữa cho thấy sự quý giá của tình quân dân, nghĩa đồng bào. Có thể thấy trong bão lũ, những nghĩa cử cao đẹp được trao đi để cùng nhau vượt qua gian khó. Đó là tinh thần đoàn kết, lá lành đùm lá rách của người Việt Nam. Những nghĩa cử đẹp trong cộng đồng hướng về nơi chịu thiệt hại về thiên tai đã cho thấy niềm tin về lòng tốt, sự sẻ chia, là trách nhiệm và ý thức công dân của con người trong xã hội vẫn luôn tỏa sáng và hơn thế, chính sự ấm áp, những nghĩa cử cao đẹp đã đưa con người xích lại gần nhau hơn, cho thấy một Việt Nam đoàn kết, sáng ngời tấm lòng sẻ chia. Các giá trị đó đã làm nên cốt cách và bản sắc văn hóa, là nền móng, sức mạnh nội sinh để dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Ngày nay, đoàn kết, tương thân, tương ái vẫn là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam tiếp tục phát triển vững mạnh, đạt được nhiều thành tựu mới. Hình ảnh những cán bộ, chiến sĩ Công an, Quân đội cùng các lực lượng dầm mình trong mưa gió để cứu nạn, cứu hộ, trắng đêm đảm bảo an toàn cho tính mạng và tài sản của nhân dân là hình ảnh thân thuộc, ở mỗi bản làng, khu phố trong thiên tai, bão lụt. Đó là minh chứng sinh động của tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, phủ nhận mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động.

Củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng trong giai đoạn mới

TCCS - Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố chủ yếu tạo nên sức mạnh, sự thống nhất ý chí, bảo đảm cho toàn Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Theo đó, việc củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là nhiệm vụ có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn; bởi lẽ, đây là những người có vị trí, vai trò quan trọng và quyết định trực tiếp đến chất lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước dự Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 2024 tại phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, ngày 2-8-2024_Ảnh: TTXVN 1. Bản lĩnh chính trị của cán bộ là sự hiểu biết sâu sắc, niềm tin tuyệt đối, ý thức chấp hành nghiêm túc và sự kiên định đối với nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong mọi hoàn cảnh, nhất là trước những khó khăn, thử thách, những thời điểm có tính bước ngoặt của cuộc cách mạng. Củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ là hoạt động có mục đích của cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức, cơ quan có trách nhiệm và từng cán bộ trong việc xác định và tổ chức thực hiện hiệu quả những yêu cầu về tư tưởng chính trị, thường xuyên tự phê bình và phê bình, uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức và hành động, nhằm làm cho đội ngũ cán bộ có trình độ nhận thức lý luận chính trị, nắm vững và tin tưởng tuyệt đối vào đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có kiến thức và quyết tâm đổi mới, có khả năng vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ giữ vai trò đặc biệt quan trọng, định hướng, chi phối toàn bộ sự nghiệp chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên và là yếu tố chủ yếu tạo nên ý chí, khát vọng, khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để phấn đấu, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng giao cho. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu dựa trên sự nắm vững tri thức khoa học và khả năng đúc rút tri thức mới từ thực tiễn hoạt động chính trị, với yêu cầu “phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”(1). Trong mọi giai đoạn của cách mạng, nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên luôn trung thành với Đảng, luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cách mạng, của Đảng, không ngừng phấn đấu, hy sinh, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, góp phần tạo nên thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, trong thời kỳ đổi mới, liên tiếp 3 kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương trong 3 nhiệm kỳ đại hội Đảng gần đây đều ban hành nghị quyết, kết luận những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, trong đó xác định vấn đề cấp bách nhất vẫn là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả ở cấp cao. Đó là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Kết luận số 21 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Quan điểm nhất quán của Đảng là “Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(2). Củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là tất yếu khách quan và là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Sở dĩ đây là nhiệm vụ mang tính cấp thiết là bởi lẽ, cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò quan trọng nhất và quyết định trực tiếp đối với chất lượng hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Người lãnh đạo, người đứng đầu giữ vai trò hạt nhân, quy tụ mọi thành viên trong tổ chức tạo nên sự đoàn kết, thống nhất, kết thành sức mạnh to lớn của tổ chức. Trong những yếu tố tạo nên phẩm chất, năng lực, phong cách của người lãnh đạo, người đứng đầu thì bản lĩnh chính trị là yếu tố đầu tiên, chi phối, dẫn dắt tập thể vượt qua mọi khó khăn để thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của tổ chức. Trong mọi thời kỳ và mọi giai đoạn cách mạng, bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo, người đứng đầu, nhất là cán bộ cao cấp luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố chủ yếu tạo nên sức mạnh, sự thống nhất ý chí, là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho toàn Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận cán bộ, bao gồm cả những người giữ chức vụ không nhỏ, do thiếu rèn luyện, không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ của cuộc sống nên đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn vun vén lợi ích cá nhân, sa vào “lợi ích nhóm”, làm giàu bất chính. Điều đó làm suy giảm sức mạnh của tổ chức, tổn hại đến thanh danh, uy tín của Đảng. Trong thời gian tới, trước yêu cầu của tình hình mới, toàn Đảng đang tích cực thực hiện “nhiệm vụ then chốt” - xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng. Theo đó, nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt” là tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới. Trong đó, việc củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo, người đứng đầu trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền có vai trò, tầm quan trọng đặc biệt. 2- Củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu bao gồm các nội dung chính sau đây: Thứ nhất, xây dựng tiêu chuẩn chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Lãnh đạo là chức năng của Đảng, hoạt động của cán bộ lãnh đạo là tham gia lãnh đạo tập thể của cấp ủy các cấp - người “cầm lái, dẫn đường”. Các quyết sách của cơ quan lãnh đạo của Đảng đều ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc và toàn diện đến sự phát triển bền vững của mỗi địa phương, đơn vị và cả nước. Hoạt động của người đứng đầu trong các tổ chức của hệ thống chính trị là hoạt động lãnh đạo, quản lý, chủ trì tổ chức thực thi quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ do tổ chức có thẩm quyền giao. Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”(3). Đồng thời, để thực hiện những nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng, trong đó giải pháp cấp bách nhất là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, thì giải pháp về củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị đều đặt lên hàng đầu và đều nhấn mạnh trước hết đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Trong công tác cán bộ, việc xây dựng tiêu chuẩn cán bộ là khâu quan trọng đầu tiên, là tiền đề, là căn cứ khoa học và pháp lý để thực hiện các khâu khác của công tác cán bộ, nhất là đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, đánh giá, bố trí và giới thiệu cán bộ ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo các cấp trong hệ thống chính trị. Tiêu chuẩn chính trị đã được đề cập khá cụ thể trong Nghị quyết số 03-NQ/HNTW, ngày 18-6-1997, của Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, “Về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Theo đó, cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, bên cạnh yêu cầu đáp ứng tiêu chuẩn chung, còn phải: “Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”(4). Với quan điểm: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”(5), thì yêu cầu về bản lĩnh chính trị được đặt lên hàng đầu. Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017, “Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, trong đó có yêu cầu về chính trị, tư tưởng. Với quan điểm: cán bộ giữ vị trí lãnh đạo càng cao thì yêu cầu tiêu chuẩn chính trị càng lớn, ngày 4-8-2017, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 90-QĐ/TW, “Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”, đặt ra yêu cầu cao hơn về chính trị, tư tưởng: “Tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia - dân tộc và nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng để bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước và phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị...”(6). Lãnh đạo Tỉnh ủy Lai Châu thăm mô hình sản xuất nông nghiệp tại huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu không phải tự nhiên mà có, mà do nhiều yếu tố tạo nên. Yếu tố cơ bản, hàng đầu là tính khoa học, đúng đắn của nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có lý luận cách mạng, khoa học mới giúp Đảng xác định rõ mục tiêu, xây dựng đường lối đúng đắn, hệ thống pháp luật đầy đủ, khả thi, làm căn cứ, tạo niềm tin vững chắc cho đội ngũ lãnh đạo, người đứng đầu. Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng có tính quyết định là việc học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Vì thế, trong các nhóm giải pháp về xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để tạo nền tảng chính trị vững chắc cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phụ thuộc vào nhận thức lý luận, tình cảm và ý chí cách mạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường./ Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”(7). Do đó, Đảng chủ trương “Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổng kết thực tiễn 40 năm đổi mới để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng. Tiếp tục bổ sung, phát triển hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(8). Để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải tích cực, tự giác học tập lý luận chính trị để nắm chắc đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở được trang bị hệ thống lý luận khoa học là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hệ thống giáo dục lý luận của Đảng phải “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn; đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”(9). Học tập phong cách tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nghiên cứu lý luận cần nắm vững phép biện chứng duy vật để vận dụng sáng tạo và phát triển vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; tránh giáo điều, bảo thủ, xơ cứng, trì trệ; phải nắm bắt tinh thần, phương pháp khoa học để giải quyết các vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra. Các cơ quan quản lý cán bộ cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Khi bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu được nâng cao sẽ góp phần đẩy lùi các nguy cơ đối với vai trò cầm quyền của Đảng, đồng thời nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng. Nhận thức đúng đắn của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng phải được thể hiện trong kế hoạch học tập các nghị quyết, quy định của Đảng về chế độ học tập lý luận chính trị(10). Thứ ba, thực hiện đúng quy định của Đảng, thể hiện và phát huy bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu trong mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý. Bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu không phải là vấn đề trừu tượng, khó đoán định, mà được thể hiện thường xuyên trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Người đứng đầu (với tư cách là người chủ trì hoạt động của cấp ủy) phải mẫu mực trong thực hiện các nguyên tắc của Đảng, bảo đảm thực hiện nguyên tắc của Đảng một cách đầy đủ, đúng đắn và hiệu lực, hiệu quả nhất. Trên cơ sở chuẩn bị nghiêm túc, thấu đáo những vấn đề đưa ra tập thể bàn bạc, quyết định, thực sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, thực sự khách quan, công tâm, người chủ trì phải biết lắng nghe, có khả năng thuyết phục, giải đáp và xử lý được những ý kiến khác nhau, bảo vệ chân lý, lẽ phải, bảo đảm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực hiện đúng đắn ở cơ sở. Đó chính là bản lĩnh chính trị của người đứng đầu. Là người lãnh đạo, tham gia lãnh đạo (với tư cách là thành viên, cấp ủy viên) của tổ chức, cơ quan lãnh đạo, vấn đề bản lĩnh chính trị thể hiện ở chính kiến khi tham gia xây dựng các quyết sách thuộc thẩm quyền của tập thể lãnh đạo, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, địa phương và đơn vị. Điều này đặt ra yêu cầu rất cao về thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động được quy định trong Điều lệ Đảng: Tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật cũng như các quy chế, quy định khác của Đảng. Người lãnh đạo, tham gia lãnh đạo cần tỏ rõ chính kiến, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, thậm chí khi chưa được tiếp thu ý kiến của mình (dù mình cho là đúng đắn) thì thực hiện quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. Nếu thực hiện đúng nguyên tắc này thì sẽ không xảy ra sai phạm khiến tập thể phải bị xử lý kỷ luật chỉ vì nể nang, “dĩ hòa vi quý”, không dám “đấu tranh”. Điều này đang là “điểm nghẽn” trong hoạt động lãnh đạo của không ít cấp ủy, tổ chức đảng hiện nay, cần sớm khắc phục. Thứ tư, phát huy vai trò tự giác rèn luyện để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Từ nhận thức đúng, cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu tự ý thức rèn luyện - yếu tố quyết định bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ. Bản lĩnh của một con người hay bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu luôn mang sắc thái riêng, thể hiện đặc tính, tố chất của mỗi cá nhân và tạo nên nhân cách của mỗi người. Vì thế, chỉ khi mỗi cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu nhận thức đúng đắn vai trò của bản lĩnh chính trị thì mới thực sự tự giác học tập đạt kết quả thiết thực, bền vững. Bởi lẽ, mỗi lần tham gia quyết định lãnh đạo tập thể hay đưa ra quyết định của cá nhân theo chế độ thủ trưởng đều là sự hội tụ của trình độ lý luận, trí tuệ, của sự thấu hiểu thực tiễn, hoàn cảnh của địa phương, cơ quan, đơn vị, đất nước và lợi ích của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo, cần xử lý các mối quan hệ, nhất là quan hệ giữa chiến lược và sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, tức là học tập, xây dựng cho mình phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, không lệ thuộc vào người khác hay cái có sẵn. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện rõ nhất khi được trang bị đầy đủ, sâu sắc những vấn đề lý luận, trung thành và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn để phân tích, đánh giá đúng tình hình, tìm ra bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng; từ đó, đưa ra được giải pháp phù hợp, tập hợp và phát huy được sức mạnh để vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được mục tiêu chính trị đề ra. Việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải được tiến hành đồng bộ thông qua việc thường xuyên bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, phương pháp làm việc, năng lực công tác,... gắn liền với việc tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người. Không thể coi học tập ở trường, lớp là đủ và cũng không chỉ học một lần là xong, mà phải học tập thường xuyên để cập nhật kiến thức, hiểu biết sâu sắc hơn, nhất là kinh nghiệm xử lý tình huống lãnh đạo, quản lý, kể cả tình huống phức tạp về chính trị. Thứ năm, tạo môi trường thuận lợi cho cán bộ thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị gắn với việc đấu tranh chống tư tưởng, việc làm sai trái, thiếu bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo, người đứng đầu. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu được thể hiện khi họ hoạt động trong môi trường có nhiều thử thách, trong tình huống phức tạp; càng nhiều khó khăn, thử thách càng bộc lộ rõ bản lĩnh chính trị. Bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện ở tác phong làm việc sâu sát cơ sở, nắm vững thực tiễn, nhất là khả năng giải quyết khó khăn và vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn. Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung và nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản rất quan trọng mà đội ngũ cán bộ cần có, đó là “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(11). Bộ Chính trị có Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021, “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP, ngày 29-9-2023, “Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”. Đây là căn cứ chính trị, pháp lý và cũng là cơ hội để cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy, tầm nhìn và tài năng khắc phục “điểm nghẽn” của cơ chế, chính sách, có những phát kiến mới, tiến bộ để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Thời gian qua, vẫn chưa xuất hiện nhiều đề án, đề xuất thí điểm để tổng kết, có thể nhân rộng mô hình, hoàn thiện cơ chế quản lý đem lại hiệu quả thiết thực do công tác quán triệt, thực thi chủ trương, chính sách đó chưa đầy đủ, rõ ràng, mạnh mẽ. Vì vậy, một mặt, phải tuyên truyền, nhân rộng mô hình, giải pháp thí điểm, đổi mới sáng tạo hiệu quả; kịp thời xem xét, nghiên cứu để thể chế hóa thành quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để nhân rộng mô hình, giải pháp đó; biểu dương, khen thưởng xứng đáng; ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao; mặt khác, phải xử lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đây có thể coi là điểm mới và là điểm nhấn trong củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu giai đoạn hiện nay. Đồng thời với quá trình giáo dục, rèn luyện, nêu gương của mỗi cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chất vấn, đối thoại nhằm làm cho bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo, người đứng đầu bộc lộ rõ nét và thường xuyên hơn. Thời gian qua, khi không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý bị xử lý kỷ luật không chỉ do tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, mà còn do một số cơ chế, chính sách quy định chồng chéo, lạc hậu, nhưng chậm sửa đổi, khó khả thi, đã dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu sợ sai, né tránh trách nhiệm, không muốn hoặc không dám làm, để công việc trì trệ, kéo dài. Thứ sáu, trong đổi mới công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, lãnh đạo, người đứng đầu cần chú trọng đánh giá thực chất về bản lĩnh chính trị. Đổi mới tư duy về công tác đánh giá, xếp loại cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và căn cứ vào quan điểm của Đảng. Khi tiến hành đánh giá thực hiện tiêu chuẩn chính trị theo hướng dẫn hằng năm, cần hết sức tránh việc đánh giá một cách chung chung, mà phải thông qua hoạt động cụ thể theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Trước hết, cần dựa vào các tiêu chuẩn chính trị đã được quy định và các quy định cụ thể về vị trí việc làm để đánh giá, xếp loại cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Khi xem xét, đánh giá cán bộ, đảng viên nói chung, đánh giá về bản lĩnh chính trị nói riêng cần căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương mà họ công tác. Tránh tình trạng quan liêu trong đánh giá, phân loại cán bộ. Điều đó cần cấp trên xem xét toàn diện hơn, qua đó bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, mạnh mẽ, quyết liệt trong hành động vì lợi ích của Đảng, của địa phương, đất nước. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đề ra một trong những giải pháp đột phá trong công tác cán bộ: “Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương”. Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định quan điểm: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”; trong đó, củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là một trong những nhiệm vụ quan trọng, bao trùm./. ---------------------

Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, góp phần phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước

TCCS - Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, công tác dân vận có nhiều cách làm hay, sáng tạo, mang lại hiệu quả thiết thực; qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và góp phần vào phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Thời gian tới, Đảng ta xác định tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác dân vận, góp phần phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi người dân sống trong khu vực dự án đường bộ cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột _Ảnh: TTXVN Về sức mạnh của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước Chủ nghĩa Mác - Lê-nin luôn luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, coi sức mạnh của nhân dân là vô địch; muốn lãnh đạo cách mạng phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, cách mạng muốn thắng lợi phải được đông đảo nhân dân ủng hộ. V.I. Lê-nin khẳng định: “Đối với đảng cộng sản hiện còn yếu về số lượng, với tư cách là đội tiền phong của giai cấp công nhân đang lãnh đạo một nước rộng mênh mông, đang thực hiện (lúc này chưa có sự ủng hộ trực tiếp của các nước tiên tiến hơn) bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”(1). Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nhân dân, thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt, được hình thành do đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng vừa là người lãnh đạo, cầm quyền, vừa là người phục vụ nhân dân, còn nhân dân tự giác đi theo Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân./ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân./ Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra./ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên./ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2); Người nói: “Nước lấy dân làm gốc”(3), “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(4), “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”(5). Như vậy, dân phải làm chủ và có quyền làm chủ; bởi lẽ, nếu dân không được làm chủ thì dân chủ chỉ là hình thức. Phát huy truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của ông cha, tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đưa ra quan điểm hết sức đúng đắn, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặc biệt nhấn mạnh việc phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng rút ra 5 bài học kinh nghiệm, nhất là bài học: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(6). Trong 5 quan điểm chỉ đạo, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạnh công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(7) và trong 6 nhiệm vụ trọng tâm ở nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, có 3 nhiệm vụ đề cập đến phát huy vai trò của nhân dân: “Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(8), “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân”(9). Gần 40 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng đã phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII của Đảng đánh giá rất rõ các thành tựu đó: “Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(10). Kết quả, hạn chế về công tác dân vận thời gian qua Về kết quả của công tác dân vận Đánh giá khái quát ưu điểm công tác dân vận thời gian qua, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị được nâng cao; coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng”(11). Trên thực tế, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác dân vận được đổi mới. Đảng đã kịp thời ban hành nhiều nghị quyết về công tác dân vận, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VI (tháng 3-1990), “Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XI (tháng 6-2013), về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” để lãnh đạo, tập hợp các tầng lớp nhân dân; đồng thời, Đảng có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện các văn kiện của Đảng, cùng Quy chế Dân chủ ở cơ sở, đồng thời với việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan, công tác dân vận của các cơ quan nhà nước đạt được nhiều kết quả tích cực; việc tiếp công dân, đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp ủy được thực hiện nền nếp, tinh thần gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở, tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh. Các hình thức vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên ngày càng phong phú, đa dạng và hiệu quả hơn. Nhiều phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào “Dân vận khéo”, được đẩy mạnh, gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giải quyết hiệu quả nguyện vọng hợp pháp, lợi ích chính đáng của nhân dân. Về hạn chế và nguyên nhân Thời gian qua, công tác dân vận có chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn một số hạn chế cần nhận diện và tiếp tục khắc phục. Việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận, như phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” còn chưa phù hợp với từng đối tượng quần chúng, các loại hình ở cơ sở. Một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa coi trọng công tác vận động quần chúng và chưa chú trọng đưa nguyện vọng hợp pháp, lợi ích chính đáng của nhân dân làm nội dung chủ yếu trong lãnh đạo, chỉ đạo của mình. Việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong các loại hình doanh nghiệp có nơi còn mang tính hình thức. Công tác đánh giá và dự báo tình hình, nắm bắt tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân có nơi còn thiếu chính xác, chưa kịp thời; còn để xảy ra “điểm nóng” hoặc khiếu kiện phức tạp kéo dài. Công tác tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa được quan tâm đúng mức; chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát huy tốt vai trò của các cơ quan truyền thông, mạng xã hội, mở rộng các kênh đối thoại trực tiếp với nhân dân. Việc lựa chọn nội dung và cách thức vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên ở một số nơi thiếu sáng tạo, chưa sát thực tế, nên hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền gương điển hình là tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh giỏi, làm giàu chính đáng có lúc chưa được quan tâm đúng mức. Việc tiến hành sơ kết, tổng kết theo quy định của Trung ương có nơi làm chậm hoặc làm hình thức, chiếu lệ. Những hạn chế về công tác dân vận có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, cụ thể: 1- Một số cấp ủy, chính quyền, chưa nhận thức đầy đủ, rõ ràng vị trí, vai trò của công tác dân vận trong tình hình mới; 2- Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng, nhất là ở cơ sở còn hạn chế; 3- Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, vai trò tiên phong, nòng cốt còn mờ nhạt, cá biệt còn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền; 4- Việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là về phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân còn chậm, hiệu quả thấp. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận và các tổ chức chính trị - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng giúp đồng bào thu hoạch lúa_Ảnh: TTXVN Một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận để tiếp tục phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ mới Một là, các cấp ủy tiếp tục lãnh đạo, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động về công tác dân vận của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Tiếp tục quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Trung ương về công tác dân vận đến tổ chức đảng, đảng viên; đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực, sáng tạo, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tạo sự đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai là, Đảng tiếp tục lãnh đạo tập trung thực hiện tốt công tác dân vận. Cơ quan nhà nước cần có phương pháp, cách thức, hình thức thực hiện hiệu quả, nhằm phát huy vai trò của nhân dân tham gia trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm hài hòa lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, gắn với lợi ích quốc gia - dân tộc. Từng bước tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp để phát huy trí tuệ tập thể, sự đóng góp ý kiến quan trọng, quý báu của các tầng lớp nhân dân; sớm hoàn thiện, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tiếp tục thực hiện hiệu quả việc tiếp xúc cử tri, hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tiếp dân, đối thoại với công dân, giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân kịp thời, đúng pháp luật. Hoàn thiện và thực thi quy định về đạo đức công vụ kết hợp với tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; quan tâm công tác tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở cơ quan nhà nước các cấp. Phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ thường xuyên tiếp xúc, làm việc với nhân dân, cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các ngành, các cấp, các đơn vị, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, Kiên quyết phê phán, đấu tranh mạnh mẽ với các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân; đồng thời, chống các khuynh hướng mị dân, kích động nhân dân. Tiếp tục tuyên truyền và tổ chức thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, thường xuyên lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để có biện pháp giải quyết kịp thời. Tập trung xử lý dứt điểm các vấn đề “nóng”, bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, không để các vụ khiếu kiện phức tạp kéo dài, các “điểm nóng” về an ninh, trật tự xảy ra ở cơ quan, đơn vị, cơ sở. Ba là, tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của các thành viên, đoàn viên, hội viên, theo đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ các cấp thật sự vững mạnh, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng công tác dân vận. Quan tâm việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách động viên đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận, đoàn thể yên tâm công tác; kiên quyết không bố trí cán bộ thiếu gương mẫu, đạo đức kém, vi phạm kỷ luật làm công tác dân vận. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hướng mạnh về cơ sở; đa dạng hóa hình thức tập hợp, vận động đoàn viên, hội viên; làm tham mưu cho cấp ủy, là nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, tình hình nhân dân; phát huy dân chủ, ý thức trách nhiệm của công dân trong thực hiện giám sát xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Thực hiện nghiêm túc, nhất quán nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt động theo pháp luật khi phát triển các tổ chức quần chúng. Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức quần chúng, thường xuyên bồi dưỡng đoàn viên, hội viên ưu tú, tiêu biểu cả đức và tài để giới thiệu nguồn cán bộ cho Đảng, Nhà nước; đồng thời, quan tâm xây dựng, phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng, kể cả đồng bào ta ở nước ngoài hướng về xây dựng đất nước. Bốn là, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các quan điểm, luận điệu sai trái. Đại hội XIII của Đảng xác định rõ phương hướng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng”(12). Đại hội đặt ra yêu cầu: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(13). Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đồng thời, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời hành vi tham nhũng, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng; can thiệp, cản trở việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kết quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực thời gian vừa qua được nhân dân đồng tình, ủng hộ; qua đó, tăng cường niềm tin, khơi dậy và phát huy sức mạnh của nhân dân để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước tình hình và điều kiện mới, các thế lực thù địch có nhiều hoạt động chống phá hết sức tinh vi, thâm độc, nhằm chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, chống phá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; do đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy “thế trận lòng dân”, quyết tâm, quyết liệt đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trong tình hình mới. Năm là, tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát huy sức mạnh của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới. Trong thời gian tới, công tác dân vận của Đảng phải tiếp tục góp phần tích cực vận động, tập hợp được các tầng lớp nhân dân trong cả hệ thống chính trị thành lực lượng to lớn tham gia các phong trào thi đua yêu nước, theo tinh thần “thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”. Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm bắt đầy đủ lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân để xác định nội dung và lựa chọn cách thức phát động phong trào thi đua sát với thực tế của từng cơ quan, đơn vị, địa phương và phù hợp với từng đối tượng. Trên cơ sở tổng kết phong trào thi đua “Dân vận khéo” và các phong trào thi đua do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát động thời gian qua để rút kinh nghiệm, qua đó thực hiện nhiệm vụ chính trị tốt hơn, hiệu quả hơn trong thời gian tới. Các phong trào thi đua cần thiết thực, tránh hình thức, lãng phí, tốn kém; lấy hiệu quả về chính trị, kinh tế - xã hội làm thước đo đánh giá từng phong trào thi đua; thường xuyên tổ chức theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng kịp thời. Trong giai đoạn phát triển mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần hướng phong trào thi đua vào khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp, đoàn viên, hội viên thi đua sản xuất, kinh doanh để làm giàu chính đáng. Trên cơ sở đó, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu ngân sách cho Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách an sinh xã hội, phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đất nước trong tình hình mới. Sáu là, cả hệ thống chính trị phối hợp chặt chẽ, đồng bộ trong thực hiện quy chế công tác dân vận. Ngày 30-7-2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 23-QĐ/TW, “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị” nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ về công tác dân vận trong tình hình mới. Quy chế đã nêu rõ trách nhiệm lãnh đạo và thực hiện công tác dân vận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Dân vận Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, các ban đảng ở Trung ương, đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương, Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan tư pháp, trách nhiệm của lực lượng vũ trang, trách nhiệm của chính quyền các cấp, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở trách nhiệm về công tác dân vận được Bộ Chính trị giao, các tổ chức trong hệ thống chính trị nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt để công tác dân vận có chuyển biến tích cực, rõ rệt. Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính quyền và các tổ chức với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở từng cấp. Cấp ủy các cấp cần thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế; đồng thời, định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời theo quy định của Trung ương./. ----------------------------

Tạp chí Cộng sản - cái nôi góp phần hun đúc tài năng, trí tuệ, đạo đức, phong cách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

TCCS - “Là tạp chí có lịch sử hoạt động lâu đời nhất ở nước ta đến nay”(1), do đích thân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và là chủ bút đầu tiên, sau đó, nhiều thế hệ Tổng Bí thư của Đảng kiêm Tổng Biên tập, Tạp chí Cộng sản có truyền thống là cái nôi rèn luyện và đào tạo nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, trong đó có Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Trong suốt cuộc đời công tác, luôn đau đáu việc Đảng, việc nước, việc dân, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng có hơn một nửa thời gian trong sự nghiệp làm việc liên tục tại Tạp chí Cộng sản (là cơ quan công tác lâu nhất, với 28 năm 8 tháng). Chính tại môi trường làm việc giàu truyền thống và đậm chất lý luận chính trị này, nhiều phẩm chất, khí chất của một nhà lãnh đạo, nhà lý luận, nhà báo lớn đã sớm bộc lộ và không ngừng được nuôi dưỡng, trui rèn, góp phần hun đúc nên tài năng, trí tuệ, đạo đức, phong cách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gắn Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai lên lá cờ truyền thống của Tạp chí Cộng sản _Ảnh: Tư liệu TCCS Đồng chí Nguyễn Phú Trọng thuộc lớp cán bộ trẻ của Tạp chí Cộng sản lần đầu tiên được lựa chọn từ những sinh viên xuất sắc mới ra trường (trước đó, cán bộ làm việc tại Tạp chí Cộng sản hầu hết đều đã kinh qua công tác chuyển về). Tháng 12-1967, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, khi vừa tốt nghiệp xuất sắc Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, bắt đầu về Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản) nhận công tác. Đây là sự phân công của tổ chức, nhưng cũng giống như mối nhân duyên đối với chàng trai trẻ khi đó mới 23 tuổi đầy nhiệt huyết, hoài bão và tràn đầy sức lực mong muốn cống hiến cho cách mạng. Nghề tìm người, những tố chất xuất sắc vốn có của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, như ham học hỏi, say mê nghiên cứu, có phương pháp công tác khoa học... rất phù hợp với môi trường làm việc của Tạp chí Cộng sản - nơi luôn đòi hỏi sự đào sâu suy nghĩ, mở rộng tư duy, không ngừng nghiên cứu về các vấn đề lý luận chính trị. Do đó, Đồng chí có sự trưởng thành rất vững chắc, căn bản và toàn diện; nhiều phẩm chất của một nhà lãnh đạo, nhà lý luận, nhà báo lớn, tài năng... đã sớm phát lộ và được rèn luyện, vun bồi trong những năm tháng công tác ở Tạp chí Cộng sản, từ lúc chỉ là cán bộ tập sự cho đến khi trở thành Tổng Biên tập. Tạp chí Cộng sản góp phần rèn luyện nên nhà lãnh đạo tài năng xuất sắc của Đảng ta. Trình độ, nền tảng lý luận sâu rộng, vững chắc, tư duy lý luận sắc sảo không ngừng được bồi đắp và vươn tầm trong thời gian công tác tại Tạp chí Cộng sản góp phần tôi luyện nên một nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc của Đảng ta sau này. Những cán bộ công tác cùng thời với Đồng chí Nguyễn Phú Trọng tại Tạp chí Cộng sản đều rất khâm phục trí tuệ, niềm đam mê nghiên cứu, học hỏi của Đồng chí, vừa được học tập bài bản từ trường lớp, vừa tự nghiên cứu, tích lũy tri thức lý luận không ngừng, trong điều kiện cuộc sống và môi trường làm việc khi đó còn khó khăn, thiếu thốn mọi bề. Quá trình đó cũng như tằm rút ruột nhả tơ, đầy tâm huyết, trăn trở, nhọc nhằn, tuân thủ cao độ sự nghiêm túc trong nghiên cứu lý luận chính trị, vượt qua sự hạn hẹp của thời gian vật lý, những thiên kiến chủ quan, giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa... còn khá nặng nề trong môi trường nghiên cứu học thuật khi đó, để tìm đến chân lý, chiếm lĩnh và làm chủ địa hạt nhận thức lý luận. Nền tảng lý luận sâu rộng, tư duy lý luận sắc sảo ở Đồng chí chính là cơ sở để hình thành nhãn quan chính trị sâu sắc và tư duy chiến lược tầm cao - phẩm chất quan trọng của một nhà lãnh đạo xuất sắc. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng có tầm nhìn vượt trước, đặc biệt có sự nhạy bén trong đánh giá chiều hướng vận động, xu hướng phát triển của tình hình thế giới và khu vực, để từ đó đóng góp những bài nghiên cứu lý luận giá trị ngay khi đang làm việc tại Tạp chí Cộng sản, góp phần quan trọng vào công tác tham mưu cho Trung ương về định hướng chủ trương, chính sách của Đảng. Từ cuối năm 1989, trước những biến động ở các nước Đông Âu và tiếp theo là những biến động ở Liên Xô, với tầm nhìn chiến lược và sự nhạy bén chính trị, dưới sự chỉ đạo của Ban Biên tập và Đồng chí Nguyễn Phú Trọng (khi đó là Ủy viên Ban Biên tập, rồi Phó Tổng Biên tập, phụ trách nội dung), Tạp chí Cộng sản có hệ bài cắt nghĩa nguyên nhân những biến động đó, thẳng thắn chỉ ra những sai lầm dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, đồng thời đúc rút những bài học cho Việt Nam... Hệ bài đã thực sự có tiếng vang lớn, như “cánh chim báo bão”, góp phần giúp Đảng ta và đội ngũ cán bộ, đảng viên kịp thời có sự chủ động và chuẩn bị tâm thế trước những biến động to lớn của tình hình chính trị thế giới. Năm 1991, Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, cùng với sự tan rã của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, gây nên “cơn địa chấn chính trị” làm rúng động những người cộng sản toàn thế giới, có tác động rất bất lợi đến tình hình trong nước. Ngay thời điểm đó, số tháng 4-1992, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, khi đó đang là Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, có bài viết “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?”. Đây là một bài viết “kinh điển”, mẫu mực, đã làm rõ nguyên nhân sâu xa chủ yếu khiến Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, đồng thời chỉ ra những sai lầm trên là do “làm trái quy luật khách quan, làm trái các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng Đảng”(2), đồng thời khẳng định chắc chắn rằng “Quy luật khách quan không ai cưỡng lại được vẫn là chủ nghĩa xã hội sẽ phủ định và thay thế chủ nghĩa tư bản”(3), kiên quyết bảo vệ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tình hình tư tưởng lúc đó rất phức tạp, không ít cán bộ, đảng viên dao động, mơ hồ, thiếu niềm tin, phai nhạt lý tưởng, thậm chí có người phản bội lại lý tưởng của Đảng; chủ nghĩa cơ hội chính trị, chủ nghĩa xét lại trỗi dậy... Trong bối cảnh đó, bài viết có giá trị định hướng rất lớn, cắt nghĩa sâu sắc, thuyết phục, lập luận chắc chắn, sắc bén đúng với phẩm chất, cốt cách chính luận của Tạp chí Cộng sản, là “cánh chim đầu đàn” cùng với hệ bài viết của một số cơ quan báo chí lớn, đã góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, niềm tin khoa học vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bài viết cũng thể hiện bản lĩnh, sự kiên định chính trị, chiều sâu lý luận và tầm tư tưởng lớn, là minh chứng sống động khẳng định năng lực và trình độ lý luận của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng. Tình yêu thương, quý trọng, tin tưởng vào con người, vì nhân cách con người, giá trị con người làm nên tố chất, tư cách của nhà lãnh đạo lớn. Tố chất đó vừa thể hiện trong quan hệ công việc, cuộc sống thường ngày với đồng nghiệp, đồng chí, vừa tỏ rõ trong những tư tưởng, quan điểm nhất quán ở các bài viết của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng trên Tạp chí Cộng sản. Nhiều câu chuyện kể bình dị nhưng đầy ấm áp về tình người, sự quý trọng con người, chăm lo cho con người của những người đồng nghiệp về người anh, người chú, người thủ trưởng Nguyễn Phú Trọng khiến người nghe không khỏi cảm động, rưng rưng nước mắt. Đây có lẽ cũng chính là cội nguồn tự nhiên để sau này hình thành nên quan điểm vì dân, hết lòng phục vụ nhân dân khi Đồng chí trở thành người đứng đầu Đảng và Nhà nước. Tạp chí Cộng sản góp phần tôi luyện nên nhà lý luận xuất sắc, nhà báo lớn của Đảng. Với lịch sử vẻ vang 94 năm, ngọn lửa lý luận chính trị của Tạp chí Cộng sản đã tôi luyện nên nhiều cây bút lý luận tài ba, trong đó có Đồng chí Nguyễn Phú Trọng - một nhà lý luận xuất sắc của Đảng - “người có năng lực đặc biệt trong tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận”(4) ngay khi còn công tác tại Tạp chí Cộng sản. Ngay từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, trước thềm đổi mới, khi mới là cán bộ biên tập của Ban Xây dựng Đảng, Đồng chí đã hòa mình vào thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của cơ quan. Tạp chí đã sớm có hệ bài viết lý luận “đi trước một bước tiến công đập tan tư duy cũ, mở đường về lý luận cho công cuộc đổi mới của Đảng”(5), thể hiện rõ vai trò của Tạp chí vào những thời điểm mang tính bước ngoặt của lịch sử đất nước, như các bài về “khoán 10”, về giá - lương - tiền, về sử dụng nhiều thành phần kinh tế, phê phán những khuyết điểm về kế hoạch hóa, đồng thời chỉ ra lợi ích kết hợp kế hoạch hóa với sử dụng quan hệ thị trường, kết hợp ba lợi ích: lợi ích của xã hội, lợi ích của tập thể, lợi ích của cá nhân... Bước vào những năm đầu đổi mới, Tạp chí Cộng sản tiếp tục khai mở và đi thẳng vào nhiều vấn đề lý luận mới, khó, hóc búa, cho thấy rõ bản lĩnh, tầm nhìn và tính tiền phong về lý luận của Tạp chí. Bản thân Đồng chí Nguyễn Phú Trọng cũng nghiên cứu, viết nhiều bài lý luận quan trọng, về các vấn đề lý luận mới, phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau. Đơn cử, khi là Trưởng Ban Xây dựng Đảng, Đồng chí viết bài: “Đảng viên có được làm kinh tế tư nhân không?” (Tạp chí Cộng sản, số tháng 9-1988) - một chủ đề khi đó được coi là rất “nhạy cảm” - song được tác giả phân tích toàn diện, sâu sắc, luận giải bằng cơ sở lý luận chặt chẽ, chiều sâu, từ góc nhìn đa ngành xây dựng Đảng, kinh tế chính trị để đưa ra những quan điểm mới: “Trong điều kiện ngày nay, cần hiểu khái niệm bóc lột một cách khác hơn, đúng hơn”; “Phải chăng đảng viên không được làm giàu? Phải chăng đảng viên cứ ngồi ôm bụng chịu đói...? Không, hoàn toàn không phải như vậy”(6), từ đó “có thể cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân ở một phạm vi nhất định và dưới những hình thức thích hợp”(7), bởi “đảng viên có thể phát huy được khả năng sản xuất, kinh doanh của mình, làm giàu cho xã hội, làm lợi cho một số người lao động và làm giàu cho cả bản thân. Đó là sự làm giàu chính đáng”(8)... Đây là những quan điểm lý luận đi trước mở đường hết sức tiến bộ lúc bấy giờ. Từ đầu năm 1989, Tạp chí Cộng sản mở chuyên mục: “Chủ nghĩa xã hội: nhìn lại và đổi mới” đăng một loạt bài chuyên sâu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về đặc điểm và những nội dung - nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về những mâu thuẫn và mâu thuẫn chủ yếu trong thời kỳ quá độ... góp phần tích cực vào việc tạo dựng hệ thống quan điểm lý luận phục vụ trực tiếp cho việc chuẩn bị Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng. Giai đoạn này, Tạp chí Cộng sản đã có những đổi mới về cả nội dung, hình thức; các bài viết giảm tính kinh viện, bám sát các vấn đề của cuộc sống, “lý luận gắn chặt với thực tiễn”. Đây cũng là nguyên tắc được Đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn quán triệt trong nghiên cứu lý luận, xem đó là “nguyên tắc tối cao của lý luận cách mạng; nguyên tắc cao nhất trong hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước”(9). Trong bối cảnh đó, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng viết bài: “Kinh tế thị trường và nền chính trị dân chủ ổn định” (Tạp chí Cộng sản, số tháng 8-1991), khẳng định: “Muốn thực hiện đổi mới thành công, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội một cách đúng đắn và có hiệu quả, nhất thiết phải phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và thực hành một nền chính trị dân chủ, ổn định. Đây chẳng những là một nội dung, yêu cầu của công cuộc đổi mới, mà còn là con đường, là phương thức đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(10). Đồng thời, bài viết phân tích sáng rõ nội hàm nền kinh tế thị trường, tính tất yếu phát triển nền kinh tế thị trường; về dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới chính trị... Có thể nói, đây đều là những vấn đề lý luận căn cốt, song khi đó còn mới, chưa được nghiên cứu và đề cập mang tính hệ thống. Việc dự báo và nghiên cứu từ rất sớm, lại là những vấn đề lý luận quan trọng, sau này đều được các văn kiện của Đảng chính thức sử dụng, cho thấy tố chất, tầm nhìn, sự nhạy bén khoa học, chính trị, bản lĩnh và năng lực nghiên cứu lý luận của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng. Điều đó cũng thể hiện Đồng chí luôn trăn trở và quyết tâm thực hiện để làm sao lý luận phải gánh vác được sứ mệnh đi trước dẫn đường, tránh sự lạc hậu, theo đuôi thực tiễn như “anh hề đồng lóc cóc chạy theo cỗ xe tam mã”. Với sự phát hiện, quan tâm, định hướng, dìu dắt của các đồng chí lãnh đạo đi trước, nỗ lực mạnh dạn tự đào sâu nghiên cứu, viết bài về những vấn đề lý luận lớn, mới, khó như vậy đã giúp trình độ nghiên cứu lý luận của Đồng chí được nâng tầm nhanh hơn, vững vàng hơn. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức, cũng như trực tiếp viết bài đấu tranh trên địa hạt tư tưởng, lý luận, thực hiện một trong những sứ mệnh quan trọng của Tạp chí Cộng sản ngay từ khi mới ra đời. Công tác nghiên cứu lý luận gắn chặt với đấu tranh lý luận, ngay trong từng bước nghiên cứu, một cách chủ động, sắc bén, liên tục và bền bỉ. Nhiều cuộc đấu tranh tư tưởng, tuyến bài đấu tranh tư tưởng ở tầm lý luận của Tạp chí có tiếng vang rất lớn trong lịch sử công tác tư tưởng của Đảng. Một trong những bài chiến luận mẫu mực của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là bài viết “Vì sao Đảng ta kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin?” (Tạp chí Cộng sản, số tháng 9-1995). Bài viết thể hiện trình độ rất cao về bút pháp, bút lực, tính chiến đấu, được xây dựng trên nền tri thức lý luận hết sức sâu rộng, sắc bén, đã bẻ gãy những luận điệu bài bác, xuyên tạc, qua đó bảo vệ tính cách mạng triệt để, khoa học và nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin bằng lý luận đanh thép: “Với linh hồn sống là phép biện chứng duy vật, với hòn đá tảng kinh tế là học thuyết giá trị thặng dư, với những phát kiến vĩ đại về chủ nghĩa duy vật lịch sử mà nội dung cơ bản là lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội, vai trò lịch sử của giai cấp công nhân..., chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho đến nay vẫn là đỉnh cao của trí tuệ loài người, là khoa học chính xác và hoàn bị, chưa có gì thay thế được”(11). Chính những hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và trực tiếp nghiên cứu, viết bài thường xuyên, không ngừng đào sâu suy nghĩ, khai phá các vỉa tầng tri thức lý luận trong thời gian dài công tác tại Tạp chí Cộng sản đã góp phần rèn luyện nên một nhà lý luận xuất sắc của Đảng ta. Sau này, trên các cương vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trong đó có giai đoạn là Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách trực tiếp công tác lý luận của Đảng, Đồng chí tiếp tục có đóng góp quan trọng vào công tác lý luận của Đảng. Đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo việc triển khai nghiên cứu, tổng kết, chuẩn bị cơ sở khoa học, thực tiễn và nội dung các vấn đề bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011); trực tiếp tham gia hoặc chủ trì xây dựng Văn kiện Đại hội IX, X, XI, XII, XIII, XIV của Đảng... Đặc biệt, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng có công lao to lớn trong việc hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới ở Việt Nam, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhiều vấn đề lý luận mang đậm dấu ấn của Đồng chí, như định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; lý luận xây dựng, chỉnh đốn và bảo vệ Đảng; các mối quan hệ lớn phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; dân chủ xã hội chủ nghĩa... Trong đó, nhiều nội dung quan trọng đã được Đồng chí nung nấu, ấp ủ nghiên cứu, manh nha ý tưởng hoặc đã định hình những nội dung cốt yếu ngay từ khi công tác tại Tạp chí Cộng sản. Là nhà báo trưởng thành từ tác nghiệp những công việc thông thường nhất của cán bộ tư liệu, biên tập viên đến trở thành người lãnh đạo cao nhất của Tạp chí Cộng sản, dành trọn tuổi trẻ của mình cho nghề báo, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng thấu hiểu công việc làm tạp chí, nhất là làm tạp chí lý luận. Bản thân Đồng chí cũng chính là tấm gương không ngừng luyện rèn bút lực để trở thành cây bút chính luận mẫu mực, định hình một phong cách viết chính luận riêng có. Sau này, dù không còn trực tiếp làm tạp chí, song Đồng chí vẫn thường trực những tâm huyết, trăn trở đối với nền báo chí nước nhà, nhất là với Tạp chí Cộng sản, nơi Đồng chí có thời gian gắn bó và công tác lâu nhất. Đồng chí thường căn dặn Tạp chí Cộng sản phải “đúng vai, thuộc bài”, giữ vững tôn chỉ, mục đích là cơ quan lý luận chính trị của Đảng, tức là giữ vững cốt cách, phẩm chất chính luận, tuyệt đối tránh “học thuật hóa” hay “báo hóa” tạp chí: Tránh cả hai khuynh hướng, hoặc “sa vào nghiên cứu những vấn đề lý luận thuần túy, thích đăng những bài có tính học thuật, hoặc ngược lại, nhấn mạnh quá đáng yêu cầu phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị, hạ thấp chất lượng lý luận của bài, đăng cả những bài mà lẽ ra thuộc chức năng của báo hằng ngày”(12) và “Tạp chí Cộng sản cần tập trung thực hiện chức năng, nhiệm vụ chính của mình, không làm thay, làm lấn sang việc của cơ quan khác”(13). Tạp chí lý luận chính trị phải gánh vác chức năng mang tính tổng hợp, bao gồm cả nghiên cứu lý luận, giáo dục lý luận và tuyên truyền lý luận; cán bộ công tác tại tạp chí lý luận chính trị của Đảng cần phấn đấu hội đủ phẩm chất của nhà lý luận, nhà khoa học và nhà báo. Hiểu thấu ngọn ngành công việc nghiên cứu, viết lý luận, Đồng chí từng chia sẻ: “Sự nghiệp lý luận khó lắm, khó vô cùng”, “viết một bài báo đã khó, viết một bài lý luận lại càng khó”, đồng thời dẫn lại lời căn dặn của cố Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng: “Vì vậy, phải lo rèn luyện, rèn luyện công phu. Phải công phu nhiều lắm. Mỗi người phải công phu tự rèn luyện mình”(14). Mỗi tác phẩm báo chí lý luận là một sản phẩm kết tinh quá trình lao động sáng tạo tâm huyết và rất công phu. Phải dụng công mới có “đứa con tinh thần” chất lượng. Phải đo thời gian bằng nhiều tháng, năm nghiền ngẫm, thai nghén, đau đáu, nghiên cứu, tích lũy tri thức và viết, “phải tích lũy thế nào mới viết được. Tằm chín đến độ nào mới nhả tơ được...(15), chưa kể phải có tư duy sắc sảo và bút lực mạnh, có phong cách riêng - những yếu tố thuộc về năng khiếu thiên bẩm riêng có của mỗi người và trải qua quá trình rèn bút nghiêm khắc - thì mới mong có được bài lý luận chính trị chất lượng. Các bài báo lý luận của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng có bố cục chặt chẽ, cân đối, vững vàng, lập luận chắc chắn, lô-gíc, văn phong chính luận đĩnh đạc, trong sáng. Viết về những vấn đề lý luận lớn, song cách viết và ngôn ngữ dễ hiểu, không “đao to, búa lớn”, lại càng không lạm dụng “tầm chương trích cú” kinh điển nặng nề, mà trích dẫn rất “đắt”, tinh tế, chọn lọc. Trong khi đó, những bài đấu tranh tư tưởng của Đồng chí lại có tính chiến đấu cao, lý luận sắc bén, ngôn ngữ đanh thép, lập trường nhất quán. Đồng chí rất coi trọng việc đi thực tế, làm việc với cơ sở, để tổng kết thực tiễn ở tầm lý luận, để những vấn đề lý luận luôn được minh chứng bằng những chất liệu thực tiễn sống động, không phải “lý luận suông”. Tấm gương mẫu mực và những lời căn dặn của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng về công tác của Tạp chí chính là kim chỉ nam đối với mỗi cán bộ, biên tập viên của Tạp chí Cộng sản. Tấm gương sáng ngời ấy cũng để lại những bài học quý về luôn giữ vững tôn chỉ, mục đích của tạp chí lý luận chính trị của Đảng, về xây dựng hệ bài viết chính luận rường cột của Tạp chí có chất lượng cao, với cách thức thực hành lao động sáng tạo tác phẩm chính luận mẫu mực, phát hiện, lựa chọn và luận giải những vấn đề lý luận chính trị lớn, đang bức thiết đặt ra trong thực tiễn và trong công tác lý luận. Tác phong công tác, nếp sinh hoạt chuyên môn khởi xướng từ thời Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, đến nay vẫn được kế thừa, duy trì và phát triển ở “ngôi nhà” Tạp chí Cộng sản. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản viết lưu bút tại Phòng truyền thống Tạp chí Cộng sản, ngày 9-6-2012 _Ảnh: Lưu trữ TCCS Tạp chí Cộng sản góp phần hun đúc phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản kiên cường đấu tranh không khoan nhượng với thói hư, tật xấu, tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Trong cuộc sống hằng ngày, cũng như trong tư tưởng các bài viết của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng khi công tác tại Tạp chí Cộng sản đều toát lên hình ảnh một con người liêm khiết, trong sạch, bình dị, đức độ, công - tư phân minh, là hiện thân của đạo đức cách mạng. Sự liêm khiết cũng đồng nghĩa với sự nghiêm khắc, không nhượng bộ với vi phạm nguyên tắc, không khoan nhượng với thói hư, tật xấu. Sự chuẩn mực và giữ vững các nguyên tắc trong công việc, cuộc sống là tính cách trước sau không đổi ở Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, từ khi còn là tập sự cho đến khi là người lãnh đạo cao nhất Tạp chí Cộng sản. Đồng chí luôn nghiêm khắc, tự khép mình vào kỷ luật, đồng thời nhẹ nhàng nói điều hay lẽ phải để uốn nắn đồng chí, đồng nghiệp vào kỷ cương. Tài sản công là xương máu của nhân dân, đã là của công thì tuyệt đối không một ai được tơ hào, dù chỉ “một đồng, một cắc”. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là người có công lớn đưa chuyên mục “Sinh hoạt tư tưởng” trở thành một thương hiệu của Tạp chí Cộng sản. Đây là chuyên mục, thể loại riêng có của Tạp chí, sử dụng lối viết trào phúng, dí dỏm, nhưng thâm thúy để phê bình, đả kích, cảnh báo thói hư, tật xấu trong nội bộ Đảng. Mặc dù ngắn, song đây lại là thể loại khó, khá kén người viết, đòi hỏi cái “duyên viết” của mỗi tác giả. “Sinh hoạt tư tưởng” trở thành nơi gửi gắm tâm tư, quan điểm, thái độ đấu tranh không khoan nhượng của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đối với thói hư, tật xấu, tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ, với nhiều bút danh như Người xây dựng, Trọng Nghĩa, Hà Phương... Nhiều bài viết đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, đề cập và phê phán các tệ nạn: ghen ghét, kèn cựa, móc ngoặc, tệ ăn cắp của công, lãng phí, ăn gian làm dối, hối lộ, ức hiếp quần chúng, nịnh và ưa nịnh, dân chủ hình thức, thói ba phải, tệ cánh hẩu..., như: Tre già yêu lấy măng non (Tạp chí Cộng sản, số tháng 9-1973), Bệnh sợ trách nhiệm (Tạp chí Cộng sản, số tháng 11-1973), Tình đồng chí (Tạp chí Cộng sản, số tháng 10-1979), Phán (Tạp chí Cộng sản, số tháng 7-1981), Chức vụ và uy tín (Tạp chí Cộng sản, số tháng 2-1984), “Làm xiếc” (Tạp chí Cộng sản, số tháng 6-1985)... Lối viết “Sinh hoạt tư tưởng”, ngoài việc phê phán trực diện, cũng dùng lối phê phán bằng luận bàn, ngôn ngữ trung tính hơn, nhưng có sức nặng không kém. Cùng với “Sinh hoạt tư tưởng”, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng cũng đặc biệt chú trọng các bài viết về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với số lượng và chất lượng bài nhiều nhất so với các lĩnh vực khác. Đây vừa là nhiệm vụ chuyên môn khi công tác ở Ban Xây dựng Đảng, đồng thời cũng là tâm huyết, thế mạnh, sở trường của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí nhận thức nhất quán, “sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc, là quy luật khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(16), do đó, cần quan tâm đặc biệt đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bởi đây là “nhân tố cực kỳ quan trọng”, là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng nước ta. Sự quan tâm đó sớm thể hiện trí tuệ mẫn tiệp và trách nhiệm chính trị “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu” (lo trước cái lo của thiên hạ) của một nhà lãnh đạo lớn của Đảng. Phần lớn bài viết là bài chuyên luận đề cập thẳng các vấn đề căn cốt nhất của công tác xây dựng Đảng, có giá trị lý luận và thực tiễn cao, đặc biệt có những phát hiện mới, đề xuất mang tính đột phá, như các bài viết: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng (Tạp chí Cộng sản, số tháng 8-1986), Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng (Tạp chí Cộng sản, số tháng 10-1990), Để đảm bảo dân chủ trong Đảng (Tạp chí Cộng sản, số tháng 11-1990); Đảng cầm quyền: Quan niệm và phương thức lãnh đạo (Tạp chí Cộng sản, số tháng 8-1992)... Nhiều bài viết đến nay như vẫn còn giữ nguyên “sức nóng” đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Với phẩm chất đạo đức trong sáng, liêm khiết và tinh thần của người cộng sản chân chính, ngọn lửa đấu tranh với thói hư, tật xấu, tham nhũng, tiêu cực luôn được giữ trong ý chí, quyết tâm của Đồng chí. Cho đến khi đứng mũi chịu sào trở thành người lĩnh xướng, là hạt nhân, linh hồn của cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” đầy cam go, thử thách, ngọn lửa ấy đã cháy bùng lên với những quyết sách mạnh mẽ chưa từng có, đầy dũng khí, quyết liệt, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và đã “trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược”, vì uy tín, thanh danh của Đảng, vì sự tồn vong của chế độ, để lại những dấu ấn sâu đậm không thể phai mờ theo năm tháng. Có thể nói, Tạp chí Cộng sản chính là nơi chắp cánh cho những hoài bão, vun bồi cho những phẩm chất quý của Đồng chí Nguyễn Phú Trọng ngày càng hoàn thiện, chuẩn bị hành trang vững vàng để sau này, Đảng ta có được một nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, dạn dày kinh nghiệm, trí tuệ uyên bác, gánh vác việc giang sơn, kế tục xứng đáng thành tựu của các thế hệ tiền bối, cùng với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ vinh quang, đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, để “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đảng ta, đất nước ta tự hào có một nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, đức độ, kế tục xứng đáng những thành tựu của các bậc tiền bối, là tấm gương mẫu mực trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ở Đồng chí Nguyễn Phú Trọng có sự hòa quyện giữa tư tưởng, đạo đức và phong cách; giữa lý luận và thực tiễn; giữa tri và hành; giữa lời nói và việc làm..., suốt đời tận tâm, tận lực, tận hiến cho Đảng, cho nước, cho dân, luôn đau đáu khát vọng làm cho đất nước phồn vinh, dân tộc cường thịnh, trường tồn. Các thế hệ cán bộ, nhân viên Tạp chí Cộng sản cũng rất đỗi tự hào có một người đồng nghiệp, đồng chí, người Thầy, một Tổng Biên tập tài năng, trưởng thành từ Tạp chí Cộng sản để rồi trở thành một nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc đứng đầu Đảng ta, Nhà nước ta. Những trang sử vàng của Đảng, của dân tộc và của lòng dân sẽ mãi khắc ghi công lao và tên tuổi Đồng chí! Trang sử vàng truyền thống vẻ vang gần 100 năm của Tạp chí Cộng sản cũng sẽ mãi lưu danh Đồng chí! Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn tâm đắc và không ít lần nghẹn ngào, xúc động nhắc lại câu nói của người cộng sản trẻ tuổi Pa-ven Coóc-xa-gin, nhân vật trong tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Nga Ni-cô-lai Ô-xtơ-rốp-xki: “Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí...”(17). Tôi luyện qua nhiều môi trường công tác, trong đó có Tạp chí Cộng sản, và khi “thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh, lúc đó thép trở nên không hề biết sợ”(18), cuộc đời Đồng chí cũng chính là một minh chứng sáng ngời của “thép đã tôi thế đấy”, bền bỉ cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta bằng một tinh thần thép, ý chí thép đến hơi thở cuối cùng, “để đến khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể tự hào rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời - sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người, mang lại hạnh phúc cho nhân dân”(19)./. --------------------------------------------

Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” - yếu tố then chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

TCCS - Cán bộ cấp chiến lược được tôi luyện qua nhiều môi trường thử thách, là mắt xích trọng yếu trong hoạt động của Đảng, Nhà nước, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Việc lựa chọn cán bộ cấp chiến lược bảo đảm “tâm, tầm, trí” là yêu cầu quan trọng, mang tính then chốt, quyết định đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện thắng lợi quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đang đặt ra ngày càng cao của sự nghiệp phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Về đội ngũ cán bộ cấp chiến lược Trong bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV, ngày 13-3-2024, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đội ngũ cán bộ cấp chiến lược là tinh hoa của Đảng, đòi hỏi phải thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và có uy tín cao để giải quyết những công việc ở tầm chiến lược, xử lý kịp thời, đúng đắn, có hiệu quả những tình huống phức tạp có quan hệ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, sự sống còn của chế độ”(1). Cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” là những người tiêu biểu về lương tâm, danh dự, trí tuệ, có khả năng quy tụ, tập hợp được đông đảo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân cùng thực hiện những nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước giao phó. Đó là những đồng chí luôn phấn đấu tận tâm, tận lực cống hiến hết mình cho công việc, đặt lợi ích tập thể lên trên hết; luôn cố gắng phát huy sở trường, thế mạnh, kinh nghiệm của bản thân cho nhiệm vụ chung của tập thể… Cán bộ cấp chiến lược giữ cương vị chủ chốt, đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân về kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương; được rèn luyện, thử thách qua nhiều vị trí, môi trường làm việc khác nhau, trưởng thành từ cơ sở và có sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc, được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tín nhiệm, trở thành những cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảm nhiệm những chức vụ quan trọng của mỗi địa phương, đơn vị. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự Lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng_Ảnh: TTXVN Đảng ta luôn khẳng định, công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt” của công tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho chúng ta những bài học bổ ích, quý báu về lựa chọn người “tài”, “đức” để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đặc biệt là nghệ thuật chọn người, dùng người chuẩn xác vào những vị trí công tác, đem lại hiệu quả cao. Người đã quy tụ, tập hợp được đông đảo những người đức độ, tài năng tham gia Chính phủ khi nước nhà vừa mới giành độc lập; phát hiện, huấn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ trở thành các nhà lãnh đạo ưu tú của Đảng, Nhà nước. Trong đội ngũ, tầng lớp tinh hoa, ưu tú ở các giai cấp, giai tầng trong xã hội, nhiều người đã gạt bỏ lợi ích, vinh hoa, phú quý của riêng mình để làm việc, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh yêu cầu cán bộ cấp chiến lược phải đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Xác định rõ quan điểm và vững vàng ý chí như vậy, đội ngũ cán bộ mới không sa vào chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, mất đoàn kết nội bộ, cục bộ, địa phương, làm giàu bất chính, kê khai tài sản cá nhân không trung thực,... Nếu không có “con mắt tinh đời” để lựa chọn chuẩn xác cán bộ cấp chiến lược vào vị trí lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, các ngành, đơn vị, địa phương sẽ là điều tai hại cho Đảng, Nhà nước và nhân dân; không chỉ mất cán bộ, mà còn làm giảm sút niềm tin, uy tín của Đảng với nhân dân. Do đó, dứt khoát không đưa vào quy hoạch những người có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, không thực đức, thực tài, mất đoàn kết nội bộ, tham nhũng, tiêu cực, cơ hội chính trị. Thực tế những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp để giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ cấp chiến lược không chỉ cho Trung ương, mà còn cho các địa phương, tạo nguồn cán bộ kế cận, bổ sung, như thực hiện luân chuyển công tác, tổ chức những lớp bồi dưỡng học tập lý luận chính trị cao cấp, thử thách, rèn luyện cán bộ thông qua phân công, giao nhiệm vụ, giải quyết công việc,… Đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đã không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên trong công việc, cuộc sống, tự giác tu dưỡng, rèn luyện về năng lực, phương pháp, tác phong công tác, phẩm chất đạo đức, lối sống đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Nhiều cán bộ cấp chiến lược đã bám sát cơ sở, phát huy dân chủ, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ sức mạnh của tập thể để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị được giao, nhất là thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. “Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới và sau hơn 25 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp ở nước ta đã có bước trưởng thành, phát triển nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”(2). Tuy nhiên, một số cán bộ cấp chiến lược đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tham nhũng, tiêu cực; vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, quy định những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương, gây hậu quả nghiêm trọng, nhân dân bức xúc, ảnh hưởng lớn đến uy tín của tổ chức đảng và chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị. “Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy phiếu bầu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội…, trong đó có cả cán bộ cấp cao, tuy đã được ngăn chặn, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị đẩy lùi. Làm việc gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự”(3). Hiện nay, các cơ quan, đơn vị, địa phương tích cực, chủ động làm tốt công tác lựa chọn nhân sự, điều chuyển, luân chuyển, bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo mới để chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Do đó, việc lựa chọn cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. “Công tác nhân sự Đại hội là vô cùng quan trọng, nhưng cũng hết sức phức tạp, khó khăn, nặng nề, đòi hỏi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cả hệ thống chính trị phải làm việc với tinh thần trách nhiệm rất cao, với quyết tâm, nỗ lực rất lớn, có cách làm thật sự công tâm, khách quan, khoa học, đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết”(4). Yêu cầu đặt ra trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” Giai đoạn hiện nay là thời điểm “chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong những năm tháng kháng chiến, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau”(5). Do đó, việc lựa chọn cán bộ cấp chiến lược càng phải chính xác để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Một trong những cách thức, biện pháp quan trọng để lựa chọn cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” là cần phải tiếp tục rà soát, bổ sung, thay thế các văn bản có liên quan đến công tác cán bộ, quy định một cách chặt chẽ, đầy đủ, toàn diện các tiêu chí, như độ tuổi, trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống, thời gian công tác, kinh nghiệm thực tiễn, uy tín trước tập thể cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong quá trình tổ chức thực hiện quy trình nên lấy phiếu tín nhiệm, thăm dò cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân trong toàn cơ quan, đơn vị, địa phương. Cơ quan, ban, ngành làm công tác tổ chức cán bộ cần cẩn trọng, chặt chẽ, nghiên cứu, tham khảo từ nhiều kênh thông tin khác nhau; không chỉ dựa vào bằng cấp, tiêu chí mà cần dựa vào năng lực làm việc, nhất là những kết quả, sản phẩm công việc cụ thể, uy tín trong tập thể, phẩm chất đạo đức, lối sống ở nơi công tác, làm việc và nơi cư trú. Cần nắm bắt tình hình dư luận trước khi bổ nhiệm cán bộ cấp chiến lược; tinh tường trong nhìn nhận, đánh giá cán bộ toàn diện, dự báo triển vọng phát triển lâu dài, từ đó đưa ra quyết định giới thiệu, lựa chọn cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” đúng người, đúng việc. Những cán bộ cấp chiến lược phải tự giác tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng với nhiệm vụ công việc đặt ra. “Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là từng đồng chí ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tự giác, gương mẫu tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình, tự điều chỉnh mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình; cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân”(6). Đây là biện pháp quan trọng, bởi không ai khác, mà chính bản thân mỗi cán bộ cấp chiến lược phải luôn đặt mình vào trong tổ chức, chức vụ càng cao càng phải chấp hành nghiêm những quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; luôn tỉnh táo trước mọi cám dỗ, làm việc bằng lương tâm, trách nhiệm của người cộng sản chân chính. Mỗi cán bộ cấp chiến lược cần thực hiện nghiêm Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới. Rèn luyện chữ “tâm” của người cán bộ cấp chiến lược để thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ, đồng cảm với cấp dưới và những khó khăn, vất vả, cực nhọc của người dân; luôn hết lòng, hết sức vì công việc, nhiệm vụ chung của tập thể, sẵn sàng nhường bước, ủng hộ những người tài năng giải quyết công việc hiệu quả, phù hợp đem lại những điều có lợi nhất cho tập thể. Rèn luyện chữ “tâm” để mỗi cán bộ cấp chiến lược vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nhất là không bị sa ngã vào chủ nghĩa cá nhân, không hám danh lợi, quyền bính, chức tước, bổng lộc; tự hổ thẹn với bản thân mình khi có ý nghĩ hay những việc làm sai trái. Cần nhận thức sâu sắc rằng, “tâm” mới là gốc, là thiện, là phẩm giá, lương tâm của một con người. Rèn luyện chữ “tầm” của cán bộ cấp chiến lược để phân tích, suy luận các công việc, nhiệm vụ một cách lô-gíc chặt chẽ, khoa học, đưa ra được những dự báo chiến lược bảo đảm cho sự phát triển của đơn vị, địa phương. Đó là tính quảng đại, bao dung, độ lượng vì việc lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân; mỗi một công việc, nhiệm vụ đưa ra đều tập hợp, đoàn kết và được sự ủng hộ đông đảo của cấp dưới, các tầng lớp nhân dân. Đó còn là tầm nhìn xa, trông rộng trong quyết sách công việc, trong nhìn nhận, đánh giá, lựa chọn cán bộ cấp dưới, phân công, sắp xếp đúng người, đúng việc… Các đồng chí tham dự Lớp Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV tham quan, khảo sát thực tế cánh đồng ứng dụng công nghệ cao tại Nghệ An_Ảnh: baonghean.vn Rèn luyện chữ “trí” của cán bộ cấp chiến lược để sắp xếp, xử lý công việc khoa học, phù hợp, hiệu quả, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở, khơi dậy và phát huy tiềm năng, thế mạnh của cấp dưới, của nhân dân, để mọi người đều toàn tâm, toàn ý cho nhiệm vụ chung của tập thể. Đó chính là sự khôn khéo, quyền biến trong giải quyết mối quan hệ bên trong và bên ngoài, đối nội và đối ngoại, có dấu ấn, đặc sắc riêng mà mọi người phải tâm phục, khẩu phục. Để rèn luyện được “tâm, tầm, trí” thì cán bộ cấp chiến lược phải tự giác “gột rửa”, “tự soi”, “tự sửa” những hạn chế, khuyết điểm của bản thân mình, gia đình mình. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thường căn dặn: Thường xuyên tự soi, tự sửa, tự răn mình, tránh xa những cám dỗ vật chất, tham vọng, tránh đi vào vết xe đổ, để tay nhúng tràm và nếu đã trót ít nhiều nhúng tràm thì sớm tự giác gột rửa. Trong xây dựng, lựa chọn, bố trí đội ngũ cán bộ cấp chiến lược cần hội tụ đầy đủ “tâm, tầm, trí”, không được quá coi trọng, đề cao, tuyệt đối hóa hoặc xem nhẹ bất kỳ một yếu tố nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ có năng lực nhưng không có đạo đức, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng thì năng lực đó không thể dùng được, thậm chí còn có hại cho Tổ quốc, cho nhân dân. Ngược lại, những người có đạo đức nhưng kém năng lực, tuy không có hại cho ai, nhưng chẳng giúp gì cho nước, cho dân. Đồng thời, con người khó có thể vẹn toàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài, nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay, nên cần thực hiện tốt nguyên tắc “dụng nhân như dụng mộc”. “Thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng cong đều tùy chỗ mà dùng được”(7); “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy(8). Sử dụng cán bộ không đúng với khả năng chuyên môn, không đúng chỗ, đúng việc, sẽ ảnh hưởng đến kết quả công việc, cán bộ khó có điều kiện để phát huy hết năng lực, sở trường của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tổng kết: “Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”(9); “Dùng cán bộ không đúng tài năng của họ, cũng là một cớ thất bại”(10). Phát huy vai trò của nhân dân trong lựa chọn cán bộ cấp chiến lược. Theo đó, cần dựa vào nhân dân để đánh giá chính xác cán bộ; cán bộ cấp chiến lược cần phải công khai tài sản cá nhân, giữ thói quen thường xuyên đối thoại dân chủ, trực tiếp lắng nghe tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; cần có hình thức phù hợp thăm dò ý kiến trong nhân dân để là một kênh đánh giá năng lực làm việc, phẩm chất đạo đức, lối sống, uy tín, niềm tin với cán bộ... Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, qua đó, kịp thời phát hiện những sai phạm và xử lý theo quy định của pháp luật những cán bộ không đủ năng lực, uy tín, phẩm chất đạo đức, lối sống, không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, để nội bộ mất đoàn kết, cấp dưới và nhân dân bức xúc. Tuy nhiên, việc xử lý cán bộ cấp chiến lược cần phải có tình, có lý; trên cơ sở quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và cần căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, bản chất của sự việc, vấn đề, bản chất con người,… để đưa ra hình thức kỷ luật phù hợp, hiệu quả, vừa mang tính chất cảnh báo, cảnh tỉnh, nhưng cũng vừa mang tính nhân văn, nhân đạo. Lựa chọn cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên, liên tục; đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng phải có “con mắt tinh đời” để lựa chọn, giới thiệu những người xứng đáng. Những cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” cần phải biến cái “khó, khổ” thành “khai mở tiềm năng - khai thông nguồn lực - khát vọng vươn lên”; biến những khó khăn, thách thức thành động lực phát triển; tiềm năng, lợi thế thành của cải vật chất; những cơ hội thành những thành tựu cụ thể. Điều quan trọng hơn cả, cán bộ tinh hoa cấp chiến lược luôn khắc cốt, ghi tâm những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ, đảng viên vừa là người “công bộc”, vừa là người “đầy tớ” thật trung thành của nhân dân; luôn cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng./. ----------------------------------

Nhận diện và đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn chống đối với chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới, sắp xếp điều chỉnh tổ chức quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh”

 

 Tổ chức lực lượng “tinh, gọn, mạnh” là yêu cầu tất yếu khách quan trong quá trình xây dựng và phát triển của Quân đội ta, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động đã ra sức chống phá bằng chiêu trò, thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi. Chúng tung rất nhiều tin tức xấu độc, bịa đặt… phát tán trên mạng xã hội hòng làm suy giảm niềm tin của cán bộ, chiến sĩ. Trong thời gian gần đây, các thế lực phản động, thù địch, những kẻ cơ hội chính trị vẫn tìm mọi cách chống phá gay gắt và quyết liệt hơn. Trên trang mạng Baotiengdan.com có bài viết của Trần Văn với nội dung “Liệu Việt Nam có học được gì từ bi kịch của Quân đội Nga?” và một số quan điểm về “tinh giảm biên chế của Quân đội ta” hay lợi dụng các trang mạng xã hội đưa tin sai sự thật về diễn tập khu vục phòng thủ, những hoạt động quân sự, quốc phòng, thổi phồng, xuyên tạc những sai lầm, khuyết điểm hoặc lợi dụng những hạn chế, sơ hở trong quản lý của các đơn vị để vu khống, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò của Quân đội.

 Những bài viết này đều nhằm thực hiện âm mưu phá hoại, xuyên tạc cắt xén thông tin, chế giễu, làm mất thanh danh hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Đồng thời, những hành động chống phá của một số cá nhân trên với mục đích làm mất ổn định tình hình chính trị - xã hội, hướng lái dư luận theo mưu đồ đen tối, phản động của chúng. Các ý kiến trên thực chất là luận điệu xuyên tạc, âm mưu bôi nhọ, chống phá Quân đội ta, hòng gieo rắc hoài nghi, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Quân đội. Thủ đoạn này tuy không mới, nhưng nó dễ gây nên sự ngộ nhận, mơ hồ, lẫn lộn trong nhận thức về đúng - sai, thật - giả, gây nên sự dao động trong một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội.

Chúng phải nhận thức được rằng: đổi mới, sắp xếp điều chỉnh tổ chức quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh”. Đây là nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2020-2025 tầm nhìn 2030 và các năm tiếp của Quân đội. Với mục tiêu, yêu cầu là: Quân đội có sức mạnh tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, điều chỉnh lực lượng phù hợp; sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ khi đất nước chuyển sang thời chiến.

 Bên cạnh đó, chủ trương trên bắt nguồn từ quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và tổ chức quân đội. Người khẳng định “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”. 

Trong giai đoạn mới, đây là vấn đề cụ thể hóa chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam của Đảng, Nhà nước về điều chỉnh tổ chức, biên chế, huy động tiềm lực quốc phòng; ưu tiên đầu tư, nâng cao sức mạnh cho các quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.

Ngoài ra, thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho Quân đội. Đây là một trong những đột phá chiến lược, có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.

Sở dĩ Đảng ta xác định rõ phương hướng, mục tiêu xây dựng Quân đội như đã nêu trên là xuất phát từ tình hình thực tế trong nước và thế giới với những yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Tóm lại, khi điều chỉnh, tổ chức, biên chế trong Quân đội là một vấn đề phức tạp, liên quan đến tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị kỹ thuật, nghệ thuật quân sự. Đặc biệt là liên quan đến con người, nhất là ở các đơn vị phải giải thể, sáp nhập, chuyển đổi mô hình hoạt động. Vì vậy, trong quá trình tiến hành phải tiến hành đồng bộ, hiệu quả, có sự đồng thuận và quyết tâm cao của tất cả các cấp, lực lượng, lộ trình, bước đi cụ thể, phù hợp.

Như vậy, những luận điệuphản động, cơ hội chính trị, suy nghĩ cho rằng: “Quân đội tinh giảm để giảm bớt gánh nặng cho xã hội”. Các phát tán trên đều là bịa đặt, không đúng sự thật. Để góp phần đánh bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới, sắp xếp điều chỉnh tổ chức Quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, mỗi quân nhân cần phải nâng cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn đen tối của những kẻ như Trần Văn./.